Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2
lượt xem 2
download
Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến là đã đưa ra những biện pháp mới rèn luyện kỹ năng viết chữ cho học sinh trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, giúp cho các em yêu Tiếng Việt hơn, có ý thức luyện viết cẩn thận hơn, đẹp hơn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 2” Quảng Bình, tháng 02 năm 2019
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 2” Họ và tên: Nguyễn Thị Thương Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Phú Thủy Quảng Bình, tháng 02 năm 2019
- 1. Phần mở đầu 1.1 Lý do chọn đề tài: Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn đọc bài vở của mình…”. Những dòng chữ ngay ngắn, thẳng hàng luôn gây được cảm tình cho người đọc, người xem. Ngược lại, nét chữ xiêu vẹo, nghiêng ngả, chưa được đẹp … khiến người đọc không hiểu được nội dung văn bản, thì việc chuyển tải thông tin sẽ gặp nhiều hạn chế. Ông cha ta đã từng nói "Nét chữ nết người" quả không sai, chúng ta có thể đoán được tính cách một người thông qua nét chữ của người đó. Bởi cái chữ phản ánh rất đúng cái tính cách, bản chất của người cầm bút viết nên nó. Nhìn nét chữ ngay ngắn, tròn trĩnh đó là người có tính cách cẩn thận, chu toàn, gọn gàng, làm việc gì cũng tới nơi tới chốn, còn nhìn nét chữ nghiêng ngã, xiêu vẹo chứng tỏ người viết có tính cách cẩu thả, thiếu cẩn thận. Nét chữ là biểu hiện của nết người, là phản ánh ý thức rèn luyện tư duy vào óc thẩm mĩ của người viết. Từ việc rèn chữ viết đẹp góp phần rèn luyện cho chính các em đức tính cẩn thận, tính kỷ luật và lòng tự trọng đối với mình, đối với người khác. Vì thế chữ viết có vai trò rất quan trọng đối với con người. Chữ viết cần phải đúng, đẹp để tạo sự tôn trọng lẫn nhau. Chữ viết là một công cụ dùng để giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện để ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hóa, khoa học và đời sống... Do vậy, ở trường Tiểu học việc dạy học sinh biết chữ và từng bước làm chủ được công cụ chữ viết để phục vụ cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng của môn Tiếng Việt. Chữ viết đã trở thành một công cụ quan trọng trong việc hình thành, phát triển văn hoá, văn minh của mỗi dân tộc. Ngoài ra nó còn góp phần rèn luyện những phẩm chất đáng quý như tính cẩn thận, lòng yêu cái đẹp, tinh thần trách nhiệm, ý thức tự trọng và thái độ tôn trọng người khác thông qua chữ viết. Và thông qua việc rèn luyện chữ viết mà giáo dục nhân cách con người. Do đó việc rèn chữ viết cho học sinh là điều rất cần thiết và không phải đơn giản, đòi hỏi cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên và học sinh. Giờ đây nhu cầu về cái đẹp ngày càng cao, viết chữ đẹp là điều đang được mọi người quan tâm và đã gặt hái được nhiều thành công đáng kể. Đặc biệt phong trào "Vở sạch, chữ đẹp" đang được các ban ngành, nhà trường, phụ huynh và học sinh quan tâm. Trẻ em đến trường được học đọc, học viết. Sung sướng biết bao khi các bậc làm cha làm mẹ được nhìn thấy con em mình tròn môi đọc từng tiếng và nắn nót viết từng nét chữ thật đẹp.
- Nếu như tập đọc giúp trẻ đọc thông, thì tập viết giúp trẻ viết thạo. Đọc thông mở đường cho viết thạo, viết thạo sẽ giúp trẻ ghi nhanh, ghi rõ ràng những điều thầy giảng và những điều trẻ nghĩ. Nhìn trang vở tập viết với những dòng chữ đều tăm tắp, không bị giây mực, quăn mép, lòng ta dấy lên niềm vui, ta như được củng cố thêm niềm tin vào tương lai của con trẻ. Nhưng muốn viết thạo, trẻ phải gắng công khổ luyện dưới sự chăm sóc tận tình của các thầy cô giáo. Nhưng giờ đây, chúng ta đang ở trong một thời đại mới, thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thời đại thông tin bùng nổ, mọi người thường ngồi với chiếc máy vi tính của mình để soạn thảo một văn bản thay vì cầm bút viết từng nét chữ trên từng trang giấy. Việc rèn chữ viết của mọi người đang dần bị chìm vào quên lãng. Đối với tôi, là một giáo viên dạy lớp 2 thì việc dạy học sinh viết chữ đẹp là điều không dễ dàng và đòi hỏi người giáo viên cần có những kĩ năng và phương pháp phù hợp bởi đối với học sinh lớp 2 nhất là lúc đầu năm học, mặc dù các em đã được làm quen với việc viết chữ ở lớp 1 nhưng việc tập trung để viết chữ đúng và đẹp là rất khó khăn bởi trình độ nhận thức của các em còn hạn chế, chưa chú ý vào việc tập viết, các em viết nhanh, viết ẩu và viết sai rất nhiều, sai về độ cao, về khoảng cách, về cấu tạo các con chữ... Thế nên cần có những biện pháp phù hợp giúp các em học sinh lớp 2 rèn viết chữ đúng và đẹp hơn góp phần nâng cao chất lượng học tập. Là một giáo viên dạy lớp 2 tôi luôn trăn trở, tự hỏi làm thế nào để giúp cho các em học sinh lớp 2 có thể viết đúng, viết đẹp. Với những lí do trên mà tôi chọn đề tài "Một số biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2" giúp các em học sinh lớp 2 có được những kĩ năng và phương pháp để rèn viết chữ đúng và đẹp. 1.2. Điểm mới của đề tài Đề tài "Một số biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2" đã đưa ra những biện pháp mới rèn luyện kỹ năng viết chữ cho học sinh trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, giúp cho các em yêu Tiếng Việt hơn, có ý thức luyện viết cẩn thận hơn, đẹp hơn.
- 2. Phần nội dung 2.1. Thực trạng khi giảng dạy phân môn tập viết cho học sinh lớp 2 “Tập viết” là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học, nhất là đối với các lớp ở đầu cấp. Phân môn tập viết trang bị cho học sinh bộ chữ viết Tiếng Việt và những yêu cầu về kĩ thuật để sử dụng bộ chữ cái này trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa đó, tập viết không những có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập của các môn học khác mà còn góp phần rèn luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường đó là kĩ năng viết chữ. Nếu viết đúng, viết đẹp, tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện ghi chép bài học tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn. Rèn luyện chữ viết không chỉ giúp cho học sinh nắm những kiến thức cơ bản về chữ viết mà còn rèn kĩ thuật viết chữ. Trong các tiết tập viết, học sinh nắm bắt được các tri thức cơ bản về cấu tạo các chữ cái Tiếng Việt được thể hiện trên bảng lớp, bảng con, ở vở tập viết, vở ghi bài các môn học khác. Đồng thời, học sinh được giáo viên hướng dẫn các yêu cầu kĩ thuật viết từng nét chữ để hình thành nên một chữ cái rồi đến tiếng, từ, cụm từ, câu và cả đoạn văn... Song song với việc rèn chữ hoa, học sinh còn được rèn viết văn bản có thể là nhìn một đoạn văn, đoạn thơ chép lại cho đúng (tập chép) hoặc nghe cô giáo đọc mẫu, học sinh viết vào vở (nghe viết). Ở trường tiểu học, trong những năm gần đây, học sinh viết chữ chưa đẹp là một tình trạng đáng báo động. Hiện nay, học sinh lựa chọn đủ các loại bút để viết nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng chữ viết. Vẫn còn nhiều học sinh viết chữ chưa đúng mẫu, chưa đúng độ cao các con chữ, kỷ thuật nối nét chưa đúng, thế chữ không ổn định, viết sai các nét khuyết trên và nét khuyết dưới. Nhiều em viết các chữ viết hoa chưa đúng độ cao, độ rộng, hình dạng con chữ. Ít có học sinh có ý thức và chăm chỉ luyện viết thêm ở nhà. Mặt khác, chữ viết của một số giáo viên chưa đúng quy định cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc rèn chữ viết của học sinh. Mỗi thầy, cô giáo được xem như là một tấm gương phản chiếu để học sinh soi rọi vào đó. Học sinh tiểu học là lứa tuổi hay “bắt chước” giáo viên viết như thế nào thì học sinh viết như thế đó, đặc biệt là các lớp đầu cấp. Thực tế qua giảng dạy ở lớp tôi chủ nhiệm, tôi nhận thấy vẫn còn nhiều học sinh viết chữ chưa đẹp, chưa đúng mẫu, thế chữ không ổn định, viết sai chính tả ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các môn học khác. Cụ thể, kết quả khảo sát kỹ năng viết sau 4 tuần học ở lớp tôi giảng dạy như sau: HS viết chữ HS viết chữ HS viết thế HS sai kỷ HS viết chưa Tổng đẹp, đúng chưa đúng mẫu, chữ không ổn thuật nối nét đúng các con số HS mẫu sai lỗi chính tả định chữ viết hoa SL % SL % SL % SL % SL % 34 4 11,8 30 88,2 25 73,5 30 88,2 28 82,4
- 2.2 Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 rèn chữ viết đúng, viết đẹp Chữ viết có tầm quan trọng đặc biệt ở bậc tiểu học, học sinh phải dùng chữ viết để học tập và là phương tiện giao tiếp. Vì vậy, chữ viết không những có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở các môn học khác mà còn góp phần rèn luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học môn Tiếng Việt trong trường tiểu học - đó là kỹ năng viết chữ. Nếu học sinh viết đúng, đẹp, rõ ràng, đảm bảo tốc độ quy định thì học sinh có điều kiện để ghi chép bài học tốt, nhờ vậy mà kết quả học tập tốt hơn, ngược lại viết xấu sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. Chữ viết mang tính thực hành cao, ngoài việc học sinh nắm được các kiến thức cơ bản của việc viết chữ và kỹ thuật viết thì rèn viết chữ đẹp là một yêu cầu cũng hết sức quan trọng và cần thiết, vì vậy chúng ta cần chú ý rèn cho học sinh tính cẩn thận, sự sáng tạo khi viết ngay từ đầu để tạo thành thói quen và kĩ năng cho các em. Để làm được điều đó, giáo viên phải là người có những kiến thức chuẩn về những mẫu chữ và những quy tắc cần thiết trong dạy học Tập viết để đưa ra những biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm mang lại hiệu quả cao: 2.2.1. Giáo viên phải nắm rõ kiến thức về những quy định viết chữ Trong quá trình hình thành chữ viết cho học sinh, giáo viên cần nắm chắc những quy định về các nét chữ, các dấu thanh, cấu tạo các con chữ, cách viết các con chữ... Cụ thể, giáo viên thường gọi các nét cơ bản để mô tả hình dạng, cấu tạo và quy trình viết một chữ cái theo các nét viết đã quy định ở bảng mẫu, gồm có nét viết và nét cơ bản. Nét viết là một đường viết liền mạch, không phải dừng lại để chuyển hướng ngòi hay nhấc bút. Nét viết có thể là một hay nhiều nét cơ bản tạo thành, ví dụ như nét viết chữ cái o là nét cong kín, nét chữ e là hai nét cong phải, trái tạo thành. Còn nét cơ bản là nét bộ phận dùng để tạo thành nét viết hay hình chữ cái. Nét cơ bản có thể đồng thời là nét viết hoặc nét kết hợp hai, ba nét cơ bản để tạo thành một nét viết. Ví dụ nét cong trái là nét viết chữ c, nét cong phải kết hợp với nét cong trái thì tạo thành chữ e. Các loại nét cơ bản đó là nét thẳng có 3 dạng: thẳng đứng, thẳng ngang, thẳng xiên; nét cong có 2 dạng: nét cong kín, nét cong hở (cong hở trái, cong hở phải); nét móc có 3 dạng: móc xuôi, móc ngược, móc hai đầu; nét khuyết có 2 dạng: khuyết trên, khuyết dưới và nét hất. Giáo viên cần cung cấp cho học sinh những đặc điểm, cấu tạo, độ cao, độ rộng và cách viết từng con chữ như con chữ a có độ cao 1 ô li, cấu tạo là một nét cong kín và một nét móc ngược, con chữ b có độ cao là 2 ô li rưỡi, gồm có nét khuyết trên và nét móc ngược, hay con chữ d có độ cao là 2 ô li rưỡi,, gồm có 2 nét: nét cong kín và nét móc ngược phải; con chữ g có độ cao là 2 ô li rưỡi, gồm nét cong kín và nét khuyết dưới; con chữ t có độ cao là 1 ô li rưỡi, gồm nét hất, nét
- móc ngược phải, nét ngang,... Bên cạnh đó, giáo viên cần cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về cách viết các con chữ hoa như con chữ H cao 5 ô li, gồm có 2 nét: nét 1 là sự kết hợp giữa nét cong trái và nét lượn ngang, nét 2: là sự kết hợp của 3 nét: khuyết trên, khuyết dưới và nét móc ngược phải, nét 3: nét thẳng đứng. Ngoài ra giáo viên cần hướng dẫn cho các em biết được điểm đặt bút, dừng bút đúng cách để hoàn thành viết một con chữ và xác định cách rê bút, lia bút. Rê bút là nhắc nhẹ đầu bút nhưng vẫn chạm vào mặt giấy theo đường nét viết trước hoặc tạo ra vệt mờ để sau đó có nét viết khác đè lên. Từ rê được hiểu theo nghĩa di chuyển chậm đều đều, liên tục trên bề mặt, do đó giữa đầu bút và mặt giấy không có khoảng cách. Lia bút là chuyển dịch đầu bút từ điểm dừng này qua điểm dừng khác, không chạm vào mặt giấy. Từ lia xuất phát từ nghĩa ném hoặc đưa ngang thật nhanh. Vì vậy khi lia bút ta phải nhắc đầu bút lên để đưa nhanh sang điểm khác, tạo một khoảng cách nhất định giữa đầu bút và mặt giấy. Cần cung cấp cho học sinh đầy đủ về mẫu chữ - mẫu chữ cái viết thường cỡ chữ vừa: Các chữ cái được viết với độ cao 2,5 đơn vị (ô li): b, l, h, k, g, y. Các chữ cái được viết với độ cao 2 đơn vị (ô li): d, đ, q, p. Các chữ cái được viết với độ cao 1,5 đơn vị (ô li): t. Các chữ cái được viết với độ cao 1,25 đơn vị (ô li): r, s. Các chữ cái còn lại được viết với độ cao 1 đơn vị (ô li): o, ô, ơ, a, ă, â, u, ư, i, c, e, ê, n, m. Các dấu thanh được viết trong phạm vi 1 ô vuông có cạnh 0,5 đơn vị (ô li). Với mẫu chữ cái viết hoa: Các chữ cái được viết với độ cao 5 đơn vị (ô li). Còn mẫu chữ số được viết với độ cao 2 đơn vị (ô li). Giáo viên cần lưu ý khi dạy viết ứng dụng các chữ ghi tiếng có chữ cái viết hoa đứng đầu (tên riêng, chữ viết hoa đầu câu...), cần hướng dẫn học sinh cách viết tạo sự liên kết bằng nối nét hoặc để khoảng cách hợp lí giữa chữ cái viết hoa và chữ cái viết thường. Cụ thể: Có 17 chữ cái viết hoa A, Ă, Â, G, H, K, L, M, Q, R, U, Ư, Y (kiểu 1), A, M, N, Q (kiểu 2) có điểm dừng bút hướng tới chữ viết thường kế tiếp như Hà Nội, Quỳnh Trâm... Có 17 chữ cái viết hoa B, C, D, Đ, E, Ê, I, N, O, Ô, P, S, T, V, X (kiểu 1), V (kiểu 2) có điểm dừng bút không hướng tới chữ cái viết thường kế tiếp, do đó khi viết cần căn cứ vào từng trường hợp để tạo sự liên kết bằng cách viết chạm đầu nét của chữ cái viết thường vào nét chữ cái viết hoa đứng trước hoặc để khoảng cách ngắn (bằng 1/2 khoảng cách giữa 2 chữ cái viết thường) giữa chữ hoa với chữ thường. Ví dụ như Đà Nẵng, Tây Nguyên, Phan Đình Phùng...
- Khi viết chữ cần chú ý cho học sinh nối chữ liền mạch, đảm bảo tốc độ viết nhanh. Viết liền mạch là viết tất cả các hình cơ bản của chữ cái trong một chữ ghi tiếng rồi mới đặt dấu phụ và dấu thanh. Việc đặt dấu thanh cũng hết sức quan trọng, và việc này đã được xử lí thống nhất trong sách giáo khoa của chương trình Tiểu học mới do Nhà Xuất bản Giáo dục ấn hành, cụ thể: Dấu thanh (huyền, hỏi, sắc, ngã, nặng) được đánh ở âm chính: khóa, thùy, ...), khi âm chính là một âm đôi, xuất hiện trong âm tiết mở (không có âm tiết cuối) thì dấu thanh được đánh ở yếu tố đầu của nguyên âm đôi đó: bìa, bùa... Khi âm chính là một âm đôi, xuất hiện trong âm tiết đóng (có âm cuối) thì dấu thanh được đánh ở yếu tố cuối của nguyên âm đôi đó: miếng, buồm, vượn,... Cách đặt dấu thanh trong chữ viết Tiếng Việt cũng cần đảm bảo sự hài hòa, cân đối và mang tính thẩm mĩ, nên các dấu thanh thường được đặt vào vị trí khoảng giữa (trên, dưới) đối với chữ cái a, ă, o, ơ, e, i (y), u, ư như cài, gỡ, hỏi, nặng; riêng đối với các chữ cái â, ê, ô thì dấu huyền, sắc được đặt ở phía bên phải của dấu mũ: gối, khế, cấy... 2.2.2. Các bước chuẩn bị, tiến hành hướng dẫn học sinh luyện viết a. Chuẩn bị tốt cơ sở vật chất, đồ dùng học tập trước khi lên lớp Điều kiện cơ sở vật chất: Ánh sáng phòng học, bảng lớp, bàn ghế học sinh không thể thiếu đối với việc dạy học nói chung, đối với việc rèn chữ nói riêng. Vì vậy, nó phải đảm bảo để học sinh học tập tốt hơn. Hoạt động chủ đạo của học sinh trong giờ học Tập viết là thực hành luyện tập nhằm mục đích hình thành kĩ năng viết chữ thành thạo, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được thực hành luyện viết trên 2 hình thức: viết trên bảng và viết trong vở Tập viết. Để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt, học sinh cần có ý thức chuẩn bị và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập thiết yếu sau: Thứ nhất: bảng con màu đen (hoặc xanh đậm), bề mặt có độ nhám vừa phải, dòng kẻ ô rõ ràng, đều đặn dễ tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh viết phấn. Bảng con là công cụ thực hành tiện lợi và hiệu quả đối với học sinh, có tác dụng tích cực trong quá trình dạy tập viết ở tiểu học. Loại bảng viết bằng phấn và loại bảng viết bằng bút dạ có những mặt ưu và một số hạn chế nhất định khi sử dụng, song tác dụng của chúng đối với rèn kĩ năng viết cho học sinh là rất quan trọng. Thứ hai: Phấn trắng có chất lượng tốt sẽ làm nổi rõ hình chữ trên bảng. Nếu viết bút dạ thì bút phải cầm vừa tay, đầu bút nhỏ, ra mực đều mới viết được rõ ràng. Thứ ba: Khăn lau sạch, có độ ẩm vừa phải, dễ cầm tay sẽ giúp cho việc xóa bảng hợp vệ sinh và không ảnh hưởng đến chữ viết. Thứ tư: Vở tập viết phải đúng mẫu theo quy định của Bộ Giáo dục. Học sinh phải giữ vở sạch sẽ, bao bìa kính ở ngoài, có ghi tên, lớp rõ ràng. Khi sử dụng
- vở tập viết thì học sinh lưu ý không được làm dơ, bẩn, trình bày chữ viết sạch sẽ, đẹp, khoa học, không bôi xóa lung tung. Thứ năm: Bút, với bút mực thì phải sử dụng bút không nhạt quá, cũng không đậm quá. Với bút máy thì phải chọn bút máy chuẩn, ngòi mềm, đầu bút thanh, vừa tay cầm và chuẩn bị mỗi bạn một lọ mực, một cái khăn và một cái bìa kê tập. Khi viết bút mực giáo viên cần lưu ý cho học sinh viết cẩn thận, không để mực dây ra tập, quần áo, không được viết nhanh, viết ẩu, viết ngoáy. b. Hướng dẫn học sinh tư thế ngồi viết, cách cầm phấn, cầm bút Quá trình hình thành kĩ năng viết chữ trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn nhận biết, hiểu về chữ viết thông qua hoạt động của các giác quan mắt, tai và hoạt động của vùng ngôn ngữ trong bộ não. Giai đoạn điều khiển vận động (cơ, xương bàn tay), thường có hiện tượng "lan tỏa", dễ ảnh hưởng tới một số bộ phận khác trong cơ thể (ví dụ: miệng méo, vai gù, lệch...). Nhận thức rõ tầm quan trọng của giai đoạn này trong quá trình tập viết, chương trình Tiểu học Pháp từ năm 1991 đã xác định: “Tập viết là môn học của bàn tay và cơ thể, đòi hỏi sự chính xác của nét bút, sự khéo léo trong trình bày, sự nhảy cảm về thẩm mĩ khi viết.” Bởi vậy trong quá trình viết chữ học sinh cần lưu ý đến tư thế ngồi viết cũng như cách cầm bút và phấn. Tư thế ngồi viết: học sinh cần ngồi thẳng lưng, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 25 -30 cm, nên cầm bút (phấn) bằng tay phải, tay trái tì nhẹ lên mép vở (bảng) để trang viết (bảng) không bị xê dịch, hai chân để song song, thoải mái. Tư thế ngồi viết
- Cách cầm phấn: Cầm bằng 3 ngón tay, đầu ngón cái cách đều viên phấn khoảng 1 cm, cầm phấn chắc vừa phải, khi đưa phấn lên cần nhẹ tay để tạo nét thanh, khi đưa xuống cần miết đầu phấn mạnh hơn chút để tạo nét đậm. Nhưng phải từ từ, tránh đột ngột. Cách cầm bút: Cầm bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa) với độ chắc vừa phải, không chặt quá, không lỏng quá. Khi viết dùng ba ngón tay di chuyển bút nhẹ nhàng từ trái qua phải (không nhấn mạnh đầu bút xuống mặt giấy), cán bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay, cánh tay cử động mềm mại, thoải mái. Khi viết cần tạo nét thanh bằng cách đưa bút lên nhẹ, còn khi đưa xuống cần miết ngòi bút xuống để tạo nét đậm. Ngoài ra khi viết chữ đứng, học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt, nếu viết chữ nghiêng cần để vở hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15 độ. Khi viết chữ về bên phải, quá xa lề vở cần xê dịch vở sang bên sáng để mắt nhìn thẳng nét chữ, tránh nhoài người về bên phải để viết tiếp. Cách cầm bút c. Hướng dẫn học sinh viết đúng, viết đẹp * Củng cố cho học sinh những kiến thức căn bản của cách viết: Vào đầu năm học giáo viên đã củng cố kiến thức cơ bản về độ cao, độ rộng, khoảng cách các con chữ và chữ, các quy tắc đặt dấu thanh, cách cầm phấn, cầm bút, tư thế ngồi viết để học sinh nắm chắc nhằm tạo cho các em những thói quen tốt trong việc rèn viết chữ. Giáo viên giúp học sinh xác định lại vị trí đường kẻ trong vở học sinh, tọa độ của các nét chữ, chữ trong khung chữ mẫu Về cơ bản, hình dạng 29 chữ cái viết thường cỡ chữ vừa có thể chia thành ba nhóm, có cấu tạo các nét cơ bản gần gũi với nhau. Luyện viết theo từng nhóm chữ giúp cho kĩ năng viết các nét cơ bản thành thạo, tạo thói quen viết đều nét và
- đẹp chữ. Dựa vào mẫu chữ viết trong trường Tiểu học, tùy điều kiện giáo viên có thể cho học sinh luyện viết theo hai cách: Ở giai đoạn của việc luyện viết, giáo viên nên chọn loại vở kẻ ô vuông nhỏ (dòng kẻ 4 ô ly), để dễ xác định chiều cao và bề rộng cho đúng tỉ lệ. Biện pháp thực hiện chủ yếu là từ dễ đến khó theo từng nhóm chữ: Nhóm 1: i, u, ư, t, n, , m, v, r: các chữ cái ở nhóm này có chiều cao 1 đơn vị (ô li), riêng chữ cái r có cao 1, 25 đơn vị (ô li), chữ t cao 1, 5 đơn vị (ô li). Bề rộng cơ bản của chữ là 3/4 đơn vị (ô li), riêng chữ cái m rộng 1, 5 đơn vị (ô li). Chữ cái ở nhóm này thường được cấu tạo bởi các nét móc (móc xuôi, móc ngược, móc hai đầu). Khi luyện viết chữ hai nét móc xuôi và móc hai đầu cần chú trọng vì chúng khó viết hơn nét móc ngược, 4 chữ cái n, m, v, r cần được luyện tập nhiều lần để nét viết mềm mại, đẹp mắt. Nhóm 2: l, b, h, k, y, p: các chữ cái này có chiều cao 2, 5 đơn vị (ô li), riêng chữ cái p cao 2 đơn vị (ô li), bề rộng cơ bản của chữ là 3/4 đơn vị (ô li). Về cấu tạo chữ cái ở nhóm này có nét khuyết (khuyết trên, khuyết dưới), có những điểm gần gũi với chữ cái ở nhóm 1 (nửa dưới của chữ b giống với chữ v, nửa dưới của chữ h giống với chữ n, nửa trên của chữ y giống với chữ u). Khi luyện viết chữ hai nét khuyết trên và khuyết dưới đều cần được chú trọng, tập trung luyện viết cho đẹp bốn chữ cái l, b, h, n (tạo vòng xoắn ở chữ b và k vừa phải, hợp lí trong hình chữ). Nhóm 3: o, ô, ơ, a, ă, â, d, d, q, g, c, x, e, ê, s: các chữ cái ở nhóm 3 có 3 loại độ cao khác nhau, song chúng đều có độ cao 1 đơn vị (ô li) (10/15 chữ), các chữ d, đ, q cao 2 đơn vị (ô li), chữ g cao 2, 5 đơn vị (ô li), riêng chữ s cao 1, 25 đơn vị (ô li). Bề rộng cơ bản của hầu hết các chữ cái là 3/4 đơn vị (riêng chữ s rộng 1 đơn vị, chữ x rộng 1, 5 đơn vị). Nhóm chữ này thường được cấu tạo bởi các nét cong (cong kín, cong hở), trong đó nét cong kín (chữ o) có mặt ở mười chữ cái, tạo sự liên hệ gần gũi về hình dạng giữa các chữ. Vì vậy muốn luyện viết đẹp các chữ cái ở nhóm 3 cần tập trung luyện viết thật đẹp chữ o, từ chữ o, dễ dàng chuyển sang viết các chữ ô, ơ, a, ă, â, d, d, q, g, dễ tạo được các nét cong kín để viết được các chữ còn lại. Với chữ hoa gồm có 29 chữ tuy hình dạng khác nhau nhưng nhìn chung có thể chia làm 5 nhóm có cấu tạo các nét cơ bản. Hầu hết các chữ viết hoa cao 2, 5 đơn vị (ô li), còn chữ G, Y có chiều cao 4 đơn vị (ô li). Do vậy khi luyện viết các chữ hoa cần tập tung vào việc tạo các đường cong hoặc lượn khi phối hợp các nét cơ bản cho mềm mại, đẹp mắt và việc thực hiện đó được tiến hành từ dễ đến khó theo các nhóm chữ: Nhóm 1: U, Ư, Y, X, (N, M, V kiểu 2) : khi viết các chữ hoa ở nhóm này học sinh cần tập trung luyện kĩ nét móc hai đầu, điều khiển nét bút ở phần cong sao cho chuẩn, mềm mại, đúng hình dạng.
- Nhóm 2: A, Ă, Â, N, M: chủ yếu là rèn luyện nét móc ngược, đưa bút từ trên dưới lên, độ nghiêng hoặc lượn ở đầu nét móc và phần cong cuối nét móc sao cho vừa phải, đúng mẫu. Nhóm 3: C, G, E, Ê, T: các chữ cái viết hoa ở nhóm này chủ yếu được tạo bởi nét cong và sự phối hợp biến điệu của những nét cong. Bởi thế khi viết cần luyện cách điều khiển đầu bút để tạo những nét cong đúng mẫu. Trong các chữ ở nhóm này thì chữ C và chữ E tương đối khó viết nên học sinh cần chú ý quan sát kĩ khi giáo viên viết mẫu và phải luyện viết nhiều để tạo dáng chữ mềm mại. Nhóm 4: P, R, B,D, I, K, H, S, L,V: các chữ này đều có nét cơ bản được biến điệu hoặc có sự kết hợp hài hòa các nét cơ bản trong một nét viết. Nhóm 5: O, Ô, Ơ, Q, ( A, Q kiểu 2): các chữ hoa ở nhóm này được viết bởi 1 hoặc 2 nét nhưng có nét đòi hỏi viết liền mạch và điều khiển đầu bút theo nhiều hướng. Ngoài ra giáo viên cần cho học sinh hiểu rõ các khái niệm cơ bản về dòng, khoảng cách... Dòng (thể hiện chữ viết) được hiểu theo nghĩa là khoảng để viết hoặc xếp chữ kế tiếp nhau thành hàng, ví dụ: giấy có kẻ dòng, chấm xuống dòng. Vở tập viết của học sinh được trình bày theo các ô vuông, có các dòng kẻ ngang. Mỗi dòng viết gồm 5 dòng kẻ ngang, chia thành 4 li (mỗi li khoảng cách giữa hai dòng kẻ - 0, 25cm). Mẫu chữ viết trong trường Tiểu học có độ cao tính theo đơn vị (bằng chiều cao chữ cái ghi nguyên âm), tương ứng với li trong vở Tập viết như sau: viết theo cỡ chữ nhỏ thì chiều cao chữ cái ghi nguyên âm là 1li, chữ viết theo cỡ vừa chiều cao chữ cái là 2 li. Từ đó có thể hiểu mẫu chữ cái trong bảng mẫu chữ do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành được trình bày theo cỡ vừa (chiều cao chữ cái ghi nguyên âm là 2 li - 1 đơn vị, chữ cái viết thường có chiều cao lớn nhất là 5 li, hầu hết chữ cái viết hoa có chiều cao 5 li. * Hướng dẫn học sinh luyện viết: Đây là khâu rất quan trọng vì nếu chúng ta hướng dẫn kỹ sẽ giúp học sinh thực hành nhanh và chính xác hơn. Tôi tiến hành luyện viết cho học sinh theo các bước như sau: Bước 1: Viết mẫu: Để tạo được hiệu quả dạy học, giúp học sinh hình dung ra các chữ thường cũng như chữ hoa một cách sinh động, rõ ràng thì giáo viên cần chuẩn bị những mẫu chữ viết sẵn có các dòng kẻ sau đó giáo viên sẽ hướng dẫn lại cách viết để giúp học sinh khắc sâu hơn. Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát chữ mẫu: nhận biết về hình dạng, cấu tạo nét, so sánh với chữ cái đã học trước đó. Giáo viên hướng dẫn học sinh về quy trình viết chữ: điểm đặt bút, rê bút, lia bút, chuyển dịch đầu bút, điểm dừng bút... Hình thức: chỉ dẫn trên mẫu chữ, viết mẫu trên khung
- chữ, viết mẫu trên dòng kẻ (giống vở Tập viết). Hướng dẫn học sinh viết trên bảng con: giáo viên theo dõi, kiểm tra, uốn nắn, hướng dẫn học sinh rút kinh nghiệm. Ví dụ: Để dạy viết chữ hoa L, câu ứng dụng Lá lành đùm lá rách. Tôi chuẩn bị sẵn 1 bảng mẫu chữ đã viết sẵn chữ hoa L, câu ứng dụng Lá lành đùm lá rách có các dòng kẻ sẵn trên nền vàng cho học sinh quan sát trước, sau đó giáo viên chuẩn bị thêm một bảng phụ để viết mẫu chữ hoa L, câu ứng dụng Lá lành đùm lá rách lên cho học sinh quan sát các điểm đặt bút, rê bút, dừng bút và độ cao các con chữ. Điều này giúp học sinh hình thành kiến thức trong đầu trước khi các em viết lên bảng con của mình, nhằm tạo hiệu quả cao trong việc rèn chữ viết. Việc viết mẫu của giáo viên là một thao tác trực quan trên bảng lớp giúp học sinh nắm bắt được quy trình viết từng nét của từng chữ cái. Do vậy, giáo viên phải viết chậm, đúng theo quy tắc viết chữ vừa giảng giải, vừa phân tích cho học sinh. Khi viết mẫu, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh nhìn thấy tay của giáo viên viết từng nét chữ. Khi viết, giáo viên vừa kết hợp giảng giải, phân tích: đưa bút như thế nào, thứ tự các nét viết ra sao, giáo viên cũng cần chú ý phân tích cả cách viết dấu phụ và dấu thanh. Bước 2: Luyện viết bảng con: Sau khi hướng dẫn viết mẫu trên bảng lớp, giáo viên yêu cầu học sinh viết bảng con. Quan sát học sinh viết bảng con để sửa cho các em ngay tại lúc đó, chỉ ra chỗ sai cho các em rút kinh nghiệm. Giới thiệu những em viết đúng, viết đẹp trước lớp để các em khác rút kinh nghiệm. Đối với những em viết sai, giáo viên nhắc nhở ngay và hướng dẫn các em điều chỉnh lại cho đúng. Khâu này rất quan trọng vì nếu các em làm đúng ở bảng con thì khi viết vào vở sẽ ít bị sai. Bước 3: Hướng dẫn học sinh viết vở: Đây là bước quan trọng trong một tiết luyện viết, bởi có thể đánh giá chất lượng chữ viết của các em sau khi xem bài viết của học sinh: xấu hay đẹp, đúng hay sai, hoàn thành tốt, hoàn thành hay chưa hoàn thành. Sau khi cho học sinh thực hành viết bảng con và giáo viên đã sửa lỗi thì giáo viên cho học sinh viết bài vào vở. Trước khi viết bài giáo viên cho học sinh nhắc lại tư thế ngồi viết, cách cầm bút để học sinh ngồi đúng và đẹp trong quá trình viết. Trong khi học sinh viết bài, giáo viên phải theo dõi, quan sát, nhắc nhở học sinh viết đúng và viết đẹp. Khi dạy từ ngữ ứng dụng, ngoài việc hướng dẫn học sinh viết chữ ghi tiếng, giáo viên còn phải quan tâm, nhắc nhở các em viết đúng khoảng cách giữa các chữ đều đặn, hợp lí. Khoảng cách giữa các chữ thường được ước lượng bằng một chữ cái o viết thường. Giữa các từ ứng dụng, học sinh viết theo điểm đặt bút, dừng bút.
- Khi dạy viết câu ứng dụng, giáo viên cần lưu ý về cách viết và đặt dấu câu: dấu chấm, dấu phẩy, dấu hỏi... Bước 4: Nhận xét chữa bài: Việc nhận xét bài của học sinh cũng rất quan trọng, thường căn cứ vào mục đích, yêu cầu đặt ra cho từng bài học theo chương trình quy định. Qua việc nhận xét bài, giáo viên cần giúp cho học sinh tự nhận thức được ưu điểm để phát huy, thấy rõ những thiếu sót để khắc phục, kịp thời phát hiện, động viên những cố gắng, nổ lực của học sinh khi viết chữ. Giáo viên cần viết lại những chữ học sinh viết sai để học sinh thấy được cái sai và sửa lại cho đúng và ghi lời nhận xét ngắn gọn. Sau mỗi tiết học Tập viết, Chính tả, luyện viết, khi nhận xét bài cho học sinh, giáo viên cần nhận xét thật tỉ mỉ các nét chữ trong con chữ mà học sinh vừa viết và phân tích rõ nguyên nhân học sinh viết chưa đúng, chưa đẹp để lần sau học sinh rút kinh nghiệm cho những lần viết sau. Qua việc nhận xét bài thường xuyên trên lớp, tôi phát hiện một số học sinh viết chữ còn chưa đẹp các nét khuyết của các con chữ (l, b, g, h, k), nét móc xuôi của các con chữ (n, m, p). Tôi tập trung các em thành nhóm theo đối tượng và hướng dẫn cách viết. Tôi thường chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc hướng dẫn học sinh luyện tập, thực hành phải tiến hành từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp để học sinh dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước và cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kĩ năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở lớp . Sau một thời gian rèn luyện, tôi thấy số lượng học sinh viết chữ chưa đẹp ngày càng giảm đi nhiều. Song song với việc rèn chữ, giữ vở sạch là vấn đề không kém phần quan trọng đối với mỗi học sinh. Vì vậy, tôi luôn giáo dục học sinh ý thức giữ vở sạch sẽ: vở sạch là vở không quăn góc, không xộc xệch, bao bọc cẩn thận, có nhãn vở, có bao bìa. Bên trong vở, các em trình bày bài rõ ràng, không giây bẩn.. Đối với những em chưa có ý thức giữ vở, tôi liên hệ kịp thời với phụ huynh để nhắc nhở việc giữ vở sạch và sắp xếp vở ngăn nắp, gọn gàng. Có như vậy, khi soạn vở, các em đỡ tốn thời gian và giữ vở được tốt hơn. Trước đây chúng ta thường nghe nói: “Chữ tốt là do hoa tay, hoa văn hay là do trí óc”. Trong thực tế, xưa và nay cho thấy điều đó không hoàn toàn đúng, mà quan trọng cả là ở sự “rèn luyện”. Rèn chữ đẹp, giữ vở sạch cho học sinh là một công việc đòi hỏi tôi kiên trì nhẫn nại và không nôn nóng. Tôi không những rèn cho các em viết đúng mà tiến hành đến viết đẹp.
- Bước 5: Hướng dẫn học sinh luyện viết ở trường, ở nhà: + Luyện viết ở trường: Hiện nay, các trường đều thực hiện dạy hai buổi/ngày nên các em có thời gian luyện viết vào buổi chiều. Ở những tiết luyện viết trước hết tôi hướng dẫn cho các em sử dụng bảng cài để ôn lại các từ khó, dễ lẫn, các từ các em hay viết sai. Sau đó yêu cầu học sinh viết bảng con nhiều lần những từ cần viết và cuối cùng viết vào vở (Trình tự như nêu ở trên nhưng các bước thực hiện nhẹ nhàng hơn vì các em đã nắm kỹ cách viết ). + Luyện viết ở nhà Ở trường, thời gian không đủ để các em luyện tập, do đó sau mỗi bài viết trên lớp tôi thường yêu cầu các em về nhà tự luyện vào vở. Để tránh nhàm chán cho các em tôi thường cho thêm những bài thơ, bài văn yêu cầu các em viết ở nhà. Ví dụ: Để giúp các em phân biệt và luyện viết chữ ng – ngh tôi yêu cầu các em viết: Dù ai nói ngả nói nghiêng Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. Sau mỗi bài luyện viết của học sinh, giáo viên thu tập vở của học sinh và nhận xét bằng bút đỏ, ghi các lỗi học sinh mắc phải để học sinh thấy được những điểm sai và làm tốt hơn cho những bài viết sau. 2.2.3 Một số biện pháp hỗ trợ giúp học sinh viết tốt hơn a. Giáo viên phải là tấm gương cho học sinh học tập về viết chữ đẹp Để nâng cao chất lượng viết chữ đẹp ở học sinh lớp 2 thì người giáo viên phải là người viết chuẩn, đẹp và thường xuyên rèn luyện chữ viết. Bởi trong mắt học sinh thì cô giáo là “thần tượng” là người các em rất xem trọng và được các em lấy làm mẫu mực nhất. Bởi vậy giáo viên phải là người nắm vững kiến thức về cấu tạo, đặc điểm chữ viết và các kiểu mẫu chữ và chữ viết của giáo viên phải đúng, chuẩn và đẹp. Các em sẽ nhìn, quan sát và bắt chước những nét chữ từ đơn giản đến phức tạp của cô giáo. Nếu giáo viên viết chữ đẹp và có ý thức rèn chữ viết thì chất lượng chữ viết của lớp đó sẽ cao. Qua quan sát tôi thấy rằng nét chữ của các lớp khác nhau nhưng trong một lớp thì lại tương đối giống nhau và rất giống chữ của giáo viên, bởi học sinh lớp 2 rất dễ bắt chước. Do đó giáo viên cần phải thường xuyên rèn luyện chữ viết để nâng cao chất lượng chữ viết của mình. Điều mà giáo viên phải làm và làm thường xuyên đó là thể hiện nét chữ của mình trên bảng lớp mỗi ngày sao cho khoa học, đẹp, đúng mẫu để học sinh học hỏi. Giáo viên cần viết đúng chính tả, đúng mẫu, rõ ràng và ngay ngắn, cách trình bày lề bảng, dòng chữ ghi ngày tháng năm, tên môn, tên bài học cần được viết rất mẫu mực không qua loa và tuyệt đối là không được sai chính tả. Vậy nên đòi hỏi giáo
- viên phải viết hằng ngày, phải luyện tập thường xuyên để viết đúng mẫu chữ quy định và các bài viết luyện chữ đẹp và sáng tạo. b. Kết hợp với các môn học khác Để giúp học sinh hình thành thói quen luyện viết. Trong các tiết học khác tôi cũng yêu cầu học sinh luyện viết: Với phân môn chính tả, sau khi học sinh đọc các từ, các tiếng khó, hay sai, giáo viên cho học sinh rèn luyện viết chữ trên bảng con. Ví dụ bài “Trên chiếc bè” thì sau khi đọc bài, giáo viên hướng dẫn cho học sinh viết vào bảng con các từ khó Dế Trũi, ngao du, say ngắm, trong vắt, dưới đáy… trước khi các em viết vào vở để cho các em hình thành kiến thức trong đầu và viết cho quen tay, rèn cho các em tính cẩn thận, tỉ mỉ và rèn kĩ năng viết của mình. Với môn Toán thì sau khi giới thiệu bài, dạy cho học sinh những kiến thức cơ bản, giáo viên hướng dẫn cho học sinh viết lời giải, các chữ số, các dấu >,
- loại bút nào để luyện viết, hướng dẫn học sinh cách bọc vở và bảo quản, giữ gìn sách vở như thế nào trong năm học. Hướng dẫn cho học sinh các tiêu chuẩn cần phấn đấu để đạt danh hiệu “Vở sạch - Chữ đẹp”. Đồng thời cùng học sinh ra quyết tâm thực hiện các chỉ tiêu về phong trào rèn chữ viết và giữ gìn sách vở của lớp. Giáo viên nên lấy những tấm gương của các anh chị lớp trên đạt danh hiệu trong phong trào “Vở sạch- Chữ đẹp”, cấp trường, cấp huyện để làm gương cho các em học tập, noi theo. Ngoài yêu cầu viết đúng, viết đẹp giáo viên cần hướng dẫn cách trình bày ở vở của học sinh trong từng thể loại bài, cách kẻ vở khi hết bài, hết môn, hết ngày và hết tuần như thế nào để thống nhất trong cả lớp để tạo một sự đồng đều và đẹp. Khi phát hiện những học sinh có năng khiếu và viết chữ khá đẹp, giáo viên phải có định hướng từ đầu là phải luôn chú ý theo dõi, kèm cặp nhắc nhở, hướng dẫn những cách viết mới, những kiểu chữ hoa, chữ in nghiêng, chữ nét thanh nét đậm… để học sinh luôn ghi nhớ, cố gắng luyện tập thường xuyên và có hướng phát huy năng khiếu. Còn những học sinh viết còn yếu thì cần có kế hoạch phụ đạo, kèm cặp và có kế hoạch bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu, viết đẹp. Để tạo hiệu quả nhanh thì giáo viên hàng tuần phải kiểm tra và nhận xét, động viên để học sinh cố gắng hơn ở tuần tiếp theo. Và có phần thưởng, tuyên dương những học sinh viết chữ đẹp sau mỗi tháng để giúp các em phấn đấu và cố gắng trong những tháng sau. Giáo viên cần làm tốt việc bồi dưỡng lòng say mê và tinh thần quyết tâm thực hiện phong trào “Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp ” của học sinh bằng cách khơi dậy ở các em lòng say mê về rèn chữ cho học sinh bằng những mẫu chữ đẹp, trang vở sạch đẹp và phải thổi vào học sinh luồng sinh khí những ước mơ cao đẹp, kể cho học sinh nghe những mẩu chuyện về tấm gương rèn chữ viết của thầy Nguyễn Ngọc Ký, Cao Bá Quát và gần hơn nữa là các bạn học sinh trong lớp, trong trường mình để các em soi mình vào trong những tấm gương đó mà phấn đấu rèn luyện chữ viết ngày càng đẹp hơn. e. Tổ chức thi viết chữ đẹp ở lớp Để học sinh viết chữ tốt, tôi thường tổ chức thi viết chữ đẹp giữa các tổ trong lớp mỗi tháng một lần. Qua mỗi cuộc thi ở lớp, tôi thường tuyên dương những học sinh đạt “Vở sạch, chữ đẹp” để từ đó khích lệ học sinh viết chữ đẹp hơn. Tôi thường khen những học sinh có tiến bộ để động viên khích lệ tinh thần luyện viết của các em. Cho học sinh biết đánh giá bài của mình, của bạn. Những bài đạt yêu cầu về kĩ thuật, trình bày đẹp, thể hiện năng khiếu (nét thanh, nét đậm) được trưng bày ở góc học tập của lớp. Đối với học sinh viết chữ chưa đúng cỡ, đúng mẫu, tôi đánh giá kết hợp với lời nhận xét để học sinh thấy rõ những chỗ sai của mình và có hướng cần phấn đấu trong những bài tới.
- Tôi lấy một số gương điển hình về rèn chữ viết (sưu tầm, lưu trữ bài viết tốt của những em viết đẹp ở năm trước) để cho các em thấy được chữ viết đẹp là do sự rèn luyện. Từ đó, đánh giá và thực hiện tốt phong trào giữ vở rèn chữ thường xuyên. g. Làm tốt công tác tuyên dương, khen thưởng Để giúp học sinh tiến bộ và đạt kết quả cao hơn thì điều không thể thiếu đó là sự động viên, khích lệ kịp thời của giáo viên. Bên cạnh đó giáo viên cần tuyên dương, khen thưởng những học sinh có thành tích tốt để các em có động lực phấn đấu hơn và làm gương cho các bạn khác noi theo. Và các hình thức tuyên dương như tuyên dương trước lớp, trước cờ trong các giờ sinh hoạt chào cờ và phát những phần thưởng như tập sách, bút hay một hộp bánh để giúp các em có chí hướng phấn đấu. 2.3. Kết quả: Qua nghiên cứu và áp dụng các biện pháp rèn luyện chữ viết cho các em tôi thấy rằng chất lượng chữ viết của học sinh có nhiều tiến bộ rõ rệt. Số lượng học sinh viết đúng, viết đẹp nhiều hơn, số học sinh viết chưa đúng mẫu giảm xuống. Không còn học sinh viết không đúng độ cao các con chữ, sai hình thái các con chữ. Học sinh ít viết sai lỗi chính tả... Chất lượng phong trào "Giữ vở sạch- Viết chữ đẹp" lớp tôi đúng đầu khối. Qua hội thi "Viết chữ đẹp" cấp trường lớp tôi đạt giải Nhất tập thể, có 2 em đạt giải Nhất, 3 em đạt giải Nhì và 3 em đạt giải Ba. Có 2 em được chọn bài đi dự thi cấp huyện. Kết quả khảo sát kỹ năng viết tuần 24 ở lớp tôi giảng dạy như sau: HS viết chữ HS viết chữ HS viết thế HS sai kỷ HS viết chưa Tổng đẹp, đúng chưa đúng mẫu, chữ không ổn thuật nối nét đúng các con số HS mẫu sai lỗi chính tả định chữ viết hoa SL % SL % SL % SL % SL % 34 29 85,3 1 2,9 5 14,7 3 8,8 0 0
- 3. Phần kết luận 3.1. Ý nghĩa của sáng kiến Nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh là việc làm hết sức quan trọng và thiết thực. Rèn cho các em ý thức viết đúng, viết đẹp là rèn cho các em tính cẩn thận, tỉ mĩ, óc sáng tạo và khiếu thẫm mĩ. Chữ viết đúng, viết đẹp phản ánh tính nết của các em học sinh. Mỗi giáo viên chúng ta cần phải làm tốt công tác này nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Qua thực hiện sáng kiến kinh nghiệm tôi đã tuyên truyền, tạo được uy tín, niềm tin đối với phụ huynh học sinh giúp họ hiểu được vai trò, ý nghĩa của việc rèn chữ viết đúng, đẹp. Để từ đó cùng với sự hướng dẫn của giáo viên, phụ huynh mua các loại vở, đồ dùng học tập đầy đủ, đúng chuẩn để giúp các em rèn chữ viết đúng và đẹp. Phối hợp tốt với phụ huynh trong việc nhắc nhở, động viên để giúp các em luyện viết thêm ở nhà và biết soạn sách vở gọn gàng, ngăn nắp để giữ vở bền đẹp. Giúp các em học sinh nắm được những kiến thức, biện pháp, kĩ năng để luyện viết đúng, viết đẹp. Khí thế tham gia rèn chữ viết được đông đảo học sinh thực hiện thường xuyên trở thành phong trào. Các em hứng thú với giờ học tập viết hơn. Giúp các em viết chữ đẹp hơn để góp phần nâng cao hiệu quả các môn học khác cũng như nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Nâng cao chất lượng bài dạy trong tổ khối, trong nhà trường. Đề tài này có thể áp dụng ở tất các trường tiểu học trong huyện, tỉnh. Qua áp dụng tôi thấy học sinh nắm chắc kiến thức vận dụng tốt các biện pháp, các kĩ năng và điều đặc biệt là chữ viết của các em tiến bộ rõ rệt, có nhiều em viết chữ nét thanh, nét đậm rất đẹp. Khi các em viết chữ rõ ràng, đẹp hơn và tốc độ nhanh hơn kéo theo việc viết bài ở những môn khác tốt hơn nên hiệu học tập cao hơn. 3. 2. Những kiến nghị, đề xuất. Sau khi nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhỏ của mình để góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2: 3.2.1. Đối với nhà trường Với nhà trường thì cần thường xuyên tổ chức các cuộc thi "Viết chữ đẹp" để học sinh và giáo viên tham gia, từ đó có kế hoạch bồi dưỡng cụ thể cho từng đối tượng riêng. Thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề đánh giá và rút kinh nghiệm để nâng cao chất lượng vở sạch chữ đẹp của trường, của từng khối lớp.Trưng bày các bài viết đẹp, tập vở sạch cho học sinh toàn trường tham khảo. Đưa tiêu chuẩn vở sạch chữ đẹp vào đánh giá thi đua của cả thầy và trò. Duy trì các phong trào thi đua “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp”. Hội thi “Viết chữ đẹp” cấp trường.
- Thường xuyên quan tâm, kiểm tra, rà soát, sửa chữa và cung cấp kịp thời về mặt cơ sở vật chất như: bảng chống loá đạt chất lượng (lớp 1, 2 phải có phần kẻ ô li để thuận tiện cho việc dạy tập viết và hướng dẫn học sinh luyện viết), bàn ghế phải đúng chuẩn, không để bàn thấp, ghế cao hay ghế quá cao so với bàn... Hệ thống bóng đèn, cửa sổ phải cung cấp đủ ánh sáng cho học sinh ngồi học để học sinh có điều kiện thuận lợi trong việc rèn chữ. Bên cạnh đó, sau mỗi học kỳ nhà trường cần có những chương trình tổ chức triển lãm các thành quả mà học sinh đã làm được như các bài thi viết chữ đẹp, những tập vở tiêu biểu để cho các em, các bậc phụ huynh cùng xem và thấy được những thành quả của con em mình đã ý thức rèn luyện và để học sinh các lớp có sự thi đua học tập lẫn nhau. 3.3.2. Đối với giáo viên Giáo viên phải là tấm gương sáng cho các em noi theo từ những việc nhỏ nhất: tư thế ngồi viết, cách cầm bút, chữ viết bảng, cách trình bày bảng, cách nhận xét cho học sinh. Và cái cần ở người giáo viên nữa đó là lòng yêu nghề, yêu trẻ, sự tận tâm, tận tình chỉ dạy cho học sinh. Nắm bắt được những mặt mạnh và mặt yếu của từng học sinh, từ đó phân nhóm học sinh, lên kế hoạch bồi dưỡng chữ viết cũng như phụ đạo cho từng nhóm đối tượng học sinh và thường xuyên trau dồi chữ viết, luyện tập nhiều, không ngừng học hỏi bạn bè, đồng nghiệp để làm phong phú vốn kiến thức về chữ viết và những kĩ thuật trong rèn viết chữ đẹp. Trên đây là một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2 được thực nghiệm trong quá trình dạy học của tôi. Trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót nên tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và cấp trên để đề tài này của tôi được hoàn thiện hơn. Trân trọng cảm ơn !
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2235 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 215 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 64 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn