Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục phẩm chất cho học sinh lớp 4
lượt xem 6
download
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học được hoàn thành với một số biện pháp như: Xây dựng tốt kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp; Giáo dục phẩm chất cho học sinh thông qua quá trình dạy học; Giáo dục phẩm chất cho học sinh thông qua công tác phối hợp “gia đình – nhà trường – xã hội”; Giáo dục phẩm chất cho học sinh thông qua các hoạt động Đội trong và ngoài nhà trường;...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục phẩm chất cho học sinh lớp 4
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC PHẨM CHẤT CHO HỌC SINH LỚP 4 1
- Quảng Bình, tháng 2 năm 2017 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC PHẨM CHẤT CHO HỌC SINH LỚP 4 Họ và tên: Nguyễn Thùy Nhung Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Mai Thủy 2
- Quảng Bình, tháng 2 năm 2017 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Thời đại CNH – HĐH đòi hỏi con người cần có tri thức và kĩ năng thực hành. Theo định hướng đó thì bậc tiểu học là nền tảng. Mục tiêu giáo dục tiểu học nhằm giúp cho học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẫm mĩ và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở. Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh và cung cấp cho các em những tri thức cần thiết. Nền tảng nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản của học sinh được hình thành ở tiểu học và được sử dụng trong suốt cuộc đời của mỗi con người. Học sinh tiểu học được dạy từ những thói quen nhỏ nhất như cách cầm bút, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các kĩ năng phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng học tập và khả năng tự học, sáng tạo. Giáo dục tiểu học chính là nền tảng của giáo dục phổ thông, đặt cơ sở vững chắc cho sự hình thành nhân cách và sự phát triển toàn diện con người. Thành quả của GDTH có giá trị lâu dài, có tính quyết định, vì thế làm tốt GDTH là đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. 3
- Luật giáo dục năm 2005 (sửa đổi bổ sung 2009) đã nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân đáp ứng với yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy, giáo dục giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Từ xưa ông cha ta đã từng dạy “Tiên học lễ, hậu học văn”. Điều đó muốn nhấn mạnh rằng trước khi học văn hóa, con người cần phải có đạo đức. Hồ Chủ Tịch đã từng nói: “Dạy cũng như học phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức, là cái gốc quan trọng, nếu không có đạo đức thì tài cũng vô dụng”. Bởi vậy có thể nói đạo đức đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của con người. Xã hội càng phát triển đòi hỏi con người càng phải hoàn thiện, một con người hoàn thiện về nhân cách là con người không chỉ có tài mà cần phải có cả đức. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Câu nói ấy của Bác vô cùng thấm thía trong lòng mỗi thầy, cô giáo chúng ta. Đức và tài gắn chặt nhau, vì có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức thì vô dụng, thậm chí còn có hại. Giữa đức và tài thì đức là gốc, trong đức có tài và trong tài có đức, tài càng cao thì đức càng lớn. Con người phải có tài và đức thì mới làm tròn nhiệm vụ. Tuy nhiên, nhân cách của con người muốn được xây dựng và phát triển cần bắt đầu ngay từ khi mới sinh ra và đặc biệt là trong giai đoạn ngồi trên ghế nhà trường chứ không phải chỉ trong một sớm một chiều. Có thể nói, việc hình thành và phát triển các phẩm chất đạo đức, tri thức cho thế hệ trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, đây cũng là một trong những nhiệm vụ của nhà trường nói riêng, của ngành giáo dục nói chung cần phải thực hiện. Giáo dục phẩm chất cho học sinh Tiểu học là một mặt của hoạt động giáo dục theo thông tư 22 chính là giáo dục các em biết chăm học, chăm làm; tự tin, trách 4
- nhiệm; trung thực, kỉ luật; đoàn kết, yêu thương. Qua đó góp phần hình thành cho trẻ những tính cách nhất định và bồi dưỡng cho các em những quy tắc hành vi thể hiện trong thái độ với bạn bè, gia đình, người khác và đối với Nhà nước, Tổ quốc . Đạo đức của con người mới xã hội chủ nghĩa không chỉ là thành phần quan trọng về cơ bản của giáo dục mà là mục đích của toàn bộ công tác giáo dục thế hệ trẻ. Trong giáo dục không những có kiến thức mà phải có đạo đức. Vì vậy công tác giáo dục trước tiên phải đặt chăm lo bồi dưỡng đạo đức cho học sinh, coi đó là cái căn bản, cái gốc cho sự phát triển nhân cách. Để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh thì ngoài việc học tập rèn luyện kiến thức ở lớp, học sinh còn phải tu dưỡng và rèn luyện về đạo đức, kỹ năng sống, kỹ năng hòa nhập và ứng xử trong cuộc sống. Tuy nhiên, ngày nay cùng với sự phát triển của quá trình CNH HĐH thì những tác động và ảnh hưởng của mặt trái kinh tế thị trường càng gia tăng. Kéo theo đó là những tệ nạn xã hội, sự xuống dốc cực kì nghiêm trọng về mặt nhân cách của con người. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, hiện tượng học sinh vô lễ với thầy cô giáo, con cái không vâng lời ông bà, cha mẹ; thậm chí còn có những trường hợp sát hại cả người thân để có tiền ăn chơi phung phí. Hay tình trạng học sinh quay cóp, gian lận trong thi cử; không chấp hành các quy định trường, lớp; chưa biết nhận lỗi và sửa lỗi... Đó là những vấn đề nhức nhối đang được cả xã hội quan tâm. Vậy nguyên nhân nào khiến những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ngày càng bị mai một và đâu là giải pháp ngăn chặn sự tha hóa về mặt nhân cách của con người, đặc biệt là thế hệ trẻ? Để trả lời và giải đáp được những câu hỏi đó cần có sự chung tay góp sức của toàn xã hội. Trong đó nhà trường cũng có một phần trách nhiệm vô cùng quan trọng. Đó là lí do tôi mạnh dạn đưa ra đề tài: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục phẩm chất cho học sinh lớp 4”. 1.2. Phạm vi áp dụng đề tài 5
- Đề tài được nghiên cứu thực nghiệm tại lớp 4C áp dụng theo mô hình dạy học VNEN ở Trường Tiểu học nơi tôi công tác. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng sự hình thành và phát triển phẩm chất của học sinh trong trường tiểu học a. Thuận lợi Trong suốt khoảng thời gian gần 5 năm giảng dạy tôi may mắn được làm giáo viên chủ nhiệm lớp. Đó là cơ hội và cũng là điều kiện hết sức thuận lợi để tôi được theo sát học sinh. Từ đó nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lí cũng như phẩm chất và nhân cách của các em. Bên cạnh những hành động quậy phá, nghịch ngợm tôi bắt gặp những tâm hồn ngây thơ, trong sáng. Đôi khi đó chính là lí do để ta có thể thông cảm, thấu hiểu và tha thứ cho những lời nói và hành động bồng bột do suy nghĩ chưa thấu đáo của con trẻ hơn là sự trách mắng. Bên cạnh đó, do đặc thù nghề nghiệp, tôi đã quen dần với việc hằng ngày phải quản lí cả một “đội quân” trên dưới 30 em. Nhiều lúc phụ huynh cũng cảm thông chia sẻ và khen sức chịu đựng của các cô. Thế nhưng đặc thù nghề nghiệp của mình là như vậy nên đôi khi chúng tôi những người làm nghề giáo cũng tự an ủi và cảm thấy khâm phục sức chịu đựng của mình trước sự nghịch ngợm của “lũ quỷ học trò”. Và nhiều lúc chúng ta cũng phải tự đặt cho mình câu hỏi rằng đó liệu đã phải là những việc làm sai trái, những hành động vô văn hóa hay chưa? Hay đó đơn thuần chỉ là sự vô tư của tuổi học trò? Một thuận lợi nữa cũng phải kể đến là tôi may mắn được công tác tại một ngôi trường vốn nổi tiếng về truyền thống hiếu học. Bởi v ậy h ọc sinh n ơi đây đa số là chăm ngoan, ham học. Phụ huynh cũng rất chăm lo đến việc học của con em và Ban đại diện cha mẹ học sinh lúc nào cũng quan tâm sâu sát và hỗ trợ kịp thời. Chính vì vậy các em có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và nhân cách. Ủy ban nhân dân xã cùng với các cấp học khác trên 6
- địa bàn cũng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau nên đã phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành động sai trái, những tệ nạn xã hội tránh để xảy ra hậu quả và sai lầm đáng tiếc. Bắt đầu từ năm hoc 2015 – 2016 trường chúng tôi mở rộng mô hình VNEN toàn phần. Cùng với đó là sự đổi mới về nội dung và phương pháp giảng dạy. Trong đó chú trọng nhất là việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Chính vì vậy đây là cơ hội giúp các em tự tin, mạnh dạn, năng động hơn trong giao tiếp, học tập đồng thời đây cũng chính là cơ hội để các em tự rèn luyện và chứng tỏ khả năng của mình. Trong những năm qua đơn vị không có học sinh nào vi phạm đạo đức, đánh giá mức độ hình thành và phát triển phẩm chất của học sinh: 100% đạt. b. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi, là giáo viên chủ nhiệm, tôi cũng gặp không ít khó khăn trong khâu rèn luyện phẩm chất và giáo dục học sinh phát triển toàn diện về cả đức – trí – thể – mĩ. Là một trường đóng trên địa bàn nông thôn nên học sinh nơi đây đa số là con nhà nông hay buôn bán, đi làm ăn xa nên phụ huynh ít có điều kiện gần gũi, chăm sóc con cái. Nhiều em sống với ông bà, vì tuổi cao sức yếu nên việc quan tâm đến con cháu còn nhiều hạn chế. Do đó công tác giáo dục văn hóa, đạo đức cho học sinh hầu như “khoán trắng” cho nhà trường. Vì vậy, các biểu hiện của sự thiếu văn hóa vẫn còn xảy ra. Cụ thể: Nghỉ học không có lí do. Xả giấy rác bừa bãi. Chưa có ý thức giữ gìn và bảo vệ môi trường, bảo vệ của công. Không chấp hành nội quy lớp học. Chưa biết sắp xếp thời gian học tập; không làm việc theo yêu cầu của giáo viên. Chưa biết nhận lỗi khi làm sai. Thậm chí còn đổ lỗi cho người khác. 7
- Chưa biết tôn trọng lời hứa và giữ đúng lời hứa; chưa có ý thức sữa chữa sai lầm, dễ tái phạm. Hiện tượng học sinh vô lễ với thầy cô giáo và người lớn tuổi; cư xử thô lỗ với bạn bè; chưa biết nhường nhịn em nhỏ. Vẫn còn hiện tượng học sinh ghen ghét, tị nạnh với bạn; chưa biết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Học sinh về nhà không vâng lời ông bà, bố mẹ; thậm chí cãi ngang, vô lễ. Học sinh nói dối, ăn cắp vặt... Phụ huynh nhiều khi quá nuông chiều và tin tưởng con em mà đánh giá sai giáo viên dẫn đến tình trạng học sinh coi thường thầy cô giáo. Một số tệ nạn học đường còn diễn ra: học sinh đánh nhau, chia bè phái, chơi điện tử, trộm cắp… Ông bà ta đã từng dạy rằng “Dạy con từ thuở còn thơ”. Không bao giờ là quá muộn để giáo dục học sinh, đặc biệt là học sinh tiểu học. Theo “Những nguyên tắc trong rèn luyện đạo đức” thì nguyên tắc thứ nhất là “Muốn có đạo đức trước hết nói phải đi đôi với làm và luôn nêu gương về đạo đức”. Điều quan trọng nhất là chúng ta thẳng thắn chỉ ra sai lầm, khuyết điểm, dám nghĩ, dám làm. Qua nhiều năm giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm lớp 4 tôi nhận thấy rằng mặc dù đã là anh chị của học sinh các lớp 1, 2, 3 nhưng kĩ năng giao tiếp của các em còn hạn chế. Nhiều em tỏ ra nhút nhát, lúng túng khi trả lời câu hỏi, thậm chí là nói trống không. Trong cư xử với bạn bè bao giờ cũng có câu cửa miệng là nói tục, chửi thề… Theo phản ánh của phụ huynh nhiều em về nhà còn cãi lời cha mẹ, nói dối để không làm bài tập, đi chơi… Cụ thể như sau: Khảo sát các biểu hiện phẩm chất của học sinh đầu năm học (kiểm tra lại dòng chữ đỏ theo TT30 chưa ) 8
- Tự tin, Chăm học, Trung thực, Đoàn kết, trách chăm làm kỉ luật yêu thương Năm học Sĩ số nhiệm Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ SL SL SL SL % % % % Đầu năm học 26 19 73.1 17 65.4 18 69.2 20 76.9 2016 2017 c. Nguyên nhân * Nguyên nhân khách quan Nguyên nhân về phía gia đình Phải nói rằng thời gian mà các em sống với gia đình là khoảng thời gian dài nhất. Chính vì thế môi trường sống của gia đình có ảnh hưởng rất lớn đối với sự hình thành và phát triển phẩm chất cho các em. Những thái độ, hành vi, cách cư xử trong gia đình sẽ hình thành cho các em nền móng để các em tiếp xúc ngoài xã hội. Tuy nhiên hiện nay do mặt trái của sự phát triển của nến kinh tế thị trường, tình trạng cha mẹ mải lo kiếm tiền, không quan tâm đến con cái; cuộc sống gia đình không hạnh phúc, bạo hành gia đình… đã dẫn đến những hệ lụy vô cùng nghiêm trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của con trẻ. Những em thiếu may mắn sinh ra trong gia đình cha mẹ bất hoà, cách cư xử của cha mẹ thô bạo, rượu chè bê bết... đã tạo cho các em một ấn tượng không tốt. Nó ít nhiều có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các em. Điều đó có thể dẫn đến tình trạng học sinh trở nên lầm lì ít nói, dễ nổi nóng cáu gắt, tính tình thô bạo. Thậm chí có em còn ngại giao tiếp, sống khép kín… Có em còn ảnh hưởng những thói quen không tốt đó cũng có những hành vi cử xử không tốt với mọi người. Một số cha mẹ học sinh thiếu gương mẫu, ông bà cha mẹ, chửi mắng lẫn nhau, một số gia đình còn khoán trắng bỏ mặc cho nhà trường và xã hội, thậm chí còn nuông chiều con cái quá mức, dẫn đến một số học sinh vô lễ với người trên, nhiều em không vâng lời ông bà, bố mẹ, lười lao động lười học, trộm cắp … Trong giao tiếp nói 9
- năng thô lỗ, cục cằn. Bên cạnh đó, một số cha mẹ chưa quan tâm đến việc lựa chọn môi trường, chọn bạn cho con chơi. Do đó, các em dễ bị rủ rê, sa ngã vào các thói hư tật xấu. Chính những điều đó dần hình thành nên tính cách xấu, những hành động không có văn hóa trong chính bản thân các em mà các em không hề hay biết và không nhận thức được tác hại của nó. Nguyên nhân về phía nhà trường Trường học chính là ngôi nhà thứ hai, giáo viên chính là người mẹ hiền thứ hai của các em. Môi trường giáo dục tốt sẽ giúp các em có điều kiện phát triển toàn diện về mọi mặt. Nhưng để đạt được đúng như điều vừa nêu cũng không phải là dễ. Thực tế cho thấy học sinh hiện nay rất nhạy cảm, rất dễ thích ứng với các hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội như: hiện tượng nói tục, các hành vi thiếu văn hoá vẫn còn. Đặc biệt một số học sinh không biết áp dụng kiến thức đã học vào thực tế. Chẳng hạn học sinh vừa được học bài “Lễ phép vâng lời thầy cô giáo’’ nhưng lại chỉ chào hỏi thầy cô giáo dạy mình hoặc không biết cảm ơn, xin lỗi khi được người khác giúp hay làm điều gì đó không phải. Đâu đó còn có những thầy cô giáo chưa nhiệt tình, chưa thật sự yêu nghề mến trẻ, chưa có tâm huyết với sự nghiệp giáo. Cũng có một vài thầy cô giáo đôi khi không làm chủ được hành vi, dễ nổi nóng, quát nạt, la mắng, thậm chí xúc phạm nhân cách học sinh. Do cách cư xử chưa phù hợp nên đâu đó dễ khiến học sinh bị tổn thương, thậm chí có trường hợp giáo viên còn trở thành những “gương điển hình” về cách ứng xử cho học sinh noi theo. Một số giáo viên do quỹ thời gian eo hẹp nên chưa quan tâm đúng mức trong việc phát hiện những hành vi sai trái và kịp thời uốn nắn cho học sinh. Việc kết hợp, lồng ghép, liên hệ trong giảng dạy giữa các phân môn nhằm nâng cao nhận thức và rèn luyện phẩm chất cho học sinh còn lúng túng và hạn chế. Bên cạnh đó, một số trường do điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn thiếu thốn, kinh phí hạn hẹp nên ở trong các giờ học thì giáo viên ít có điều kiện tổ chức các trò chơi học tập, nhà trường không thường xuyên cho các em tham gia các buổi sinh hoạt ngoại khoá. Việc rèn luyện nề nếp cho học sinh chưa thực sự được quan tâm. 10
- Ngoài ra thì một số giáo viên nhận thức chưa đầy đủ nên còn chỉ tập trung vào giáo dục Toán, Tiếng Việt chứ chưa chú trọng rèn luyện phẩm chất cho các em. Nguyên nhân về phía môi trường xã hội Ngoài môi trường gia đình và nhà trường, sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh còn phụ thuộc rất lớn vào môi trường xã hội. Hiện nay do sự phát triển kinh tế xã hội, sự phát triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự du nhập của nhiều loại hình văn hoá khác nhau đã ảnh hưởng không ít đến tầng lớp thanh thiếu niên. Hiện tượng học sinh nghiện Net, nghiện game... là chuyện thường ngày, có cả em hết tiền nảy sinh hành vi trộm cắp. Nổi trội hiện nay là tình trạng sử dụng facebook để làm quen, kết bạn và nảy sinh tình cảm yêu đương quá sớm… Do còn quá non dại nên các em dễ bị rủ rê, lôi kéo vào các tệ nạn xã hội, gây nên những hệ lụy nghiêm trọng về nhân cách và đạo đức lối sống của tuổi học trò. * Nguyên nhân chủ quan về nhận thức của các em Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, lứa tuổi mà nhiều người cho rằng "Ăn chưa no, lo chưa đến", suy nghĩ còn non nớt, nhận thức chưa cao chính vì thế các em có những hành vi thiếu chuẩn xác là điều không thể tránh khỏi. Thêm vào đó, do suy nghĩ chưa thấu đáo, khi phạm phải sai lầm các em chưa biết lắng nghe, tiếp thu và sửa chữa để tiến bộ. Chính tư tưởng bảo thủ, cố chấp, luôn cho rằng người lớn áp đặt mình đã khiến các em khó sửa sai và tiến bộ. 2.2. Một số biện pháp giáo dục phẩm chất cho học sinh tiểu học Theo điểm b, khoản 2, điều 5, TT 22/2016/TTBGDĐT ban hành ngày 22 tháng 9 năm 2016 quy định: Đánh giá sự hình thành và phát triển phẩm chất của học sinh: Chăm học, chăm làm; Tự tin, trách nhiệm; Trung thực, kỉ luật; Đoàn kết, yêu thương. 11
- Thông qua các biểu hiện về sự hình thành và phát triển phẩm chất của học sinh, tôi đưa ra một số biện pháp giáo dục phẩm chất của học sinh như sau: Biện pháp 1: Xây dựng tốt kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp Điều 33, chương IV Điều lệ trường tiểu học ban hành kèm theo TT số 41/2010/TT BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy định: Giáo viên làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục học sinh trong trường tiểu học và cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo dục tiểu học. Tuy nhiên bên cạnh đó việc giáo dục nhân cách, phẩm chất cho học sinh cũng không kém phần quan trọng. Vì thế giáo dục phẩm chất cho học sinh một cách có hiệu quả là trách nhiệm của giáo viên. Theo khoản 1 điều 19 TT 22 thì giáo viên chủ nhiệm chịu trách nhiệm chính trong việc đánh giá học sinh, chất lượng giáo dục học sinh trong lớp. Như vậy, người giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục học sinh phát triển toàn diện. Để giáo dục học sinh có phẩm chất tốt thì người giáo viên phải gương mẫu để làm tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Bên cạnh đó, người giáo viên chủ nhiệm phải là người hiểu rõ hoàn cảnh, tính cách của từng học sinh. Qua thực tế kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp, để làm được điều đó, bản thân tôi thường tìm hiểu về học sinh như: Đầu năm tôi tìm hiểu lí lịch, học bạ và tìm hiểu thêm thông tin thông qua các thầy cô giáo cũ, các bậc phụ huynh, học sinh để nắm được hoàn cảnh gia đình và học lực của các em. Cách tìm hiểu này theo tôi thì đạt hiệu quả rất tốt. Ngoài ra tôi còn tìm hiểu học sinh qua từng thói quen, hoạt động của các em ở lớp như: sinh hoạt lớp, giờ ra chơi, những buổi lao động, sinh hoạt sao, sinh hoạt ngoại khóa... trong cách tìm hiểu này tôi đã giúp đỡ được một số học sinh. Chẳng hạn như: Em Nguyễn Hải Sơn: khả năng tiếp thu nhanh song còn lười học, hoang nghịch, hay trêu chọc các bạn, thậm chí đùa nghịch ngoài giới hạn cho phép, đôi khi xảy ra ẩu đả, thương tích với các bạn. Bị cô giáo nhắc nhở, em hứa sẽ sửa chữa và 12
- không tái phạm nhưng rồi vẫn chứng nào tật đó. Trao đổi với phụ huynh, tôi nhận được thông tin phản hồi: Bố mẹ cháu làm ăn xa, sống ở Sài Gòn. Từ nhỏ cháu sống với ông bà. Ông bà già rồi nói cháu không nghe lời cũng chịu. Thôi thì nhờ cô giáo. Trao đổi với giáo viên chủ nhiệm năm học trước tôi được biết em Sơn bề ngoài hiếu động, dễ nổi nóng song là cậu bé vô tư, hồn nhiên và sống tình cảm. Đôi lúc cáu gắt với bạn, một lúc hết giận rồi lại thôi. Qua tìm hiểu, tôi được biết em còn sống cùng một người bác và rất nghe lời của bác. Tuy nhiên, do bận công việc nên bác ít khi để mắt tới cháu. Tôi liên lạc, trao đổi cùng bác của em. Lên lớp có cô giáo kèm cặp. Về nhà chịu sự “kiểm soát” của bác. Bạn bè xung quanh cũng thường xuyên quan sát, phát hiện những hành vi, lời nói, cử chỉ chưa chuẩn mực và báo với cô giáo. Nhờ làm tốt mối quan hệ phối kết hợp đó mà những hành vi sai lệch của em Sơn được uốn nắn và sửa chữa kịp thời. Nhờ đó em tiến bộ hơn trong giao tiếp và ứng xử. Khi Sơn hòa đồng hơn cùng các bạn trong lớp, em biết quan tâm và giúp đỡ các bạn; biết nhận lỗi và sửa lỗi. Những việc làm tốt của em được tôi tuyên dương trước lớp và được cả lớp ghi nhận. Dần dần Sơn trở nên ngoan ngoãn và học ngày càng tiến bộ hơn. Một cách tìm hiểu nữa là phải thường xuyên giữ mối liên hệ chặt chẽ với Ban đại diện cha mẹ học sinh và phụ huynh, phát hiện thái độ, hành vi, cách ứng xử chưa chuẩn mực của học sinh để kịp thời sửa chữa, uốn nắn. Mặt khác, giáo viên cũng thường xuyên trò chuyện cùng học sinh để phát hiện những em có hoàn cảnh đặc biệt, kịp thời giúp đỡ và hỗ trợ, động viên các em học tập. Nắm vững tình hình học sinh, xây dựng kế hoạch chủ nhiệm với hệ thống biện pháp sát thực chính là điều kiện đầu tiên để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Biện pháp 2: Giáo dục phẩm chất cho học sinh thông qua quá trình dạy học Trong chương trình tiểu học, môn đạo đức là môn học chính để giáo dục phẩm chất cho học sinh. Thông qua môn đạo đức, các em bước đầu có khái niệm 13
- về đạo đức và các chuẩn mực đạo đức. Các em biết phân biệt tốt – xấu, đúng – sai, lễ phép – vô lễ… Từ đó có cái nhìn đúng đắn trong nhận thức và suy nghĩ; ý thức được việc nên và không nên làm. Đối với môn Đạo đức tôi có thể xem là một phương tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, tình cảm, và những hiểu biết trong cuộc sống cho học sinh một cách trực tiếp, hoàn chỉnh và sâu sắc. Cần phải trang bị cho học sinh những tri thức đạo đức, các chuẩn mực về hành vi đạo đức có trong nội dung của mỗi bài học để trở thành kĩ năng sống, thói quen hàng ngày của mỗi học sinh. Muốn vậy giáo viên phải đi sâu tìm hiểu đặc trưng bộ môn vì ở đây đòi hỏi khả năng tự trao dồi của giáo viên rất lớn. Nên cần dạy nghiêm túc không qua loa, không xem nhẹ môn này. Đưa ra các phương pháp dạy học theo hướng tích cực nhằm gây hứng thú cho học sinh như thảo luận nhóm, đóng vai, phỏng vấn, diễn kịch ... Tuy nhiên với thời lượng quá ít (1 tiết/tuần) nên giáo viên khó mà quan sát, nắm bắt và sửa sai, uốn nắn những sai lệch cho học sinh. Chính vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn để lồng ghép nội dung giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả và tích cực rèn luyện các phẩm chất đạo đức cho học sinh. Mặt khác, giáo viên chủ nhiệm cần giữ mối liên hệ thường xuyên với giáo viên bộ môn trong việc quản lí học sinh. Cần trình bày kế hoạch của mình, tìm biện pháp phối kết hợp để cùng giáo dục. Đề nghị giáo viên bộ môn nghiêm khắc với những trường hợp sai phạm để các em quyết tâm sửa chữa. Đặc biệt, luôn lưu ý với các thầy cô bộ môn giúp đỡ các em có thái độ trung thực trong học tập, tuyệt đối không để học sinh vi phạm trong thi cử. Khi làm bài trong các giờ kiểm tra phải thực sự nghiêm túc, không quay cóp, không giở sách, giở vở để phản ánh đúng thực chất của các em nhằm giúp thầy cô đánh giá đúng, chính xác và có cách uốn nắn kịp thời cho các em. Trong quá trình giảng dạy, tôi đặc biệt chú ý đến việc rèn kĩ năng giao tiếp, ứng xử cho học sinh: giao tiếp với thầy cô giáo, bạn bè và những người xung 14
- quanh. Tôi luôn nhắc nhở các em khi giao tiếp với thầy cô giáo và người lớn tuổi cần thể hiện thái độ lễ phép bằng các từ: “dạ thưa”, “vâng ạ”... Phải nói có đầu có đuôi, tránh nói trống không, cộc lốc. Khi học sinh nói, giáo viên cần chú ý lắng nghe, phát hiện và sửa sai kịp thời. Ví dụ: Sau khi học xong Bài 34: Tính chất kết hợp của phép nhân. Nhân với số có tận cùng là chữ số 0. (Sách HDH Toán 4 – 1B). Tôi đặt câu hỏi: Em nào có thể nhắc lại tính chất kết hợp của phép nhân? Nếu học sinh trả lời: Khi nhân một tích hai số với số thứ ba, ta có thể nhân số thứ nhất với tích của số thứ hai và số thứ ba. Tôi liền yêu cầu em đó đứng dậy trả lời lại câu hỏi cho trọn vẹn câu và phải có từ “Dạ thưa cô”. Cụ thể học sinh trả lời lại: Dạ thưa cô! Tính chất kết hợp của phép nhân là: Khi nhân một tích hai số với số thứ ba, ta có thể nhân số thứ nhất với tích của số thứ hai và số thứ ba. Sau đó tôi nhắc học sinh cần lưu ý khi trả lời câu hỏi phải trả lời có đầu có đuôi và phải thể hiện thái độ lịch sự khi trả lời. Biện pháp này của tôi đã giúp học sinh mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, ứng xử. Trong giao tiếp với bạn bè, tôi luôn nhắc nhở các em phải cư xử hòa đồng, thân thiện. Với các em nhỏ cần có thái độ nhường nhịn, vui vẻ, cởi mở. Cần chấm dứt tình trạng có những câu nói cửa miệng mất văn hóa. Giáo viên cần bám sát học sinh, phối hợp tốt với HĐTQ trong việc quản lí, phát hiện những hành vi đạo đức không tốt để có biện pháp giúp đỡ học sinh. Ví dụ: Có hôm tôi không có tiết cuối nên về sớm. Đầu giờ chiều đến lớp tôi nghe học sinh phản ánh: Dạ thưa cô! Cuối buổi xếp hàng ra về, bạn Hải nói tục, còn chửi bạn Tuấn, bị cô giáo Tổng phụ trách Đội nhắc nhở. Tôi liền gọi em Hải lên, yêu cầu em xin lỗi bạn Tuấn và phân tích cho em biết nói tục, chửi thề là vi phạm quy định của lớp, của trường; làm mất tư cách đạo đức của người học sinh; khiến bạn bè mất đoàn kết. Như vậy là không hề tốt chút nào. Sau khi nghe cô giáo phân tích, em Hải trung thực, dũng cảm nhận lỗi trước cả lớp và hứa với cô giáo cùng các bạn là từ nay về sau không tái phạm nữa. Tôi cũng kiên quyết trước học 15
- sinh, nếu em Hải còn để xảy ra tình trạng này thì sẽ mời phụ huynh đến để trao đổi. Đồng thời, tôi yêu cầu học sinh trong lớp cùng theo dõi, phát hiện những hành vi vi phạm đạo đức của bạn Hải cũng như các bạn khác trong giờ ra chơi, đi học về,… và báo cáo với cô giáo để giáo dục các em. Biện pháp này đã giúp em Hải nhận ra sai lầm và có quyết tâm sửa chữa lỗi lầm, biết chịu trách nhiệm về các hành vi mà bản thân gây ra. Sau một thời gian cùng học sinh trong lớp quan sát, tôi thấy tình trạng nói tục, chửi thề trong học sinh đã thuyên giảm rõ rệt. Như vậy ngoài công việc chính là giảng dạy, giáo viên chủ nhiệm cần dành khoảng thời gian thích hợp đến việc rèn luyện và phát triển nhân cách cho học sinh, cần bắt đầu từ những kĩ năng đơn giản nhất như giao tiếp, ứng xử, tác phong, ăn mặc,… đến việc hình thành nề nếp, thói quen sinh hoạt,… Xây dựng nề nếp tự quản tốt trong học sinh là biến ý thức tự quản thành thói quen, thành một nề nếp tốt có tác dụng tích cực trong việc góp phần phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập cũng như trong việc trau dồi phẩm chất đạo đức. Đồng thời đối với các em có biểu hiện xấu về phẩm chất, giáo viên chủ nhiệm và lớp cũng kịp thời phát hiện, ngăn chặn và giúp đỡ bạn sữa chữa lỗi lầm bằng tất cả tình thương và trách nhiệm của mình. Cứ như vậy, dần dà các em hình thành thói quen tốt và không chờ đợi, ỷ lại vào người khác mà ý thức được là phải vươn lên để hoàn thiện nhân cách của mình. Ví dụ: Dạy bài Tập đọc “Thưa chuyện với mẹ”. Sau khi trả lời các câu hỏi, giáo viên có thể lồng ghép: Cách xưng hô của Cương và mẹ như thế nào? Qua cách xưng hô đó cho ta thấy tình cảm của hai mẹ con ra sao? Vậy ở nhà các em thường xưng hô với bố mẹ và người lớn như thế nào? Để giữ phép lịch sự trong xưng hô, trong giao tiếp, đặc biệt với người lớn tuổi các em cần làm gì? Bằng việc liên hệ thực tế, học sinh sẽ có cái nhìn gần gũi và rèn luyện kĩ năng giao tiếp tốt hơn. 16
- Rèn giũa phẩm chất cho học sinh theo những chuẩn mực rất quan tr ọng. Đồng thời với đó, chúng ta cũng cần lấy những ví dụ điển hình làm gương, làm mẫu cho học sinh noi theo. Ví dụ: Khi dạy bài Tập đọc “Đôi giày ba ta màu xanh”, tôi nhấn mạnh cho học sinh: “Lái” trong câu chuyện là một cậu bé ngoan, vừa hiền lành, chăm chỉ lại còn rất lễ phép. Khi nhận quà từ người khác, Lái xúc động nhận bằng hai tay. Các em cần học tập đức tính ngoan hiền, lễ phép ở bạn Lái. Đối với học sinh tiểu học, cô giáo bao giờ cũng là “thần tượng”. Do đó, mỗi giáo viên chủ nhiệm phải thực sự là tấm gương sáng cho học sinh trong lớp học tập và noi theo; phải là tấm gương cho các em soi và học tập về mỗi lời nói, cách cư xử, thái độ trong giao tiếp giữa giáo viên với giáo viên, giáo viên với học sinh, giáo viên với cán bộ, công nhân viên nhà trường... Học sinh tiểu học là lứa tuổi hồn nhiên, hay bắt chước, muốn được tự khẳng định mình. Chính vì vậy, bất cứ hành động, lời nói, cử chỉ nào của người lớn cũng có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức và sự hình thành nhân cách cho các em. Là một giáo viên, chúng ta cần mẫu mực để làm gương cho học sinh. Mẫu mực ngay từ lời ăn tiếng nói, cách cư xử, giao tiếp đến tác phong giảng dạy, thói quen sinh hoạt. Tôi đã từng nghe một câu nói: Cuộc sống của một đứa trẻ cũng như một tờ giấy trắng mà mỗi người đi qua đều để lại dấu vết trên đó. Bởi vậy, là giáo viên, là cha, là mẹ, chúng ta cần trở thành tấm gương sáng cho các con noi theo. Usinxki đã từng nói: “Sự gương mẫu của người thầy giáo là tia sáng mặt trời thuận lợi nhất đối với sự phát triển tâm hồn non trẻ mà không có gì thay thế được”. Nêu gương cũng là một trong những biện pháp mang lại hiệu quả cao trong giáo dục đạo đức cho học sinh lứa tuổi tiểu học. Biện pháp 3: Giáo dục phẩm chất cho học sinh thông qua công tác phối hợp “gia đình – nhà trường – xã hội” Đây là mối quan hệ mật thiết và không thể thiếu được bởi giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức tác phong học sinh không chỉ là công tác của giáo viên chủ nhiệm 17
- mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội đối với thế hệ trẻ, mầm non tương lai của đất nước. Vì vậy, trong quá trình làm công tác của nhiệm của mình, tôi luôn ý thức được sự cần thiết và tầm quan trọng trong mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn và gia đình học sinh với các tổ chức đoàn thể trong xã hội là rất cần thiết. Bên cạnh việc giữ vững mối quan hệ với giáo viên bộ môn thì việc hình thành nhân cách cho các em không thể không có vai trò của phụ huynh học sinh tham gia. Hằng ngày ngoài thời gian các em đến trường, số thời gian còn lại hầu như các em không có sự kiểm soát của thầy cô giáo, của nhà trường mà các em ở trong sự kiểm soát của gia đình và xã hội. Vì vậy giáo dục phẩm chất cho các em cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của phụ huynh. Tuy nhiên, trong thực tế tiếp xúc với các bậc phụ huynh, tôi nhận thấy rõ một điều là: Không phải quý vị phụ huynh nào cũng nhiệt tình, tận tâm với công việc phối hợp này, họ có đủ muôn vàn lí do để “xin lỗi “hoặc “phó thác” cho giáo viên chủ nhiệm với phương châm: “Trăm sự nhờ thầy cô giúp đỡ”. Bên cạnh đó, theo như tìm hiểu, lớp tôi chủ nhiệm có nhiều học sinh sống với ông bà, bố mẹ đi làm ăn xa; hoặc nếu có sống với bố mẹ thì bố mẹ cũng đi làm việc từ sáng đến tối. Thời gian chăm con, quan tâm, kèm cặp việc học của con cái là hoàn toàn không có. Thêm vào đó, phụ huynh học sinh đa số làm nghề nông. Kiến thức văn hóa còn hạn chế. Do đó, việc bày vẽ cho con em gặp nhiều khó khăn. Vì vậy mà đa phần học sinh có sai phạm đều do giáo viên chủ nhiệm phát hiện rồi tìm cách tháo gở chứ không phải do gia đình nhận biết để nhờ nhà trường quan tâm giúp đỡ cùng giáo dục con em mình. Đây cũng là một khó khăn lớn mà chúng ta phải luôn trăn trở để tìm giải pháp khắc phục tốt nhất nhằm nâng cao không ngừng chất lương toàn diện cho các em học sinh. Việc phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh nhằm mục đích cùng chăm lo giáo dục học sinh chưa ngoan về đạo đức, chưa ngoan về học tập. Đặc biệt đối với diện học sinh chưa ngoan, mối quan hệ này lại cần thiết hơn bao giờ hết. 18
- Ở lớp 4C do tôi chủ nhiệm, có một số trường hợp nổi trội sau: 1. Em Nguyễn Hải Sơn như đã nói ở trên. 2. Em Bùi Thanh Hải: năng lực tiếp thu chậm, học chậm. Qua quan sát cùng với phản hồi từ phía học sinh, tôi biết em Hải thường xuyên nói tục, chửi thề gây mất đoàn kết cùng các bạn. Tôi đã trao đổi với phụ huynh, đặc biệt chú ý đến lời ăn tiếng nói, cách cư xử ở lớp cũng như ở nhà và môi trường xung quanh của em, phát hiện và điều chỉnh những lời nói mất văn hóa, những cử chỉ chưa đúng mực. Đồng thời thực hiện biện pháp phê bình trước lớp. Bên cạnh đó, quan tâm đến việc học của em. Tôi phân công em Nguyễn Thị Quỳnh Như – CTHĐTQ kèm cặp, giúp đỡ Hải trong việc học ở lớp cũng như ở nhà. Nhờ đó, em có nhiều biểu hiện tiến bộ trong học tập, giao tiếp, cư xử hòa đồng hơn. 3. Em Phan Thị Thương: hoàn cảnh gia đình khó khăn, thường xuyên đau ốm nên hay nghỉ học. Do đó, mặc dù rất chăm học nhưng do nghỉ học nhiểu nên vẫn bị hỏng kiến thức. Đối với trường hợp của em Thương, do điều kiện sức khỏe nên đi học chư chuyên cần. Do đó, sau khi em nghỉ ốm, tôi dành thời gian đầu giờ, cuối buổi, ra chơi… để phụ đạo kiến thức cho em. Đồng thời, trao đổi với mẹ của em, nên dành thời gian ở nhà cho em học bài. Bên cạnh đó, vào các ngày thứ bảy, chủ nhật, tôi phân công em Trần Nguyễn Khánh Huy ở gần nhà kèm cặp việc học cho bạn. Nhờ bù đắp kiến thức bị hỏng kịp thời nên em theo kịp bài, năng lực tiếp thu, vận dụng cũng thành thạo hơn. Với tinh thần đoàn kết, quan tâm, giúp đỡ bạn gặp hoàn cảnh khó khăn; các bạn trong lớp thường xuyên quan tâm, hỏi han, động viên tinh thần, thỉnh thoảng còn luân phiên nhau đưa đón bạn đến trường nên bản thân em Thương cũng tự nỗ lực cố gắng rất nhiều. Có hôm bị ốm nghỉ học nhưng hôm sau đến lớp em vẫn hoàn thành tốt các bài tập, tiếp thu và vận dụng được kiến thức. Hay một số trường hợp khác như em Bùi Thị Ngọc Anh, Nguyễn Thị Thu Nguyệt… Về nhà không học bài, không làm bài tập. Đến lớp cô giáo kiểm tra, lúc 19
- thì bảo em về nhà bận giúp mẹ làm việc nhà, khi khác lại nói em quên vở ở nhà… Tôi trực tiếp gọi điện thoại, về nhà trao đổi với phụ huynh và nhận được phản hồi. Về nhà bố mẹ nhắc làm bài thì các con bảo cô giáo không giao bài về nhà, nhắc học bài thì lại bảo là học xong rồi, bố mẹ làm gì mà cứ bắt học mãi thế. Sau khi nghe phản ánh từ cô giáo, phụ huynh quan tâm đến việc học của con em hơn. Hằng ngày phụ huynh gọi điện thoại cho tôi, hỏi hôm nay con học những bài gì để nhắc nhở, kèm cặp các con học. Nhờ giữ liên lạc thường xuyên nên các em không còn dám nói dối nữa. Các em được bố mẹ, anh chị bảo ban trong học tập nên học hành cũng tiến bộ lên nhiều. Bên cạnh đó, trong nhà trường học sinh thường mắc những sai lệch mà chúng ta cùng với phụ huynh phải lo toan cần giáo dục. Theo tôi các em thường có những biểu hiện sau: Ý thức tự giác học tập chưa cao. Không học bài, làm bài trước khi đến lớp. Nói chuyện trong giờ học. Thiếu trung thực, vô lễ với mọi người. Gây gỗ đánh nhau, nói tục, nói dối. Gian dối trong học tập (kiểm tra thi cử...) Làm ô nhiễm môi trường, bỏ học đi chơi điện tử... Vì vậy ngay từ đầu năm học giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu kỹ học sinh lớp của mình thông qua thầy cô dạy lớp trước, tìm hiểu qua học sinh để báo phụ huynh biết ngay buổi họp phụ huynh đầu tiên tất cả những sai lệch, những biểu hiện tiêu cực mà học sinh dễ mắc phải để họ soi vào con em mình mà có giải pháp kịp thời ngăn chặn, sửa chữa. Học sinh có “vấn đề” về phẩm chất thì trách nhiệm trước tiên theo tôi nghĩ là của gia đình và giáo viên chủ nhiệm. Không nên đổ lỗi cho nhà trường quản lí lỏng lẻo về nội qui trường học hoặc thực hiện kỉ luật không nghiêm... Và ngược lại có 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2237 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 216 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 65 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn