intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn lớp 3

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

32
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Điểm mới trong đề tài là vận dụng điểm mới của mô hình lớp học VNEN về đổi mới phương pháp dạy học thông qua việc thay đổi không gian lớp học, xây dựng nhóm học tập thân thiện, tạo cơ hội cho học sinh có sự trao đổi, tự tìm tòi và lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, sáng tạo trên cơ sở giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, điều hành.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn lớp 3

  1. I. phÇn MỞ ĐẦU 1.1.Lí do chọn đề tài.          Nhân loại đang bước vào thế kỉ XXI, là thế kỉ có nhiều biến đổi to lớn   về  khoa học­ công nghệ, bước tiến nhảy vọt về  kinh tế. Tri thức có vai trò  ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Phát huy trí  tuệ, sức mạnh của người Việt Nam: coi phát triển GD­ĐT và khoa học công   nghệ  là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của sự  nghiệp CNH­ HĐH đất nước. Đáp ứng yêu cầu quốc sách của Đảng, ngành GD đã thực sự  đổi mới trên mọi mặt, đặc biệt đổi mới về  phương pháp phát huy tính tích  cực, tự  giác, chủ  động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của   từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự  học, rèn luyện kĩ năng  vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,  hứng thú học tập cho HS.         Đất nước ta đang bước vào kĩ nguyên mới: “Kĩ nguyên hội nhập kinh tế  quốc tế” đầu tư  vào chất xám sẽ  là đầu tư  có hiệu quả  nhất, đòi hỏi con  người phải năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động. Những năm gần đây,  Bộ GD­ĐT đã và đang thực hiện phong trào: Nói không với tiêu cực trong thi  cử và bệnh thành tích trong giáo dục.     Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà chúng ta rất   cần những con người lao động tự  chủ, năng động sáng tạo, có năng lực giải  quyết vấn đề  do thực tiễn đặt ra. Vậy làm thế  nào để  có được những con  người lao động “hiện đại” này ? Chắc hẳn chỉ có giáo dục đào tạo mới trả lời   được điều này. Vì vậy, Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã xác  định vai trò  giáo dục đào tạo là “Quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế ­ xã  hội”.Tuy nhiên, để đạt được điều đó nền giáo dục Việt Nam phải có một hệ  thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh và một cơ sở vững chắc là bậc giáo dục   Tiểu học.   Bậc tiểu học là bậc học đặc biệt quan trọng ­ bậc học đặt nền móng cho  sự hình thành nhân cách của học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức ban   đầu về tự nhiên xã hội, phát triển các năng lực nhận thức. Trong chương trình   môn học ở tiểu học, môn toán là môn học đóng vai trò quan trọng.Toán học là   môn thể thao của trí tuệ, giúp ta trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ,  1
  2. phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, rèn luyện tính thông   minh, sáng tạo.... điều này thể hiện rõ nét qua qua việc giải toán.    Giải toán là thước đo của việc nắm lý thuyết , trình độ  tư  duy, tính linh   hoạt sáng tạo của học sinh. Giải toán có lời văn giúp học sinh tư  duy một   cách tích cực, linh hoạt để huy động thích hợp các kiến thức và khả năng vào  các tình huống khác nhau, cũng có trường hợp yêu cầu học sinh phải biết phát   hiện những dự kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và   trong một chừng mực nào đó phải biết suy nghĩ  sáng tạo. Vì thế  có thể  coi  giải toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ  học sinh, tiếp tục giúp các em phát triển tư duy, rèn tính cẩn thận chính xác,  kiên trì vượt khó chủ động sáng tạo để thực hiện tốt 3 nhiệm vụ: giáo dưỡng,  giáo dục và phát triển.   Kĩ năng giải toán có lời văn đã được các em làm quen ngay từ khi mới vào  lớp một, từ đó hình thành khả năng tính toán cơ bản cho các lớp sau. Nhờ giải   toán, học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy. Rèn luyện   phương pháp suy luận, kỹ năng tính toán và những phẩm chất của người lao   động mới. Vì khi giải bài tập toán là một hoạt động bao gồm những thao tác   mà không thể thiếu đó là: xác lập mối quan hệ giữa các dữ  kiện, giữa cái đã  cho và cái cần tìm, thực hiện phân tích thích hợp, rút ra những kết luận và trả  lời đúng câu hỏi của bài toán. Giải quyết được một vấn đề đặt ra của một bài   toán đòi hỏi tư duy phải huy động tÝch cực. Bởi hình thành kỹ năng giải toán  khó h¬n nhiều so với kỹ  năng tính, vì bài toán là kết hợp nhiều khái niệm,   nhiều quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu giải rồi áp dụng mà   đòi hỏi phải nắm chắc khái niệm quan hệ  toán học, nắm chắc ý nghĩa các  phép tính, đòi hỏi khả  năng độc lập suy nghĩ của học sinh, đòi hỏi biết tính   đúng, tính nhanh, khuyến khích những học sinh có cách giải  khoa học, ngắn   gọn, chính xác. Dạy học giải toán giúp học sinh tự  phát hiện và giải quyết  vấn đề, tự  nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp rồi rút ra quy tắc  ở  dạng  khái quát nhất định.     Ở  lớp 3, ngoài kiến thức tiếp nối các dạng toán đã học  ở  lớp 1, lớp 2.  Các em bắt đầu làm quen với các dạng toán hợp có từ  hai phép tính trở  lên.  Mỗi bước tính thể hiện một tình huống nêu lên mối quan hệ  giữa cái đã cho  và cái phải tìm. Kết quả phép tính ở bước thứ nhất sẽ là một thành phần của   2
  3. phép tính ở bước giải thứ hai. Học sinh phải biết lựa chọn phép tính thích hợp  với lời giải đặc biệt các phép tính có lời giải còn ẩn.     Qua thực tế  khi dạy giải toán có lời văn  ở  lớp tôi một số  em vẫn còn   hạn chế. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy,  tôi rất băn khoăn, trăn trở  muốn tìm ra một số biện pháp nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ  động trong phần giải toán có lời văn nhằm nâng cao trình độ  nhận thức, góp  phần nâng cao chất lượng toàn diện, đáp  ứng yêu cầu phát triển Giáo dục  trong giai đoạn hiện nay của ngành và của nhà trường.    Từ những lí do thực tế trên, tôi mạnh dạn chọn đi sâu nghiên cứu đề tài  kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có   lời văn lớp 3”. 1.2 Điểm mới của đề tài.   Đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có   lời văn lớp 3” là một đề tài đã được rất nhiều tài liệu nói đến nhưng riêng ở  Trường TH tôi đang công tác thì đến nay chưa có giáo viên nào nghiên cứu để  viết thành đề tài kinh nghiệm. Bởi vậy, tôi đã mạnh dạn chọn trình bày đề tài  nghiên cứu này. Điểm mới trong đề tài là tôi đã  thực hiện vận dụng điểm mới  của mô  hình lớp học VNEN về  đổi mới phương pháp dạy học thông qua việc thay   đổi không gian lớp học, xây dựng nhóm học tập thân thiện, tạo  cơ  hội  cho  học sinh có sự  trao đổi, tự  tìm tòi và lĩnh hội kiến thức một cách chủ  động,   sáng tạo trên cơ sở giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, điều hành.     1.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài. Vì điều kiện thời gian và sự phân công công tác nên phạm vi của đề tài  chỉ nghiên cứu trong lớp học tôi đang chủ nhiệm (lớp 3D). 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng của chất lượng giải toán có lời văn lớp 3. Qua khảo sát vào đầu năm học, ở lớp 3 với giai đoạn này các em đang tiếp  nối kiến thức đã học từ lớp 1, lớp 2. Các bài tập thực hành là các bài toán đơn  chỉ có một lời giải, một phép tính và đáp số.Với các dạng toán giải: Bài toán  3
  4. về nhiều hơn; bài toán về ít hơn. Tuy vậy, cũng đề toán dùng từ “nhiều hơn”  nhưng phải thực hiện phép tính trừ; với đề  toán dùng từ  “ít hơn” lại thực   hiện bằng phép tính cộng. Đối với các dạng toán như  vậy các em nắm chưa   thành thạo, tìm phép tính chưa phù hợp với lời giải, thiếu chính xác. Sang  cuối đợt một, các em bắt đầu làm quen với các dạng toán hợp. Đây là dạng  toán có hai phép tính trở lên, câu hỏi của bài toán thường là phần gợi ý của lời  giải thứ  hai còn lời giải thứ  nhất đòi hỏi các em phải tư  duy để  tìm. Vì vậy  nếu lời giải thứ  nhất sai dẫn đến cả  bài giải đều sai. Tôi tiếp tục khảo sát  chất lượng môn toán với 23 học sinh của lớp 3D, qua một số đề toán với kiến  thức tổng hợp. Kết quả  điểm của bài kiểm tra đều đạt theo yêu cầu song  điều làm tôi băn khoăn, lo lắng là phần bài tập giải toán có lời văn tỉ  lệ  các   học sinh làm được bài rất thấp. Trong các tiết học Toán trên lớp đến phần “   giải toán có lời văn” đa số  các em đều hoạt động cá nhân nên kĩ năng phân  tích đề  còn hạn chế, nhiều em còn lúng túng trong việc tìm vấn đề  bài toán  cho biết gì và yêu cầu cần giải quyết gì để  tìm các bước giải .Vì vậy mà  khiến các em luôn né tránh mỗi khi đến phần học và làm bài tập giải toán.  Giáo viên giảng dạy cũng đã đổi mới phương pháp nhưng hiệu quả  đem lại  chưa cao. Bên cạnh đó,  nhận thức một số phụ huynh còn hạn chế, chưa quan   tâm đến việc học tập của con cái, giao phó tất cả cho giáo viên. Trình độ học  vấn của đa số phụ huynh về phần giải toán chưa cao nên gặp khó khăn trong   việc dạy con học ở nhà, nhất là môn toán nói chung và kĩ năng giải toán có lời  văn nói riêng.  Sau đó, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng giải toán có lời văn của lớp  cụ thể là: Qua thực tế khảo sát, kết quả điều tra:  Chất  Tóm tắt bài toán Phân tích bài toán Giải bài toán Lớ Số  % Số lượng % Số  % lượng p lượng lượng Giỏi 2 8.7 2 8,7 2 8,7 Khá 8 34,8 6 26,1 6 26,1 3B T.bình        7 30,4 10 43,5 10 43,5 Chưa  6 26,1  5 21,7  5   21,7 đạt 4
  5. Nhìn vào bảng thống kê kết quả khảo sát cho thấy: Tỉ lệ học sinh nắm  và giải được bài toán còn thấp, tỉ  lệ  học sinh phân tích bài toán và chưa giải  đúng còn nhiều. Trong quá trình dạy học trên lớp tôi nhận thấy những hạn  chế  của học sinh trong qua trình học và làm bài là:  Ngôn ngữ  toán học còn  hạn chế. Khả năng nhận dạng các dạng toán của học sinh còn lúng túng, chưa   tìm đúng lời giải thứ  nhất, dẫn tới làm sai bài. Chưa chịu khó học tập, chưa  mạnh dạn nêu ra những thắc mắc với thầy cô giáo. Luôn có thái độ  che dấu   những điều chưa biết của mình. Ý thức học tập chưa cao, tinh thần trao đổi  với bạn bè, thầy cô còn hạn chế. Xuất phát từ thực trạng đó, là một giáo viên đứng lớp tôi đã mạnh  dạn  nghiên cứu và   tìm một số    biện pháp nhằm  “Phát huy tính tích cực, chủ   động của học sinh khi dạy giải toán có lời văn lớp 3”. 2.2. Các biện pháp. 2.2.1. Biện pháp 1: Xây dựng nhóm học tập thân thiện.  Hình thức tổ chức dạy học này có ý nghĩa và tác dụng tích cực. Tất cả  học sinh đều được làm việc và thực hành luyện tập, biết giúp đỡ  lẫn nhau,  giải quyết được những vấn đề  khó và tìm ra cái mới trong bài học. Tạo thái  độ học tập tích cực, đặc biệt bước đầu giúp các em làm quen với phong cách  làm việc hợp tác, đề  xuất với giáo viên những vấn đề  vướng mắc cần giải   đáp. Giáo viên lập các nhóm học tập dựa vào năng lực học của từng học   sinh, sao cho mỗi nhóm đều có học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu tham gia số  lượng từ  4 ­ 6 em. Hình thức hoạt động: Lần đầu giáo viên tổ  chức, hướng  dẫn các em cách thức sinh hoạt, cách thức phân tích bài toán, cách thức kiểm   tra các thành viên trong nhóm để nhóm tự kiểm tra, thảo luận, giúp nhau trong  việc giải toán như: phân tích bài toán; tìm Các bước giải; lựa chọn phép tính   phù hợp; sửa chữa sai sót cho nhau trong quá trình giải toán. Giáo viên“Tập  huấn” cho trưởng nhóm về  cách điều khiển các hoạt động của nhóm (như  một giáo viên). Nhóm trưởng biết cách phân công nhiệm vụ  cụ  thể  cho từng   thành viên trong nhóm sao cho các bạn đều được tham gia, đều phải thể hiện.  Biết thay đổi linh hoạt vai trò của các thành viên trong nhóm: là thư kí; là đại   5
  6. diện báo cáo kết quả. Biết động viên khích lệ  bạn còn chưa thực nhanh tay,  nhanh mắt trong nhóm, tạo tính mạnh dạn cho các em.             Ví dụ    :   Cho bài toán “Một cửa hàng buổi sáng bán được 62 kg gạo, buổi  sáng bán được nhiều hơn buổi chiều là 18 kg gạo. Hỏi cả hai buổi cửa hàng  đó bán được bao nhiêu ki­lô­gam gạo?”. Bạn trưởng nhóm điều khiển nhóm mình như giáo viên đã hướng dẫn. + Cho các bạn đọc đề toán, nêu dự kiện của bài toán: bài toán cho biết   gì? Bài toán hỏi gì?. + Tóm tắt bài toán: các bạn tự  trao đổi để  tìm xem tóm tắt bằng hình  thức nào cho phù hợp( sơ đồ hay ngôn ngữ...) + Thảo luận lập kế hoạch giải, cuối cùng là thống nhất cách thực hiện  quá trình giải. Các thành viên trong nhóm tự  đưa ra câu hỏi và trả  lời  cho thích hợp. Như  vậy, tất cả  các bạn trong nhóm đều phải thực hiện tất cả  các   bước theo trình tự. Từ  đó nhắc nhở  các bạn trong bài toán đã có dùng từ  “nhiều hơn” nhưng không phải hễ  cứ  thấy “nhiều hơn” là làm tính cộng,   tránh quan niệm sai lầm đó. Tiếp theo bạn nhóm trưởng yêu cầu các bạn tự  giải bài vào vở. Huy động kết quả ở trong nhóm bằng việc lần lượt các bạn   đọc bài giải của mình để  cả  nhóm đối chiếu, các bạn khác được nhiều lần   kiểm tra lại câu lời giải, phép tính  và kết quả, khuyến khích các bạn có cách   giải hay hơn ( lời giải khác), sau đó báo cáo với giáo viên về  kết quả  sinh   hoạt nhóm, đề xuất ý kiến cần thiết.  Việc học nhóm đã giúp các em tự tin hơn bởi vì : “Học thầy không tày   học bạn”. Qua học nhóm đã giúp các em không bị  gò bó, nâng cao kỹ  năng  giải toán hơn ­ tạo cho các em có niềmvui trong học toán. Ích lợi của biện  pháp này là giáo viên đỡ  tốn thời gian mà vẫn phát hiện những mặt hạn chế  của học sinh để kịp thời uốn nắn, sữa chữa cho các em. Học sinh gắn bó với  nhau hơn, mạnh dạn trong giao tiếp, hình thành thói  quen và kỹ  năng phân  tích, kỹ  năng giải toán, điều quan trọng là tạo cơ  hội để  các em tự  nói lên  6
  7. những suy nghĩ của mình tạo tính tích cực, mạnh dạn cho các em, từ  đó các   em có niềm say mê, hứng thú khi học toán hơn. 2.2.2. Biện  pháp 2:  Xây dựng môi trường, không gian lớp học. Xây dựng phòng học và tổ chức không gian lớp học mang tính thẫm mĩ,   sư phạm, các em sẽ tự giác tích cực hơn khi được sống trong môi trường thân  thiện. Học sinh tiểu học với tâm lý lứa tuổi hiếu động, thích sự thay đổi nên  thường có cảm giác bị áp lực học tập trong một môi trường: Thầy giảng trò  nghe; thầy đọc trò chép. Trong những năm học gần đây, tất cả  các trường  đang thi đua xây dựng mô hình : “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.  Hình thành môi trường bạn hữu thân thiện, học sinh biết giúp đỡ  nhau, yêu  quý trường lớp, giữ gìn môi trường xanh­sạch­đẹp.  Lớp học là nơi các em học tập cũng là nơi các em tự  do thể  hiện sự  sáng tạo của mình qua việc sắp xếp các dụng cụ học tập, s ản phẩm do chính  bàn tay các em cũng như cha mẹ hay thầy, cô giáo tạo ra. Từ đó giúp các em  hào hứng hơn trong mỗi hoạt động học đường. Các em sẽ tự giác và tích cực  học tập hơn khi được sống trong môi trường thân thiện. Đổi mới không gian  lớp học, xây dựng không gian lớp học thân thiện bằng cách xây dựng các góc  học   tập,   góc   thư  viện,   góc   môi   trường,   góc   hỗ  trợ  các   hoạt  động   giáo  dục.......phù hợp  với khoảng không gian lớp học, thuận tiện trong sử  dụng.  Đối với môn toán, góc học tập  là  nơi trưng bày trang thiết bị  đồ  dùng dạy  học, các sản phẩm học tập của học sinh.  Trong góc đó là những đồ vật, thiết  bị gần gũi với các em như êke, compa, những mô hình, những vật thật và cả  những thiết bị, đồ dùng do các em tự làm...… Chính những đồ vật đó đã giúp  học sinh lĩnh hội được những kiến thức trừu tượng trong hoạt động học tập.  Khi nhìn những  đồ  dùng học tập  đó, học sinh thấy tái hiện lại quá trình sử  dụng đồ dùng học tập, thấy chúng trở nên thân thiện thú vị hơn vì đấy chính  là những đồ vật đã đồng hành trong việc giúp các em học tập. Thay đổi không gian lớp học  ở đây còn thể hiện ở việc thay đổi tư thế  ngồi học. Lớp học bây giờ  được thay thế  bằng các nhóm học tập. Bàn ghế  được sắp xếp theo hình chữ U, các nhóm hoặc các học sinh trong nhóm được  ngồi đối diện nhau để thuận tiện trong việc học nhóm, tạo hứng khởi cho các  em trong học tập. Vị  trí ngồi trong nhóm cũng được thay đổi thường xuyên   theo từng tiết học, buổi học. Không gian này có thể  thay đổi từng tuần tùy   7
  8. theo đặc trưng của từng môn học và để đảm bảo cho học sinh được thay đổi  vị  trí, tránh trường hợp ngồi lệch so với bảng trong thời gian dài. 2.2.3. Biện  pháp 3: Đổi mới phương pháp dạy học. Trong dạy học “Không có phương pháp nào là vạn năng” song người  giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp thích hợp cho từng tiết học giúp   học sinh tiếp cận kiến thức một cách chủ động, sáng tạo tạo nên tiết học sinh  động, giải quyết được vấn đề một cách hợp lý, tạo hứng thú học tập cho học   sinh. Có thể cùng một bài toán nhưng có thầy dạy thì học sinh dễ hiểu, nắm   được mạch bài, nhưng có thầy dạy thì học sinh hiểu rất ít, đó chính là khác   nhau giữa phương pháp dạy học giữa hai người thầy. Để  nâng cao hiệu quả  dạy học, người thầy phải tìm tòi, lựa chọn phương pháp, biện pháp dạy học   thích hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh mình. Thông thường khi hướng dẫn học sinh giải một bài toán giáo viên cho  học sinh đọc đề, phân tích bài toán và gợi ý cách giải, sau đó cho học sinh giải   bài vào vở. Để  học sinh chủ  động trong việc tìm cách giải bài toán, giáo viên cho  học sinh đọc đề  toán sau đó giao việc cho học sinh thảo luận theo nhóm để  phân tích bài toán, tìm cách giải bài toán và trình bày ý kiến trước lớp, giáo   viên cho các nhóm bổ sung và thống nhất cách giải.    Ví dụ:  Khi hướng dẫn giải bài toán:  “Thùng thứ  nhất đựng 18l dầu,   thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ  nhất 6l dầu. Hỏi cả hai thùng đựng   bao nhiêu lít dầu?”. Giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề bài, giao nhiệm vụ cho các nhóm thảo  luận phân tích bài toán, học sinh trình bày ý kiến phân tích của nhóm theo hình  thức đàm thoại: ­ Bài toán cho biết gì? (thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng  nhiều hơn 6 lít dầu). ­ Bài toán hỏi gì? (cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu). ­ Các nhóm tự  thảo luận tách bài toán đã cho thành hai bài toán đơn bằng  8
  9. cách: + Đặt câu hỏi phụ để lập bài toán đơn thứ nhất rồi chọn phép tính và thực  hiện phép tính đó.  + Sau đó lập bài toán đơn thứ hai bằng cách sử dụng kết quả của phép tính  ở bài toán đơn thứ nhất rồi chọn phép tính và thực hiện phép tính đó. Dựa vào phân tích bài toán như  trên học sinh tiếp tục trình bày cách giải  bài toán: Bài giải: Thùng thứ hai đựng được : 18 + 6 = 24 ( l). Cả hai thùng đựng được : 18 + 24 =  42 ( l). Đáp số: 42l dầu. Sau khi học sinh trình bày, giáo viên cho các nhóm nhận xét cách trình bày lời giải trong mỗi phép tính để  chọn lời văn chính xác cho mỗi phép tính  của bài giải. Giáo viên có thể cho học sinh trình bày nhiều lời giải khác và chú ý lời văn trong mỗi cách nêu lời giải để hình thành kỹ năng diễn đạt các bài  toán có lời văn. Đối với những bài toán khó giáo viên cần giành thời gian nhiều hơn  hướng dẫn học sinh tìm hiểu kỹ bài toán. Gợi mở để học sinh hiểu đề bài và   gợi ý cho học sinh khá giỏi làm không nên bắt buộc học sinh yếu làm. Để giúp học sinh học tốt nâng cao chất lượng giải toán có lời văn, giáo   viên không nên tự  xem vốn kiến thức của mình là thoả  mãn, giáo viên phải   phát huy vai trò tự  học, tự  rèn học những phương pháp giải toán, thường   xuyên giải bài toán khó, đọc tạp chí tiểu học, các chuyên đề  bồi dưỡng học   sinh lớp 3 nhằm trang bị cho mình những kiến thức toán học bổ ích. Tham gia   các lớp nâng cao trình độ  chuyên môn nghiệp vụ  để  đáp  ứng yêu cầu nhiệm  vụ của người giáo viên trong giai đoạn hiện nay. 9
  10. Trong quá trình tổ chức điều khiển quá trình học tập của học sinh giáo  viên đưa ra những câu hỏi liên quan đến nội dung bài học với nhiều loại câu   hỏi khác nhau. Đó là những câu hỏi về  hiện tượng, sự  kiện, câu hỏi đòi hỏi   nhớ lại, đòi hỏi nhận thức cao hơn và biết sắp xếp chúng từ dễ đến khó đặc   biệt là trong các tiết luyện tập thực hành. Ví dụ: Khi hướng dẫn giải bài toán “Một hình vuông có chu vi 2m 4dm. Hỏi hình vuông đó có diện tích   bằng bao nhiêu xăng – ti – mét – vuông?”           ­ Đề  toán này nhằm nâng cao một bước năng lực của học sinh trong  hoạt động giải toán.          ­ Bằng hệ thống câu hỏi phát vấn dẫn dắt học sinh đến với đề toán. Bài toán cho biết gì? (Câu hỏi tìm dữ kiện). Bài toán yêu cầu ta phải làm gì? (Tìm ẩn số).           Học sinh muốn giải bài toán này cần phải chuyển hai đơn vị đo về một   đơn vị đo nhỏ hơn, giáo viên phải đặt câu hỏi:           Hai đơn vị đo liền nhau hơn kém nhau bao nhiêu lần?  (Đòi hỏi học sinh  nhớ lại). Muốn tính  chu vi hình vuông ta làm thế nào? (Câu hỏi đòi hỏi học sinh suy  luận). Giáo viên cần chọn những bài toán có nội dung thực tế để giúp học sinh  nắm vững kiến thức và tăng cường khả năng vận dụng kiến thức cho học  sinh. 2.2.4 Biện pháp 4: Dạy học theo hướng phân hóa.         Trong một lớp học thường có tất cả 4 đối tương (giỏi, khá, trung bình,  yếu) vì vậy đòi hỏi người giáo viên hết sức linh hoạt, sáng tạo để thiết kế  bài dạy phù hợp với các đối tượng, tránh học sinh giỏi cảm thấy nhàm chán  khi bài quá dễ, còn học sinh yếu lại thấy mệt mỏi, chán học khi bài quá khó,  10
  11. không thể làm được. Trong một tiết học chúng ta phải tạo cho tất cả các em  hoạt động dù học sinh yếu hay giỏi bằng nhiều cách để lôi cuốn các em vào  hoạt động học.           Ví dụ: Khi hướng dẫn giải bài toán:            Hình chữ nhật có chiều dài 12cm,chiều rộng 6cm. Hình vuông có cạnh  là 9cm.           a. Tính chu vi mỗi hình. So sánh chu vi hai hình đó.           b. Tính diện tích mỗi hình. So sánh diện tích hai hình đó.            Trước hết tôi cũng hướng dẫn các em phân tích bài toán theo các bước.  Các nhóm đi vào thảo luận để tìm các bước giải. Phần giải bài toán tôi yêu  cầu các em trung bình, yếu dựa vào các quy tắc để giải được ý thứ nhất của  câu a và b, còn học sinh khá, giỏi giải bài toán hoàn chỉnh. Với cách giao việc  như trên nhằm giúp tất cả học sinh đều có thời gian làm bài bằng nhau, học  sinh khá, giỏi đủ thơi gian kèm cặp kiểm tra bạn yếu.           Bên cạnh đó tôi còn tổ chức cho các em các phong trào thi đua học tập  như: “ Xóa điểm yếu”; Phong trào “Đôi bạn cùng tiến”; Phong trào “ Hoa  điểm mười”. hướng dẫn các em thực hiện phong trào “Đi truy về xào” để các  em giúp nhau củng cố bài học. 2.2.5 Biện  pháp 5: Tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi kết quả học  tập của học sinh. Bất kể hoạt động nào cũng cần kiểm tra đánh giá, đây là công việc cần  thiết trong công tác giảng dạy của giáo viên. Các em  ở lứa tuổi này còn ham  chơi, nếu giáo viên không thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở thì các em sẽ  lơ  là trong học tập. Bởi vậy giáo viên cần kiểm tra để  động viên khuyến khích  kịp thời, tạo động lực học tập cho các em. Đồng thời rèn các em có tính siêng  năng, biết phấn đấu vươn lên trong học tập, thấy được những thiếu sót của  mình để sữa chữa, khắc phục. Ví dụ  như  ngoài những bài tập trong chương trình giáo viên có thể  ra   11
  12. thêm một vài bài toán có nhiều cách giải yêu cầu các em tìm ra nhiều cách  giải hay nhằm phát huy tính sáng tạo, tạo niềm say mê hứng thú thêm cho các   em. Ví dụ:  có bài toán  “Một cửa hàng có 950kg gạo. Ngày thứ  nhất bán   116kg gạo, ngày thứ hai bán gấp 3 lần ngày thứ nhất. Hỏi sau hai ngày bán,   cửa hàng còn bao nhiêu ki­lô­gam gạo?”.  Với bài toán như vậy giáo viên hướng dẫn các em hướng dẫn giải  rồi   yêu cầu các em tìm nhiều cách giải khác nhau. * Hướng dẫn các em: ­ Đọc kĩ bài toán: Đọc đề bài xem bài toán cho biết gì? hỏi gì? ­ Lập kế hoạch giải: + Tìm số ki­lô­gam gạo của ngày thứ hai. + Tìm số ki­lô­gam gạo của hai ngày bán. + Tìm số ki­lô­gam gạo còn lại sau hai ngày bán. ­ Sau khi hướng dẫn xong, yêu cầu các em về  nhà giải bằng nhiều  cách. Giáo viên kiểm tra kết quả sau. Cách giải 1:                         Bài giải              Số ki­lô­gam gạo ngày thứ hai bán được: 116 x 3 = 348 (kg)                                   Số ki­lô­gam gạo cả hai ngày bán được: 116+ 348  = 464(kg)                                    Sau hai ngày bán cửa hàng còn lại: 950 ­ 464 = 486(kg) Đáp số: 486 kg gạo 12
  13. Cách giải 2:                   Bài giải                                    Ngày thứ hai bán được số ki­lô=gam gạo:              116 x 3  = 348 (kg) Sau hai ngày bán cửa hàng còn lại số ki­lô­gam gạo:                                                    950 – ( 116 + 348 ) = 486 ( kg) Đáp số: 486 kg gạo Với bài toán trên, đối với những em tiếp thu nhanh thì có thể  tìm ra   nhiều cách giải, Nhưng đối với những em tiếp thu bài còn non, các em giải   được bài toán quả là khó lắm rồi. Vì vậy giáo viên phải thường kiểm tra, theo  dõi để  hướng dẫn thêm cho các em, kịp thời động viên các em tiến bộ, gần   gũi, yêu thương các em, tạo cho các em niềm tin để vươn lên trong học tập. Thường đối với những em tiếp thu chậm khi giải đúng được một bài  toán các em rất phấn khởi, nếu các em được động viên kịp thời sẽ phấn khởi   và tiến bộ rất nhanh. 2.2.6. Biện  pháp 6: Xây dựng mối quan hệ thầy trò bền chặt. Tạo sự gắn kết, tin tưởng của học sinh đối với giáo viên. Tạo cho học  sinh lòng kính trọng, say mê học tập. Để  làm được vấn đề  này giáo viên cần gương mẫu, xử  sự  công bằng   yêu thương, tôn trọng với các em. Giáo viên chuẩn bị  bài chu đáo trước khi   đến lớp. Bằng những giờ dạy nhẹ nhàng, sinh động, hấp dẫn dễ lôi cuốn các   em tích cực tham gia vào hoạt động học tập. Sẵn sàng chia sẽ những giải đáp,  thắc mắc với các em. Xử lý các tình huống nảy sinh trong quá trình dạy học   một cách hợp lý. Biết động viên khích lệ  HS bằng những lời khen ngợi khi   các em có sự  tiến bộ  dù là rất nhỏ  để  học sinh có được tự  tin mà phấn đấu   vươn lên.  Giáo viên phải nắm chắc được mặt yếu, mặt mạnh của từng học sinh,   tạo cho học sinh có điều kiện để  giao lưu với bạn bè, với thầy cô. Khi học   sinh bị hỏng kiến thức ở đâu giáo viên không nóng vội mà cần có kế hoạch ôn   tập bổ sung ở đó. Tôi luôn thực hiện phương châm “Mưa dầm thấm lâu” đối  với những đối tượng học sinh chậm tiến bộ. Cho nên không chỉ  cho các em  13
  14. kết quả bài toán mà chủ  yếu cho các em con đường để  tìm ra kết quả   ­ hay  nói cách khác, dạy cách học, cách suy luận cho các em.         Ví dụ: Cho bài toán:           Để   ốp thêm một mảng tường người ta dùng hết 9 viên gạch men, mỗi   viên gạch hình vuông cạnh 10cm. Hỏi tính diện tích mảng tường được  ốp   thêm là bao nhiêu xăng­ti­mét vuông? * Từ  ví dụ  trên thầy ­ trò cùng thảo luận đưa ra một cách giải chung   cho dạng toán tương tự  như  vậy. Đây là một dạng toán khó trong chương   trình Toán 3. Đa số học sinh nắm bài non, hoặc yếu rất lúng túng. Vì vậy giáo   viên phải dẫn dắt học sinh đi vào tìm từng bước giải một. Trong khi học sinh   luyện tập, tôi luôn theo dõi sát sao và giúp đỡ  kịp thời, chấm bài, chữa ngay  tại lớp và khen ngợi động viên, đặc biệt là các em thiếu mạnh dạn. Một khi  mối quan hệ bền chặt thì niềm tin học sinh sẽ được nâng cao, ý thức tự học  sẽ ngày càng được củng cố, các em sẽ chăm học, trao đổi mạnh dạn với thầy  cô giáo về bài tập mà mình chưa hiểu từ đó thầy mới biết mình cần làm gì để  giúp các em giải toán tốt hơn. 2.2.7. Biện pháp 7: Công tác phối kết hợp giữa giáo viên và phụ  huynh   học sinh. ­ Để  nâng cao chất lượng, giáo viên chủ  động gặp gỡ  và trao đổi tình   hình học tập của con em đến tận từng phụ huynh, giúp họ biết được tình hình   học tập của con em mình để  cùng hợp tác khắc phục. Có thể  giới thiệu với   phụ  huynh phương pháp giáo dục, cách hướng dẫn các em cách học  ở  nhà,   tránh tình trạng bắt các em học quá tải, hoặc xỉ  mắng khi các em chưa làm  được bài tập  gây tổn thương tinh thần cho các em, làm các em thiếu  tự  tin  trong học tập ­ Tế nhị với phụ huynh, tránh những lời chỉ trích con em họ. ­ Cuối học kì, cuối năm học cần có đánh giá tổng kết, thông báo kết  quả tiến bộ của con em họ giúp học sinh cũng có nguồn động viên từ phía gia  đình.  ­ Các em  được thầy cô khen, cha mẹ động viên, khuyến khích thì sẽ có  niềm tin, sẽ có hứng thú hơn. Có như vậy kết quả dạy và học sẽ cao hơn. Ngoài ra giáo viên phải chủ động, tích cực phối kết hợp để nhận được   14
  15. sự hợp tác, ủng hộ của ban lãnh đạo, của tổ, khối chuyên môn. Phải tổ chức   những buổi sinh hoạt chuyên môn để  bàn về  biện pháp khắc phục cách giải  toán. Kết hợp với Hội khuyến học địa phương để  làm tốt công tác kiểm tra  đôn đốc việc học bài ở nhà. Kết hợp với Hội phụ nữ để tuyên truyền cho các  bà mẹ thấy được tầm quan trọng của việc học để họ quan tâm hơn việc học   của con em mình. Có như  vậy mới  phát huy toàn diện tính tích cực của học   sinh trong học tập và mọi hoạt động.           Sau khi áp dụng các biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ  động   của học sinh thông qua giải toán có lời văn lớp 3D.Tôi nhận thấy các em nắm  được yêu cầu  bài toán, biết dùng câu hỏi để  ghi tóm tắt bài toán. Biết phân  tích tổng hợp để tìm ra các bước  giải  bài toán, từ đó chất lượng giải toán đã  được nâng lên rõ rệt. Qua vận dụng các giải pháp trên, tại thời điểm khảo sát   kĩ năng giải toán của lớp tôi  như sau. Kết quả :  Chất  Tóm tắt bài toán Phân tích bài toán Giải bài toán Lớ Số  % Số lượng % Số  % lượng p lượng lượng Giỏi 8 34,8 7 30,4 7 30,4 Khá 9 39,1 11 47,9 11 47,9 3B T.bình 6 26,1 5 21,7 5 21,7 Chưa  0 0  0   0  0 0 đạt Kết quả khảo sát thấy các em tiến bộ rất nhiều. Các em nắm được ba   yếu tố của bài toán. Biết giải các bài toán có lời văn. 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1 Ý nghĩa. 3.1.1. Ý nghĩa: Qua thực hiện đề tài đưa ra các giải pháp đã làm cho  giáo viên nắm chắc hơn phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tư duy  tổng hợp cho học sinh. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên đã phát huy được tính độc lập sáng  tạo, khả năng phân tích nhanh chóng, sử dụng đúng những tri thức, kỹ năng và   vận dụng linh hoạt các phương pháp. Từ  đó có những kinh nghiệm trong   15
  16. chuyên môn và công tác giảng dạy. Về phương pháp dạy học thực sự đổi mới cho học sinh hoạt động học  tập đã tổ  chức cho học sinh tự  làm việc cá nhân và kiểm soát quá trình làm  bài. Tích cực hoá việc học tập của học sinh. Gây hứng thú trong học tập, phát huy lòng say mê học tập cho các em  để các em học tốt môn toán, học tốt các môn khác. 3.2 Kiến nghị, đề xuất. Dạy học là một nghề  cao quý nhất trong các nghề  cao quý. Chính vì  vậy, trong dạy học người giáo viên phải luôn luôn tôn trọng nhân cách của   trẻ, không được gây ức chế cho học sinh. Mỗi giáo viên phải có ý thức chăm  lo bồi dưỡng về mọi mặt nhằm có đủ trình độ năng lực nâng cao chất lượng  dạy và học trong nhà trường. Việc phát huy tư  duy phân tích tổng hợp qua việc giải toán có lời văn   lớp 3 là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Góp phần đổi mới phương  pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Trong tiết dạy giáo viên phải phối  hợp nhiều phương pháp nhằm giúp học sinh tiếp thu bài nhanh, có hiệu quả,   làm cho lớp học sôi nổi giờ học sinh động. Thực hiện tốt mục tiêu giáo dục   dạy chữ  dạy người, dạy nghề nhằm tiến tới một bậc học tốt nhất bậc học   nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Có nhiệm vụ  xây dựng tình cảm,  đạo đức trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất, hình thành cơ sở ban đầu về sự phát triển  toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.   Để thực hiện tốt mục tiêu của giáo dục, một số biện pháp nhằm phát huy  tính tích cực, chủ động của học sinh nâng cao năng lực giải toán có lời văn ở  Tiểu học được sử  dụng có hiệu quả, tôi xin đề  xuất một số  kiến nghị  như  sau: *Đối với giáo viên: ­ Giáo viên phải xây dựng cho học sinh lòng yêu thích học toán, làm cho  học sinh thấy được tầm quan trọng của việc giải toán có lời văn để  phát huy   hơn nữa năng lực tư duy sáng tạo của học sinh. ­ Người  giáo viên phải kiên trì  dạy, không nôn nóng, không nóng vội,   16
  17. không đòi hỏi quá cao ở học sinh mà phải bám vào chuẩn kiến thức của từng   lớp. ­ Bồi dưỡng cho các em phương pháp học toán và tổ  chức tự  học  ở  gia   đình, phối kết hợp với gia đình trong việc học bài và làm bài ở nhà. ­ Tạo hứng thú, niềm say mê, tính tích cực học tập của học sinh cũng là   một trong những nhiệm vụ  cơ  bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và   hiệu quả  học tập trong nhà trường. Tập cho các em có thói quen tóm tắt bài  trước khi giải. Đây là yếu tố giúp học sinh có kỹ năng tìm hiểu đề toán. ­ Không nên cho học sinh “học vẹt” các bài giải mẫu mà cần cho học sinh   nắm chắc chắn phương pháp, cách giải của từng dạng toán.  ­ Cần có biện pháp khen thưởng, trách phạt kịp thời để các em có thái độ  và phương pháp đúng đắn khi học toán. Nhằm khơi gợi được tinh thần, lòng   ham thích học toán  ở  các em. Đồng thời có sự  điều chỉnh kịp thời những sai  sót, vướng mắc khi học toán. * Đối với nhà trường: ­ Nhà trường thường xuyên  tổ  chức các đợt hội thảo, chuyên đề   bồi   dưỡng cho giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học để  giúp phát huy hơn  nữa tính tích cực của học sinh trong học tập ­ Tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, mua sắm đồ dùng nhằm  phục vụ cho việc dạy học của giáo viên được tốt hơn ­ Cung cấp các tài liệu liên quan để  giáo viên có điều kiện nghiên cứu,  trau dồi và nâng cao kiến thức của mình. Tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia các lớp học nâng cao trình độ. Trên đây là một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có  lời văn lớp 3 ở trường Tiểu học mà tôi đã nghiên cứu và áp dụng.  Kính mong  nhận được những ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học các cấp để  đề  tài  được đưa vào thực hiện có hiệu quả cao./. Tôi xin chân thành cảm ơn! 17
  18. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2