intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

16
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm "Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2" nhằm nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2 tại trường; học sinh có kĩ năng đọc tốt, trả lời được các câu hỏi cuối bài và nắm được nội dung các bài đọc có trong chương trình, vận dụng tốt vào thực tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨNH QUỲNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2 Lĩnh vực/ Môn: Tiếng Việt Cấp học : Tiểu học Tên tác giả : Phạm Hồng Hạnh Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh Chức vụ : Tổ trưởng tổ 2 NĂM HỌC: 2022 - 2023
  2. MỤC LỤC PHẦN I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 1 3. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................... 2 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 2 5. Phạm vi và thời gian nghiên cứu ..................................................................... 2 6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 2 PHẦN II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận của đề tài 1.1 Cơ sở ngôn ngữ học ..................................................................................... 3 1.2 Cơ sở tâm, sinh lí.......................................................................................... 4 2. Thực trạng của việc dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2 ở nhà trường 2.1 Đặc điểm nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và nội dung dạy Tiếng Việt đọc nói riêng..................................................................................... 5 2.2 Một số đặc điểm của nhà trường .................................................................. 5 2.3 Những thuận lợi và khó khăn ....................................................................... 7 3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2 3.1 Biện pháp thứ nhất: Nghiên cứu kĩ nội dung, chương trình sách giáo khoa ...... 9 3.2. Biện pháp thứ hai: Chú trọng chất lượng đọc mẫu trong dạy Tiếng Việt đọc .. 11 3.3 Biện pháp thứ ba: Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng .......................... 12 3.4 Biện pháp thứ tư: Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực và một số trò chơi học tập giúp cho học sinh tìm hiểu tốt các bài đọc và luyện tập theo văn bản đọc ............................................................................................................ 14 3.5 Biện pháp thứ năm: Sử dụng hiệu quả thiết bị, đồ dùng dạy học ............ 16 4. Kết quả PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận ..................................................................................................... 21 2. Những kiến nghị đề xuất ............................................................................ 22
  3. 1 PHẦN I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Tiếng Việt đọc là một nội dung học có vị trí quan trọng trong môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Mục tiêu của dạy học Tiếng Việt đọc là hình thành và rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh, bước đầu cho học sinh tiếp xúc với ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ nghệ thuật và hình thành ở học sinh năng lực cảm thụ. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên, trẻ em phải học đọc, sau đó các em phải đọc để học. Đọc không chỉ là sự “đánh vần” theo đúng kí hiệu các chữ viết mà quan trọng hơn, đọc còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc. Chỉ khi biết cách hiểu, hiểu sâu sắc, thấu đáo các văn bản được đọc thì các em mới có công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức khi học các môn học khác. Mặt khác, chính việc biết cách đọc- hiểu văn bản mà học sinh dần dần có khả năng đọc rộng để tự học, tự bồi dưỡng kiến thức về cuộc sống, từ đó hình thành thói quen, hứng thú với việc đọc sách, với việc tự học thường xuyên. Hơn nữa, đọc và hiểu là hai nhiệm vụ trọng yếu của nội dung học Tiếng Việt đọc, chúng luôn song hành và không thể tách rời nhau. Chúng luôn tác động và hỗ trợ qua lại lẫn nhau, có đọc tốt thì mới hiểu đúng và có hiểu đúng thì mới đọc tốt. Kĩ năng đọc cần đạt là: đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và đọc diễn cảm. Đọc một cách có ý thức sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc. Việc dạy đọc sẽ giúp các em hiểu biết hơn, bồi dưỡng các em lòng yêu cái thiện, cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ lôgic, cũng như biết tư duy có hình ảnh. Dạy đọc không chỉ giáo dục tư tưởng đạo đức mà còn giáo dục tính cách, thị hiếu, thẩm mĩ cho học sinh thông qua việc hiểu và nắm bắt tốt nội dung văn bản truyền tải. Qua thực tế nhiều năm giảng dạy ở lớp 2, tôi nhận thấy rằng: việc giúp học sinh có những tiến bộ vượt bậc trong quá trình đọc sẽ mất rất nhiều thời gian và công sức nhưng từ quá trình giúp cho học sinh đã có sự tiến bộ trong quá trình đọc đến quá trình hiểu còn gặp khó khăn hơn rất nhiều. Vậy làm thế nào để học sinh đã đọc tốt rồi mà còn hiểu được văn bản nữa – đó là điều tôi còn băn khoăn, suy nghĩ. Tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2 ” để nghiên cứu, vận dụng và đã đem lại hiệu quả. 2. Mục đích nghiên cứu: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2 ” nhằm đạt được mục đích sau: - Nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2 tại trường
  4. 2 - Học sinh có kĩ năng đọc tốt, trả lời được các câu hỏi cuối bài và nắm được nội dung các bài đọc có trong chương trình, vận dụng tốt vào thực tế. 3. Đối tượng nghiên cứu: - Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu một số vấn đề về cơ sở lí luận dạy và học Tập đọc - Tìm hiểu mục tiêu, nội dung chương trình môn Tiếng Việt lớp 2 nói chung và nội dung Tiếng Việt đọc nói riêng - Thông qua đó đề ra một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2 5. Phạm vi và thời gian nghiên cứu: - Phạm vi nghiên cứu: quá trình dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2, năm học 2022 - 2023 - Thời gian: từ tháng 9/2022 đến tháng 4/2023 6. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu lí luận: + Đọc và phân tích những tài liệu lí luận về các cơ sở phương pháp luận, tâm lí học, giáo dục học, tìm hiểu sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt 2 – tập 1-2, các sách chuyên đề Tiếng Việt 1 – tập 1- 2. + Phương pháp phân tích, tổng hợp - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế dạy học: + Phương pháp quan sát + Phương pháp điều tra - Phương pháp thực nghiệm: + Tổ chức dạy thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của việc vận dụng một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2.
  5. 3 PHẦN II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận của đề tài 1.1 Cơ sở ngôn ngữ học: 1.1.1 Khái niệm đọc: Đọc không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm hai phần chữ viết và phát âm, nghĩa là nó không phải chỉ là sự “đánh vần” lên thành tiếng theo đúng các kí hiệu chữ viết mà còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc. Trên thực tế, nhiều khi khái niệm “đọc” không được hiểu một cách đầy đủ. Nhiều chỗ, người ta chỉ nói đến đọc như nói đến việc sử dụng bộ mã chữ - âm, còn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã không được chú ý đúng mức. Như vậy, đọc là một trong bốn dạng hoạt động ngôn ngữ nhằm chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh. Đọc nhằm giải mã một bộ mã gồm hai bậc: từ chữ sang âm, từ âm sang nghĩa. Nếu không biết đọc, con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Biết đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây, ta biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hóa cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu tư tưởng, tình cảm của người khác. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như dược bồi dưỡng tâm hồn. Hiện nay, biết đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp con người sử dụng các nguồn thông tin, đọc chính là “Học, học nữa, học mãi”, “đọc để tự học, học cả đời”. 1.1.2 Mục tiêu của môn Tiếng Việt theo chương trình giáo dục phổ thông mới 2018: Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học giúp học sinh bước đầu hình thành các năng lực chung, phát triển năng lực ngôn ngữ ở tất cả các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe với mức độ căn bản: đọc đúng, trôi chảy văn bản; hiểu được nội dung, thông tin chính của văn bản; liên hệ, so sánh ngoài văn bản; viết đúng chính tả, ngữ pháp; viết được một số câu, đoạn, bài văn ngắn (chủ yếu là bài văn kể và tả); phát biểu rõ ràng; nghe hiểu ý kiến người nói; phát triển năng lực văn học với yêu cầu phân biệt được thơ và truyện, biết cách đọc thơ và truyện; nhận biết được vẻ đẹp của ngôn từ nghệ thuật; có trí tưởng tượng, hiểu và biết xúc động
  6. 4 trước cái đẹp, cái thiện của con người và thế giới xung quanh được thể hiện trong các văn bản văn học. Thông qua việc dạy học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 1.1.3 Nhiệm vụ của nội dung học Tiếng Việt đọc trong chương trình giáo dục phổ thông mới 2018: Tiếng Việt đọc với tư cách là một nội dung quan trọng của môn Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc” : đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành trong hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác. Vì vậy, trong dạy đọc không thể xem nhẹ yếu tố nào. Không chỉ hình thành năng lực đọc cho học sinh, Tiếng Việt đọc còn giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc với văn bản, làm việc với sách cho học sinh, làm cho sách trở thành một sự tôn sùng ngự trị trong nhà trường, đó là một trong những điều kiện để trường học trở thành trung tâm văn hóa. Nói cách khác, thông qua việc dạy đọc, phải làm cho học sinh thích thú đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có lợi ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. Ngoài ra, vì việc đọc không thể tách rời khỏi những nội dung được đọc nên bên cạnh nhiệm vụ rèn kĩ năng đọc, giáo dục lòng yêu sách, nội dung dạy học Tiếng Việt đọc còn có nhiệm vụ: làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho học sinh; phát triển ngôn ngữ và tư duy cho học sinh; giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thẩm mĩ, thị hiếu cho học sinh. 1.2 Cở sở tâm, sinh lí: Trong dạy học, người giáo viên nắm được đặc điểm tâm lí lứa tuổi của các em có ý nghĩa vô cùng quan trọng để tổ chức dạy học theo một tinh thần dạy học lạc quan, nhấn mạnh vào mặt thành công của trẻ, đảm bảo cho sự thành công cho trẻ ngay từ những ngày đầu đến trường.
  7. 5 Do đặc điểm tâm lí của trẻ lớp 2 vẫn rất ham thích hoạt động, dễ bị chi phối bởi các hoạt động bên ngoài cho nên khi tham gia vào các hoạt động học tập cần phải có động cơ gần thúc đẩy các em trong quá trình học. Người giáo viên phải tạo được hứng thú, kích thích tư duy, sự tò mò, khám phá, tìm kiếm của các em trong mỗi giờ học. Có như vậy, giờ học mới đạt được hiệu quả cao và các em mới lĩnh hội được kiến thức, có được những kĩ năng cần thiết. Điều này đòi hỏi người giáo viên không ngừng thay đổi phương pháp và hình thức tổ chức dạy học giúp các em tập trung sự chú ý, say mê học tập. Trong giờ Tiếng Việt đọc, giáo viên cần tạo cho người học không khí học tập thoải mái, vui vẻ, nhẹ nhàng, không gây áp lực cho học sinh, luôn gần gũi với học sinh để việc dạy và học đều thu được kết quả tốt. 2. Thực trạng của việc dạy học Tiếng Việt đọc theo chương trình giáo dục phổ thông mới cho học sinh lớp 2 ở nhà trường 2.1 Một số đặc điểm của nội dung chương trình môn Tiếng Việt theo chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 nói chung và chương trình dạy Tiếng Việt đọc nói riêng: 2.1.1 Nội dung chương trình môn Tiếng Việt theo chương trình giáo dục phổ thông mới 2018: Nội dung chương trình môn Tiếng Việt tiểu học được sắp xếp để đảm bảo thực hiện được yêu cầu cần đạt của môn học: Đọc đúng, trôi chảy và diễn cảm văn bản; hiểu được nội dung chính của văn bản, chủ yếu là nội dung tường minh; bước đầu hiểu được nội dung hàm ẩn như chủ đề, bài học rút ra từ văn bản đã đọc. Đối với học sinh các lớp đầu cấp (lớp 1, lớp 2), chú trọng cả yêu cầu đọc đúng với tốc độ phù hợp và đọc hiểu nội dung đơn giản của văn bản. Đối với học sinh lớp 3, lớp 4 và lớp 5, chú trọng nhiều hơn đến yêu cầu đọc hiểu nội dung cụ thể, hiểu chủ đề, hiểu bài học rút ra được từ văn bản. Từ lớp 1 đến lớp 3, viết đúng chính tả, từ vựng, ngữ pháp; viết được một số câu, đoạn văn ngắn; ở lớp 4 và lớp 5 bước đầu viết được bài văn ngắn hoàn chỉnh, chủ yếu là bài văn kể, tả và bài giới thiệu đơn giản. Viết được văn bản kể lại những câu chuyện đã đọc, những sự việc đã chứng kiến, tham gia, những câu chuyện do học sinh tưởng tượng; miêu tả những sự vật, hiện tượng quen thuộc; giới thiệu về những sự vật và hoạt động gần gũi với cuộc sống của học sinh. Viết đoạn văn nêu những cảm xúc, suy nghĩ của học sinh khi đọc một câu chuyện, bài thơ, khi chứng kiến một sự việc gợi cho học sinh nhiều cảm xúc; nêu ý kiến về một vấn đề đơn giản trong học tập và đời sống; viết một số kiểu văn bản như: bản tự
  8. 6 thuật, tin nhắn, giấy mời, thời gian biểu, đơn từ,...; bước đầu biết viết theo quy trình; bài viết cần có đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết bài). Trình bày dễ hiểu các ý tưởng và cảm xúc; bước đầu biết sử dụng cử chỉ, điệu bộ thích hợp khi nói; kể lại được một cách rõ ràng câu chuyện đã đọc, đã nghe; biết chia sẻ, trao đổi những cảm xúc, thái độ, suy nghĩ của mình đối với những vấn đề được nói đến; biết thuyết minh về một đối tượng hay quy trình đơn giản. Nghe hiểu với thái độ phù hợp và nắm được nội dung cơ bản; nhận biết được cảm xúc của người nói; biết cách phản hồi những gì đã nghe. Chương trình môn Tiếng Việt lớp 2 nằm trong giai đoạn đầu của chương trình giáo dục phổ thông mới. So với chương trình giáo dục phổ thông 2006, số lượng tiết học môn Tiếng Việt được tăng lên là 10 tiết/tuần, số lượng tiết đọc tăng, không chia phân môn mà chia thành các nội dung học lớn: đọc, viết, nói và nghe, luyện tập. Mỗi nội dung giảng dạy được xây dựng theo phân phối chương trình dạy thực tế tại trường tiểu học mỗi tuần là: 5 tiết đọc, 2 tiết viết, 1 tiết nói và nghe và 2 tiết viết. Các tiết học được sắp xếp phù hợp với đặc điểm của mỗi lớp, dựa trên khung thời khóa biểu chung của tổ, của trường. 2.1.2 Chương trình dạy học Tiếng Việt đọc (đối với lớp 1,2,3 theo chương trình GDPT mới 2018)/ Tập đọc (đối với lớp 4,5 theo CTGDPT 2006): Nằm trong môn Tiếng Việt, nội dung dạy học Tiếng Việt đọc theo chương trình giáo dục phổ thông mới, điểm khác biệt rõ rệt dễ thấy là thời lượng học môn Tiếng Việt ở các lớp 1, 2 , 3 đều tăng. Ở lớp 1, học sinh được làm quen và đọc văn bản ngay ở tuần học thứ 3, với đoạn văn bản ngắn gồm 2 - 3 câu. Từ tuần 27, học sinh lớp 1 được học 7 tiết đọc, gồm: 5 tiết Tiếng Việt đọc và 2 tiết tự đọc sách báo. Ở lớp 2, mỗi tuần có 5 tiết ( 2 bài đọc mỗi bài 2 tiết và 1 tiết đọc mở rộng theo chủ đề). Ở lớp 3, mỗi tuần có 3 tiết đọc với 2 bài đọc và nửa tiết đọc mở rộng theo chủ đề như lớp 2. Lớp 4 và lớp 5 được học 31 tuần không kể 4 tuần ôn tập. Các bài đọc ở các khối lớp đều được phân bố vào từng tuần cùng với các phân môn khác. Các chủ đề văn bản được phân bố theo chủ để. Chương trình Tiếng Việt đọc lớp 2, cụ thể như sau: Ở lớp 2, có 9 chủ đề: Em lớn lên từng ngày, Đi học vui sao, Niềm vui tuổi thơ, Mái ấm gia đình, Vẻ đẹp quanh em, Hành tinh xanh của em, Giao tiếp và kết nối, Con người Việt Nam, Việt Nam quê hương em. Mỗi chủ đề, học sinh được tìm hiểu các bài đọc có nội dung tương ứng. Việc nắm vững nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và chương trình dạy học Tiếng Việt đọc nói riêng có vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu, xây dựng để đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học tập đọc cho học sinh nhằm đạt được hiệu quả cao.
  9. 7 2.2 Một số đặc điểm của trường: 2.2.1 Đặc điểm chung: Trường Tiểu học tôi đang dạy là một trong những trường có số lượng học sinh đông của huyện. Trong năm học này, trường có 2239 học sinh được chia thành 49 lớp, riêng khối 2 có 10 lớp với tổng số 478 học sinh. 2.2.2 Đặc điểm tình hình của lớp 2A1: Lớp 2A1 do tôi chủ nhiệm có 52 học sinh. Các em học sinh chủ yếu là người địa phương, luôn ngoan ngoãn, lễ phép với thầy cô giáo, đoàn kết với bạn bè. Nhiều em rất hiếu động, còn mải chơi, khả năng tự giác chưa cao, nhanh nhớ nhưng cũng rất nhanh quên. Trong lớp, phần lớn cha mẹ các em làm nông nghiệp hay buôn bán nhỏ, do còn bận rộn công việc làm ăn nên cha mẹ các em chưa thật sự quan tâm, đôn đốc, nhắc nhở thường xuyên dẫn tới việc học hành của các em còn chưa có sự chuyển biến tích cực. Đối với môn Tiếng Việt, hằng ngày ngoài việc giao tiếp với thầy cô, các em chủ yếu tiếp xúc với ông bà, cha mẹ, anh chị đều nói tiếng địa phương nhiều. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát âm dẫn tới khi đọc còn đọc ngọng, đọc bị lẫn âm. 2.3 Những thuận lợi và khó khăn: 2.3.1 Thuận lợi: - Về phía nhà trường: Nhà trường đã trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học tạo mọi điều kiện tốt nhất cho việc dạy và học. 100% các lớp học có trang thiết bị dạy học hiện đại giúp cho giáo viên chủ động trong quá trình tìm kiếm tài liệu bài dạy, xây dựng giáo án điện tử, lưu trữ tư liệu dạy học khoa học, hiệu quả. - Về phía giáo viên: Đội ngũ giáo viên của trường đều có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn, thường xuyên được cử đi học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Bản thân tôi cũng được tham gia nhiều lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ do phòng Giáo dục và nhà trường tổ chức. Sau mỗi lần tham gia các lớp học như vậy, bản thân tôi được mở mang nhiều điều, được trao đổi, giao lưu với bạn bè đồng nghiệp nhiều trường trong huyện rất bổ ích. - Về phía học sinh: Đối với học sinh, khi lên lớp 2, các em đã có hành trang từ lớp 1, các em biết đọc, biết viết, bước đầu đọc và tìm hiểu văn bản đọc ở mức độ đơn giản. Đó cũng chính là điều kiện để các em học tiếp nội dung Tiếng Việt đọc ở lớp 2 với mức độ cao hơn. Một số gia đình quan tâm đến việc học tập của con cái, nhắc nhở các em luyện đọc và tìm hiểu trước các câu hỏi của bài đọc nên khi học Tiếng Việt đọc ở lớp 2 với quy trình tuy khác so với lớp 1 nhưng
  10. 8 các em vẫn nắm bắt được. Học sinh lớp tôi đều có đầy đủ sách giáo khoa Tiếng Việt, vở và đồ dùng học tập cần thiết của môn học. 2.3.2 Khó khăn: - Về phía giáo viên: + Một số ít giáo viên chưa linh hoạt, sáng tạo trong quá trình dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh, chỉ chú trọng về mặt hình thức là giảng dạy đầy đủ, không sót kiến thức trong sách giáo khoa mà chưa quan tâm đến phần cốt lõi của nội dung học Tiếng Việt đọc là việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh. Hơn nữa, giáo viên chưa thật sự đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. + Tuy được nhà trường trang bị cho thiết bị, đồ dùng dạy học hiện đại nhưng trong quá trình sử dụng, ứng dụng vào bài dạy, việc thay thế tranh, ảnh trong sách giáo khoa bằng tranh ảnh được giáo viên sưu tầm, chụp lại có nội dung tương ứng, màu sắc đẹp hơn, rõ nét hơn lại chưa được giáo viên mạnh dạn sử dụng. Việc chủ động thay đổi ngữ liệu dạy học của giáo viên cho phù hợp với nội dung bài học còn chưa được mạnh dạn thực hiện. - Về phía học sinh: Học sinh có ý thức tự học chưa cao, còn mải chơi, hiếu động; cha mẹ bận rộn công việc chưa sát sao đến việc học hành của con cái cũng như việc rèn đọc – hiểu cho các em. Qua thực tế tìm hiểu, khảo sát kĩ năng đọc – hiểu của học sinh sau một tháng học, tôi nhận thấy, bên cạnh một số em đọc đúng, đọc hay, trả lời chính xác các câu hỏi thì còn có những học sinh khi đọc còn cần phải đánh vần, đọc chậm, đọc ê a, ngắc ngứ, khi đọc đến dấu chấm, dấu phẩy thì ngắt nghỉ như nhau và chưa trả lời đúng hết các câu hỏi tìm hiểu nội dung bài đọc. Có những học sinh đọc đúng nhưng đọc chưa hay, lại có những học sinh đọc liến thoắng. 2.3.3 Nguyên nhân: - Năm học 2021 - 2022, các em học sinh trải qua 7 tháng học trực tuyến nên việc thực hiện nền nếp học tập khi học trực tiếp chưa thực sự được tốt. - Một số em ngồi học nhưng chưa thật tập trung chú ý nghe giảng, chưa chịu khó luyện đọc, luyện viết, đi học chưa chăm đều. - Phụ huynh chưa có sự kết hợp với nhà trường trong việc nhắc nhở, bảo ban học sinh luyện đọc ở nhà. - Giờ dạy của giáo viên chưa tạo được hứng thú, gây được sự tập trung chú ý cho học sinh. Tất cả những điều trên dẫn đến chất lượng dạy học môn Tiếng Việt nói chung và nội dung Tiếng Việt đọc nói riêng chưa cao.
  11. 9 Kết quả khảo sát qua một tháng đầu dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh, tôi thấy các em còn mắc một số lỗi sau: Tổng số Lỗi Số Tỉ lệ học sinh lượng Đọc còn chậm, đánh vần 02 em 3,8% Đọc ê a, ngắc ngứ 12 em 23,1% Đọc còn sai âm đầu l/n, kh/h 9 em 17,3% 52 em Đọc liến thoắng 5 em 9,6% Đọc đều đều, chưa phù hợp nội dung bài 15 em 28,8% Ngắt nghỉ đúng, phù hợp nội dung bài 9 em 17,3% Nhìn vào bảng, tôi thấy số lượng học sinh đọc còn mắc lỗi chiếm tỉ lệ cao, bên cạnh đó còn có nhiều học sinh gặp khó khăn khi trả lời các câu hỏi tìm hiểu nội dung bài. 3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2 3.1. Biện pháp thứ nhất: Nghiên cứu kĩ nội dung, chương trình sách giáo khoa Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy rằng việc nghiên cứu kĩ nội dung, chương trình sách giáo khoa có vai trò vô cùng quan trọng. Người giáo viên chỉ khi nắm vững được nội dung chương trình mới có thể làm chủ được kiến thức, mới lựa chọn được cho bài dạy của mình hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học và tư liệu hỗ trợ dạy học một cách phù hợp và hiệu quả. Chương trình sách giáo khoa tiếng Việt lớp 2 theo chương trình giáo dục 2018 của Việt Nam nhằm đưa cho học sinh những kiến thức cơ bản về tiếng Việt, từ vựng, ngữ pháp, kỹ năng viết và đọc. Bộ sách gồm 2 tập, tập một gồm 4 chủ đề, tập hai gồm 5 chủ đề. Các chủ đề này rất quen thuộc với học sinh như gia đình, bạn bè, môi trường xung quanh, các loại động vật, trò chơi và câu chuyện. Mỗi chủ đề đều được trình bày một cách sinh động và gần gũi với học sinh thông qua các hoạt động học tập thực tế, ví dụ như nghe và nói, đọc và viết, vận dụng ngôn ngữ vào các hoạt động giải trí. Bên cạnh việc giới thiệu các từ vựng, ngữ pháp và kỹ năng viết và đọc, sách còn đặc biệt chú trọng đến khả năng sáng tạo của học sinh, khuyến khích các em tư duy độc lập và phát triển khả năng sáng tạo thông qua các hoạt động như viết chuyện, thơ, tìm hiểu câu đố và sáng tác tranh. Ngoài ra, chương trình sách giáo khoa tiếng Việt lớp 2 còn đặc biệt quan tâm đến giáo dục đạo đức, giáo dục công dân và giáo dục về môi
  12. 10 trường. Trong các chủ đề, học sinh sẽ được giới thiệu về các giá trị đạo đức và tình yêu thiên nhiên, hướng dẫn cách sống đúng đắn và có ý thức bảo vệ môi trường. Riêng nội dung Tiếng Việt đọc được tiến hành dạy 5 tiết trên tuần, trong đó 2 bài tập đọc được dạy trong 4 tiết và 1 tiết đọc mở rộng theo chủ đề. Quy trình dạy đọc theo chương trình mới có điều chỉnh một vài bước so với chương trình cũ tuy nhiên với quy trình mới đã góp phần phát triển năng lực học sinh, học sinh được chủ động, tích cực luyện đọc và tìm hiểu bài hơn. Người giáo viên cần phải sắp xếp, phân bố thời gian hợp lí trong mỗi tiết dạy để đảm bảo giúp học sinh khám phá hết nội dung kiến thức của bài học, đồng thời giúp đỡ, uốn nắn các em trong quá trình đọc – hiểu bài. Qua quá trình tìm hiểu nội dung sách giáo khoa Tiếng Việt 2, tôi nhận thấy hầu hết các bài đọc đều là các tác phẩm hoặc đoạn trích của những văn bản có giá trị nghệ thuật nhằm cung cấp cho học sinh một kiến thức nhất định. Các bài thơ và văn xuôi đưa vào chương trình không đồng đều: văn xuôi chiếm 60,9 %, tăng 20% so với chương trình cũ, thơ chiếm 36,2%. Nội dung các bài văn xuôi dễ đọc, dễ hiểu và gần gũi với cuộc sống xung quanh của các em. Văn xuôi gồm nhiều loại, nhiều dạng bài như: miêu tả, kể, vừa kể vừa tả hoặc có cả truyện ngắn. Thể loại thơ cũng rất phong phú chủ yếu là thơ 4 chữ, 5 chữ, còn lại là thơ tự do và đồng dao. Những câu chuyện kể, những bài văn xuôi đều hướng tới mục đích giáo dục tính trung thực, đức vị tha, tình yêu lao động, tình đoàn kết, tương trợ bảo vệ của công, đưa dần các em đến với nhận thức về quan hệ giữa các em với nhà trường, thầy cô, bạn bè, ông bà, cha mẹ, rộng hơn là sông núi, trời biển, Tổ quốc, nhân dân, lãnh tụ và xa hơn nữa là kết nối với bạn bè năm châu, khám phá thế giới khoa học kì thú. Từ đó, hình thành dần trong các em ý thức cá nhân giữa cộng đồng, ý thức công dân, lòng tự hào dân tộc. Đó là những bài học về sự tích các loài cây “Sự tích cây thì là”; nguồn gốc các dân tộc anh em “Chuyện quả bầu”; bài học về sự tự tin của bản thân "Em có xinh không?, Cây xấu hổ"; ca ngợi lao động “Tiếng chổi tre”; tự hào về vẻ đẹp quê hương “Đất nước chúng mình, Hồ Gươm”; dạy cho học sinh cách giao tiếp và kết nối qua "Những cách chào độc đáo, Cảm ơn anh hà mã"… Những bài trên đều được rút ra từ kho tàng văn học dân gian hoặc từ các tác phẩm nổi tiếng của các tác giả lớn trên thế giới. Thơ và những bài văn vần đồng dao như là bài “Vè chim” rất hấp dẫn, làm nổi bật tính nết của mỗi loài, vừa hợp với sức đọc do câu ngắn, vừa mang nhịp học mà vui, vui mà học. Các bài thơ được trích dẫn từ những hình ảnh nhạc điệu quen thuộc, thiên về giáo dục đạo đức, tình cảm, yêu quê hương đất nước, gia đình, trường học, làng xóm. Những bài đọc đó rất gần
  13. 11 gũi, gắn bó với cuộc sống xung quanh các em, tạo cho các em có một niềm vui, hứng thú đọc và tìm hiểu bài, giúp các em nâng cao kĩ năng cảm xúc thẩm mĩ, kích thích các em đọc đúng, đọc hay để khám phá cái hay, cái đẹp của văn chương. Kết quả: Qua việc nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa và phân loại các dạng bài đọc giúp tôi xác định được đặc trưng riêng của từng bài để hướng dẫn học sinh đọc tốt, đọc hay và nâng cao chất lượng cảm thụ cho học sinh bằng chính giọng đọc của mình. 3.2 Biện pháp thứ hai: Chú trọng chất lượng đọc mẫu trong dạy Tiếng Việt đọc Dựa vào đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học mà đặc biệt là học sinh lớp 2, các em ở độ tuổi còn nhỏ, rất thích bắt chước và bắt chước rất nhanh nên tôi luôn quan tâm đến việc đọc mẫu cho học sinh, làm thế nào để khi giáo viên đọc mẫu, học sinh chăm chú lắng nghe tức là đã lôi cuốn, hấp dẫn được các em, từ đó có những hướng dẫn tỉ mỉ, cụ thể để các em có thể đọc hay, đọc diễn cảm như vậy. Ví dụ: Bài “ Em có xinh không?”, tuần 3 Nhằm phát huy năng lực của học sinh, giáo viên cho học sinh phát hiện các nhân vật có trong bài đọc, mỗi nhân vật cần thể hiện giọng đọc như thế nào. Giáo viên có thể mời học sinh khá, giỏi đọc. Từ cảm nhận của học sinh, giáo viên sẽ chỉnh sửa, giúp học sinh ra giọng đọc thể hiện đúng lời của nhân vật. Giáo viên đọc mẫu toàn bài, phân biệt giọng của nhân vật: voi anh, voi em, hươu, dê: voi em: hồn nhiên, hươu và dê: giọng thể hiện sự chê bai, voi anh: lúc đầu: trìu mến, yêu thương, lúc sau: ngạc nhiên, đọc cao giọng ở cuối câu " Trời ơi, sao em lại thêm sừng và râu thế này? Xấu lắm!" Bài “Mẹ”, tuần 15 Giáo viên đọc mẫu với giọng nhẹ nhàng, chậm rãi, tình cảm; ngắt đúng nhịp thơ; nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả, gợi cảm: “lặng, mệt, nắng oi, chẳng bằng”... Thông thường, khi đọc thơ lục bát ngắt nhịp 2/4 và 4/4 như hai câu thơ: Lặng rồi/ cả tiếng con ve/ Con ve cũng mệt/ vì hè nắng oi.// song có những trường hợp để thực hiện đúng nội dung câu thơ nên ngắt nhịp 3/3 và 3/5: Những ngôi sao/ thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ/ đã thức vì chúng con.// Bài “Chuyện bốn mùa”, tuần 19 GV đọc mẫu: giọng đọc nhẹ nhàng, đọc phân biệt lời các nhân vật.
  14. 12 Lời của Đông trầm trồ, thán phục: "Chị là người sung sướng nhất. Ai cũng yêu chị. Chị về, cây nào cũng đâm chồi nảy lộc." Giọng Xuân nhẹ nhàng: "Nhưng nhờ có em Hạ, cây trong vườn mới đơm trái ngọt, học sinh mới được nghỉ hè." Giọng Hạ tinh nghịch, nhí nhảnh: "Thế mà thiếu nhi lại thích em Thu nhất. Không có Thu, làm sao có đêm trăng rằm rước đèn, phá cỗ,..." Giọng Đông lặng xuống, vẻ buồn tủi: "Chỉ có em là chẳng ai yêu." Giọng Thu thủ thỉ: "Có em mới có bập bùng bếp lửa nhà sán, mọi người mới có giấc ngủ ấm trong chăn." Giọng Bà Đất vui vẻ, khi nói về mùa xuân thể hiện sự tươi vui, phấn khởi, đầy hi vọng; khi nói về mùa hạ thể hiện sức sống mãnh liệt với trái ngọt, hoa thơm; khi nói về mùa thu thể hiện sự sâu sắc; nhắc đến mùa đông thể hiện sự yên bình, tĩnh lặng mà ấm ủ căng tràn nhựa sống. Bài Tiếng chổi tre, tuần 25 Giáo viên đọc mẫu với giọng chậm rãi, nhẹ nhàng, tình cảm. Hướng dẫn học sinh cần nghỉ hơi ngắn cuối dòng thơ chưa trọn vẹn ý, nghỉ hơi lâu ở cuối dòng thơ đã trọn vẹn ý; nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả, gợi cảm; bước đầu giúp học sinh biết đọc thơ vắt dòng để phân biệt dòng thơ và ý thơ. Kết quả: Giáo viên đọc mẫu một cách chuẩn xác, phù hợp với nội dung từng văn bản, biết hướng dẫn học sinh cách đọc, sử dụng các biện pháp, hình thức tổ chức dạy học thích hợp đã phát huy được tính tích cực của học sinh trong hoạt động rèn kĩ năng đọc. Việc đọc hay, diễn cảm luôn gắn liền với ngữ điệu nên khi đọc mẫu giáo viên kết hợp cả cử chỉ, nét mặt sẽ làm tăng thêm tính gợi cảm của câu thơ, câu văn. Trong quá trình hướng dẫn học sinh đọc, giáo viên tạo cho lớp học không khí thoải mái để học sinh có hứng thú, tạo tâm lí hồi hộp, chờ đợi và chú ý nghe giáo viên đọc nên học sinh chăm chú hơn và hiệu quả học tập tốt hơn. 3.3 Biện pháp thứ ba: Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi; đọc đúng là không đọc thừa, không sót từng âm, vần, tiếng. Đọc đúng phải thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm, không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm việc đọc đúng các âm, thanh, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu). Dựa vào những điều cơ bản về đọc đúng, người giáo viên cần rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm tiếng Việt. Với học sinh lớp tôi, các em còn mắc một số lỗi:
  15. 13 - Sai phụ âm đầu “l/n” (hầu hết các em đọc l thành n) hay đọc “kh” thành “h”. Ví dụ: “lễ phép” đọc là “nễ phép”; “không” đọc là “hông” - Sai vần: ân/ ưn. Ví dụ: “cái cân” đọc là “cái cưn” hay “bàn chân” thì đọc là “bàn chưn” + Hai lỗi này học sinh mắc phải nguyên nhân do cách phát âm của địa phương tạo cho các em thói quen nghe và nói từ khi còn nhỏ. + Để sửa cho học sinh, tôi nhắc các em trước khi đọc các tiếng, các từ có chứa phụ âm đầu “l/n”, “kh”, vần “ân/ ưn” phải quan sát kĩ âm đầu, vần, nhớ lại cách đọc, đọc chậm từng tiếng. Giáo viên phải nắm chắc nghĩa của các từ có phụ âm đầu “l/n” mà học sinh hay đọc ngọng để định hướng lời nói và chữ viết cho các em. Khi học sinh đọc lẫn các tiếng có phụ âm đầu là “l”, giáo viên đọc mẫu, hướng dẫn các em khi đọc đầu lưỡi hơi cong, chạm hàm trên và luồng hơi đi ra bị cản, những tiếng có phụ âm đầu “n”, khi đọc đầu lưỡi thẳng, môi trề và bụng hơi hóp lại. - Trường hợp sai dấu thanh: dấu ngã đọc thành dấu sắc. Ví dụ: “lững thững” đọc là “lứng thứng”. + Với hai học sinh khi đọc còn sai dấu thanh: một em khó đọc do bẩm sinh, một em nói lắp, nói ngắn lưỡi, tôi cho các em nghe cô giáo, nghe các bạn đọc thật nhiều sau đó cho các em đọc lại. Kết hợp với gia đình, rèn đọc kết hợp luyện đọc các tiếng, từ có chứa dấu thanh hay đọc sai để sửa dần cho các em. - Ngoài ra, khi đọc, các em ngắt nghỉ chưa đúng. Ví dụ: Bài Em học vẽ, tuần 7 Có học sinh ngắt nhịp: Vẽ biển/cả trong lành// Cách ngắt nhịp ở câu thơ này như vậy là sai mà phải ngắt là: Vẽ biển cả/ trong lành, kết hợp với nhấn giọng ở từ "trong lành" để nói lên đặc điểm của biển rất sạch và đẹp. Như vậy, cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, các từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc, không được tách một từ ra làm hai và không tách từ chỉ loại với danh từ mà nó đi kèm. Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: nghỉ hơi ít ở dấu phẩy, nghỉ hơi lâu hơn ở dấu chấm. Kết quả: Việc luyện đọc đúng được giáo viên thực hiện thường xuyên trong các giờ dạy Tiếng Việt đọc giúp cho học sinh sửa được những lỗi sai thường gặp khi đọc và dần dần có kĩ năng đọc tốt hơn. Đây là một biện pháp đem lại hiệu quả cao trong giờ dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2.
  16. 14 3.4 Biện pháp thứ tư: Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực và một số trò chơi học tập giúp cho học sinh tìm hiểu tốt các bài đọc và luyện tập theo văn bản đọc Quá trình dạy học Tiếng Việt nói chung và dạy học Tiếng Việt đọc nói riêng là một quá trình bền bỉ, lâu dài. Rèn cho học sinh kĩ năng đọc không chỉ rèn trong một giờ Tiếng Việt đọc mà kĩ năng này phải được rèn nhiều trong tất cả các môn học, các giờ học. Trong thực tế dạy học, việc dạy học đọc cần có sự phối hợp chặt chẽ của các phương pháp dạy học bởi vì không có phương pháp nào là vạn năng. Điều quan trọng là phải nắm vững các điều kiện cụ thể của dạy học Tiếng Việt đọc để lựa chọn phương pháp cho phù hợp. Các yếu tố liên quan trực tiếp đến việc lựa chọn phương pháp là nhiệm vụ, nội dung dạy học tập đọc, khả năng của học sinh và trình độ của giáo viên, điều kiện vật chất của trường lớp và các phương tiện dạy học. Các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học (theo lớp, theo nhóm, học cá nhân) cần được vận dụng một cách linh hoạt trong mỗi bài học nhằm khơi dậy hứng thú của học sinh, mang lại hiệu quả tích cực. Không nên tuyệt đối hóa, cô lập hóa một hình thức tổ chức dạy học nào. Mỗi bài đọc theo chương trình mới luôn gồm có ba phần lớn đó là: luyện đọc, tìm hiểu bài (trả lời câu hỏi) và luyện tập theo văn bản đọc. Thông thường, trong quá trình giảng dạy, bản thân tôi bám sát theo quy trình, sau khi học sinh luyện đọc mới tìm hiểu bài rồi thực hành luyện tập theo văn bản đọc. Dưới mỗi bài đọc có sẵn hệ thống câu hỏi để giúp học sinh tìm hiểu nội dung bài học. Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng trả lời được hết những câu hỏi đó bởi vì trình độ, năng lực mỗi học sinh không giống nhau và mức độ của các câu hỏi cũng khác nhau: có câu hỏi tái hiện nhưng cũng có câu hỏi đòi hỏi học sinh phải tư duy, phải liên hệ thực tế mới có thể trả lời được. Để giúp học sinh có thể giải quyết được khó khăn này tôi đã vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong quá trình cho học sinh tìm hiểu bài và thực hành luyện tập theo văn bản đọc như sau: Bài Em có xinh không?, tuần 3 với câu hỏi 4 "Em học được điều gì từ câu chuyện của voi em?" tôi cho học sinh thực hiện trao đổi trong nhóm bàn gồm 2 học sinh. Thảo luận nhóm giúp học sinh trao đổi ý kiến về nội dung được đề cập đến, khuyến khích học sinh thể hiện ý kiến của mình, đưa ra những quan điểm khác nhau, học hỏi kĩ năng diễn đạt từ bạn bè, phát triển kĩ năng giao tiếp cũng như kĩ năng phân tích và suy luận, cũng như khả năng tư duy độc lập. Bài Cây xấu hổ, tuần 4 với câu hỏi 3 " Cây xấu hổ nuối tiếc điều gì?" tôi cho học sinh thực hiện Cây dự án. Vấn đề được đưa ra là điều mà cây xấu hổ
  17. 15 nuối tiếc - không nhìn thấy con chim xanh xinh đẹp, học sinh sẽ điền nội dung vấn đề vào thân cây, rễ cây sẽ viết những nguyên nhân dẫn đến việc cây xấu hổ không nhìn thấy con chim xanh: do nhút nhát, do xấu hổ, do sợ hãi với điều mới lạ xuất hiện nên cây xấu hổ đã nhắm mắt lại và trên mỗi cành cây sẽ là một điều mà cây xấu hổ không biết được do không nhìn thấy con chim xanh - ví dụ như: không biết được bộ lông của con chim xanh lộng lẫy đến thế nào, con chim xanh đẹp ra sao, không biết gì về con chim này để chia sẻ với người khác... Từ đó, liên hệ với học sinh và rút ra cho học sinh, để không có điều nuối tiếc như cây xấu hổ em nên làm gì? (mạnh dạn, tự tin, dám thử sức mình để khám phá ra những điều mới mẻ). Bài Lũy tre, tuần 22, phần luyện tập theo văn bản đọc câu 2 " Tìm thêm những từ ngữ chỉ thời gian mà em biết", giáo viên chọn 2 đội tham gia chơi trò chơi Ai nhanh - Ai đúng. Trong 3 phút, đội nào viết được nhiều từ chỉ thời gian hơn và đúng thì đội đó sẽ thắng. Trò chơi này tạo ra sự tương tác giữa các học sinh, giúp các em phát triển kĩ năng giao tiếp và hợp tác, nâng cao khả năng tư duy và giải quyết vấn đề khi học sinh phải suy nghĩ nhanh và đưa ra câu trả lời chính xác trong thời gian ngắn. Trò chơi tạo ra môi trường học tập thú vị và là động lực học tập cho học sinh giúp các em nâng cao hiệu quả tiếp nhận kiến thức.
  18. 16 Bài Cỏ non cười rồi, tuần 25, câu hỏi 1 " Nói tiếp câu tả mùa xuân trong công viên" tôi cho học sinh tham gia chơi trò chơi Xì điện. Giáo viên là người xì đầu tiên, học sinh thứ nhất sau khi nghe giáo viên nói "Cỏ" và được gọi tên thì sẽ nói tiếp "bừng tỉnh sau giấc ngủ đông", học sinh thứ hai sau khi nói xong sẽ xì tiếp học sinh tiếp theo rồi trả lời, cứ như vậy hết 3 câu trong nội dung câu hỏi 1 này. Với trò chơi Xì điện tạo cảm giác hứng thú và thúc đẩy tinh thần học tập của học sinh, lớp học vui vẻ và thú vị hơn, giúp học sinh tập trung và tham gia tích cực hơn trong tiết học. Bài Tạm biệt cánh cam, tuần 26, với câu hỏi 3 " Nếu là Bống, em có thả cánh cam đi không? Vì sao?" , ý hỏi thứ hai " Vì sao?" tôi sẽ sử dụng phương pháp động não. Học sinh đưa ra quyết định của mình ở ý hỏi thứ nhất và sẽ vận dụng sự hiểu biết của mình để đưa ra lí do trả lời cho ý hỏi thứ hai. Tùy thuộc vào sự trải nghiệm thực tế và hiểu biết cá nhân, mỗi học sinh sẽ có một lí do riêng để giải thích cho quyết định của mình. Người giáo viên không đánh giá một cách tường minh ý kiến của học sinh là đúng hay sai ở câu hỏi này mà sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn nếu đưa ra quyết định này thì điều gì xảy ra, nếu đưa ra quyết định kia thì điều gì xảy ra và nên quyết định thế nào tốt hơn. Giáo viên hướng học sinh vào nội dung bài học, giáo dục học sinh: các loài động vật nên được sống trong môi trường phù hợp với chúng. Chỉ có ở trong môi trường phù hợp, chúng mới sinh sống thoải mái và khỏe mạnh. Kết quả: Việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực và trò chơi học tập đã đem lại hiệu quả tích cực. Nhờ đó, học sinh nắm được nội dung bài học dễ dàng hơn, nhớ lâu hơn, hứng thú hơn khi mỗi câu hỏi đưa ra kích thích tư duy của các em, phù hợp với năng lực, khả năng nhận thức của các em. Tôi tin rằng với sự cần mẫn của mình, mỗi bài học được người giáo viên nghiên cứu kĩ càng, có sự thay đổi linh hoạt, sáng tạo trong các tuần học, các bài học sẽ tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em say mê học tập, chiếm lĩnh kiến thức. 3.5 Biện pháp thứ năm: Sử dụng hiệu quả thiết bị, đồ dùng dạy học 3.5.1 Sử dụng tranh ảnh trong các bài đọc: Trong quá trình dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh, tôi sử dụng tối đa các tranh ảnh minh họa cho bài đọc để giới thiệu bài, cho học sinh dựa vào đó để tìm hiểu bài. Ví dụ: Khi dạy bài đọc Tiếng chổi tre, tôi đưa ra bức tranh, cho học sinh quan sát:
  19. 17 Tôi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm và cho biết 2 bức tranh có gì khác nhau? Học sinh thảo luận nhóm trong giờ Tiếng Việt đọc Đại diện nhóm trả lời: “Hai bức tranh có sự khác nhau: bức tranh thứ nhất vẽ cảnh ban đêm, có đèn đường, có ánh trăng, con đường đang được quét rác; bức tranh thứ hai vẽ cảnh ban ngày, đường phố đã sạch đẹp, ngăn nắp. Trong tranh thứ nhất có hình ảnh chị lao công đang quét rác, tranh thứ hai chị
  20. 18 lao công không xuất hiện nhưng người ta vẫn có thể thấy được nhờ có chị mà đường phố trở nên sạch đẹp.” Từ câu trả lời của học sinh, tôi sẽ kết nối và giới thiệu cho các em nhân vật chính của bài đọc hôm nay - chị lao công. Với hình ảnh trực quan so sánh rõ nét giúp giáo viên tạo hứng thú cho học sinh khi bước vào bài học mới. Ví dụ: Khi dạy bài Niềm vui của Bi và Bống, tôi cho học sinh quan sát tranh: Tôi hỏi học sinh: Bức tranh vẽ những gì? Em hãy đoán xem hai bạn nhỏ nói gì với nhau? Học sinh trả lời: Các bạn nhỏ đang xem cầu vồng. Hai anh em đang nói cho nhau nghe về những điều may mắn sẽ đến khi nhìn thấy cầu vồng. Việc kết hợp trực quan hình ảnh với câu hỏi gợi mở nêu vấn đề liên quan đến nội dung bài học, học sinh của tôi rất thích thú và rất tập trung để chuẩn bị học bài mới, không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng. Kết quả: Bằng sự kết hợp giữa phương pháp dạy học trực quan với phương pháp hỏi đáp, gợi mở, kết hợp sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học, hình thức tổ chức dạy học theo nhóm, tôi đã dẫn dắt học sinh bước đầu khám phá bài học mới, tạo được sự tập trung chú ý và gây được sự hứng khởi, thích thú cho các em chuẩn bị tốt cho các hoạt động tiếp theo trong tiến trình dạy học Tiếng Việt đọc. 3.5.2 Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Tiếng Việt đọc: Trong quá trình dạy học, việc sử dụng các phương pháp dạy học luôn đòi hỏi có sự đổi mới. Cùng với sự bùng nổ của thời đại công nghệ thông tin, khoa học kĩ thuật hiện đại thì ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Tiếng Việt đọc cho học sinh lớp 2 là rất cần thiết và hiệu quả bởi vì tạo điều kiện cho giáo
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2