Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm lớp 3
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm tìm ra một số biện pháp tích cực, tối ưu trong công tác chủ nhiệm lớp góp phần nâng cao sự hình thành và phát triển về năng lực, phẩm chât và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, để từ đó học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội, hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm lớp 3
- MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP 3 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn sáng kiến: Đất nước ta trong thời kì phát triển và hội nhập với các nước trên thế giới, nhất là phát triển kinh tế trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, thì ngành giáo dục là ngành đầu tiên khai trương mở lối. Vì vậy ngành giáo dục chúng ta luôn chú trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Trong những năm gần đây chúng ta cũng nhận thấy rằng đạo đức, lối sống suy thoái ngày một gia tăng, lứa tuổi vị thành niên vi phạm pháp luật rất nhiều. trong nhà trường phổ thông nói chung và Tiểu học nói riêng, các em còn rất nhỏ, vốn hiểu biết chưa nhiều, các em như tờ gấy trắng, viết như thế nào thì nó in đậm, in sâu khó xóa mờ. Các em rất thơ ngây, hiếu động, dễ bị dụ dỗ, nghe theo. Mặt khác trong học tập có một số em còn ham chơi, ít chú ý, học hay quên, ý thức tự giác chưa cao. Xét thấy bản thân là một giáo viên chủ nhiệm, nhiệm vụ của mình vô cùng quan trọng trong việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách cho mỗi con người trong xã hội, mà bắt đầu là những em học sinh mà mình đang trực tiếp chủ nhiệm. Tôi đã vô cùng trăn trở, làm thế nào để có kết quả tốt nhất cho việc hoàn thiện nhân cách một đứa trẻ, trở thành một người công dân tốt của gia đình và xã hội. Xuất phát từ những lí do trên, bao năm làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn tìm những biện pháp tối ưu nhất để áp dụng vào công tác chủ nhiệm lớp của mình sao cho đạt kết quả như mong muốn, sao cho những nụ non được phát triển xanh tươi, đơm hoa kết trái cho đời. Đó cũng là lí do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm lớp 3. 1.2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu sáng kiến: Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ có được những giải pháp hữu hiệu, bài học kinh nghiệm có thể áp dụng vào thực tiễn để cùng làm
- tốt công tác chñ nhiÖm trong trường Tiểu học tôi đang công tác nói riêng và ngành giáo dục huyện nhà nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu đề tài thành công, đồng thời là gióp häc sinh mình phát triển tốt cả về kiến thức, năng lực lẫn phẩm chất đạo đức cũng sẽ được nâng lên một cách đáng kể, tõ ®ã các em vận dụng tốt ở các lớp trên. 1.3. Điểm mới của sáng kiến: Giúp người giáo viên chủ nhiệm lớp có điều kiện gần gũi với học sinh, hiểu học sinh hơn để từ đó giáo dục các em ngày càng tốt hơn. Học sinh không còn tâm lí ngại gần gũi, ngại tiếp xúc với giáo viên chủ nhiệm lớp, tạo điều kiện để học sinh phát huy tối đa những khả năng vốn có của mình trong học tập cũng như trong mọi hoạt động của lớp, của trường. Tìm ra một số biện pháp tích cực, tối ưu trong công tác chủ nhiệm lớp góp phần nâng cao sự hình thành và phát triển về năng lực, phẩm chât và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, để từ đó học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội, hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật… và có đủ khả năng tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trang: Giáo viên Tiểu học không chỉ dạy các môn học theo quy định của Bộ GD&ĐT mà còn phải làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Vì vậy, đòi hỏi người giáo viên Tiểu học không chỉ có trình độ chuyên môn mà còn phải biết tổ chức quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục, đó là việc rất nặng nề và cũng rất khó khăn đối với giáo viên. Học sinh lớp 3 là lứa tuổi đang bước vào tuổi dậy thì nên ngoài những thay đổi về thể chất, các em cũng thay đổi về tâm lý tình cảm, dễ bị tác động
- xấu bởi những tệ nạn của xã hội nếu các em không được giáo dục tốt. Học sinh trong lớp có em có hoàn cảnh khó khăn nên thiếu sự quan tâm sâu sát của gia đình, có em sống với ông bà ngoại để đi học vì bố mẹ đi làm ăn xa; đặc biệt có em có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bố mẹ bỏ nhau, nhà nghèo nên em có tâm lí chán học, thường xuyên nghỉ học. Một số phụ huynh coi việc giáo dục trẻ là bổn phận và trách nhiệm của nhà trường mà đặc biệt là của giáo viên. Từ thực tế trên, tôi tự hứa với lòng mình phải cố gắng thật nhiều để làm tốt công tác chủ nhiệm và phải đặc biệt quan tâm, gần gũi hơn với học sinh. Những thuận lợi, khó khăn trong công tác chủ nhiệm lớp: 1. Thuân l ̣ ợi: Các ban ngành, đoàn thể luôn tạo điều kiện giúp đỡ hỗ trợ nhiệt tình về mọi mặt. Ban giám hiệu luôn quan tâm đến chất lượng dạy và học, việc giáo dục đạo đức rèn phẩm chất, năng lực cho HS. Cơ sở vật chất của trường đảm bảo cho việc dạy và học. Ngay từ đầu năm học trường đã tổ chức được cuộc họp với phụ huynh để chấn chỉnh nế nếp học tập của các em. Là giáo viên chủ nhiệm lớp 3. Bản thân luôn nhiệt tình trong công tác, hết lòng vì học sinh thân yêu. Nay từ đầu năm học tôi đã nắm và hiểu rõ về tình hình, đặc điểm của lớp, của từng học sinh. Các em đều là học sinh ngoan, biết vâng lời thầy cô giáo, chăm học, đoàn kết, luôn yêu thương giúp đỡ nhau. Học sinh có đủ sách vở và đồ dùng học tập. Gia đình học sinh đều ở gần trường đóng, thuận lợi cho việc đi lại của học sinh. Trong giai đoạn hiện nay, với sự bùng nổ công nghệ thông tin nên việc nắm bắt chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước của mỗi giáo viên, của phụ huynh rất kịp thời, Sự liên lạc giữa giáo viên chủ nhiệm – gia đình học sinh – nhà trường khá kịp thời 2. Kho khăn ́ *Những khó khăn do khách quan:
- Nhận thức của một số phụ huynh còn hạn chế. Sự quan tâm giáo dục của gia đình đối với các em chưa đúng mức, phụ huynh còn quan niệm việc giảng dạy và giáo dục học sinh là do nhà trường đảm nhiệm. Việc này đồng nghĩa với việc khoán trắng trọng trách cho người giáo viên. Mặt khác cũng có gia đình quan tâm tới việc học của con em mình nhưng lại không nắm được nội dung giảng dạy cũng như phương pháp dạy dẫn tới hiệu quả không cao. Thậm chí có trường hợp phụ huynh dạy sai dẫn tới các em nhận thức lệch hướng của vấn đề. Chính những khó khăn này ảnh hưởng trực tiếp đến việc học của các em. Bên cạnh đó ngoài giờ học các em còn phải tiếp giúp gia đình như: cắt lúa, phơi lúa, giữ em để cha mẹ đi làm. Vì thế khi tới mùa vụ tỉ lệ nghỉ học của các em tương đối cao. Điều này làm cho việc học của các em bị hụt kiến thức dẫn đến mất căn bản. Mặt trái của sự bùng nổ về công nghệ thông tin đã mang đến những tiêu cực, các trò chơi ngày càng nhiều đặc biệt các trò choi trên mạng Internet…..thu hút học sinh tham gia. Đời sống kinh tế phát triển dễ làm cho các em rơi vào lối sống thiên về vật chất, do đó càng khó khăn hơn trong việc giáo dục tư tưởng cho các em có lối sống hồn nhiên có lý tưởng. * Khó khăn từ phía giáo viên và học sinh: Công tác quan hệ phối hợp với phụ huynh học sinh chưa được thường xuyên. Còn có nhiều học sinh gia đình có hoàn cảnh khó khăn, thuộc diện cận nghèo. Một số học sinh do thiếu thốn tình cảm gia đình (như chỉ ở với mẹ hoặc bố, cha mẹ làm ăn xa) nên các em ít được quan tâm, giáo dục toàn diện như các bạn cùng trang lứa, có em còn có những biểu hiện mặc cảm tự ti, không dám hòa mình trong mọi hoạt động chung của lớp. Lứa tuổi các em rất hiếu động, suy nghĩ chưa sâu sắc nên đôi khi còn hay tranh cãi, đánh nhau gây ra những trường hợp không đáng có trong môi trường giáo dục. Một số học sinh chưa có động cơ tự học tập, thiếu hứng thú, chưa thấy lợi ích của việc học, chưa có thói quen và kỹ năng lao động trí óc.
- 3. Nguyên nhân của những thực trạng nói trên: Hiện tượng trẻ em chưa linh hoạt khi phải xử lí những tình huống của cuộc sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng kiến và dễ nản chí ngày càng nhiều. Nhiều vấn đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ chưa được cập nhật, bổ sung vào chương trình giáo dục nhà trường. Việc định hướng sai các giá trị là nguyên nhân gây ra những hiện tượng đáng tiếc trong ứng xử của trẻ. Phương pháp giáo dục nhồi nhét, lí thuyết suông, không tạo được cho trẻ khả năng tư duy, óc phân tích, suy xét, phán đoán, không tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm những vấn đề thực trong cuộc sống hiện đại… Qua nhiều năm thực tế giảng dạy ở trường, bản thân tôi nhận thấy học sinh chưa tốt là do những nguyên nhân sau: Giáo viên và người lớn chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh. Rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi chưa thật sâu sát. Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinh còn ít. Công tác tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiên giáo d ̣ ục đạo đức cho các em chưa nhiều. Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kĩ năng sống do sự hạn chế của giáo dục gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực tiếp khiến học sinh gặp khó khăn trong xử với tình huống thực của cuộc sống. 2.2. Các biện pháp thực hiện: 2.2.1. Biện pháp 1: GVCN phải có nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò vô cùng quan trọng của mình đối với sự phát triển của học sinh lớp chủ nhiệm: GVCN là thành viên của tập thể sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và phụ huynh học sinh quản lí, tổ chức học tập rèn luyện đạt
- mục tiêu đào tạo. GVCN vừa đóng vai trò quản lí hành chính Nhà nước, vừa đóng vai trò người thầy giáo, đồng thời còn đóng vai trò người đại diện cho quyền lợi của tập thể lớp. Đối với HS và tập thể lớp, GVCN vừa là nhà giáo dục và là người lãnh đạo gần gũi nhất, người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra toàn diện các hoạt động giáo dục, hoạt động tập thể và chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng về công tác giáo dục đạo đức, lối sống và chuẩn KTKN cần đạt của lớp mình được quy định trong chương trình GDPT tại QĐ số 16/ QQD BGD ĐT ngày 5/5/ 2006 của BGD và ĐT. GVCN là người chủ chốt của nhà trường làm công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho HS lớp mình chủ nhiệm. Trong quan hệ với các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường, GVCN là nhân vật trung tâm để hình thành, phát triển nhân cách học sinh; là cầu nối giữa lớp với gia đình, nhà trường và xã hội. 2.2.2. Biện pháp 2: Tìm hiểu nắm rõ đặc điểm tình hình của lớp chủ nhiệm để có biện pháp tổ chức giáo dục sát với đối tượng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của từng học sinh và của cả lớp. Ngay sau khi nhận lớp chủ nhiệm, tôi đã tìm hiểu, nắm bắt thông tin về đối tượng học sinh lớp chủ nhiệm qua các kênh thông tin khác nhau như điều tra qua học bạ năm học trước của học sinh, qua giáo viên chủ nhiệm cũ; lập phiếu điều tra các thông tin cá nhân; tiến hành phân loại học sinh… Sự phân loại và các thông tin trên là căn cứ để lựa chọn học sinh có năng lực, nhiệt tình vào Ban cán sự lớp, Hội đồng tự quản; đồng thời cũng là cơ sở để đưa ra những biện pháp phù hợp trong việc giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm. 2.2.3.. Biện pháp 3: Xây dựng đội ngũ Hội đồng tự quản của lớp, hoàn thiện tổ chức lớp học: Xây dựng một đội ngũ Hội đồng tự quản giỏi là việc rất quan trọng người giáo viên làm công tác chủ nhiệm phải có kế hoạch thực hiện. Hơn nữa, để đội
- ngũ cán bộ lớp cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nề nếp học tập của các bạn là công việc cần thiết và có ích. Trước hết, những học sinh được chọn vào Hội đồng tự quản bao giờ cũng phải gương mẫu trước các bạn về mọi mặt: Học tập, kỷ luật, tham gia các hoạt động, đối xử với bạn bè.... Hội đồng tự quản của lớp tôi gồm: 1 Chủ tịch HĐTQ, 2 Phó chủ tịch HĐTQ và gồm 6 ban với các chức trách và nhiệm vụ như sau: * Chủ tịch Hội đồng tự quản: Điều hành công việc chung * Phó chủ tịch Hội đồng tự quản: Điều hành các ban theo sự phân công của chủ tịch Hội đồng. * Ban văn nghệ : Tổ chức cho các bạn hát, múa, chơi trò chơi vào đầu tiết học và cuối tiết học. Có thể lồng ghép chơi trò chơi để ôn lại kiến thức cũ. * Ban học tập: Có nhiệm vụ phát đồ dùng và mời các nhóm trưởng lên nhận tài liệu và đồ dùng học tập. Kiểm tra bài cũ, bài tập ứng dụng của các bạn, báo cáo với cô giáo vào đầu giờ. Trong tiết học ngoài nhiệm vụ học tập của mình phải quan sát bao quát lớp để cuối mỗi tiết học nhận xét đánh giá tình hình học tập của lớp. Ngoài ra, tùy từng bài mà đặc biệt là ở hoạt động làm việc cả lớp, giáo viên có thể để ban học tập thay cô giáo kiểm tra lại kiến thức mà các nhóm vừa thảo luận xong. Muốn làm được tốt công việc đó, cuối mỗi buổi học, tôi thường mời ban học tập ở lại để giao nhiệm vụ trước cho các em. * Ban lao động: Có nhiệm vụ theo dõi vệ sinh chung của cả lớp. Đầu mỗi buổi học phải phân công vệ sinh lần lượt cho các nhóm và kiểm tra nhóm nào chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa tốt. Cuối mỗi buổi học cũng phải kiểm tra lại xem nhóm nào thực hiện vệ sinh chưa tốt để kịp thời nhắc nhở các bạn thực hiện tốt. * Ban thể dục: Có nhiệm vụ theo dõi phần tập thể dục giữa giờ và các tiết học thể dục xem bạn nào thực hiện tốt, bạn nào thực hiện chưa tốt.
- * Ban sức khỏe: Theo dõi về sức khỏe nếu trong lớp bạn nào có vấn đề về sức khỏe thì đưa bạn lên phòng y tế của trường hoặc báo với cô y tế. * Ban thư viện: Cho các bạn mượn truyện đọc, thu truyện và sắp xếp thư viện gọn gàng ngăn nắp. * Ban ngoại giao: Có nhiệm vụ nếu lớp có khách đến thăm thì ra mời khách vào và biết giới thiệu về trường, lớp các góc học tập, cô giáo, các bạn. … Nhiệm vụ của mỗi em, mỗi ban được ghi rõ ràng trong một cuốn sổ, sau đó phát cho các em. Tôi hướng dẫn từng em cách ghi chép trong sổ một cách khoa học, cụ thể, rõ ràng. Mỗi em sẽ làm đúng các nhiệm vụ của mình. Hội đồng tự quản và các ban phải đoàn kết và hợp tác chặt chẽ với nhau trong công việc chung. Cuối mỗi tuần, vào tiết sinh hoạt lớp ngày thứ sáu, dưới sự điều hành của Chủ tịch HĐTQ, đại diện các ban báo cáo các mặt hoạt động của lớp. Căn cứ vào báo cáo của từng ban, GVCN nắm được khả năng quản lí lớp của từng thành viên. Và cứ cuối mỗi tháng, GVCN tổ chức họp HĐTQ một lần để tổng kết các mặt làm được của lớp, động viên khen ngợi những việc các em đã làm tốt, đồng thời chỉ rõ những thiếu sót và hướng dẫn các em cách khắc phục. 2.2.4. Biện pháp 4: Xây dựng kế hoạch phù hợp và chỉ đạo các em thực hiện tốt theo kế hoạch. Từ thực tế nắm bắt được tình hình của học sinh tôi xây dựng một kế hoạch chủ nhiệm. Kế hoạch này ngoài việc căn cứ vào kế hoạch của nhà trường, phải dựa vào tình hình thực tế của lớp, xây dựng kế hoạch cả năm, kế hoạch học kỳ, tháng, tuần, bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm HS, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng em; Có được kế hoạch thì tôi đi vào chỉ đạo học sinh thực hiện theo kế hoạch đã định. Phát huy vai trò của hội đồng tự quản và các ban, đội ngũ này sẽ giúp giáo viên động viên, đôn đốc, kịp thời uốn nắn, kiểm tra đối tượng học sinh. Sau mỗi tuần giáo viên tổng kết lại cả quá trình và rút ra cho mình bài học
- kinh nghiệm. Từ đó biết được ưu, khuyết điểm của lớp để khắc phục và đưa ra hướng hoạt động cho tuần tiếp theo. Những vấn đề trong hướng dẫn lớp hoạt động, giáo viên ghi vào sổ chủ nhiệm những gì mình theo dõi được ở học sinh. Từ đó đánh giá và giáo dục học sinh tốt hơn. 2.2.5. Biện pháp 5: Luôn quan tâm, tạo sự gần gũi hòa đồng giữa GVCN với HS, tập thói quen thực hiện nề nếp theo qui định. Từ khi nhận lớp và đi thăm gia đình phụ huynh học sinh, tôi đã hiểu được phần nào ở mỗi học sinh, nên đã lập nên một kế hoạch: Ở trước lớp tôi động viên và khuyên nhủ các em về vệ sinh lớp trước khi vào học, vệ sinh cá nhân sạch sẽ. Về tác phong tư tưởng, các em còn vụng dại, sợ sệt không giám nói, sinh hoạt còn mang nặng ở nhà, ăn mặc còn bẩn. Vì thế tôi đã gần gũi với các em, hoà mình vào tập thể lớp như: gài cúc áo, xắn tay áo, chải đầu, sửa quần áo... cho các em. Tôi đã giành thời gian giữa giờ để tập hát, kể chuyện cho các em một số câu chuyện bổ ích. Để tạo cho các em hứng thú trong học tập, sự hoà đồng giữa giáo viên và học sinh, rút ngắn lại khoảng cách thầy, trò. Trước đây các em xa lạ với tôi bao nhiêu thì các em càng gần gũi với tôi bấy nhiêu. Trong các giờ lên lớp tôi luôn luôn xác định rằng khi học là phải có một nề nếp. Tổ chức cho HS cả lớp cùng với HĐTQ xây dựng một nề nếp và kiên quyết thực hiện theo nề nếp đã qui định. 15 phút đầu giờ tôi chữa bài tập, ôn lại bài cũ, tập hát cho các em... Thực hiện dạy bài mới, ôn bài cũ qua từng giai đoạn, từng thời kì. Với phương pháp từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn. Khi ngồi học bàn ghế phải ngay ngắn, ngồi vuông góc, ngồi thẳng hàng, bàn nào có em nói chuyện là mời em đó lên ngồi bàn trên. Xếp chỗ ngồi một em khá, một em yếu để các em kèm cặp nhau trong học tập, các nhóm trưởng phải theo dõi trong nhóm của mình ai nói chuyện riêng, không làm bài tập, không học bài cũ, đi học muộn, nghỉ học không có phép...bạn nào hăng say phát biểu, xây dựng bài.
- Các nhóm trưởng phải theo dõi các bạn trong nhóm của mình. Cuối tuần thống kê tuyên dương những em có ý thức tốt, em nào mắc phải khuyết điểm tự đứng dậy nhận lỗi trước lớp và giáo viên chủ nhiệm. Đây là một việc làm mang tính giáo dục, các em tự biết nhận lỗi, tự nhận ra khuyết điểm của mình. Qua những việc làm như vậy, tôi thấy các em tiến bộ rõ rệt. Theo tôi nghĩ, nhiều lúc nghiêm túc quá sẽ dẫn đến không khí căng thẳng trong giờ học. Trong khi học bài nếu học sinh phát biểu tôi luôn chú ý động viên dù trả lời không đúng hoặc đúng ít để tạo cho lớp mình có một phong trào học tập hằng say và sôi động. Do đó tôi thấy rằng với những việc làm như thế, mỗi giờ dạy của tôi đối với lớp có phần sôi động hẳn lên, tạo cho cả hai phía giáo viên và học sinh. Giáo viên thì hứng thú giảng dạy, còn học sinh thì hứng thú học tập và kết quả truyền thụ và tiếp thu của các em khá cao. Ngoài việc dạy kiến thức tôi luôn quan tâm đến việc ghi chép bài vở của học sinh, xem các em viết bài như thế nào. Em nào ghi chưa hợp lý và chưa khoa học, tôi đã hướng dẫn các em ghi chép đầy đủ và khoa học hơn. Hướng dẫn các em cách cầm sách khi đọc bài, cách trả lời các câu hỏi phải có đầu, đuôi. Luôn quan tâm giúp đỡ các em học yếu. Luôn nhắc nhở và quan sát tư thế ngồi học của các em, để kịp thời sửa chữa cho các em ngồi đúng tư thế. Khi giảng dạy tôi luôn dùng những kí hiệu trên bảng để điều khiển lớp, nhằm hạn chế sự làm việc riêng của học sinh, giáo viên khỏi phải nói nhiều và thói quen trong học tập. Trong giờ học, tôi luôn tạo không khí sinh động, sôi nổi, hài hòa, vui tươi không căng thẳng mà tạo niềm vui, sự phấn chấn để các em tự tin học tập, các em vừa học vừa chơi nhưng vẫn đảm bảo chương trình chung. Ví dụ trong giờ học toán tôi vận dụng các câu chuyện cổ tích, câu chuyện vui để đưa ra các bài toán liên quan đến chương trình toán mà các em đang học. Khi đọc các bài toán có trong câu chuyện các em cảm thấy thú vị hơn với vấn đề yêu cầu các em giải quyết, nó còn giúp học sinh nâng cao kĩ năng đọc. Từ sự hưng phấn đó khoảng
- cách giữa các em với cô giáo chủ nhiệm được gần hơn, các em thực sự mạnh dạn trong học tập. Trong các tiết học tôi luôn chú ý các em yếu hoặc tính trầm lặng ít phát biểu. Đối với các em ít nói, tôi thường gọi các em đứng dậy nhắc lại những câu trả lời của bạn hoặc đọc lại những câu ghi trên bảng để tạo cho các em thêm mạnh dạn và nói lưu loát hơn trước đám đồng. Còn các em yếu kém tôi luôn chú ý kèm cặp và dìu dắt kĩ hơn các em khác. Luôn động viên và khuyến khích các em dù có những việc làm nhỏ. Từ đó tôi thấy các em mạnh dạn hơn và kết quả nâng cao. * Quan tâm giáo dục học sinh cá biệt, HS có hoàn cảnh khó khăn: Là giáo viên chủ nhiệm lớp, trước hết phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân dẫn đến hành vi của HS; gặp riêng HS cá biệt bằng tình cảm chân thành của mình. Khi các em mắc lỗi, giáo viên cần bình tĩnh, nhẹ nhàng, tế nhị, phân tích có lý, có tình mức độ nguy hại của khuyết điểm, thức tỉnh HS bằng những câu chuyện đạo đức để cảm phục các em. Tin tưởng giao công việc tập thể phù hợp với khả năng của HS cá biệt. Đây là việc làm mang tính hai mặt, đòi hỏi GVCN lớp phải thường xuyên giám sát, kiểm tra và động viên kịp thời khi HS đạt được thành tích dù là nhỏ nhất. Tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động nhân đạo để tạo điều kiện cho HS cá biệt tham gia; xây dựng môi trường lành mạnh, tích cực, để các em có cơ hội tự thể hiện mình. Cho các em tham gia và thực hiện tốt các chuyên đề ngoại khoá, rèn luyện kỹ năng sống để các em tiến bộ. Tổ chức cho tập thể lớp quan tâm tận tình giúp đỡ dưới mọi hình thức như: thăm hỏi, đôi bạn, nhóm bạn cùng tiến. Ngoài ra bản thân tôi còn kêu gọi các tổ chức trong và ngoài nhà trường ủng hộ, quyên góp về vật chất để giúp các em có điều kiện đến trường. GVCN lớp có thể lấy tấm gương tốt trong tập thể, hoặc của chính một HS cá biệt đã tiến bộ để cảm hoá HS cá biệt. Kết hợp chặt chẽ với GV bộ môn vừa để hiểu hơn về HS vừa giúp các
- em có những cố gắng ở từng môn học. Đồng thời, kết hợp chặt chẽ với hội CMHS, Đội TNTP để thống nhất biện pháp giáo dục HS cá biệt. Thực tiễn giáo dục HS cá biệt là rất khó khăn và không phải HS cá biệt nào cũng giáo dục thành công. Công tác giáo dục HS cá biệt luôn là một thử thách rất lớn đối với mỗi GVCN lớp, song làm tốt được điều này bạn mới thực sự trở thành một nhà giáo dục theo đúng nghĩa. 2.2.6. Biện pháp 6: Tổ chức tốt các hoạt động tập thể và các trò chơi vui tươi lành mạnh. Thích sinh hoạt tập thể và tham gia các trò chơi bổ ích là nhu cầu, là sở thích của hầu hết các học sinh tiểu học. Vì vậy, khi tổ chức cho các em sinh hoạt tập thể và tham gia các trò chơi là giáo viên đã giúp các em “học mà chơi, chơi mà học”, kiến thức và kĩ năng ở mỗi em sẽ được hình thành và rèn luyện một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không gây căng thẳng, gò bó đối với các em. Ngoài ra, tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi còn giúp các em phát triển và hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo. Ngoài ra, việc tổ chức các hoạt động tập thể còn là sợi dây gắn bó, kết nối, đoàn kết các em lại với nhau. Các hoạt động sinh hoạt tập thể và một số trò chơi đơn giản, gọn nhẹ, tôi có thể tổ chức ngay trong mỗi buổi học chính khóa và cả các buổi sinh hoạt ngoài giờ lên lớp. * Tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi trong buổi học chính khóa Giữa 2 tiết học căng thẳng, tôi thường tổ chức cho các em múa hát tập thể, biểu diễn văn nghệ, hát dân ca, diễn hài,... Trong các tiết TNXH, Đạo đức, tôi tổ chức cho các em chơi các trò chơi như: làm phóng viên; sắm vai xử lí các tình huống phòng tránh bị xâm hại, từ chối các chất gây nghiện, bày tỏ thái độ đối với người bị nhiễm HIV/AIDS,...và đóng vai xử lí các tình huống trong môn Đạo đức. Thông qua các hoạt động này, các em còn được hình thành và rèn luyện nhiều kĩ năng sống cần thiết.
- Tôi phân công vai diễn, múa hát hoặc giao việc phù hợp với khả năng của từng em, khuyến khích động viên các em tự tin bộc lộ năng khiếu của mình. Nhờ vậy, các tiết học chính khóa trở nên sôi nổi, các em rất hào hứng tham gia. Thông qua các hoạt động vui chơi, các em được “làm”, “được trải nghiệm” như trong cuộc sống thực, điều đó sẽ giúp các em lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống một cách nhẹ nhàng, nhưng lại hiệu quả. * Tổ chức các họat động sinh hoạt tập thể và vui chơi thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp Ở Tiểu học, giáo dục ngoài giờ lên lớp được qui định trong chương trình chính khóa, không bắt buộc giáo viên chủ nhiệm phải lên tiết ngoài giờ lên lớp. Nhưng nếu các hoạt động này chỉ diễn ra ở các tiết học chính khóa trên lớp thì sẽ mất rất nhiều thời gian, nếu như giáo viên vận dụng và tổ chức không khéo léo thì sẽ làm ảnh hưởng đến tiến trình giờ học. Do vậy, đối với những hoạt động chiếm nhiều thời gian, cần nhiều sức lực, tôi tổ chức cho học sinh tham gia trái buổi, mỗi tuần 1 buổi. Tổ chức cho học sinh ôn luyện kiến thức bằng các trò chơi như: Rung chuông vàng, Hái hoa dân chủ, Thi tìm hiểu về An toàn giao thông,... Nội dung thi được tôi soạn bằng chương trình PowerPoint nên gây được sự thích thú, hào hứng cho học sinh mỗi lần tham gia. Tổ chức các buổi họp lớp, làm đồ dùng học tập và làm báo tường, vẽ tranh chào mừng các ngày lễ lớn. Tổ chức cho học sinh xem phim tài liệu kỉ niệm các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước như: Kỉ niệm ngày thành lập Đảng, Cách mạng tháng Tám, Kỉ niệm ngày Quốc khánh, ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày giải phóng miền Nam,...Những đoạn phim tài liệu này, tôi lấy trên mạng Internet rồi kết nối với máy chiếu, chiếu lên cho học sinh xem. Hướng dẫn các em làm bình hoa, cắt gấp hoa để trang trí góc học tập và làm một số đồ chơi đơn giản để trưng bày hoặc để tặng người thân bạn bè.
- Dựa trên hướng dẫn ở báo Chăm học, tôi tập trung cả lớp lại và hướng dẫn các em làm việc theo nhóm. Các em cùng làm, cùng góp, giúp đỡ nhau làm việc. Nhờ thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể và các trò chơi cho cả lớp nên các em trở nên rất tự tin, rất năng động sáng tạo. Và điều quan trọng là tôi đã thực sự xây dựng được một môi trường học tập thân thiện, học sinh tích cực. Sĩ số của lớp tôi luôn đảm bảo, chất lượng học tập của học sinh ngày càng nâng cao. * Tổ chức tốt giờ sinh hoạt lớp cuối tuần: Là giáo viên chủ nhiệm lớp thì giờ sinh hoạt cuối tuần là thời gian quan trọng nhất, bởi tiết này không đơn thuần chỉ dừng lại ở việc nhận xét ưu, khuyết điểm của lớp trưởng về hoạt động của lớp tuần qua mà trong giờ sinh hoạt cuối tuần nhằm để học sinh nhận thấy được các khuyết điểm của chính bản thân mình, dù nhỏ hay lớn đều phải tự hứa trước lớp sẽ có biện pháp khắc phục trong tuần tới. Đặc biệt trong giờ sinh hoạt này, tôi lấy các tấm gương điển hình về học tập, giúp đỡ bạn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao để tuyên dương, khen ngợi phần này được nhấn mạnh hơn, phần tồn tại chỉ nhắc nhở không quá khắt khe có như vậy các em mới tự giác thực hiện tốt. Ngoài những biện pháp nói trên, tôi còn thường xuyên quan tâm đến việc phối hợp tốt với các GV bộ môn, với Liên đội, với BGH nhà trường, với Phụ huynh học sinh,… Nhờ vậy mà việc giáo dục học sinh của lớp có nhiều hiệu quả hơn. Đặc biệt bản thân tôi luôn làm gương trong mọi mặt để cho các em noi theo. Bởi vì tôi luôn nghĩ, giáo viên chủ nhiệm như người mẹ hiền thứ hai chăm sóc đàn con của mình, mỗi việc làm lời nói của người giáo viên chủ nhiệm ảnh hưởng rất lớn trong việc hình thành nhân cách học sinh. Trong những năm làm công tác chủ nhiệm, tôi nhận thấy rằng: Người giáo viên chủ nhiệm nào chăm lo tới lớp của mình và có năng lực tổ chức quản lý lớp thì lớp đó bao giờ cũng ngoan hơn, nề nếp hơn. Đúng là “Mẹ nào con đó, tướng nào quân ấy”. Người giáo viên nào đứng lớp cũng cần chữ “ Uy”. Nhưng
- chữ “Uy” của giáo viên chủ nhiệm đối với học sinh thì cần hơn. Chữ “Uy” ở đây là uy tín, là lòng kính trọng tin yêu, là lòng khâm phục lòng ngưỡng mộ của trò đối với thầy... Thầy có chữ “Uy’’ thì thầy bảo, thầy nói, thầy dạy trò mới vâng theo. Theo tôi, chữ “Uy” được hình thành từ cái nhỏ nhất. Đó là lời nói, việc làm, hành động; là trang phục, tư thế tác phong, cách thức cư xử ... và sự hấp dẫn trong từng tiết học của thầy của giáo viên chủ nhiệm. Bên cạnh chữ “Uy” thì phải nói tới chữ “Tâm” của giáo viên chủ nhiệm. Chữ “Tâm” được hiểu ở đây là lòng thương yêu trẻ đích thực, là lòng tâm huyết với công việc của mình. Người giáo viên chủ nhiệm cần phải quản lý lớp, giáo dục học sinh bằng tình yêu thương. Kinh nghiệm của bản thân tôi: Học sinh yêu quí thầy cô nào thì thích học thích vâng nghe theo lời thầy cô ấy. Tóm lại , người giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng. Lao động của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là lao động sáng tạo không ngừng; Sự sáng tạo đó đòi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong soạn giảng, trong tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể và đặc biệt là trong các biện pháp giáo dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy chỉ có những giáo viên thực sự tâm huyết với nghề, thực sự thương yêu học sinh của mình thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng làm tốt công tác chủ nhiệm, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong mọi trường hợp. Việc nâng cao công tác chủ nhiệm cho giáo viên Tiểu học là điều hết sức cần. Để đạt được điều đó, giáo viên cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong suốt quá trình giảng dạy. *Kết quả đạt được: Qua việc thực hiện các biện pháp trên, kể từ đầu năm học 20192020 đến cuối học kì I này, bản thân tôi thật sự vui mừng vì các em có nhiều tiến bộ rõ rệt. Các em đều có ý thức kỉ luật, tinh thần tự giác và có tinh thần tự học. Giờ
- truy bài thực sự hữu ích với các em vì đó chính là giờ tự học, tự kiểm tra rất có kết quả. Các em mạnh dạn trình bày ý kiến và mong muốn của mình trước tập thể. Hội đồng tự quản làm việc có bài bản, thực sự năng động hơn. Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong nhiều nghi thức lời nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào thực tế, những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi, những yêu cầu, đề nghị lịch sự,... đã trở thành thói quen được các em vận dụng hằng ngày. Các em rất hăng hái phát biểu trong tiết học. Phụ huynh học sinh rất vui mừng phấn khởi trước sự tiến bộ trưởng thành của con em mình, với những kết quả tốt đẹp của tập thể lớp 3. Kinh nghiệm trên đã áp dụng rộng rãi ở tất cả các lớp trong khối 3 nói riêng và học sinh toàn trường nói chung, được các đồng nghiệp đồng tình ủng hộ. Học sinh trong khối ngoan hơn, tự giác chủ động, mạnh dạn hơn, đã thể hiện được cách xử lí trong ứng xử khá phù hợp. Toàn khối trong năm qua không có em nào bị kỉ luật và tỉ lệ lên lớp đạt chỉ tiêu. Nhìn lại kết quả trên cho thấy, học sinh trong lớp chủ nhiệm về năng lực và phẩm chất đều đạt. Về kiến thức kĩ năng các em đều hoàn thành và hoàn thành thành tốt. Như vậy, với hiệu quả đạt được như trên đã phần nào phản ánh được tác dụng sáng kiến này, nó được áp dụng có hiệu quả trong lớp cũng như trong khối. Các giáo viên trong trường cũng đã áp dụng sáng kiến này trong công tác chủ nhiệm của mình, học sinh đa số đều có kĩ năng sống tốt hơn: thích ứng được với môi trường xã hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề về sức khỏe, môi trường, tệ nạn xã hội,…các em có thể tự tin, chủ động không bị quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu vươn lên đáp ứng được phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.” Qua thời gian tiếp tục nghiên cứu và thực hiện các giải pháp trong đề tài, bằng kinh nghiệm thực tế đã cho thấy kết quả đạt được cuối học kì I –Năm
- học: 2019 – 2020 như sau: Lớp, sĩ sô Năng lực Tự phục vụ, tự quản Hợp tác Tự học, GQVĐ Tốt Đạt Tốt Đạt Tốt Đạt 3B SL % SL % SL % SL % SL % SL % 20 62,5 12 37,5 18 56,3 14 43,7 16 50 16 50 32 Phẩm chất Chăm học, chăm Đoàn kết, yêu Tự tin, trách nhiệm Trung thực, kỉ luật làm thương Tốt Đạt Tốt Đạt Tốt Đạt Tốt Đạt SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % 62, 37, 71, 28, 81, 18, 84, 20 12 23 9 26 6 27 5 15,6 5 5 9 1 2 8 4 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của sáng kiến: Công tác chủ nhiệm lớp quả thật nặng nề và phức tạp. Người giáo viên phải vừa như người mẹ dịu dàng, người thầy nghiêm khắc, người bạn gần gũi, trọng tài phân minh… Thành công của giáo viên là làm cho học sinh tôn trọng, kính yêu, tin tưởng, là xây dựng được một tập thể lớp đoàn kết, gắn bó. Muốn đạt được điều đó, GVCN phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây: Thầy cô phải luôn là điểm sáng, là thần tượng của các em. Các em dễ tin, dễ nghe theo lời dạy bảo của thầy cô. Nắm chắc được những thuận lợi, khó khăn, hiểu rõ thực tế trường lớp mình, khéo léo tìm cách bỏ đi mọi rào cản trong mối quan hệ với phụ huynh, đề
- ra những biện pháp hữu hiệu, tiếp cận gần với các em nhất, tôi nghĩ rằng bất cứ giáo viên nào cũng sẽ sớm trở thành những người bạn của trẻ. Luôn gần gũi, bên cạnh, quan tâm tới hoàn cảnh sống của học sinh, nhất là học sinh có hoàn cảnh đặc biệt. Bên cạnh đó, liên hệ chặt chẽ với phụ huynh, ban đại diện cha mẹ học sinh của trường, của lớp, vận động cha mẹ học sinh có những hành động thiết thực hỗ trợ học tập sẽ giúp cho hoạt động của lớp có hiệu quả hơn. Phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ lớp làm nòng cốt, là “cánh tay phải” của mình. Muốn vậy cần phải có một sự chọn lựa dựa trên cơ sở định hướng của giáo viên và khả năng tín nhiệm của học sinh. Để giúp cho các em hoạt động có hiệu quả, tích cực, chính xác, người giáo viên cần xây dựng kế hoạch chủ nhiệm sát hợp với tình hình của lớp, thiết kế hệ thống sổ sách theo dõi phù hợp và thường xuyên kiểm tra, đánh giá để có cách điều chỉnh thích hợp. Ngoài ra, sự liên hệ chặt chẽ thường xuyên với các GVCN khác, với các giáo viên bộ môn cũng góp phần quan trọng cho GVCN trong thực hiện công tác của mình. Sống, học tập, lao động là những vấn đề thiết yếu mà bản thân luôn cố gắng để ươm mầm cho thế hệ trẻ. Bởi trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, là nhân tố để cây đời mãi mãi xanh tươi. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, bồi dưỡng trẻ em trở thành công dân tốt của đất nước là một công việc vô cùng quan trọng mà mỗi giáo viên chúng ta phải cùng có trách nhiệm. 3.2. Kiến nghị đề xuất: * Đối với công tác quản lý: Hằng năm PGD nên tổ chức các buổi hội thảo, chuyên đề về công tác chủ nhiệm lớp để các trường học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong công tác quản lý. Tổ chức các lớp bồi dưỡng cho giáo viên về kiến thức, kĩ năng để giúp đội ngũ làm tốt hơn nữa công tác chủ nhiệm lớp.
- *Đối với giáo viên: Tâm huyết với nghề, thương yêu và quan tâm trẻ thực sự; không ngừng học tập nâng cao tay nghề, trau dồi kinh nghiệm; nhận thức vấn đề đúng mực hơn sẽ tự mình tìm ra được những biện pháp đơn giản, hiệu quả để nâng cao công tác chủ nhiệm lớp. *Đối với phụ huynh: Phụ huynh phải thường xuyên gặp gỡ giáo viên chủ nhiệm để trao đổi về việc học tập, sinh hoạt của con em mình, để nắm bắt thông tin và cùng giáo viên chủ nhiệm có những biện pháp giáo dục kịp thời nhất. Phụ huynh cần quan tâm hơn nữa tới việc học tập, rèn luyện của con em mình, là tấm gương sáng để con học tập. Giáo dục và giúp học sinh rèn luyện kĩ năng, ý thức tự giác và hành vi ứng xử là tiền đề để các em học tập tốt và có một tương lai tốt. Vì vậy, quan tâm đúng mức và giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh có hiệu quả là một việc làm cần thiết và thường xuyên đối với mỗi một giáo viên, mỗi một phụ huynh và các lực lượng giáo dục khác. *Đối với Ban giám hiệu nhà trường: Thường xuyên tổ chức hội thảo chuyên đề về công tác chủ nhiệm lớp nhằm không ngừng nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên nói chung, GVCN nói riêng giúp cho đội ngũ làm tốt hơn nữa công tác chủ nhiệm lớp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường Hằng năm tổ chức bình bầu danh hiệu GVCN lớp giỏi cấp trường một cách công bằng, chính xác để tạo sự phấn đấu thi đua trong mỗi giáo viên. Động viên khen thưởng kịp thời cho những GVCN làm tốt công tác của mình, khen thưởng lớp đạt thành tích cao trong học tập và rèn luyện. Trên đây là một số biện pháp mà bản thân tôi đã thực hiện trong công tác chủ nhiệm lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh lớp 3. Kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học các cấp để sáng kiến
- được đưa vào thực hiện có hiệu quả cao. Tôi xin chân thành cảm ơn !
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2238 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 216 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 168 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 65 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn