intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

22
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học được hoàn thành với mục tiêu nhằm tạo cho học sinh rất hứng thú học tiết Tập đọc và nhiều học sinh đã có kĩ năng đọc đúng, đọc lưu loát, trôi chảy ở bất cứ một bài thơ, một bài văn nào đó.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2

  1. MỤC LỤC MỤC NỘI DUNG TRANG 1 Mở đầu 1 1.1 Lí do chọn đề tài 1 1.2 Mục đích nghiên cứu 1 1.3 Đối tượng nghiên cứu 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu 2 2 Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 3 2.1 Cơ sở lí luận 3 2.2 Thực trạng vấn  đề  trước khi áp dụng sáng kiến kinh   4 nghiệm 2.3 Giải pháp thực hiện 4 2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 12 3 Kết luận, kiến nghị 14 3.1 Kết luận 14 3.2 Kiến nghị 14
  2. I. PHẦN MỞ ĐẦU 1.  Lí do chon đề tài: Việc đọc giúp cho con người hiểu biết, tiếp thu nền văn minh của loài  người, làm giàu tâm hồn, tình cảm, giúp cho học sinh có công cụ học tập, giao  tiếp và phát triển tư duy, hình thành trong học sinh các tính chất tốt đẹp – lòng  yêu cái thiện, cái đẹp. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi   học sinh. Nó tạo ra hứng thú, động cơ học tập các môn học khác. Vì vậy, việc  dạy đọc có hiệu quả là một trong các yêu cầu cần thiết. Đặc biệt trong thời đại ứng dụng công nghệ  thông tin, nếu muốn giao   lưu không chỉ qua sách vở, báo chí trong nước mà còn giao lưu trên mạng với  toàn thế giới thì biết đọc, hiểu càng quan trọng vì nó sẽ giúp con người nắm   bắt, sử dụng được các nguồn thông tin vô cùng phong phú. Đọc chính là học,  là tiếp thu, nhận thức, đọc để tự hiểu, biết tính toán.Vì vậy, dạy tập đọc có ý  nghĩa rất quan trọng. Biết đọc đúng, đọc trôi chảy, lưu loát, ngắt câu vừa đảm bảo được  đúng ngữ pháp, ý nghĩa thông tin của tác giả muốn truyền đạt cho người nghe  hiểu, nhận thức được đúng cũng là góp phần làm trong sáng ngôn ngữ  Tiếng   Việt. Đọc giúp các em học sinh chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao  tiếp và học tập. Đọc cũng là công cụ  để  học tập các môn học khác. Đồng  thời tạo ra hứng thú và động cơ  học tập. Đọc tạo điều kiện để  học sinh có  khả  năng tự  học, đó là một khả  năng không thể  thiếu được của con người  trong thời đại hiện nay. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ có tác động tích cực  tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc. Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 2 và sự giao lưu, học hỏi các bạn đồng  nghiệp, tôi nhận thấy muốn cho học sinh nói và viết đúng chính tả, trước hết,   phải biết cách đọc đúng, đọc lưu loát, trôi chảy văn bản. Đối với học sinh   1
  3. tiểu học, nhất là đối với học sinh lớp 1, lớp 2 thì yêu cầu đọc đến đâu hiểu ­  cảm nhận được đến đó và đọc đọc lưu loát, trôi chảy ngay khi đọc thì quả là  một điều quá khó, mà giáo viên phải là người tìm ra giải pháp tốt nhất để  truyền đạt, hướng dẫn, gợi ý và làm mẫu cho học sinh, tuỳ vào từng bài, từng  thể loại giáo viên tìm cách khai thác, hướng dẫn cho học sinh hiểu từng đoạn  văn và cả  bài để  có thể  giúp học sinh đọc cho đúng.  Ở  đây, vấn đề  chính là  làm thế  nào để  học sinh thấy được tầm quan trọng của tập đọc để  các em  thích, có hứng thú trong giờ  học và đọc lưu loát, trôi chảy được các bài thơ,   bài văn. Từ  những suy nghĩ đó, trong năm học 2019 – 2020 này, tôi đã chọn  sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy Tập đọc   cho học sinh lớp 2”. 2. Điểm mới của đề tài: Là một giáo viên tiểu học, bản thân tôi luôn trăn trở  phải làm thế  nào  để  dạy 100% học sinh đọc đúng, đọc hiểu các văn bản được quy định trong  chương trình Tiếng Việt lớp 2 và đạt được yêu cầu kiến thức, kỹ năng đã đề  ra. Trên cơ sở dạy học sinh đọc đúng và hiểu các bài ứng dụng phù hợp với   lứa tuổi, giáo viên còn giúp các em bước đầu mở  rộng tầm nhìn ra thế  giới   xung quanh, rung cảm trước cái đẹp, trước những buồn vui, yêu ghét của con  người. Đồng thời hình thành ở mức đơn giản trong các em những nhận thức,   tình cảm và thái độ  đúng đắn của con người Việt Nam hiện đại, biết phân  biệt đẹp/xấu: thiện/ác; đúng/sai; biết yêu trường lớp, thầy cô, bạn bè, quê  hương, đất nước; có lòng nhân ái, có ý thức về bổn phận với ông bà cha mẹ  và người thân; biết bảo vệ môi trường, sống hồn nhiên, trung thực, ... Ngay từ  khi bước vào lớp 1 học sinh đã được học Tiếng Việt và yêu  cầu đối với học sinh ngày càng cao. Ở lớp 1 chủ yếu đọc hiểu được bài văn,  bài thơ ngắn có nội dung đơn giản còn việc đọc trôi chảy, lưu loát, chưa đòi   hỏi cao. Nhưng lên lớp 2 thì yêu cầu ngoài đọc đủ, đọc đúng còn phải đọc lưu  2
  4. loát, trôi chảy. Vì thế việc luyện kĩ năng đọc cho học sinh là rất cần thiết và  quan trọng. 3. Phạm vi sử dụng đề tài: Đề  tài được áp dụng trong công tác giảng dạy   “  Một số  biện pháp   nâng cao hiệu quả  dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2”  của học sinh trường  Tiểu học nơi tôi công tác. II. PHẦN NỘI DUNG  1Thực trạng dạy và học    Tập đọc cho học sinh lớp2   Trong trường tiểu học, tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ  quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc  được tạo nên từ các kĩ năng, cũng là các yêu cầu về chất lượng của “đọc” đó   là:           ­ Đọc đúng. ­ Đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy). ­ Đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc). Các kĩ năng này được hình thành trong hai hình thức đọc là: đọc thành  tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ cùng nhau. Sự  hoàn thiện một trong những kĩ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ  năng khác. Ví dụ: Đọc đúng là tiền đề  của đọc nhanh, cũng như  cho phép thông  hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì  không thể  đọc   lưu loát, trôi chảy. Nhiều khi, khó mà nói được rạch ròi kĩ   năng nào làm cơ  sở  cho kĩ năng nào, nhờ  đọc đúng mà hiểu đúng hay chính   nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy Tập đọc, không thể xem   nhẹ yếu tố nào. 3
  5. Nhiệm vụ  nữa của dạy Tập đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình  thành phương pháp và thói quen làm việc với văn bản, làm việc với sách cho  học sinh. Làm cho sách trở thành một sự tôn sùng ngự trị trong nhà trường, đó   là một trong những điều kiện để  trường học thật sự  trở thành trung tâm văn   hoá. Nói cách khác, thông qua việc dạy Tập đọc, phải làm cho học sinh thích  đọc và thấy được rằng khả năng đọc là lợi ích cho các em trong cả cuộc đời,   phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo   cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. Nhiệm vụ  khác: vì việc đọc không thể  tách rời khỏi những nội dung   được đọc nên bên cạnh nhiệm vụ  rèn kĩ năng đọc, giáo dục lòng yêu sách,   phân môn Tập đọc còn có nhiệm vụ: a) Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức vừa học cho  học sinh. b) Phát triển ngôn ngữ và tư duy  cho học sinh. c) Giáo dục tư  tưởng, đạo đức, tình cảm, thị  hiếu thẩm mỹ  cho học  sinh.                                             (Phương pháp dạy học Tiếng Việt 2 ­ NXBGD) Để  thực hiện tốt nhiệm vụ, mục đích của phân môn Tập đọc, sáng   kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy Tập đọc cho   học sinh lớp 2” giúp cho học sinh lớp 2 có kĩ năng đọc. Qua một năm áp dụng, cùng với việc vận dụng một cách linh hoạt  những đổi mới trong việc dạy môn Tập đọc, vận dụng những phương pháp   và hình thức tổ chức dạy học tôi thấy học sinh rất hứng thú học tiết Tập đọc  và nhiều học sinh đã có kĩ năng đọc đúng, đọc lưu loát, trôi chảy   ở  bất cứ  một bài thơ, một bài văn nào đó.      a. Thuận lợi:  4
  6.      Đa số học sinh  ở trường  hầu hết đồ  dùng học tập của các em đều được   bố mẹ trang bị  đầy đủ ngay từ đầu năm học, các em đều ngoan ngoãn, vâng  lời cô giáo.     b.  Khó khăn:        Học sinh đầu cấp nên kỹ năng đọc chậm, còn ê a ngắt ngứ, phát âm chưa  chuẩn, bộ máy phát âm còn khiếm khuyết, ngữ điệu của từng nhân vật trong  bài tập đọc chưa phù hợp. Các em cũng  ảnh hưởng từ  gia đình, xã hội trong  cách cư xử, giao tiếp: nói tiếng địa phương... 3. Nguyên nhân        Tập đọc là một phân môn có vị trí quan trọng hàng đầu trong chương trình  Tiếng Việt  ở  tiểu học. Dạy tốt phân môn Tập đọc không những rèn luyện  cho học sinh kĩ năng đọc mà còn phát triển cho các em vốn từ ngữ phong phú   tạo điều kiện để các em học tốt các phân môn khác. Thông qua môn Tập đọc  rèn cho các em kĩ năng đọc như: Đọc đúng, đọc nhanh, đọc chính xác, rõ ràng,   diễn cảm để học sinh có những hiểu biết về kiến thức văn học, ngôn ngữ và   ngược lại. Đầu tiên trẻ  phải học đọc sau đó trẻ  phải đọc để  học. Đọc giúp   các em lĩnh hội được ngôn ngữ, dùng trong giao tiếp và hoạt động học tập.   Nó là điều kiện để cho học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cho   cả  đời. Phân môn Tập đọc còn trau dồi cho học sinh kiến thức Tiếng Việt,   kiến thức văn học, kiến thức đời sống giáo dục tình cảm, thầm mĩ. Tập đọc  là môn khởi đầu, đồng thời cũng là công cụ  học tập không chỉ  trong nhà  trường mà còn trong cuộc sống nói chung.    Lớp 2 của tôi phụ trách trong năm học này có 29  học sinh. Ngay từ đầu  năm học và qua 2 tuần đầu tôi đã tìm hiểu về kiến thức môn Tiếng Việt nói  chung và trong phân môn Tập đọc nói riêng, cụ thể như sau: Chất lượng đọc đầu năm: 5
  7. Sĩ số  Khả năng Số học sinh Tỷ lệ % HS Đọc hay, lưu loát 4 em 13,8 Đọc đúng    10 em 34,5   29 Đọc ê a 8 em 27,6 Đọc từng tiếng một  7 em 24,1  Chính vì thế, để giúp các em học tốt môn Tiếng Việt nói chung, phân   môn Tập đọc thì giáo viên phải quan tâm đến kĩ năng đọc của học sinh trong  phân môn Tập đọc. 4. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2. Trong phân môn tập đọc tôi đã sử dụng linh hoạt 1 số phương pháp: Biện pháp 1:Sử dụng phương pháp quan sát, điều tra: ­ Phương pháp này để đánh giá mức độ học tập của học sinh thông qua  giọng đọc và lời phát biểu của học sinh.  Giáo viên ghi chép kết quả điều tra kĩ năng đọc của từng học sinh trong   năm học trước và quan sát nhận xét học sinh trong giờ  học. Để  từ  đó có cái  nhìn khái quát về  việc sử  dụng vốn ngôn ngữ  của học sinh. Từ đó giáo viên   dễ dàng phân loại khả năng đọc của từng học sinh trong lớp, qua đó giáo viên  lập kế hoạch bồi dưỡng, giúp các em phát huy khả  năng của mình trong tiết   học tập đọc chẳng hạn: Khi phân loại khả  năng đọc của học sinh, giáo viên tổ  chức cho học  sinh luyện đọc cho phù hợp . + Đối với học sinh đọc đúng, lưu loát, hiểu nội dung bài thì giáo viên  cho các em đọc mẫu trước  ở  các phần: Luyện đọc từ  khó, luyện đọc đoạn,  đọc cả bài … + Đối với học sinh đọc ê a, đọc phát âm chưa chuẩn, ngắt nghỉ  hơi  chưa hợp lý thì giáo viên nhắc nhở  và cho các em luyện đọc nhiều lần. Khi  6
  8. đọc ở  lớp, giáo viên cho các em luyện đọc theo, sau khi cô giáo hay học sinh  đã đọc mẫu  và kèm theo lời nhận xét, tuyên dương kịp thời nhằm động viên,  khuyến khích các em, giúp các em có lòng tin và tự tin hơn trong khi đọc. Để  tạo sự ham thích và hứng thú khi luyện đọc, giáo viên chọn học sinh cùng đối  tượng thi đọc với nhau. Giáo viên cần quan tâm đến các em nhiều hơn và kèm  theo lời nhận xét, tuyên dương kịp thời  khi các em có tiến bộ. + Khi phân loại khả  năng đọc của từng đối tượng học sinh, giáo viên  phải sắp xếp chỗ ngồi học của các em hợp lý, khoa học hơn: Những học sinh   đọc tốt ngồi rải đều trong lớp để  khi luyện đọc trong nhóm thì nhóm nào   cũng có một hoặc hai học sinh đọc đúng, đọc trôi chảy, lưu loát và những em  này sẽ  là nhóm  trưởng để hỗ  trợ, giúp đỡ  các bạn trong nhóm mình đọc tốt  hơn.  Biện pháp 2: Sử dụng phương pháp luyện theo mẫu: Sau bài Tập đọc, các em có khả năng “đọc” thành thạo.          Giáo viên cần nghiên cứu bài đọc để xác định giọng đọc, cách ngắt nghỉ  cụm từ, câu đến việc hiểu được ý nghĩa, tình cảm bài tập đọc để hướng dẫn   cho học sinh đọc đúng và nhận ra lỗi phát âm, giọng điệu sai lệch để  chữa  cho các em đọc đúng, đọc lưu loát, trôi chảy. Đọc mẫu chính là đọc giới thiệu: Bài đọc mẫu của giáo viên chính là   cái đích, mẫu hình thức rèn kỹ  năng đọc mà học sinh cần đạt được. Do đó,  yêu cầu đọc thành tiếng của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn:   Đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải ­ để diễn đạt được  đúng nội dung  và tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm trong bài Tập đọc. Ví dụ: + Khi dạy bài“Người thầy cũ”giáo viên giúp học sinh đọc với giọng  vui vẻ, trìu mến và ngắt hơi , nhấn giọng  ở những từ ngữ có nghĩa, thể hiện  7
  9. tình cảm của thầy giáo:“À / Khánh //. Thầy nhớ ra rồi //. Nhưng …// hình   như hôm ấy / thầy có phạt em đâu //!” +Hay  ở  trong bài:  Người mẹ  hiền­  Đọc với giọng buồn, ngắt hơi,  nhấn giọng phù hợp ở các từ ngữ trong câu: “Thưa thầy /, hôm nay / em chưa làm bài tập //.” Thể hiện nỗi buồn của An   vì bà mất . + Hay ở bài “ Bé Hoa”, khi đọc đoạn ba ( Bức thư  Hoa viết cho bố ),   giáo viên cần giúp học sinh đọc với giọng tâm tình như  Hoa đang trò chuyện   vơí bố:“Em Nụ   ở  nhà ngoan lắm. Em ngủ  cũng ngoan nữa. Con hết cả   bài hát ru em rồi. Bao giờ bố  về. Bố dạy thêm bài khác cho con. Dạy bài   dài dài ấy , bố nhé!”( Đọc với tốc độ vừa phải, hạ giọng ở cuối câu). Biện pháp 3. Sử dụng phương pháp luyện tập thực hành: Giúp các em đọc không chỉ  đúng mà còn giúp các em đọc trôi chảy,   mạch lạc, lời văn thể  hiện rõ ràng, từ  đó giáo viên đánh giá một cách chính   xác khả năng đọc của học sinh.             Giáo viên cần chú ý đối tượng học sinh phát âm chưa chuẩn các tiếng,   từ khó cần rèn đọc đúng. Lập danh sách học sinh phát âm chưa chuẩn để giúp  các em phát âm đúng, chính xác.             + Giáo viên chú ý luyện học sinh phát âm tiếng khó, đặc biệt là phương   ngữ  địa phương thường phát âm sai trong từng bài tập đọc để học sinh luyện  phát âm thật đúng, chính xác và trước hết giáo viên phải là người phát âm   chuẩn.  Đa số  học sinh lớp 2D  do tôi chủ  nhiệm thường phát âm sai: âm đầu:  d/gi, s/x, phát âm sai dấu: ’/~ .Tùy theo từng bài tập đọc, giáo viên lưu ý học  sinh phân biệt cách phát âm đúng và phát âm mẫu để hướng dẫn học sinh đọc  đúng chính tả, đúng nghĩa của từ ngữ trong bài thơ, bài văn.   8
  10.       Ví dụ: Tuỳ theo từng bài Tập đọc, giáo viên chữa phát  âm sai các từ ngữ  cho học sinh: + Bài “Mẩu giấy vụn” học sinh thường phát âm sai  ở  âm s / x: “sáng sủa”  đọc sai thành “xáng xủa”; “sạch sẽ” đọc sai thành “xạch xẽ”…      + Bài “Ngôi trường mới” học sinh phát âm sai  ở  thanh     ’/~ : “ bỡ  ngỡ”  thành “ bở ngở”; “ những” thành “nhửng”… Biện pháp 4. Sử dụng phương pháp vấn đáp gợi mở: Sau khi đọc đúng, đọc trôi chảy, lưu loát bài Tập đọc, học sinh còn hiểu  được nội dung, ý nghĩa của bài Tập đọc.  Giáo viên chuẩn bị trước hệ thống câu hỏi, từ ngữ để dẫn dắt học sinh   hiểu bài.             Điều quan trọng để tiết Tập đọc đạt hiệu quả thì giáo viên phải có sự  chuẩn bị tốt:            Trước khi lên lớp, giáo viên phải đọc bài nhiều lần để đọc tốt và hiểu   thấu đáo nội dung bài đọc. Giáo viên xác định được mục đích, yêu cầu, nội  dung và phương pháp dạy bài Tập đọc cả kiến thức lẫn kỹ năng. Giáo viên phải chủ  động lập kế  hoạch giảng dạy trên lớp theo từng  bước sau: Bước soạn bài:  Giáo viên phải tìm hiểu kỹ  bài tập đọc trên cơ  sở  phân tích, tổng hợp và hệ  thống hoá để  đánh giá nội dung, nghệ  thuật của bài. Cần thiết giáo viên có   thể điều chỉnh, bớt hoặc thêm câu hỏi phù hợp với nội dung của bài Tập  đọc sao cho phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình, để  gợi mở, gây hứng  thú cho học sinh trong giờ học. Khi soạn giáo án giáo viên cần xem xét hệ thống câu hỏi của sách học  sinh kết hợp với sách giáo viên để  có sự  điều chỉnh phù hợp về  bài Tập đọc  9
  11. phù hợp với đối tượng học sinh. Lựa chọn, bổ sung lại hệ thống câu hỏi, để  làm rõ cách đọc, nội dung và nghệ thuật của bài.  Sau đây là hệ  thống câu hỏi (SGK Tiếng Việt lớp 2 tập 1) và hệ   thống câu hỏi mà tôi đã điều chỉnh trong bài “ Cây xoài của ông em”: Câu hỏi trong sách Tiếng Việt 2  Câu hỏi soạn để giảng bài Tập 1 * Đoạn 1:   1.Tìm những hình ảnh đẹp của cây  + Cây xoài cát được ông trồng khi nào? xoài cát? + “ Lẫm chẫm” có nghĩa là gì? 2.Quả xoài cát chín có mùi, vị, màu         Ghi từ: lẫm chẫm sắc như thế nào? + Tìm từ ngữ chỉ những nét đẹp của cây   3.Tại sao mẹ lại chọn những  xoài cát  quả xoài ngon nhất bày lên bàn thờ        Ghi bảng: sai lúc lỉu, quả to ông? + Nhìn quả xoài, bạn nhỏ rất nhớ ai? 4.Tại   sao   bạn   nhỏ   lại   cho   rằng  +Tưởng nhớ  đến ông, mẹ  bạn nhỏ  làm  quả  xoài cát nhà mình là thứ  ngon  gì?  nhất ? * Đoạn 2 + Quả  xoài cát có mùi vị, màu sắc như  thế nào?         Ghi bảng: đậm đà + “Đậm đà” có nghĩa là gì? * Đoạn 3 + Bạn nhỏ  ăn xoài cát chín làm với món  gì sẽ ngon? + Tại sao bạn nhỏ  cho rằng xoài cát nhà  mình là thứ quả ngon nhất?   Để  dạy thành công một bài Tập đọc, giáo viên cần phải dựa vào các   câu hỏi trong sách học sinh (SHS), lựa chọn bổ sung có thể chẻ nhỏ ra, hoặc  10
  12. gợi ý phát biểu thêm để giảng từ, khắc sâu kiến thức cho học sinh. Từ hiểu  sâu được nội dung bài đọc, các em sẽ đọc đúng, đọc hay được bài Tập đọc. *Bước chuẩn bị đồ dùng dạy học Đây là bước quan trọng phục vụ  cho giờ dạy, kể cả tranh  ảnh và sưu   tầm các câu thơ, ca dao, tục ngữ… để hỗ trợ thêm bài giảng thêm phong phú,  gây hứng thú trong học tập của học sinh. Giáo viên phải chịu khó sưu tầm  (yêu cầu cả học sinh cùng tham gia) những tranh  ảnh, tác giả  xuất xứ… của  tác phẩm có liên quan đến bài học giáo viên phải suy nghĩ ghi vào giáo án, đưa  ra vào lúc nào cho phù hợp để phục vụ cho mục đích tiết dạy, tận dụng tranh   minh họa trong SGK và đồ dùng dạy học (ĐDDH) một cách thiết thực có hiệu  quả nhất. Ví dụ:  Ở  bài tập đọc “ Cây xoài của ông em”, tôi sử  dụng hình  ảnh  trực quan: Hình hai mẹ con bạn nhỏ đi dưới cây xoài sai trĩu quả do ông bạn  nhỏ trồng. 11
  13.   Bên cạnh sử dụng tranh ảnh phục vụ cho tiết học sinh động, tôi còn sử  dụng bảng phụ viết sẵn câu, từ cần luyện đọc đúng cho học sinh.  Ví dụ: Trong bài “ Cây xoài của ông em” tôi cần luyện đọc ngắt nghỉ  và nhấn giọng đúng các từ, cụm từ  thì tôi sẽ  viết sẵn bảng phụ  nội dung:   Mùa xoài nào / mẹ  cũng chọn những quả  chín vàng / và to nhất / bày lên   bàn thờ ông. Để khắc sâu chủ đề bài học, tôi đã sử dụng hai câu tục ngữ:                                                     Uống nước nhớ nguồn                     Ăn quả nhớ người trồng cây làm câu kết bài.          Muốn nói lên tình cảm của con cái đối với ông bà đã trồng cây xoài khi   còn sống. Trích dẫn câu thơ, ca dao, tục ngữ… liên quan để minh hoạ, nhằm  khắc sâu hơn nữa tình cảm của con cháu đối với ông bà.                                                        Chim có tổ, người có tông Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc: Mẩu giấy vụn, tôi cũng đã khai thác tranh  sách giáo khoa: hình ảnh của một lớp học, có cô giáo, có học sinh nhằm kích  thích hứng thú học tập cho các em 12
  14.     Tranh bài Tập đọc Mẩu giấy vụn­ SGK Tiếng Việt lớp 2­Tập 1­ Trang   48         Tôi sử dụng bảng phụ viết câu cần luyện đọc cho học sinh, câu nói của  cô giáo: “Các em hãy  lắng nghe  và cho cô  biết / mẩu giấy  đang nói gì   nhé//!”...    (Khi đọc đến dấu / học sinh ngắt hơi, dấu // học sinh ngh ỉ hơi và  nhấn giọng từ ngữ được gạch chân).          Cũng tương tự  với bài tập đọc: Thương ông­ tranh bạn nhỏ  đang dìu  ông mình gây sự tò mò, hứng thú cho học sinh. 13
  15.     Tranh bài Tập đọc Thương ông­ SGK Tiếng Việt lớp 2­Tập 1­ Trang 83      “Ngôi trường mới’ cũng gây cho học sinh hứng thú trong tiết học qua hình  ảnh ngôi trường thân thương thấp thoáng bóng học trò và cột cờ  cao quen  thuộc trước sân trường. 14
  16. Tranh bài Tập đọc Ngôi trường mới­ SGK Tiếng Việt lớp 2­Tập 1­ Trang   51         Những minh họa trên cho chúng ta thấy rằng chuẩn bị đồ dùng cho một  tiết học Tập đọc và giới thiệu cho học sinh vào lúc nào cho hiệu quả là một   việc làm vô cùng quan trọng. ­ H   ướng dẫn  T     ập đọc:  Giáo viên cần cho các em hiểu rằng các em  đọc không phải chỉ để cho  cô giáo nghe mà còn cho các bạn nghe, nên cần đọc đủ to để tất cả mọi người   trong phòng học cùng nghe rõ.  Đa số  các em học sinh bây giờ  rất ham đọc sách nhưng chủ  yếu đọc  thầm. Các em đọc những truyện viễn tưởng, truyện tranh… ít có tính văn học,  nghệ thuật nên tuy đọc nhiều nhưng kỹ năng đọc vẫn không được củng cố và   phát huy. Việc hướng dẫn học sinh đọc đúng, đọc trôi chảy, lưu loát trong từng  bài Tập đọc thuộc trách nhiệm của người giáo viên. Ở mỗi bài Tập đọc,  yêu  cầu là phải đọc rõ ràng, mạch lạc và đúng. Đọc đúng là không đọc thừa không   15
  17. sót âm, vần, tiếng. Đọc đúng phải thể  hiện đúng hệ  thống ngữ  âm chuẩn.  Đọc đúng ở đây bao hàm cả phát âm đúng, phân biệt được các cặp phụ âm l –  r, t – tr, gi – d, s – x và đọc cho đúng các thanh. Để làm được điều này, tôi luôn   chú ý xem em nào mắc lỗi nào để tìm ra nguyên nhân và biện pháp sửa. Trong  một bài Tập đọc không thể  luyện đọc đúng được nhiều cặp phụ  âm mà với  từng bài Tập đọc tôi chỉ  cho luyện đúng một cặp phụ  âm hoặc hai cặp phụ  âm là đủ. Ví dụ:  Ở  bài Tập đọc “ Cây xoài của ông em” tôi chỉ  cho luyện đọc  cặp thanh: hỏi­ ngã là những từ  khó, phát âm dễ  lẫn như: lẫm chẫm, quả  sai lúc lỉu, trảy, nở. Với những học sinh hay phát âm sai thì tôi phân tích cho các em thấy  đọc sai thường làm sai hẳn ý nghĩa của từ  và thường xuyên gọi các em này   luyện đọc đúng, kèm theo lời nhận xét động viên kịp thời. Kết quả  chỉ  sau   một thời gian học đa số  các em sửa được tật này. Điều đó làm các em rất tự  tin vì không những bây giờ các em đọc đúng mà còn viết chính tả đúng. Ví dụ: “lẫm chẫm” đọc sai thành “lẩm chẩm”, “lúc lỉu” đọc sai thành  “lúc lĩu”, “ trảy” đọc sai thành “trãy”. Nếu em phát âm sai thì khi viết em sẽ  viết sai theo cách đọc là: lẩm chẩm, lúc lĩu, trãy thì em viết sai chính tả.          Để  khi đọc các em chủ  động được việc cần phát âm cho đúng tôi đã   hướng dẫn các em bằng cách khi chuẩn bị  bài cần dùng bút chì gạch chân  dưới những từ  có dấu thanh là “hỏi –ngã”  (hoặc cặp phụ  âm đầu hay sai).  Để khi đọc bài gặp những từ đó thì lưu ý phát âm cho đúng. Đọc đúng còn bao  gồm cả  đọc không thừa, thiếu chữ  và biết ngắt, nghỉ  hơi sau dấu phẩy và   dấu chấm. Cần phải dựa vào nghĩa giữa các tiếng, các từ  để  ngắt hơi cho  đúng. Khi đọc không đựơc tách từ ra làm hai. Ví dụ: “Mùa xoài nào, mẹ  cũng chọn những quả  chín vàng và to nhất  bày lên bàn thờ ông.” 16
  18. ­ Không ngắt: Mùa xoài nào / mẹ cũng chọn những / quả chín vàng và to  nhất bày / lên bàn thờ ông. ­ Nên ngắt: Mùa xoài nào / mẹ cũng chọn những quả chín vàng / và   to nhất / bày lên bàn thờ ông.            Việc ngắt câu phải phù hợp với các dấu câu, cụm từ có nghĩa, ngắt hơi  ở  dấu phẩy, nghỉ  hơi  ở  dấu chấm, đọc đúng các ngữ  điệu câu, lên giọng  ở  cuối câu hỏi, hạ  giọng  ở  cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình  cảm cần diễn đạt trong câu cảm. Với câu cầu khiến, cần nhấn giọng phù hợp  để thấy rõ các nội dung cầu khiến khác nhau. Ngoài ra cần phải hạ giọng khi   đọc bộ phận giải thích của câu. Vì vậy vào bài giảng, đầu tiên giáo viên đọc  mẫu rồi cho một học sinh đọc toàn bộ  bài để  cả  lớp đọc thầm theo. Sau đó   cho học sinh phát hiện các từ  khó – giáo viên cho học sinh tìm cách luyện và   đọc các từ khó đó dưới hình thức đọc (cá nhân, đọc đồng thanh). Luyện đọc theo đoạn – Giáo viên hướng dẫn học sinh làm chủ  được  tốc độ đọc bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Ngoài ra  còn có biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc nhẩm (đọc thầm) có sự  kiểm tra   của thầy (cô) giáo, của bạn để điều chỉnh tốc độ.  Như  vậy, đọc đúng là bao gồm một số  tiêu chuẩn của đọc trôi chảy,   lưu loát, rõ ràng, mạch lạc. Đọc trôi chảy, lưu loát, rõ ràng, mạch lạc chỉ  có   thể  có được trên cơ  sở  hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc nhấn giọng  ở  những từ  ngữ  biểu cảm, gợi tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả. Để  đọc được trôi  chảy, lưu loát, người đọc phải làm chủ  được chỗ  ngắt giọng, làm chủ  được   tốc độ  đọc (độ  nhanh chậm…) làm chủ  được cường độ  giọng (độ  cao của  giọng đọc, lên giọng hay hạ giọng). – Giáo viên có trách nhiệm giúp học sinh   điều này trong khi dạy học. Ví dụ:  Ở  bài “ Cây xoài của ông em”, khi đọc đoạn 1: Giáo viên cần  cho học sinh thấy được đọc với giọng chậm, tình cảm như là lời kể tâm tình  17
  19. của bạn nhỏ về người ông đã mất. Nhất là câu văn “ Mùa xoài nào / mẹ cũng   chọn những quả  chín vàng  / và  to nhất  / bày lên bàn thờ  ông.”(cần đọc  nhấn giọng các từ gạch chân để nêu bật tình cảm tôn kính và nhớ ơn của con  cháu đối với người ông). Tôi đặt câu hỏi: “Theo các em, muốn đọc tốt câu văn   này, ngoài việc ngắt câu, ta cần nhấn giọng những từ nào ?” và học sinh phát   biểu ý kiến.         Cuối cùng thống nhất nhấn giọng các từ: “ chín vàng”, “ to nhất”.         Muốn được như vậy, giáo viên phải đọc mẫu cho học sinh lắng nghe và  học sinh sẽ tự mình rút ra kết luận đúng. Ví dụ:  Mùa xoài nào / mẹ  cũng chọn những quả  chín vàng/ và  to   nhất / bày lên bàn thờ ông. Hướng dẫn và luyện cho học sinh đọc – càng nhiều học sinh được đọc  càng tốt.  4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:          Quá trình áp dụng các biện pháp trên vào đọc Bài ứng dụng ở lớp 2. Đối  tượng học sinh thuận lợi, chất lượng đọc của học sinh có sự tiến bộ rõ rệt và   thu được kết quả như sau:      ­ Chất lượng đọc của lớp tôi ngày càng tiến bộ. Cụ thể:                                 Chất lượng đọc cuối kì 1: Sĩ số HS Khả năng Số học sinh Tỷ lệ % Đọc hay, lưu loát 10 em 34,5 Đọc đúng    10 em 34,5 29 Đọc ê a 5 em 27,6 Đọc từng tiếng một  4 em 13,8 * Chất lượng cuối kì 1 và chất lượng đọc đầu năm học: 18
  20. Sĩ số  Khả năng Đầu  Tỉ lệ tăng  Cuối  kì 1 Tỉ lệ  HS năm  /giảm  tăng /giảm  học Đọc   trôi   chảy,   lưu  4 em 13,8 10 em 34,5 loát Đọc đúng  10 em 34,5 10 em 34,5 Đọc ê a 8 em 27,6 5 em 27,6 29 Đọc từng tiếng một  7 em 24, 4 em 13,8               ­ Trong giờ  Tập đọc, tôi thấy các em ngồi học rất say sưa, sôi nổi phát  biểu ý kiến, hăng say học bài. Rất nhiều em xung phong, phấn khởi khi được   gọi đọc bài và đọc bài hay. Điều đó chứng tỏ các em đã hiểu được nội dung,   nghệ thuật của bài. ­ Học sinh được nâng cao rõ rệt về  đọc đúng, đọc trôi chảy, lưu loát,   hình thành được kỹ năng, kỹ xảo khi đọc các bài văn, bài thơ. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2