intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:38

65
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của sáng kiến này là nghiên cứu những cơ sở lí luận và thực tiễn. Tìm hiểu thực trạng giáo dục tiểu học. Đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để nắm nội dung của sáng kiến kinh nghiệm!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học

  1. PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG TRƯỜNG TH HOÀNG HOA BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM                 Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học               Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thế Kiểm                Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường tiểu học Hoàng Hoa – Tam Dương – Vĩnh  Phúc                Số điện thoại: 0983 091 624      E_mail:  nguyenthekiem.pgdtd@vinhphuc.edu.vn 1
  2. Vĩnh Phúc, năm 2020 BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên sáng kiến: Một số biệnpháp nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học 2
  3. Vĩnh Phúc, năm 2019 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm mục tiêu  “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi  lên chủ  nghĩa xã hội” phải phát triển mạnh Giáo dục­Đào tạo, phát huy   nguồn lực con người, yếu tố  cơ  bản của sự  phát triển bền vững. Nghị  quyết Đại hội X, Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục và Đào tạo cùng với  khoa học và công nghệ  là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và là động lực  thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Sự  nghiệp Giáo dục có vị  trí vô cùng quan trọng trong chiến lược  phát triển con người, chiến lược phát triển kinh tế­xã hội của đất nước.   Đất nước ta đang trên đà tiến nhanh, tiến mạnh vào sự nghiệp công nghiệp   hóa, hiện đại hóa, vì vậy nhiệm vụ của Giáo dục­Đào tạo hơn lúc nào hết  càng vô cùng quan trọng. Giáo dục nhằm tạo ra một thế  hệ  mới có đủ  điều kiện tiếp nhận   nền khoa học kỹ thuật và cộng nghệ hiện đại. Như Bác Hồ đã nhấn mạnh:   “Muốn có chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”.   Con người mới xã hội chủ nghĩa theo yêu cầu của thời đại hiện nay là con  người có đạo đức tốt, sức khỏe tốt và hiểu biết khoa học kỹ thuật. Nhiệm   vụ của Giáo dục ­ Đào tạo hiện nay là phải đào tạo ra một lớp người “vừa   hồng, vừa chuyên” để xây dựng và bảo vệ đất nước. Trước yêu cầu đó của  3
  4. Cách mạng, Đảng ta xác định: “Cùng khoa học kỹ thuật và công nghệ, giáo   dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự  nghiệp của toàn Đảng, Nhà  nước và của toàn dân”; muốn “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi   dưỡng nhân tài” cho đất nước thì tất cả  mọi người đều phải chăm lo cho   giáo dục. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ  phận giáo viên chưa xác định được  trách nhiện của mình đối với vận hội của đất nước, chưa hoàn thành trách   nhiệm cao cả của một nhà giáo. Trước những biểu hiện đó, năm học 2006­ 2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai Cuộc vận động “Nói không với  tiêu cực trong thi cử  và bệnh thành tích trong giáo dục”. Đây là một chủ  trương đúng đắn, kịp thời để  chấn chỉnh kỷ  cương, nề  nếp, trách nhiệm  của toàn ngành Giáo dục nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Bậc Giáo dục tiểu học có một vị  trí đặc biệt quan trọng trong hệ  thống giáo dục quốc dân. Giáo dục tiểu học có thể  coi là bậc học nền  móng của sự nghiệp Giáo dục ­ Đào tạo. “Móng có vững thì nhà mới bền”,   vì vậy bậc Tiểu học không được coi trọng, học sinh không nắm được vững  chắc các kiến thức cơ bản thì rất khó khăn cho việc học tập ở các lớp trên   cũng như trong cuộc sống xã hội hàng ngày. Thấm nhuần sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của bậc học này trong  hệ thống giáo dục quốc dân, là một cán bộ quản lý trong bậc Tiểu học, qua  thực tiễn công tác, giảng dạy và kinh nghiệm quản lý, quá trình học tập,  nghiên cứu, tác giả nhận thấy rằng: Cần phải nâng cao chất lượng dạy và  học trong nhà trường cao hơn nữa để góp một phần nhỏ nhưng quan trọng   trong chiến lược xây dựng con người cũng là đáp  ứng nguyện vọng của  nhân dân và xu thế phát triển của thời đại. Chính vì lẽ đó, để biến những lý  luận đã được học soi sáng vào thực tiễn, nâng cao hơn nữa hiệu lực công   tác quản lý của mình trong nhà trường, tác giả  chọn đề  tài nghiên cứu:   “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học”. 4
  5. 2. Tên sáng kiến Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học. 3. Tác giả sáng kiến  ­ Họ và tên: Nguyễn Thế Kiểm ­ Địa chỉ: Trường tiểu học Hoàng Hoa ­ Điện thoại: 0983 091 624 ­ Email: nguyenthekiem.pgdtd@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến  Nguyễn Thế Kiểm ­ PHT Trường tiểu học Hoàng Hoa ­ Tam Dương ­  Vĩnh Phúc. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến ­ Lĩnh vực áp dụng: Chất lượng giáo dục tiểu học. ­ Nhiệm vụ: + Nghiên cứu những cơ sở lí luận và thực tiễn. + Tìm hiểu thực trạng giáo dục tiểu học. + Đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học.  6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử  Sáng kiến bắt đầu được áp dụng thử ngày 5 tháng 9 năm 2019. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Nội dung của sáng kiến 7.1.1. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác  trong giáo dục trong trường phổ thông Giáo dục và Đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống   chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ  phát triển của mỗi quốc gia.   5
  6. Vì vậy, ngay từ  khi giành được chính quyền, Hồ  Chí Minh đã chỉ  rõ “một  dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó xác định Giáo dục và Đào tạo là  một  nhiệm vụ  quan trọng của cách mạng Việt Nam. Bắt  đầu từ  Nghị  quyết của Đại hội lần thứ  IV của Đảng (1979) đã ra quyết định số  14­ NQTƯ  về cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ  phận quan   trong của cuộc cách mạng tư  tưởng; thực thi nhiệm vụ  chăm sóc và giáo  dục thế  hệ  trẻ  từ  nhỏ  đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo  dục học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao  động sản xuất, nhà  trường gắn liền với xã hội. Tư  tưởng chỉ  đạo trên được phát triển bổ  sung, hoàn thiện cho phù  hợp với yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X và XI của   Đảng cộng sản Việt Nam.  Đại   hội   Đại   biểu   toàn   quốc   lần   thứ   VIII   của   Đảng   đã   xác   định:  “Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu  nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Tiếp tục  phát triển những tư  tưởng của Đại hội VIII về  Giáo dục­Đào tạo, Nghị  quyết   Đại   hội   Đại  biểu  toàn  quốc  lần  thứ   IX  của   Đảng  nhấn  mạnh:  “Phát triển giáo dục­đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc  đẩy sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để  phát huy  nguồn lực con người­yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh  tế  nhanh và bền vững”. Phát huy thành tựu của những năm qua, tại Đại  hội Đại biểu toàn quốc lần thứ  X của Đảng đã xác định: “Giáo dục và   Đào tạo cùng với khoa học và công nghệ  là quốc sách hàng đầu, là nền  tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.  Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục và Giáo dục lý luận chính trị được Đại  hội toàn quốc lần thứ  X đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm  giáo dục con người phát triển toàn diện, nhất là thế  hệ  trẻ. Đại hội X đã  6
  7. xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế  hệ  trẻ  tinh thần yêu  nước, lòng tự  tôn dân tộc, lý tưởng chủ  nghĩa xã hội, lòng nhân ái, ý thức  tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ  lập nghiệp, không  cam chịu nghèo nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ  bản, làm  chủ  năng lực nghề  nghiệp, quan tâm hiệu quả  thiết thực, nhảy cảm với   chính trị, có ý chí vươn lên về khoa học ­ công nghệ. Để cụ thể chủ trương  đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển giáo dục một cách tổng   thể và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương phát triển giáo dục mầm non, thực  hiện xoá mù chữ  và phổ  cập giáo dục tiểu học và trung học cơ  sở  trên   phạm vi cả  nước, tạo môi trường thuận lợi để  cho mọi người học tập và  học tập suốt đời. Điều hành hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ  cấu vùng trong hệ  thống Giáo dục và đào tạo, quan tâm đào tạo đội ngũ  công nhân kỹ thuật lành nghề, hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, thực  hiện tốt chính sách giáo dục gắn với phát triển kinh tế  xã hội. Hiện nay,   Đảng và Nhà nước ta lại càng phải quan tâm hơn nữa đến sự  nghiệp Giáo  dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ và nhân dân lao   động để họ tham gia hội nhập mà vẫn giữ vững truyền thống văn hoá dân   tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm chủ  khoa học tiên   tiến. Đánh giá thực trạng giáo dục­đào tạo sau 20 năm đổi mới, Đại hội  Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định sự nghiệp giáo dục­đào tạo nước   ta tiếp tục phát triển và được đầu tư nhiều hơn. Cơ sở vật chất được tăng  cường, quy mô đào tạo mở rộng, nhất là bậc trung học và dạy nghề. Trình  độ  dân trí được năng cao. Điều đó được thể  hiện: Phổ  cập giáo dục tiểu  học tiếp tục được củng cố, phổ  cập giáo dục bậc trung học cơ  sở  được   triển khai tích cực. Đến hết năm 2005 có 31 tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn  phổ  cập trung học cơ  sở. Tỷ  lệ  học sinh trong độ  tuổi đi học  ở  bậc tiểu   học đạt 99,9%. Quy mô giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng và trình  7
  8. độ  dân trí được năng lên rõ rệt. Số  học sinh trung học chuyên nghiệp và  dạy nghề  đều tăng. Các trường sư  phạm tiếp tục được củng cố  và phát  triển. Bước đầu đã hình thành mạng lưới dạy nghề  cho lao động nông   thôn, thanh niên dân tộc thiểu số, tàn tật, gắn dạy nghề  với tạo việc làm,   xoá đói giảm nghèo. Chất lượng dạy nghề  có chuyển biến tích cực. Đổi  mới giáo dục đang được triển khai từ  giáo dục mầm non, phổ  thông,....   Việc xã hội hoá giáo dục và đào tạo đã đạt được những kết quả bước đầu.  Đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo tăng lên đáng kể. Nhà nước đã huy  động được nhiều nguồn vốn khác để  phát triển giáo dục, như  thông qua  phát hành công trái, huy động đóng góp của nhân dân, của doanh nghiệp có  vốn đầu tư nước ngoài. Cơ sở vật chất trong các cơ sở giáo dục và đào tạo  các cấp được tăng cường, đặc biệt là vùng núi, vùng đồng bào dân tộc  thiểu số. Nhiều tỉnh đã xây dựng được các trường đạt chuẩn Quốc gia.  Giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực rất quan trọng của đời sống xã  hội, nó liên quan đến nhiều lĩnh vực khác, cho nên Đảng ta rất chú trọng   phát triển giáo dục và đào tạo. Những năm qua quan điểm của Đảng về  đường lối phát triển giáo dục và đào tạo chủ  yếu tập trung  ở  nghị  quyết   trung  ương 2 khoá VIII (Nghị  quyết chuyên đề  về  Giáo dục và Đào tạo);   kết luận của Hội nghị lần 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 9; Nghị  quyết Hội nghị  lần thứ  9 Ban chấp hành Trung  ương Đảng khoá IX; Văn  kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  IX, X. Qua các văn kiện này thể  hiện một số quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục đào tạo như sau: ­ Giáo dục và đào tạo nhằm xây dựng con người có đầy đủ phẩm chất   để xây dựng và bảo vệ đất nước. ­ Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong giáo dục và đào tạo, nhất  là chính sách công bằng xã hội. ­ Thực sự  coi giáo dục là quốc sách hàng đầu cùng với khoa học và  8
  9. công nghệ là yếu tố quyết định góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển  xã hội. ­ Giáo dục và đào tạo là sự  nghiệp của toàn Đảng, toàn dân; mọi   người, mọi cấp chăm lo cho giáo dục và đào tạo. ­ Giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế­xã hội,   với khoa học­công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. ­ Giữ  vững nòng cốt của các trường công lập song song với đa dạng   hoá các loại hình giáo dục­đào tạo. ­ Chăm lo giáo dục­đào tạo là chăm lo cho con người và xã hội phát   triển với các yêu cầu và tiêu chí được xác lập. ­ Phát triển giáo dục và đào tạo phải theo nguyên lý: học đi đôi với  hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực  tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đảng lãnh đạo giáo dục­đào tạo là một tất yếu khách quan để  đáp  ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới, xuất phát từ nhu cầu phát triển nhân cách  của con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhân cách con người là do nhiều yếu  tố  tạo nên nhưng giáo dục đào tạo là yếu tố  quan trọng giữ  vai trò quyết   định trong sự  phát triển trí tuệ  và nhân cách con người. Mà công cuộc xây   dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta rất cần thiết có những con người mới xã  hội chủ  nghĩa. Do đó phải chăm lo đến việc phát triển giáo dục đào tạo.  Chính vì vậy cần có Đảng lãnh đạo để đảm bảo yêu cầu về xây dựng con   người xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ nhu cầu phát triển nền kinh tế tri thức, trong nền kinh tế  tri thức các sản phẩm được sản xuất với công nghệ cao có hàm lượng chất  xám cao từ 70% trở lên. sản xuất hàng hóa sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên  hơn, ít ô nhiễm môi trường hơn, giá thành hạ, chất lượng cao hơn. Ngày   nay những phát minh mới về  khoa học­công nghệ  được  ứng dụng nhanh   9
  10. vào sản xuất và hiệu quả sản xuất cao. Những phát minh mới, những tiến  bộ  mới về  khoa học ­ công nghệ  đang được khẳng định. Yêu cầu tất yếu   đặt ra là lãnh đạo phải được đào tạo và đào tạo đạt trình độ  cao để  tham   gia sản xuất, để sử dụng sản phẩm có hàm lượng tri thức cao. Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nêu   rõ: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện  đại hóa, xã hội hóa; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học;   đổi mới cơ  chế  quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ  quản lý giáo dục, đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào   tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực  hành”, “Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa   nhà trường với gia đình và xã hội; xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và  điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”.  Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, cùng với xu thế quốc  tế  hóa đời sống kinh tế  thế  giới là thời cơ  thuận lợi để  phát triển, đồng  thời cũng là một thách thức gay gắt đối với các nước, nhất là các nước kinh  tế còn chậm phát triển như nước ta. Trong bối cảnh đó, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa  đất nước và hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải   nắm bắt vận hội, vận dụng  được những thành tựu mới nhất của cách  mạng khoa học, công nghệ. Điều đó đòi hỏi trình độ  dân trí cao, nguồn  nhân lực được đào tạo tốt và có năng lực, khoa học công nghệ mạnh. Để  nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất  nước thì sự nghiệp giáo dục giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược   xây dựng con người, phát triển kinh tế­xã hội của đất nước. Muốn xây  dựng thành công chủ  nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam phải có những  con người mới xã hội chủ  nghĩa, những con người có đạo đức, có sức  10
  11. khỏe, có trí tuệ, nắm bắt và vận dụng tốt những thành tựu khoa học kỹ  thuật, công nghệ  hiện đại trên đất nước Việt Nam. Nhằm đưa đất nước   thoát khỏi nguy cơ đói nghèo, tụt hậu, tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa  xã hội. Từ  nhận thức sâu sắc về  vị  trí, tầm quan trọng của sự  nghiệp giáo  dục trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, ta càng thấy rõ tầm quan trọng của  sự  nghiệp giáo dục­đào tạo  ở  cơ  sở: Nâng cao chất lượng dạy và học  ở  bậc tiểu học là vấn đề có ý nghĩa rất lớn trong sự nghiệp công nghiệp hóa   hiện đại hóa đất nước. Đây chính là cái gốc, là nền móng của sự  nghiệp   giáo dục đào tạo.  Chiến lược phát triển xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất  nước không thể thực hiện nếu như không chú ý đúng mức đến xây dựng và  phát triển giáo dục  ở  cơ  sở. Muốn làm tốt điều đó, trước hết các cấp  ủy   Đảng, chính quyền cơ sở cần chú ý làm tốt các vấn đề sau: Một là: Nắm vững tư tưởng chỉ đạo của nhà nước về phát triển giáo   dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Hai là: Thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ  xây dựng và phát triển   giáo dục đào tạo đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Ba là: Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục và đào tạo là giải pháp   hàng đầu để thực hiện chiến lược giáo dục. Bốn là: Tiếp tục đổi mới nội dung phương pháp giáo dục và đào tạo,  tăng cường cơ sở vật chất cho các trường học. Năm là: Xây dựng đội ngũ giáo viên và đội ngũ cán bộ  quản lý ở cơ  sở, đáp ứng được yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục. Sáu là: Vận dụng và thực hiện một cách sáng tạo, có hiệu quả  các   chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về công tác giáo dục và đào  tạo. 11
  12. Thực hiện tốt các vấn đề trên ở cơ sở  có nghĩa là: Giáo dục đã hoàn  thành được nhiệm vụ  của mình và đã thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến  lược về con người, như lời Bác Hồ kính yêu đã dạy: “Vì lợi ích mười năm  phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”. Xác định được tầm quan trọng của giáo dục, đặc biệt là giáo dục tiểu   học.  Vấn  đề  nâng  cao  chất lượng  dạy và  học  đang  ngày  càng  đòi  hỏi   những người làm công tác quản lý cần phải nắm chắc thực trạng, đề  ra  được phương hướng, nhiệm vụ  và những giải pháp phù hợp để  đưa chất  lượng nhà trường ngày càng đi lên. Càng nâng cao chất lượng dạy và học thì sự  nghiệp giáo dục ngày  càng phát triển, góp phần đẩy nhanh sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại  hóa đất nước, tiến nhanh đến mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công  bằng­dân chủ­văn minh mà Đảng ta đã đặt ra. 7.1.2. Thực trạng giáo dục trong Trường tiểu học xã Hoàng Hoa 1. Tình hình địa lí ­ xã hội ở địa phương Hoàng Hòa là một xã thuộc vùng miền núi của huyện Tam Dương,   tỉnh Vĩnh Phúc. Xã có tổng diện tích tự nhiên là 638,5ha, trong đó diện tích   canh tác là 418,7ha. Hiện nay, Hoàng Hoa có 1836 hộ, trong đó có 1482 hộ  dân sống thuần túy về nông nghiệp, chiếm 80,7% tổng số dân, chỉ có ít hộ  làm dịch vụ, tiểu thương, cơ khí, vận tải. Xã Hoàng Hoa còn phát triển văn  hóa ­ văn nghệ tốt. Xã có 2 di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng cấp tỉnh   là đình và chùa của xã. Với nền văn minh lúa nước, người dân Hoàng Hoa  sống thật thà, chất phác, chịu thương chịu khó làm ăn. Nhưng đời sống của   nhân dân hiện nay còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, kinh tế địa phương tăng   trưởng chậm, thu nhập bình quân đầu người thấp.  Với diện tích đất nông nghiệp ít, số  dân đông, hệ  thống mương  máng hạn chế, công tác thủy lợi không thuận lợi, do đó không đảm bảo   12
  13. nước tưới tiêu cho đồng ruộng khi cần thiết mà chủ  yếu phụ  thuộc vào  điều kiện thiên nhiên cho nên thu nhập bình quân đầu người chỉ  đạt 18   triệu đồng/1 người/1 năm. Trong đó: Tổng số hộ trong xã là 1836 hộ, với 7220 khẩu, trong đó: Số  hộ khá  là: 368/1836 = 20%; Số hộ đói nghèo là: 208/1836 = 11,3%. Từ điều kiện địa phương như vậy dẫn đến những thuận lợi và khó khăn   sau: Về thuận lợi Là một địa phương có truyền thống cách mạng, tuy đất không rộng,   người không đông, đời sống nhân dân còn nghèo nhưng sự  giác ngộ  Cách   mạng, là địa phương tích cực đóng góp sức người sức của cho cách mạng,   trong kháng chiến đã làm tốt sự  đóng góp: “Thóc không thiếu một cân,   quân   không  thiếu   một   người”.  Trong  thời  kỳ   xây   dựng  đất   nước   địa  phương cũng có nhiều đóng góp tích cực cho cách mạng. Nhân dân dịa phương đa số  làm nghề nông, hiền lành, chân thật, ít  va chạm với xã hội, ít giao lưu với bên ngoài nên  ảnh hưởng của những  tiêu cực xã hội ít, không có tình trạng nghiện hút, mại dâm, cờ bạc… Một số  thuận lợi lớn là từ  khi có Nghị  quyết TW II khóa VIII,  Đảng bộ  đã có những nhận thức mới và bắt đầu quan tâm đến việc học  hành của con em mình. Đảng ủy chính quyền địa phương đã quan tâm hơn  đến nhà trường,  đã từng bước xây dựng kiên cố  hóa trường học. Nghị  quyết Đảng bộ  đề  ra năm từ  2019 đến năm 2020   sẽ  kiên cố  100% các  trường học từ mầm non đến THCS, trong năm học 2019­2020 xây dựng các  hạng mục công trình để đề nghị công nhận lại trường Tiểu học đạt chuẩn   Quốc gia mức độ 2 và THCS Hoàng Hoa công nhân lai đ ̣ ̣ ạt chuẩn Quốc gia  mức độ 1 năm 2020.  Về khó khăn  13
  14. Tuy địa phương có truyền thống cách mạng và truyền thống hiếu  học từ  xa xưa nhưng trong thời kỳ  đổi mới lại phát triển quá chậm. Đời   sống nhân dân đa số  khó khăn vì sản xuất nông nghiệp hay bị  mất mùa do  thiên tai và bệnh dịch. Cho nên so với các vùng lân cận khẳng định rằng   người dân Hoàng Đan đời sống còn khó khăn và nghèo nàn. Đội ngũ cán bộ  lãnh đạo địa phương trong những năm gần đây rất trẻ, năng động, nhiệt  tình, dám nghĩ, dám làm, song còn ít kinh nghiệm, năng lực có hạn nên rất  khó khăn trong công tác quản lý. Việc đầu tư  cho cơ  sở  vật chất chưa đồng bộ, xây dựng kiên cố  hóa phòng học nhưng nội thất trong các phòng học như  bàn ghê con nhiêu ́ ̀ ̀  mâu ma khac nhau, các phòng ch ̃ ̃ ́ ức năng thiêt thiêt bi may tinh đê tô ch ́ ́ ̣ ́ ́ ̉ ̉ ức  ̣ ̣ ̣ day hoc môn Tin hoc. Trường Tiểu học Hoàng Hoa vẫn co m ́ ột dãy phong ̀   ̣ hoc cao tâng 8 phòng h ̀ ọc đã xuống cấp, tuy đa co d ̃ ́ ự an cai tao nh ́ ̉ ̣ ưng tiên ́  ̣ ̀ ̣ đô con châm. Dự an xây thêm 01 day phong hoc cao tâng 08 phong hoc vân ́ ̃ ̀ ̣ ̀ ̀ ̣ ̃  chưa khởi công theo dự an phê duyêt cua UBND huyên. Hi ́ ̣ ̉ ̣ ện nay học sinh  vẫn đang hoc nh ̣ ơ 01 phong ch ̀ ̀ ức năng, 02 phong  ̀ ở nha ăn ban tru. ̀ ́ ́ 2. Tình hình giáo dục của địa phương Trong mấy năm trở  lại đây, người dân đã có nhận thức đúng đắn  hơn về giáo dục. Một phần, phụ huynh hiện nay đều trẻ, có nhận thức tốt   về đầu tư học tập cho con em mình, nhưng điều này được thể hiện rõ hơn   là cuộc sống của người dân dần được cải thiện. Hiện nay, người dân có   nhiều việc làm thêm tranh thủ  trong lúc thời vụ  dảnh dỗi như  đi phu hồ,  đan hàng mây, tre xuất khẩu, may màn công nghiệp, may quần áo công  nghiệp, làm giấy ăn tại các cơ sở ở địa phương. Song tuy tỷ lệ huy động ra   lớp, tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học cao, tỷ lệ học sinh vào THPT Tam Dương và   Đại học lại con khiêm tôn. ̀ ́ Mấy năm trở về trước, do thực hiện triệt để kế hoạch hóa gia đình nên  14
  15. số  trẻ  sinh hằng năm giảm mạnh. Nhưng hiện nay, số  dân có chiều hướng  tăng lên.  Số liệu thống kê về quá trình học tập của học sinh xã Hoàng Hoa Số em  Số HS  Số trẻ  Số HS  Số HS  vào ĐH,  Năm học vào  vào lớp 1 HTCTTH vào THCS CĐ,  THPT THCN 2018/2019 179/179  123/123 115/115 51/91 32 =100% =100% =100% =56,04% 2019/2020 156/156  50/87 34 =100% =57,47% Qua bảng thống kê cho thấy: Số  học sinh được học lên THPT hệ  công lập còn ít, số  hoc sinh hoc Đ ̣ ̣ ại học, Cao đẳng và Trung học chuyên  nghiệp cung it cho nên nhân dân có m ̃ ́ ặc cảm rằng con cái họ  có học cũng  chẳng để làm gì, rồi cũng chỉ gắn bó với đồng ruộng và đi làm thuê để sinh  sống. Vì thế nhiều gia đình tỏ ra thiếu trách nhiệm, chưa thực hiện đầy đủ  nghĩa vụ làm cha, làm mẹ, không đầu tư cho con cái họ học hành. Thậm trí  có gia đình bố  mẹ  chỉ  mua cho con vài quyển vở, vài quyển sách, cái bút   đầu năm học là xong trách nhiệm. Một số học sinh  ở lớp học 2 buổi/tuần   nhưng tham gia đong gop cac khoan kinh phi theo quy đinh con châm, th ́ ́ ́ ̉ ́ ̣ ̀ ̣ ậm   ́ ̣ chí co hoc sinh không tham gia các quy định đóng góp của lớp, của trường. Tóm lại:  Xuất phát từ  tình hình kinh tế, chính trị  địa phương và sự  phối kết hợp giữa nhà trường với các tổ  chức đoàn thể  chưa chặt chẽ,   chưa làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, dân trí địa phương còn hạn chế  gây rất nhiều khó khăn cho việc dạy và học nói riêng, công tác quản lý chất  lượng giáo dục của nhà trường nói chung. 7.1.3. Thực trạng công tác quản lý ở trường tiểu học Hoàng Hoa 1. Đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên 15
  16. ̣ Năm hoc 2019­2020,   Trường tiểu học Hoàng Hoa là trường hạng I,  có 32 cán bộ, giáo viên, nhân viên. Nhìn chung, cán bộ, giáo viên, nhân viên   đều hăng say với công tác giáo dục. Một số giáo viên có tay nghề cao luôn  đảm nhiệm các công việc trọng yếu như  làm tổ  trưởng tổ, khối, kiêm  nghiệm các công tác đoàn thể như Công đoàn, Đoàn thanh niên, các tổ chức   xã hội trong nhà trường. Đặc biệt, một số đồng chí giáo viên cốt cán được   phân công đảm nhiệm bồi dưỡng học sinh năng khiêu đa phat huy tôt năng ́ ̃ ́ ́   lực va hoan thanh xuât săc nhiêm vu đ ̀ ̀ ̀ ́ ́ ̣ ̣ ược giao. Đây là những nhân tố  đã   góp phần xây dựng tập thể tổ, tập thể nhà trường nhiều năm liền đạt danh   hiệu trường đat Tâp thê Lao đông xu ̣ ̣ ̉ ̣ ất sắc, chi bộ  luôn đạt “Chi bô trong ̣   sạch, vững mạnh tiêu biêu” đ ̉ ược Đang uy xa Hoang Hoa tăng Giây khen. ̉ ̉ ̃ ̀ ̣ ́ Cụ thể, số học sinh học ở Trường tiểu học Hoàng Hoa trong 3 năm như  sau: TT Nă Số  TS Trong đó Lớ Lớ Lớ Lớ Lớp 5 m  lớp p 1 p 2 p 3 p 4 học SL SS SL SS SL SS SL SS SL SS 2 2018/2019 21 700 5 179 4 133 4 126 4 139 4 123 3 2019/2020 21 725 4 156 5 172 4 133 4 128 4 136 Với số  liệu trên, ta thấy số  trẻ  sinh hàng năm có chiều hướng tăng.  Điều này đòi hỏi người quản lý giáo dục phải có chiến lược phát triển và  những giải pháp cần thiết cho năm học tiếp theo và cho cả  một giai đoạn  phát triển từ năm đến 2020 và có tầm nhìn đến năm 2030. Số cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường 3 năm trở lại đây Về cán bộ quản lý TT Năm Tuổi  Cán bộ quản lý trung  SL Trìn Trình độ chính trị bình  h độ của  chuy CB ên  16
  17. môn ĐH CĐ TC CC TC SC 1 2017/2018 3 3 0 0 0 2 1 2 2018/2019 3 3 0 0 0 3 0 45 tuổi 3 2019/2020 3 3 0 0 0 3 0 Như   vậy,  trình  độ   chuyên  môn  của  cán  bộ   quản  lý  đều  đạt  trên  chuẩn, đều có trình độ  chính trị  từ  sơ  cấp trở  lên. Cán bộ  luôn năng động,  sáng tạo trong công việc, dám nghĩ dám làm, luôn học hỏi các trường bạn,  các trường trong tỉnh để  về  áp dụng quản lý, tổ  chức bộ  máy nhà trường   phấn đấu trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2 trong năm 2020. Về trình độ và độ tuổi trung bình của giáo viên, nhân viên T Nă SL Gi Nh Tuổi TB T m áo  ân  viê viê n n SL TĐ TĐ SL TĐ TĐ C LL C LL M CT M CT ĐH CĐ TC CC TC SC ĐH CĐ TC CC TC SC 1 2018/2019 30 25 19 5 1 19 3 2 1 2 36,5 3 2019/2020 32 25 19 5 1 19 3 2 1 2 Tuổi Với bảng số liệu trên, ta thấy trình độ chuyên môn của giáo viên ngày  càng được nâng cao, đa số giáo viên và nhân viên có trí tiến thủ và đã đứng   trong hàng ngũ của Đảng. Đây là một trong những điểm mạnh của trường   tiểu học Hoàng Hoa.  Phần lớn giáo viên là người địa phương hoặc xây dựng gia đình  ở  Hoàng Đan nên yên tâm công tác và có trách nhiệm trong mọi nhiệm vụ  được giao, đa số giáo viên nhà ở gần trường nên thuận lợi trong việc đi lại. Qua khảo sát hàng năm: 100% giáo viên đều đạt yêu cầu trở  lên về  17
  18. chuyên môn. Trong đó tỷ  lệ  giáo viên xếp loại giỏi 7/25 = 28%, giáo viên  xếp loại khá 17/25 = 68%, trung bình: 1/25 = 4%. Học sinh đa số  ngoan, hiền, không có học sinh vi phạm pháp luật,  không có học sinh mắc tệ nạn xã hội. Công tác đội, hoạt động ngoài giờ  sôi nổi, có nền nếp do đó thu hút  được học sinh đến trường. Vì vậy, tỷ lệ huy động trẻ vào lớp 1 hăng năm ̀   đều đạt 100%. Tỷ lệ học sinh lưu ban không có, không có  học sinh bỏ học.   Công tác phổ cập và xóa mù chữ được công nhận đạt năm 2000. Hiện nay   trường đã đạt phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2. Tuy đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên vẫn còn bộc lộ một số hạn chế  sau:  Về quản lý: Cán bộ quản lý với tuổi đời trung bình cao. Về  giáo viên: Đa phần giáo viên là nữ, lại đang  ở  độ  tuổi sinh đẻ, vì  vậy ngoài công tác chuyên môn còn là chủ  lực trong gia đình. Bên cạnh đó,  nhiều gia đình còn khó khăn, mức thu nhập thấp, đồng lương eo hep nên găp ̣ ̣   kho khăn trang tr ́ ải trong gia đình, nhiều giáo viên đang nuôi con nhỏ. Vì vậy   ngoài việc giảng dạy ở trường học phải kết  hợp làm thêm, chăn nuôi để tăng  thu nhập bảo đảm đời sống. Do bị chi phối nhiều nên một số giáo viên chưa   tập trung cho chuyên môn, chưa đào sâu suy nghĩ nghiên cứu để nâng cao tay   nghề, rất ngại đổi mới trong giảng dạy, nhất là công tác bồi dưỡng học sinh  năng khiếu. Có 01 giáo viên bị bệnh tim, thường xuyên ốm đau. Về  chuyên môn: Tuy   giáo viên được đào tạo chính quy, hàng năm   được bồi dưỡng chuyên  môn nhưng đa số  giáo viên chỉ  chú trọng đầu tư  đến các môn học chính, đặc biệt là môn Tiếng Việt và môn Toán. Điều đó  phần nào đã làm ảnh hưởng đến mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh. ̀ ́ ̣ Vê phia hoc sinh: H ọc sinh vùng nông thôn còn nhút nhát, chưa tự tin  18
  19. trong các hoạt động của nhà trường. Vì vậy, việc khám phá để  tự  chiếm  lĩnh tri thức còn hạn chế do đo cũng  ́ ảnh hưởng đến việc đổi mới phương  pháp dạy học cung nh ̃ ư chât l ́ ượng giao duc chung c ́ ̣ ủa giáo viên. Về cơ sở vật chất: Một số phòng học cũ chưa đúng quy cách, không  đủ   ấm về  mùa đông,  mát về  mùa hè, không đủ  ánh sáng, bàn ghế  không  đúng quy cách, không có đủ  phòng học chức năng. Vì vậy, việc triển khai   nội dung chương trình sách giáo khoa tiểu học mới không đáp  ứng về  yêu   cần cơ sở vật chất mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề ra. Thư  viện nhà trường còn nghèo nàn, đầu sách dùng chung còn ít và  thiếu các tài liệu tham khảo, tài liệu bồi dưỡng học sinh năng khiếu còn  hạn chế. Vì vậy ảnh  hưởng đến chất lượng mũi nhọn của nhà trường. Thiết bị dạy học cấp phát chưa đầy đủ, tính năng sử dụng chưa cao và  còn hạn chế nên cũng ảnh hưởng không ít đến phương pháp dạy học của giáo  viên. Về học sinh: Do yếu tố địa phương, gia đình chi phối nên đa số học  sinh ngoài việc học tập phải giúp đỡ  gia đình công việc nhà nông, vì vậy  thời gian dành cho việc học tập chưa nhiều,  ảnh hưởng lớn đến kết quả  học tập. Học sinh phần lớn chưa chăm học mà lại học lệch, hầu như  các  em chỉ chú ý  học Toán và Tiếng việt, còn môn học khác ít quan tâm. Về  phía phụ  huynh học sinh:   chưa nhận thức đầy đủ  việc học  hành của con họ dẫn đến một số  học sinh chưa có động cơ, mục đích học   tập đúng đắn. Học sinh chưa biết học để  sau này làm gì mà chỉ  xác định  học hết Trung học cơ sở về nhà làm ruộng, làm thuê nên chưa tích cực học  tập. Số  em học chưa vững thường là những học sinh có hoàn cảnh gia  đình kinh tế khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa hoặc ít quan tâm đến con cái cho  nên việc vận động, thuyết phục số học sinh này rất khó khăn. 19
  20. Để nâng cao chất lượng giáo dục, đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết  định. Người thầy có phẩm chất tốt, năng lực chuyên môn giỏi, say mê với  nghề nghiệp thì chắc chắn dạy học sẽ có chất lượng cao và ngược lại. Chất lượng của đội ngũ giáo viên trong nhà trường những năm gần  đây được thể hiện qua bảng thống kê sau: TT TS Phân loại giáo viên Năm học Nữ GV Tốt Khá TB 1 2017 ­ 2018 27 17 11/27=40,7% 14/27=48,2%  3/27 = 11,1% 2 2018 ­ 2019 25 17 7/25=28% 17/25=68%  1/25 = 4% Thực tế cho thấy, những năm gần đây việc quản lý đội ngũ chưa thật   sự  khoa học. Cán bộ  quản lý đôi khi chưa rứt khoát trong phân công công  việc, xử  lý vi phạm chưa nghiêm khắc, còn nể  nang. Việc quản lý chất  lượng học sinh chưa sâu sát, nắm chất lượng dựa trên số  liệu giáo viên  giảng dạy báo cáo hoặc phân công kiểm tra chéo. Vì vậy kết quả giáo dục   chưa phản ánh đúng thực chất chất lượng học tập của học sinh. Ngoài công tác bồi dưỡng tập trung, công tác tự  bồi dưỡng của giáo  viên cũng vô cùng cần thiết và không   thể  thiếu được đối với giáo viên.  Qua những thực tế  cho thấy số  giáo viên có ý thức tự  bồi dưỡng, tự  sưu   tầm sách báo để bổ sung kiến thức, kinh nghiệm cho bản thân còn rất ít mà  đa số giáo viên chỉ dừng lại  ở những nội dung có sẵn trong sách giáo khoa  và sách giáo viên. Đó cũng là một hạn chế  rất lớn  ảnh hưởng đến chất   lượng dạy và học của nhà trường. Một hạn chế lớn nữa của đội  ngũ giáo viên là đời sống vật chất mới  chỉ tạm đủ, các đồng chí đang nuôi con nhỏ  còn gặp nhiều khó khăn trong  việc nuôi con ăn học vì vậy ngoài giờ  lên lớp bản thân giáo viên phải làm  thêm ruộng, vườn chăn nuôi để tăng thu nhập cho gia đình cho nên họ chưa  thực sự dành hết thời gian và tâm huyết chăm lo cho chuyên môn của mình,   do vậy kết quả đạt được chưa cao. Một số giáo viên năng lực còn hạn chế,  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2