intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học dạng toán tìm số trung bình cộng

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:33

31
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học được hoàn thành với mục tiêu nhằm giúp học sinh có kĩ năng nhận dạng toán, phân tích bài toán, biết lựa chọn phương pháp giải phù hợp cho từng bài toán thuộc dạng toán này, tránh những sai lầm khi giải toán tạo sự hứng thú đối với môn học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học dạng toán tìm số trung bình cộng

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC  DẠNG TÌM SỐ TRUNG BÌNH CỘNG CHO HỌC SINH LỚP 4                                                                                                    1
  2.                                           Quảng Bình, tháng 5/2015    2
  3. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CH ẤT LƯỢNG DẠY HỌC  DẠNG TÌM SỐ TRUNG BÌNH CỘNG CHO HỌC SINH LỚP 4                                                                 Họ và tên: Nguyễn Thị Hương                                 Chức vụ: Giáo viên                                 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Mỹ Thủy                                                                             3
  4.                                           Quảng Bình, tháng 5/2015    4
  5.                                                  MỤC LỤC                                                                                                                                                   Trang   I. PHẦN MỞ ĐẦU                      1.1 Lí do chọn đề  tài  ....................................................................................................1 1. 2. Ph ạm vi áp dụng sáng  kiến..................................................................................2 1.3. Điểm mới của đề  tài ..............................................................................................2 II. PHẦN NỘI DUNG                                                  2.1  Thực   trạng   của   vấn   đề   đòi   hỏi   phải   có   giải   pháp   mới   để   giải   quyết......................3 2.2  Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán dạng tìm số trung bình  cộng...................5 2.2.1 Thay đổi không gian lớp học...............................................................................6 2.2.2 Vận dụng mô hình dạy học  mới...........................................................................7 2.2.3 Gợi nhu cầu nhận thức cho học  sinh.................................................................10 2.2.4 Tổ chức cho học sinh trải nghiệm, phân tích, khám phá và rút ra được kiến  thức mới......................................................................................................................11   2.2.5  Tìm   hiểu   một   số   sai   lầm   của   học   sinh   khi   giải   toán........................................13 2.2.6  Làm   tốt   công   tác   phối   hợp   với   phụ   huynh   học   sinh..........................................21 2.2.7 Linh hoạt trong lựa chọn hình thức và phương pháp dạy họckiểm tra và  đánh giá học sinh......................................................................................................21 5
  6. 3. KẾT LUẬN. 3.1  Ý nghĩa của đề tài................................................................................................23 3.2   Kiến   nghị,   đề   xuất.................................................................................................24 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC DẠNG  TOÁN  TÌM SỐ TRUNG BÌNH CỘNG CHO HỌC SINH LỚP 4  1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 Lý do chọn đề tài : Như  chúng ta đã biết bậc tiểu học được coi là “Bậc học nền tảng của hệ  thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm đạo đức, trí   tuệ, thẩm mỹ và thể chất của trẻ em nhằm hình thành cơ  sở ban đầu cho sự phát  triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ  nghĩa” (Luật phổ  cập   giáo dục tiểu học). Điều đó cho thấy rằng giáo dục tiểu học được xác định là bậc   học của cách học, cách tạo nên những cơ sở rất cơ bản, rất bền vững cho các em.  Chương trình Toán Tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán học góp  phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Toán học   rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết   vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng   tạo. Toán học được coi là chìa khóa mở của các ngành khoa học khác,  nó còn đóng  6
  7. góp vào việc hình thành các phẩm chất của người lao động như: cần cù, cẩn thận,   ý chí vượt khó, làm việc có kế hoạch, có nền nếp, khoa học.  Giải toán có lời văn là một trong bốn mạch kiến thức cơ bản của môn Toán   lớp 4. Nội dung chủ yếu của mạch kiến thức này bao gồm: Tiếp tục giải các bài   toán đơn, toán hợp có dạng đã học từ  lớp 1, 2, 3 và phát triển các bài toán đó đối   với các phép tính trên phân số và các số đo đại lượng mới học ở lớp 4. Đồng thời  toán lớp 4 còn đề cập đến những dạng toán mới như  giải toán về: “Tìm số  trung   bình cộng”; “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”; “Tìm hai số khi biết  tổng ( hoặc hiệu)  và tỉ  số của hai số đó”; “ Tìm phân số của một số”… Trong đó  dạng toán “ Tìm số trung bình cộng” là dạng toán thường gặp, nó là một bài toán  đơn hoặc nằm trong một bài toán hợp thuộc dạng khác.  Các bài toán về  tìm số  trung bình cộng  lại được chia thành các loại nhỏ  mà  khi gặp phải học sinh thường lúng túng mơ  hồ  và sai lầm; khó tìm ra hướng giải  quyết và thường nhầm lẫn từ dạng này sang dạng khác, không phát hiện số các số  hạng và cách giải. Ngôn ngữ toán học của học sinh còn hạn chế, kĩ năng tính toán,   trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, học toán và giải toán một cách máy móc   nặng nề  về  rập khuôn, bắt chước. Nếu không xác định cho học sinh những kiến  thức cơ bản ban đầu vững chắc thì học sinh sẽ không giải quyết được những bài   toán ở dạng cơ bản (đối với học sinh trung bình) và nâng cao lên (đối với học sinh  khá giỏi).  Chính vì những lí do đó, qua thực trạng học phần giải các bài toán về Tìm số  trung bình cộng của học sinh, tôi nhận thấy việc giúp đỡ  học sinh phát hiện ra  được cái sai và tìm cách giải các bài toán là việc làm hết sức quan trọng, giúp học   sinh có khả năng phân tích, tổng hợp, tư duy nhằm nâng cao chất lượng học toán.  Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy  líp 4 nªn tôi đã chọn nghiên cứu  đề  tài: “   Một số  biện pháp nâng cao chất lượng dạy học dạng toán tìm số  trung bình   7
  8. cộng” với mong muốn nâng cao trình độ nghiệp vụ nhằm giúp học sinh có kĩ năng  nhận dạng toán, phân tích bài toán, biết lựa chọn phương pháp giải phù hợp cho   từng bài toán thuộc dạng toán này, tránh những sai lầm khi giải toán tạo sự hứng  thú đối với môn học. 1.2 Phạm vi áp dụng sáng kiến Đề  tài được áp dụng trong công tác giảng dạy môn Toán cho học sinh lớp 4   đặc biệt là dạng toán “Tìm số trung bình cộng” của học sinh trường Tiểu học nơi   tôi công tác.  1.3 Điểm mới của đề tài.     Khi dạy học các bài toán về  trung bình cộng   học sinh phải tư  duy một cách  tích cực và linh hoạt huy động tích hợp các kiến thức và khả năng đã có vào những  tình huống khác nhau. Điểm mới của đề tài này là phát hiện ra được những cái sai  của học sinh thường gặp phải, phân loại được các dạng toán trung bình cộng để  tìm ra các biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn, sai lầm của học sinh khi   giải  các bài toán  có liên quan đến dạng  này,  góp phần trong việc nâng cao chất  lượng học tập môn Toán của học sinh.  Giải pháp này giúp cho học sinh lập kế  hoạch giải một cách dễ dàng, phát triển kỹ năng, kỹ xảo, năng lực, tư duy và khả  năng giải toán của các em. Đề tài nghiên cứu dựa trên chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt được sau mỗi bài  học, kiến thức đại trà học sinh phải đạt được, đồng thời cũng chú trọng đến kiến   thức nâng cao để  bồi dưỡng cho học sinh, vận dụng được mô hình dạy học mới  vào giảng dạy. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1 Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết 8
  9.        Dạng toán Tìm số trung bình cộng được đưa vào chương trình Toán 4 gồm 3   tiết.  Cụ thể là:  ­ 1 tiết cung cấp quy tắc và công thức tính Trung bình cộng của một dãy số  cách đều trang 26 ­ 27;  ­ 1 tiết Luyện tập áp dụng công thức vừa học trang 28; ­ 1 tiết cuối cùng là ôn tập về tìm số trung bình cộng trang 175.  Với thời lượng ít như  vậy nên giáo viên chưa đầu tư  nhiều vào dạng toán  này. Vào đầu năm học 2013 ­ 2014, tôi đã được Nhà trường và chuyên môn phân  công chủ  nhiệm và giảng dạy lớp 4C, lớp có 25 học sinh. Qua một thời gian dạy   học, tôi đã tiến hành làm bài kiểm tra. Sau khi thu bài kiểm tra tôi đã thu được một số kết quả như sau:  9­ 10 7­ 8 5­ 6 3­ 4 0­ 2 6 ( 24%) 7 (28%) 9(3 6%) 3(12%) 0 ( 0%) Đề  bài kiểm tra gồm cả  phần tự  luận và trắc nghiệm với các mạch kiến  thức: đọc viết số, chia cho số có 1 chữ số, tìm thành phần chưa biết của phép tính,  giải toán dạng Tìm số  trung bình cộng. Tôi phân tích cụ thể  các dạng bài tập của   bài kiểm tra và nhận thấy đa số các em đọc và viết số số thành thạo, biết cách chia   cho số  có 1 chữ số và tìm thành phần chưa biết của phép tính. Tuy nhiên kỹ  năng  giải toán về Tìm số Trung bình cộng còn rất yếu.  Qua nh×n nhËn thực tế tôi thấy rằng chất lượng bài kiểm tra chưa cao là do  nhiều nguyên nhân : 9
  10. *Về phía giáo viên ­ Thời lượng ít như  vậy và trên thực tế  giáo viên phải dạy nhiều môn, thời  gian dành để  nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với đối  tượng học sinh trong lớp còn hạn chế. Do vậy, chưa lôi cuốn được sự  tập trung   chú ý nghe giảng của học sinh.  ­ Nhận thức về  vị  trí, tầm quan trọng của các bài toán điển hình trong môn   Toán cũng chưa đầy đủ bởi đây là một dạng toán mới đầu tiên các em gặp khi   bước vào lớp 4. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, kiến thức còn  dàn trải. *Về phía học sinh: +  Nguyên nhân khách quan:            ­ Học sinh chưa có hứng thú với các môn học nói chung, môn Toán nói riếng  và đặc biết là dạng Toán tìm số trung bình cộng    ­  Học sinh chưa chịu khó, tích cực tư  duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những   phương pháp học đúng để  biến tri thức của thầy cô thành của mình. Cho nên sau  khi học xong bài, các em chưa nắm bắt được lượng kiến thức thầy cô giáo giảng,  rất nhanh quên và kĩ năng tính toán chưa nhanh, số lượng học sinh tiếp thu chậm,   yếu toán có lời văn tương đối nhiều. Học sinh chưa có kĩ năng giải toán có lời văn.  ­ Trình độ  của học sinh không đồng đều trong một lớp: có em làm nhanh   nhưng cũng có em làm chậm. Các em bước đầu chuyển từ  tư  duy cụ  thể sang tư  duy trừu tượng cho nên việc nhận thức và tiếp thu kiến thức gặp không ít khó  khăn, chưa mang lại kết quả như chương trình đề ra. ­ Hiện nay chương trình Toán tiểu học đã có sự  đổi mới, khoa học hơn song   chương trình kiến thức lớp 1, 2, 3 rất  đơn giản, đến lớp 4 học sinh phải gặp   10
  11. những kiến thức khó với lượng kiến thức khá nhiều. Đây là một vấn đề khó khăn  cho cả người dạy và người học. ­ Trong các dạng toán có lời văn ở lớp 4 thì dạng “ Tìm số trung bình cộng”   là dạng toán được học đầu tiên ở lớp 4 và các em có thể  gặp suốt trong quá trình  học toán  ở  Tiểu học. Nếu các em học tốt dạng toán này thì sẽ  tốt các dạng toán   khác.   +  Nguyên nhân chủ quan:  ­ Một số học sinh đọc đề  vội vàng, chưa biết tập trung vào những dữ  kiện  trọng tâm của đề  toán, không chịu phân tích đề  toán khi đọc đề, dẫn tới thường  nhầm lẫn giữa các dạng toán, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán. ­ Một số học sinh chưa có kĩ năng phân tích và tư duy khi gặp những bài toán   phức tạp. Hầu hết, các em làm theo khuôn mẫu của những dạng bài cụ thể mà các  em thường gặp trong sách giáo khoa, khi gặp bài toán đòi hỏi tư duy, suy luận một  chút  các em không biết cách phân tích dẫn đến lười suy nghĩ.  Một số em tiếp thu  bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài   toán, vì thế phải có phương pháp khắc sâu kiến thức. ­  Học sinh chưa có một phương pháp tư duy logic để giải quyết các dạng bài   tập về tìm số Trung bình cộng. Khi giải xong bài toán, đa số học sinh bỏ qua bước   kiểm tra lại bài, dẫn đến nhiều trường hợp sai sót đáng tiếc do tính nhầm, do chủ  quan. 2.2   Một số  biện pháp nâng cao chất  lượng  dạy học dạng toán tìm số  trung bình cộng Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn và phức tạp, hình thành kỹ  năng  giải toán khó hơn nhiều so với kỹ xảo tính, vì các bài toán là sự  kết hợp đa dạng  nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán Tìm số trung bình cộng không  chỉ  là nhớ  mẫu rồi áp dụng mà đòi hỏi nắm chắc khái niệm, quan hệ  toán học,  11
  12. nắm chắc ý nghĩa các phép tính, các dạng toán, đòi hỏi khả năng độc lập, suy luận   của học sinh, đòi hỏi biết làm tính thành thạo. Sau khi khảo sát chất lượng giải toán đầu năm học, bản thân tôi đã đã nắm  bắt được tình hình học sinh qua kĩ năng giải toán Tìm số trung bình cộng đồng thời  tìm hiểu những sai lầm mà các em thường mắc phải khi giải toán, tôi đã tiến hành  xây dựng các giải pháp như sau:      II.2.1 Thay đổi không gian lớp học                 B ả n g Đổi mới không gian cho lớp học tạo nên lớp học sẽ được “thay áo mới”, thú  vị  và bổ  ích. Trang trí lớp học thân thiện, phù hợp đặc điểm tâm lý học sinh tiểu   học còn giúp các em tự hào về lớp, nâng cao ý thức gìn giữ  lớp học sạch đẹp, có  thêm không gian để  giao lưu, chia sẻ, nghiên cứu, góp phần nâng cao chất lượng  đổi mới phương pháp giảng dạy, đồng thời khuyến khích học sinh sự  giác học  tập                           12
  13. Học sinh sẽ được tiếp cận với nhau trong quá trình học, giáo viên chỉ là người   hỗ trợ các em tìm ra kiến thức. Không gian lớp học sẽ được thay đổi thường xuyên  để đảm bảo em nào cũng phát huy được mọi năng lực khả năng của mình. Cách sắp sếp ngồi học như  hình minh họa trên không  ảnh hưởng gì tới thể  chất của học sinh cả: việc tổ  chức hoạt động nhóm thường xuyên thay đổi vị  trí  ngồi học, lúc thì ngồi học chỗ  này, tiết học sau lại ngồi chỗ  khác. Hay nói cách  khác  áp dụng hình thức dạy học theo nhóm thì chỗ ngồi của học sinh là chỗ  ngồi  không ổn định. Ngày xưa ngồi học là lấy bảng làm trung tâm để tiếp thu kiến thức của thầy,  và chú ý nghe thầy giảng bài, ngày nay, ngồi học tức là ngồi làm việc, ngồi để  thực hiện một nhiệm vụ không đơn thuần chỉ nhìn về  phía bảng, các em chỉ nghe  phổ biến nhiệm vụ sau đó cùng nhau thực hiện nhiệm vụ đó trên tinh thần hợp tác,  chia sẻ ngay trên bàn mình ngồi. II.2.2  Vận dụng mô hình dạy học mới           Mô hình trường học mới VNEN nhằm chuyển đổi từ giáo dục truyền thống  sang mô hình giáo dục trường học mới: tập tr ung nâng cao phẩm chất năng lực  người học, coi trọng giáo dục toàn diện để  dạy làm người như  lời dạy của Bác   Hồ  là đào tạo lớp người “vừa hồng vừa chuyên”.  Trong quá trình dạy học giáo  viên giữ vai trò là người tổ chức quá trình hoạt động của học sinh.  Nhận thức là hoạt động trí tuệ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà hình thức  thể  hiện của nó là khả  năng tiếp thu. Khả  năng tiếp thu lại phụ  thuộc vào nhiều  yếu tố  môi trường. Xây dựng môi trường riêng cho mỗi cá nhân trong giờ  học có   vai trò quan trọng trong việc giúp các em lĩnh hội các kiến thức bài học. Ta đã biết  học là hoạt động đơn phức của hoạt động trí óc. Do đó từ đầu năm, qua quá trình  theo dõi  tôi  đã chú trọng cá biệt hóa từng cá nhân,  nắm  thật cụ  thể lực học của  từng cá nhân trong tập thể  lớp để  từ  đó xây dựng môi trường riêng, cách hướng   13
  14. dẫn riêng cho cá nhân trong hoạt động nhận thức tiếp thu bài, vận dụng mô hình  dạy học nhóm để học sinh cùng chia sẻ kết quả.      VD: Học sinh Nguyên có tầm vóc thấp bé, cần bố trí chỗ ngồi hợp lý tránh  tình trạng đứng viết hoặc viết trên ghế.      VD: Học sinh Tiến có thị lực yếu, cần bố trí vị trí ngồi hợp lý trong lớp để  em nhìn rõ thuận tiện cho quá trình học tập.     VD: Học sinh Lan( nhóm Vàng Anh) ham chơi, khả năng tiếp thu chậm thì  cần bố  trí chỗ  ngồi gần bảng gần bàn giáo viên  ở  dãy ngoài để  thuận tiện cho  việc học của học sinh cũng như  giáo viên sẽ  thuận tiện hơn trong việc kèm cặp,  giúp đỡ; mặt khác thành lập đôi bạn cùng tiến để  các bạn giúp đỡ  lẫn nhau; yêu  cầu các thành viên trong nhóm giúp đỡ bạn. Đối với những học sinh yếu thì tôi phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi phụ nhiều  hơn, chi tiết hơn để gợi ý hướng dẫn các em từng bước tìm ra cách giải bài toán. Ví dụ 1: Một đội công nhân đào đường, ngày đầu đào được 1200m, ngày thứ  hai đào được ít hơn ngày đầu 150m. Hỏi trung bình mỗi ngày đội công nhân đào  được bao nhiêu mét đường? Câu hỏi gợi ý:  ­ Để  tìm được trung bình mỗi ngày đội công nhân đào được bao nhiêu mét  đường ta phải biết được cái gì? ( Tổng số mét đường của hai ngày đào chia cho 2) ­Tổng số  m của hai ngày đào đã biết chưa ? (Chưa biết vì chưa biết số  mét   đường ngày thứ hai đào được)  Ví dụ  2    :   Một ô tô chạy  từ tỉnh A đến tỉnh B. Trong 2 giờ đầu, mỗi giờ ô tô  chạy được 46km, giờ  thứ ba ô tô chạy được 52km, hai giờ  sau mỗi giờ  ô tô chạy  được 43km thì  đến tỉnh B. Hỏi trung bình mỗi giờ  ô  tô chạy được bao nhiêu  kilomet?  14
  15. * Câu hỏi gợi ý ( Dành cho học sinh trung bình) “Xuất phát từ câu hỏi đến các  dữ kiện của bài toán”(Đường lối phân tích)      ­ Bài toán hỏi gì? (Trung bình mỗi giờ ô tô chạy được bao nhiêu km?)             ­ Có thể biết ngay được chưa? (chưa). Vì sao? (Vì chưa biết được  tổng số  km, tổng số giờ ô tô đã đi)      ­ Ta có thể biết được số tổng km? (chưa). Vì sao? (Chưa biết số  km ô t ô  đi trong 2 giờ đầu, 2 giờ sau).      ­ Có thể biết được số gi ờ mà ô tô đã  đi chưa? (có thể được).      ­ Vậy việc đầu tiên ta sẽ tìm là gì? ( Tìm số km ô tô đi trong 2 giờ đầu; số  km ô tô đi trong 2 giờ sau). Bằng cách nào? (Lấy 46 x 2, 43 x 2)      ­ Việc thứ hai ta tìm cái gì?(Tìm số giờ ô tô đã đi). Bằng cách nào?(2 + 1+  2)      ­ Sau khi tìm được số giờ ô tô  đã đi thì ta tìm gì nữa? (Tìm Tổng số km mà  ô tô đã chạy). Bằng cách nào? (Lấy kết quả của phép tính thứ   nhất cộng kết quả  của phép tính thứ hai ).       ­ Bước cuối cùng ta làm gì? (Tìm trung bình mỗi mỗi giờ ô tô chạy  )Vậy ta  đã trả lời được câu hỏi của bài toán chưa? (Rồi)  Với bài toán này giáo viên cần cho học sinh thảo luận nhóm, tiến hành chia  sẻ kết quả làm việc trước lớp để  rút ra cách giải cho bài toán này, nếu nhóm nào   còn lúng túng thì giáo viên giúp đỡ, gợi ý hoặc có thể nhờ nhóm bạn (với hệ thống   câu hỏi đó)        Từ việc nắm chắc nội dung, đối tượng học sinh trong lớp, đồ  dùng dạy học  mình có, tôi chọn cách chia nhóm sao cho phù hợp: mỗi nhóm từ  3  ­ 4 học sinh .  Các chức danh nhóm trưởng và thư  kí luân phiên. Khi bắt đầu làm việc, nhóm  trưởng phải phân công các thành viên trong nhóm, mỗi người một việc, sau đó cá  15
  16. nhân làm việc độc lập rồi từng em đưa ra ý kiến để thảo luận trong nhóm. Ý kiến  thống nhất được ghi nhận để  chuẩn bị  trình bày trước lớp. Người trình bày cũng   luân phiên để tạo điều kiện cho tất cả học sinh được rèn luyện kĩ năng. Trong thời  gian  HS  làm việc, giáo viên thường xuyên theo dõi để  hướng dẫn, giúp đỡ  các  nhóm trao đổi thảo luận đúng yêu cầu bài học, tránh thảo luận tùy hứng dẫn đến  nguy cơ đi lệch yêu cầu hoặc giáo viên gợi mở thêm nhằm mở rộng kiến thức và   giáo dục kỹ năng sống cho các em.          *Cách chia nhóm:      + Khi nội dung yêu cầu không khác nhau, ít có chênh lệch về độ  khó nên chia  nhóm ngẫu nhiên.      + Khi nội dung cần có sự phân hóa về độ khó, dễ nên chia nhóm cùng trình độ.      + Khi nội dung đơn vị kiến thức cần có sự hỗ trợ lẫn nhau như các bài ôn tập   thì nên chia nhóm tương trợ…        Tôi cũng chuẩn bị đầy đủ các phương tiện như phiếu học tập, tranh ảnh, vật   thật  (đưa ra hình  ảnh trực quan như  các cái kẹo thật làm tiền đề  cho phần giới  thiệu bài) và thảo luận, bàn bạc; thời gian quy định cho mỗi hoạt động; phiếu học  tập nhóm hoặc cá nhân để học sinh ghi chép kết quả hoạt động sau khi thảo luận.  Như vậy học sinh dễ lĩnh hội kiến thức chắc chắn hơn. Bản thân tôi đã vận dụng mô hình dạy học này vào quá trình giảng dạy đặc  biệt là trong môn Toán góp thêm cho lớp học một luồng không khí thân thiện, thoải  mái, sinh động, hăng say trong giờ học, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Giáo viên phải xây dựng được Hội đồng tự  quản học sinh, tìm hiểu kĩ về  từng  học sinh của lớp mình. Coi trọng công tác tổ chức lớp ngay từ đầu năm học.  Xây dựng được Hội đồng tự quản học sinh nhiệt tình có năng lực chỉ đạo lớp. Đây là mô hình không những đổi mới về tổ chức lớp học, về trang trí lớp mà  quá trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy ­ học cả lớp sang dạy ­ học theo  16
  17. nhóm. Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng cường phát huy tính tích cực,  chủ động, sáng tạo của học sinh. Lấy học sinh làm trung tâm trong các hoạt động  dạy học giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức và tạo mọi điều kiện tốt nhất để  mọi học sinh được  tham gia vào quá trình học tập.          Ngoài ra vận dụng mô hình trường Tiểu học kiểu mới giúp học sinh rèn  phương pháp tự học, tự giác, tự quản, tự trọng, tự tin, tự đánh giá, tự hợp tác, tự  rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem  lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh. 2.2.3 Gợi nhu cầu nhận thức cho học sinh Nhà tâm lí học Pôlya nói: “… Con người chỉ  tư  duy tích cực khi có nhu cầu.  Hoạt động nhận thức chỉ  có kết quả  cao khi chủ  thể  ham thích, tự  giác và tích  cực”.                                                              (Pôlya, Tâm lý học, Tập II, Tr 128) Do đó trong dạy học giải toán tôi đã khéo léo sử dụng các phương pháp thích  hợp có tác dụng khêu gợi và kích thích sự chú ý, tích cực hoá hoạt động tư duy của   học sinh, làm cho học sinh nhận thức được đầy đủ ý nghĩa thực tiễn của giờ đang  học. Đồng thời xây dựng niềm tin vào khả  năng cho học sinh, làm cho học sinh   cảm thấy rằng nếu mình tập trung, chịu khó học tập thì sẽ  thu lượm được những   kết quả tốt đẹp có ích cho bản thân, vừa lòng thầy cô, cha mẹ. Đặc thù của việc   giải toán đòi hỏi có các đức tính cần cù, chịu khó, tỉ  mỉ, nhẫn nại, thẩm mĩ, …   nhưng học sinh tiểu học do tâm lý lứa tuổi thường hay phân tán sự  tập trung,   chóng chán. Hoạt động gợi nhu cầu nhận thức, gây hứng thú môn học có thể được   sử  dụng linh hoạt trong quá trình giảng dạy. Không nhất thiết, đơn thuần chỉ  sử  dụng ngay đầu tiết dạy. Muốn không khí lớp học vui tươi, kích thích sự tò mò, khơi dậy hứng thú của  học sinh về chủ đề sẽ học, bản thân tôi nghiên cứu kỹ tài liệu, sách giáo khoa để  17
  18. lựa chọn hình thức sao cho phù hợp, có thể là: đặt câu hỏi, câu đố vui, kể chuyện,   một   tình   huống,   tổ   chức   trò   chơi   hoặc   sử   dụng   các   hình   thức   khác…                  Ví dụ       1 : Bài :  Tìm số  Trung bình cộng   ( tài liệu Toán lớp  4  trang  26)         Trước khi vào tiết học, GV tổ chức HS chơi trò chơi “ Ai nhanh ai đúng”. Các  em sẽ  cùng nhau tính nhanh 1 bài toán nhỏ  gắn với thực tế các em: Bạn Lan có 4  cái kẹo, bạn bình có 6 cái kẹo. Nếu chia đều số  kẹo đó thì mỗi bạn được bao   nhiêu cái ? Thông qua trò chơi, HS sẽ cảm thấy trò chơi mà mình vừa được tham   gia rất gần gũi với bản thân, không chỉ thế trò chơi còn kích thích tính tò mò, khơi  dậy hứng thú trong học. Cũng bắt đầu từ đây giáo viên dẫn dắt vào bài mới và giới   thiệu đây là dạng toán mới trong chương trình lớp 4  mà các em được tìm hiểu, từ  đó các em muốn tiếp tục được trải nghiệm kiến thức mới.        2.2.4 Tổ chức cho học sinh trải nghiệm, phân tích, khám phá và rút ra được   kiến thức mới        Để hình thành khái niệm số trung bình cộng và tìm ra được quy tắc của dạng   toán tìm số trung bình cộng tôi đã sử dụng hình thức thảo luận nhóm 4, yêu cầu HS  tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng tìm ra quy tắc tìm số trung bình cộng của nhiều số  hạng. Tôi đã đưa thêm 1 ví dụ nữa, các em tiếp tục thực hành và sau đó tìm điểm  chung giữa 2 ví dụ này để cùng rút ra công thức tính. Ví dụ  2: Số  học sinh của 3 lớp 5A, 5B, 5C lần lượt là 25 học sinh, 27 học   sinh, 32 học sinh. Hỏi trung bình mỗi lớp có bao nhiêu học sinh ? Muốn làm được điều đó điều đầu tiên đỏi hỏi các em phải tìm hiểu nội dung  bài toán (đề  toán) thông qua việc đọc bài toán dù bài toán cho  ở  dạng có lời văn   hoàn chỉnh hoặc bằng dạng tóm tắt sơ  đồ. Học sinh cần phải đọc kĩ, hiểu rõ đề  toán cho biết cái gì? Bài toán hỏi gì? Khi đọc bài toán phải hiểu thật kĩ một số từ,  thuật ngữ  quan trọng chỉ  rõ tính huống toán học được diễn đạt theo ngôn ngữ  thông thường, chẳng hạn như “bay đi”, “làm vở”, “ăn hết”. Nếu trong bài toán nào  18
  19. có có thuật ngữ  học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên phải  hướng dẫn để  cho học  sinh hiểu được nội dung và ý nghĩa của từ  đó  ở  trong bài toán đang làm. Khi đọc  đề xong có thể gạch chân các từ ngữ quan trọng trong đề bài. Các từ ngữ đó là sẽ  là cơ sở quan trọng để tìm ra cách giải bài toán, sau đó cho học sinh thuật lại vắn  tắt bài toán mà không cần phải đọc nguyên văn bài toán đó. Yêu cầu các nhóm thảo luận tóm tắt bằng sơ đồ như sau:                                        Khi các em tóm tắt được có nghĩa là các em đã phân tích được bài toán, hiểu  được nội dung bài toán.     Nếu nhóm nào còn lúng túng trong câu hỏi thì tôi đưa ra thêm câu hỏi gợi ý  giúp nhóm đi vào tiến trình phân tích thuận lợi hơn là : Nếu chia đều sô học sinh   vào các lớp thì mỗi lớp có bao nhiêu học sinh? Như  vậy các em sẽ  dễ  dàng nắm  bắt kiến thức hơn. Bản thân các em sẽ  cảm thấy hứng thú hơn với giờ  học bởi   chính mình đã tự tìm ra quy tắc này, tự khắc sâu kiến thức cho bản thân mình.  Học sinh rút ra được cách tìm số trung bình cộng như sau:  ­ Bước 1: Tính tổng của các số đó   ­ Bước 2: Chia tổng đó cho số các số hạng Sau khi tìm ra được công thức của dạng toán này, học sinh sẽ  thực hành để  vận dụng kiến thức mới đó thông qua các bài tập cụ thể hình thành cho học sinh kĩ  năng giải toán dạng này. Mục tiêu ở đây là hình thành năng lực khái quát hóa và kĩ  năng giải toán, rèn luyện năng lực sáng tạo trong học tập. Ta có thể tiến hành giải  pháp sau đây: cho HS giải các bài toán nâng dần mức độ phức tạp trong mối quan   hệ giữa số đã cho và số phải tìm hoặc là điều kiện trong bài toán.  Ví dụ:  19
  20.      Bài toán 1: Tìm số trung bình cộng của các sô 36, 42, 57      Bài toán 2: Tổ Một góp được 36 quyển vở. Tổ Hai góp được nhiều hơn tổ  Một 2 quyển nhưng lại ít hơn tổ Ba 2 quyển. Hỏi trung bình mỗi tổ góp được bao  nhiêu quyển vở?      Bài toán 3: Số trung bình cộng của hai số là 14. Biết một trong hai số là 9.  Tìm số kia.      ­ Giải bài toán có nhiều cách khác nhau (VD: Bài toán 2, 3)       ­ Tiếp xúc với các bài toán thiếu đi một số  các dữ  liệu đã cho (VD: Bài   toán 2, 3)       ­ Giải các bài toán trong đó phải xét tới nhiều khả  năng xảy ra để  chọn  được một khả thỏa mãn với điều kiện của bài toán.      ­ Biết lập và biến đổi bài toán  (Xây dựng bài toán ngược) Điều quan trọng và chủ yếu của việc dạy học giải toán là giúp cho học sinh   tự mình tìm hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện  của bài toán và thiết lập được các phép tính số  học tương  ứng.   Trước khi cùng  nhau bước vào phần thực hành, yêu cầu học sinh trong nhóm nhắc lại các bước  giải 1 bài toán:  *Bước 1: Tìm hiểu nội dung của bài toán *Bước 2: Tìm tòi cách giải của bài toán *Bước 3: Hướng dẫn thực hiện cách giải bài toán *Bước 4: Kiểm tra kết quả của bài toán         Để củng cố phần hình thành kiến thức này giáo viên đưa ra hình thức trò chơi   "Ô cửa bí mật".   Mỗi ô cửa là 1 bài tập nhỏ  về  tìm số  trung bình cộng. Trong 1   khoảng thời gian nào đó các em làm nhanh, nếu bạn nào nhanh và đúng thì sẽ được  phần thưởng. Đó là một trong những hình thức khắc sâu kiến thức cho học sinh. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
74=>2