intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm đánh giá học sinh có hiệu quả theo Thông tư 30

Chia sẻ: Chubongungoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

19
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là giúp giáo viên điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, hoạt động trải nghiệm ngay trong quá trình và kết thúc mỗi giai đoạn dạy học, giáo dục; kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ;...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm đánh giá học sinh có hiệu quả theo Thông tư 30

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Một số biện pháp nhằm đánh giá học sinh có hiệu quả theo Thông tư 30” Họ và tên: Nguyễn Thị Lan Sinh ngày: 05/11/1978 Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thanh Lạc, Nho Quan, Ninh Bình Email: nguyenlan_tlnq@yahoo.com Điện thoại: 0944059625. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong giai đoạn hiện nay, Bộ giáo dục và đào tạo đã xác định mục tiêu trọng tâm và then chốt của công cuộc đổi mới toàn diện và căn bản giáo dục phải là phát huy năng lực của người học, từ đó hoàn thiện năng lực, phẩm chất cá nhân. Đổi mới giáo dục tiểu học là một nội dung trong chương trình đổi mới giáo dục phổ thông của Bộ giáo dục và đào tạo. Qua đó đổi mới toàn bộ mục tiêu, chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học và đặc biệt là cách đánh giá học sinh theo thông tư 30. Điều đó cho thấy việc dạy “kiến thức” không phải là nhiệm vụ quan trọng nhất mà bên cạnh đó chúng ta cũng cần phải chú trọng đến khâu “dạy người”. Đối với học sinh tiểu học, được đến trường, được tham gia vào các hoạt động giáo dục, được đánh giá một cách công bằng, khách quan và được động viên là một vấn đề rất được quan tâm của tất cả mọi đối tượng xung quanh trẻ. Đóng vai trò quan trọng trong nhận xét, đánh giá học sinh ở nhà trường, đó chính là đội ngũ giáo viên bao gồm giáo viên chủ nhiệm và giáo viên các bộ môn. Nếu được đánh giá, động viên đúng mức, học sinh coi đó như một động lực để phấn đấu, cố gắng trong học tập và khi tham gia các hoạt động tập thể. Ngược lại, những đánh giá, nhận xét tiêu cực sẽ làm tổn thương tới trẻ, khiến trẻ có những hành vi, trạng thái tiêu cực, hạn chế sự phát triển nhân cách của trẻ. Trải qua hơn 16 năm trong nghề với 2 năm thay đổi trong nhận xét, đánh giá học sinh, bản thân tôi gặp khá nhiều lúng túng với sự thay đổi này. Tuy nhiên với tâm huyết cùng nghề, lòng yêu mến học sinh, sự không ngừng học hỏi trong công việc, tôi đã cảm thấy tự tin, thoải mái hơn với sự thay đổi này. Trong quá trình dạy học và giáo dục của mình, tôi đã rất trăn trở và hàng ngày đều ghi ra những kinh nghiệm, những việc làm dù nhỏ nhưng khá hiệu quả khi nhận xét, đánh giá học sinh. Và thường đặt ra những câu hỏi: Phải làm gì giúp học sinh luôn có ý thức cố gắng rèn luyện để trở thành con ngoan, trò giỏi, phụ huynh và toàn xã hội quan tâm trẻ em một cách đúng mực, tạo mọi điều kiện tốt nhất để phát huy trí lực, phẩm chất tốt đẹp tiềm ẩn trong mỗi đứa trẻ mà không gây áp lực cho các em? Làm gì giúp giáo viên không bị áp lực bởi công việc nhận xét, đánh giá học sinh, những trăn trở hàng ngày: Cần nhận xét gì cho học sinh ngày hôm nay? Với những lí do nêu trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp giúp bản thân bớt gặp lúng túng, khó khăn hơn trong quá trình đánh giá học sinh với đề tài: “Một số biện pháp nhằm đánh giá học sinh có hiệu quả theo Thông tư 30”. 1
  2. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận của vấn đề 1.1. Đặc điểm tâm sinh lí của trẻ lớp 1 Bước vào giai đoạn 6 tuổi, trẻ có nhiều thay đổi cả về tâm, sinh lí. - Thứ nhất, chú ý có chủ định (tức chú ý có ý thức, chú ý vào việc học tập) của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú ý không chủ định (chú ý tự do) chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, dễ bị phân tán bởi những âm thanh, sự kiện khác ngoài nội dung học tập. Trẻ thường quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh, trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,… Thời gian chú ý có chủ định chỉ kéo dài tối đa từ 25 đến 30 phút. - Thứ hai, tri giác các em mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định, tri giác thường gắn với hình ảnh trực quan. - Thứ ba, tưởng tượng của học sinh lớp 1 đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng nhiều. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi. - Thứ tư, hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau. Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ. - Thứ năm, trong giai đoạn lớp 1, 2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu. - Thứ sáu, tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,...Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư... Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi (tuy vậy so với tuổi mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã "người lớn" hơn rất nhiều. Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học luôn luôn kèm theo sự phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng khiếu như thơ, ca, hội họa, kĩ thuật, khoa học,... Chính đặc điểm này đòi hỏi người làm công tác giáo dục phải có sự quan tâm, sát sao và có những lời nói chuẩn mực, những đánh giá khách quan, cần phát hiện và bồi dưỡng kịp thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo kết quả học tập mà không làm thui chột năng khiếu của trẻ. Việc giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học cần ở nhà giáo dục sự khéo léo, tế nhị khi tác động đến các 2
  3. em không phải là những câu nói dễ dãi, nuông chiều khiến cho trẻ và phụ huynh có nhận thức thiếu sót về sự phát triển toàn diện của trẻ. Tóm lại là, sáu tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường học tập thay đổi một cách cơ bản: trẻ phải tập trung chú ý trong thời gian liên tục từ 30 –> 35 phút. Nhu cầu nhận thức chuyển từ hiếu kỳ, tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Trẻ bắt đầu kiềm chế dần tính hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp, chấp hành nội quy học tập. Sức bền vững, sự khéo léo của các thao tác của đôi bàn tay để tập viết được phát triển nhanh. Tất cả những điều đó đều là thử thách đối với trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những thử thách đó thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội mà cụ thể là có những nhận xét, đánh giá phù hợp, kịp thời nhằm động viên, khích lệ học sinh tự tin vào bản thân. 1.2. Vai trò của nhận xét, đánh giá trong quá trình giáo dục Chúng ta đều biết rằng nhận xét, đánh giá không phải là khâu cuối cùng của hoạt động giáo dục. Những nhận xét, đánh giá phải được thực hiện song song với quá trình giáo dục, có tác động ngược trở lại vói sự thay đổi nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm đạt được chất lượng giáo dục mong muốn. Trong nhà trường hiện nay, việc dạy học không chỉ chủ yếu là dạy cái gì mà còn dạy học như thế nào. Đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu cấp bách có tính chất đột phá để nâng cao chất lượng dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ đổi mới từ nội dung chương trình sách giáo khoa, phương pháp dạy học cho đến kiểm tra đánh kết quả dạy học. Kiểm tra đánh giá có vai trò rất to lớn đến việc nâng cao chất lượng giáo dục. Kết quả của kiểm tra đánh giá là cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học. Nếu kiểm tra đánh giá sai dẫn đến nhận định sai về chất lượng giáo dục gây tác hại to lớn đối với sự hình thành và phát triển nhân cách còn non nớt của học sinh tiểu học, đặc biệt là với học sinh lớp 1. Vậy đổi mới kiểm tra đánh giá trở thành nhu cầu bức thiết của ngành giáo dục và toàn xã hội ngày nay. Kiểm tra đánh giá đúng thực tế, chính xác và khách quan sẽ giúp học sinh tự tin, hăng say, nâng cao năng lực sáng tạo trong học tập. 1.3. Một số nội dung chính của Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT 1.3.1. Mục đích đánh giá - Giúp giáo viên điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, hoạt động trải nghiệm ngay trong quá trình và kết thúc mỗi giai đoạn dạy học, giáo dục; kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ; đưa ra nhận định đúng những ưu điểm nổi bật và những hạn chế của mỗi học sinh để có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh; góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học. - Giúp học sinh có khả năng tự đánh giá, tham gia đánh giá; tự học, tự điều chỉnh cách học; giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ. 3
  4. - Giúp cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ tham gia đánh giá quá trình và kết quả học tập, rèn luyện, quá trình hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của con em mình; tích cực hợp tác cùng nhà trường trong các hoạt động giáo dục học sinh. - Giúp cán bộ quản lí các cấp kịp thời chỉ đạo các hoạt động giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá nhằm đạt hiệu quả giáo dục. 1.3.2. Nguyên tắc đánh giá - Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên, khuyến khích tính tích cực và vượt khó trong học tập, rèn luyện của học sinh; giúp học sinh phát huy tất cả khả năng; đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan. - Đánh giá toàn diện học sinh thông qua đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất của học sinh theo mục tiêu giáo dục tiểu học. - Kết hợp đánh giá của giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh, trong đó đánh giá của giáo viên là quan trọng nhất. - Đánh giá sự tiến bộ của học sinh, không so sánh học sinh này với học sinh khác, không tạo áp lực cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh. 1.3.3. Nội dung và cách thức đánh giá - Đánh giá quá trình học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của học sinh theo chuẩn kiến thức, kĩ năng từng môn học và hoạt động giáo dục khác theo chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học - Đánh giá sự hình thành và phát triển một số năng lực của học sinh: + Tự phục vụ, tự quản; + Giao tiếp, hợp tác; + Tự học và giải quyết vấn đề. - Đánh giá sự hình thành và phát triển một số phẩm chất của học sinh: + Chăm học, chăm làm; tích cực tham gia hoạt động giáo dục; + Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; + Trung thực, kỉ luật, đoàn kết; + Yêu gia đình, bạn và những người khác; yêu trường, lớp, quê hương, đất nước. Bên cạnh những nội dung cơ bản như trên, Thông tư 30 cũng đưa ra những quy định về Đánh giá thường xuyên; Đánh giá thường xuyên hoạt động học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập theo chuẩn kiến thức, kĩ năng từng môn học, hoạt động giáo dục khác theo chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học; Đánh giá thường xuyên sự hình thành và phát triển năng lực của học sinh; Đánh giá thường xuyên sự hình thành và phát triển phẩm chất của học sinh; Đánh giá định kì kết quả học tập ...; và Sử dụng kết quả đánh giá. 2. Giải pháp cũ thường làm Năm học 2014 – 2015 tôi đã áp dụng một số biện pháp để đánh giá học sinh theo Thông tư 30. Cụ thể: 4
  5. 2.1. Đánh giá học sinh theo sự chỉ đạo của cấp trên Ngay sau khi Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT được ban hành, bản thân tôi đã được tham dự các lớp tập huấn do phòng giáo dục và nhà trường tổ chức. Đồng thời tôi cũng đọc và nghiên cứu Thông tư 30 và đã tập trung đánh giá học sinh ở các nội dung sau: + Đánh giá quá trình học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập theo chuẩn kiến thức, kĩ năng từng môn học, hoạt động giáo dục. + Đánh giá sự hình thành và phát triển một số năng lực của học sinh. + Đánh giá sự hình thành và phát triển phẩm chất của học sinh. Trong từng tiết học tôi thường xuyên theo dõi mọi hoạt động của học sinh, những ưu điểm và những tồn tại hạn chế sau đó tranh thủ ghi chép những điều mình quan sát được vào sổ tay riêng và cuối hàng tháng chắt lọc để ghi vào sổ theo dõi chất lượng giáo dục. Học sinh nào tôi cũng ghi nhận xét đánh giá, tôi không bỏ sót em nào. Do đó tôi phải tranh thủ mọi thời gian để viết các nhận xét, đánh giá, ở trường không có cả thời gian ra chơi, phải tranh thủ viết nhận xét ở mọi lúc mọi chỗ. Vì vậy, tôi cảm thấy việc ghi nhận xét học sinh cực kì vất vả và quá tải, áp lực. Với cách làm như trên vào cuối học kì I và cuối năm học tôi phải vắt óc suy nghĩ để ghi nhận xét trong học bạ của học sinh, việc ghi các nhận xét từng môn học mất rất nhiều thời gian, đôi khi phải chuẩn bị viết ra giấy trước mới ghi vào học bạ. Tôi cảm thấy rất căng thẳng và lúng túng. 2.2. Sử dụng những câu nhận xét sẵn có theo mẫu. Việc nhận xét, đánh giá học sinh trong từng tiết học và hoạt động giáo dục mất nhiều thời gian như trên nên tôi đã chuẩn bị những câu nhận xét trước cho từng môn học. Chẳng hạn: Trong giờ Học vần khi học sinh học tốt thì tôi nhận xét: “Em đã phát âm đúng, đọc to, rõ ràng”, còn đối với những học sinh còn gặp khó khăn khi đọc tôi đưa ra nhận xét: “Em cần rèn đọc nhiều hơn nữa”. Trong các giờ học Toán khi học sinh nắm vững bài tôi thường nhận xét: “Em làm bài tốt.” Hoặc: “Em nắm vững bài”. Học sinh làm bài chưa đúng: “Em nắm bài chưa vững” hoặc “Thực hiện các phép tính chưa thành thạo”.... Các câu nhận xét được sử dụng nhiều lần trong một tiết học đối với giáo viên thì không mất thời gian suy nghĩ, còn với học sinh được nhận xét đầu tiên cảm thấy rất vui, học sinh học chưa tốt thì nghĩ mình sẽ cố gắng để học tốt hơn nhưng khi thấy nhiều bạn cũng được nhận xét như mình thì học sinh không còn phấn khởi, phấn đấu nữa vì mình cũng giống như nhiều bạn trong lớp. Hơn nữa sau nhiều lần sử dụng bản thân tôi cũng cảm thấy mình thiếu đi sự linh hoạt trong các lời nhận xét, không thể hiện được sự ân cần, điều mình mong mỏi đối với học sinh, không linh hoạt đưa ra những tư vấn, biện pháp giúp học sinh tiến bộ. * Ưu điểm của giải pháp cũ - Giáo viên hoàn thành được nhiệm vụ giáo dục của mình là vừa nhận xét được bằng lời vừa viết được nhận xét trong vở, sổ theo dõi chất lượng giáo dục đối với tất cả học sinh. 5
  6. - Giáo viên bớt lúng túng khi lên lớp hoặc có người dự giờ. - Học sinh nào trong lớp cũng được giáo viên nhận xét, đánh giá nên thấy rất vui. * Nhược điểm của giải pháp cũ - Giáo viên phải ghi nhiều nhận xét, lời nhận xét phải ghi rõ ràng, cẩn thận nên mất nhiều thời gian. Mặt khác, mỗi môn học lại phải có lời nhận xét đặc trưng, phải phù hợp với môn học nên giáo viên phải vắt óc nghĩ cho bằng được nhiều lời nhận xét khác nhau nên giáo viên cảm thấy “quá tải”, hạn chế thời gian để nghiên cứu bài dạy và quan tâm kèm cặp, bồi dưỡng phụ đạo học sinh. - Giáo viên phụ thuộc vào những lời nhận xét sẵn có theo mẫu sẽ giảm sự linh hoạt và nhạy bén khi đưa ra những lời nhận xét cụ thể cho từng đối tượng học sinh, từng loại bài, từng môn học. Giảm khả năng tự điều chỉnh hoạt động dạy để phù hợp với mọi đối tượng học sinh. - Những lời nhận xét sẵn có được sử dụng lặp đi lặp lại mang tính áp đặt, chung chung. - Chưa phối hợp linh hoạt được các hình thức tuyên dương khen thưởng. - Chưa khuyến khích tính tích cực và vượt khó trong học tập và rèn luyện của học sinh, học sinh chưa rút ra được kinh nghiệm để tự điều chỉnh cách học của mình, không điều chỉnh được những lỗi đã mắc theo nhận xét của cô giáo nên có vẻ như lời nhận xét đưa ra không có hiệu quả. - Giáo viên chưa đưa ra được lời tư vấn giúp đỡ để học sinh kịp thời sửa sai. - Học sinh không phát huy vai trò cá nhân một cách tối đa trong các hoạt động giáo dục. - Học sinh không biết tự đánh giá mình và đánh giá bạn một cách tự tin. - Học sinh chưa biết đưa ra những lời tư vấn cho bạn để bạn có hướng sửa chữa phát huy. Đây cũng chính là những khó khăn rất lớn mà bản thân tôi đã gặp phải khi thay đổi cách đánh giá. Việc giáo dục, dạy dỗ học sinh, đưa ra những lời nhận xét đánh giá và tư vấn cho học sinh cần phải thay đổi để phù hợp hơn với tinh thần của Thông tư 30. Bởi thế tôi đã suy nghĩ và thay đổi các biện pháp đánh giá học sinh trong năm học này nhằm giúp cho học sinh của mình tiến bộ. 3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 3.1. Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức về việc đánh giá học sinh theo Thông tư 30 Trong quá trình giáo dục, giáo viên giữ một vị trí, vai trò quan trọng. Giáo viên là người trực tiếp giảng dạy, giáo dục học sinh, lên kế hoạch, tiến hành các tiết dạy học, thực hành và phát triển các bài học trong chương trình giảng dạy của nhà trường đồng thời cũng là người hàng ngày trực tiếp kiểm tra đưa ra những 6
  7. đánh giá từng học sinh, theo dõi, quản lý học sinh theo các hoạt động của nhà trường. Những đánh giá của giáo viên không chỉ đơn thuần là tổng kết, ghi nhận kết quả học tập của học sinh trong một bài làm, một kì học, một năm học mà còn tác động mạnh mẽ đến tâm lí, có thể tạo động lực để học sinh tiếp tục cố gắng học tập và rèn luyện. Mặt khác, từ kết quả rèn luyện của học sinh, giáo viên có những điều chỉnh phương pháp, hoạt động dạy học, giáo dục của giáo viên và hoạt động học của học sinh sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh của mình. Tuy nhiên sau khi nghiên cứu kĩ Thông tư 30 và sau hai năm thay đổi, tôi thấy rằng bản thân cần thay đổi nhận thức. + Với lớp 1, hãy tăng cường nhận xét bằng miệng, bằng lời khen kết hợp với những món quà nhỏ mà vô cùng ý nghĩa, gây hứng thú, lôi cuốn và tạo động lực một cách bất ngờ cho trẻ. + Có ý kiến cho rằng: Đánh giá chung Hoàn thành/Chưa hoàn thành là kiểu đánh giá “dở nhất” trong tất cả các kiểu đánh giá. Nó sẽ đánh đồng tất cả học sinh vào 1 loại, không những làm cho phụ huynh học sinh mà ngay cả giáo viên cũng sẽ thấy rất khó theo được kiểu đánh giá này. Nhưng theo tôi nếu chúng ta suy nghĩ theo hướng tích cực, nghiên cứu kĩ mục tiêu của giáo dục tiểu học thì chúng ta nhận ra rằng cách đánh giá mới hoàn toàn phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi tiểu học, phù hợp với mục tiêu của giáo dục hiện đại “Giáo dục làm sao để trẻ biết cách sống và biết sống”, phù hợp với yêu cầu về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo vì đánh giá vì việc học, đánh giá chính là quá trình học. Ngoài việc nâng cao nhận thức về ý nghĩa của việc đổi mới hình thức, nội dung đánh giá, mỗi giáo viên chúng ta cũng cần quan tâm đến việc nâng cao chất lượng dạy học bằng việc không ngừng học và tự học, vận dụng linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học hiện đại nhằm lôi cuốn học sinh vào bài học, tạo cơ hội cho nhiều học sinh được phát biểu ý kiến, mọi đối tượng học sinh trong lớp đều được cô quan tâm, động viên. Tạo cơ hội cho tất cả học sinh đều chủ động, tích cực tham gia vào các hoạt động, được bày tỏ, chia sẻ trong nhóm, trước lớp một cách thường xuyên. Với suy nghĩ như trên, tôi luôn tạo không khí thật vui vẻ trước khi bắt đầu tiết học. Đó có thể là một câu nói vui, một lời hứa khen thưởng (Cô rất vui khi lớp mình tích cực phát biểu; Ai tích cực trong tiết học sẽ được tặng phiếu đổi quà. Ai là học sinh thông minh nhất sẽ trả lời được các câu hỏi trong bài học hôm nay; Ai muốn là cá nhân tiêu biểu, xuất sắc?...) Ngoài ra tôi cũng luôn ý thức phải động viên, quan tâm nhiều tới học sinh nhút nhát, có thái độ tự ti bằng cách thủ thỉ với học sinh những lúc cầm tay học sinh tập viết, khen ngợi trước lớp khi học sinh có tiến bộ nhỏ. Tôi luôn suy nghĩ “Nếu bạn thờ ơ với hành động nhỏ của học sinh, bạn sẽ không bao giờ có học sinh tốt”. Bản thân tôi luôn quan tâm, quan sát tất cả các hoạt động diễn ra trong lớp một cách tỉ mỉ. Không chỉ quan sát học sinh trong giờ học mà tôi quan sát ở các giờ ra chơi, trước khi vào lớp, khi tan học…để từ đó có những nhận xét, đánh giá khách quan và mới tìm được những điểm mạnh, điểm cần khắc phục của học sinh. 7
  8. Theo tôi, để có nhận xét, đánh giá đúng thì mỗi giáo viên cần quan sát một cách tỉ mỉ, sát sao với tất cả các hoạt động của học sinh mình. 3.2. Biện pháp 2: Nghiên cứu kĩ các bài học, các môn học Trước mỗi bài dạy, tiết dạy, tôi xác định chính xác mục tiêu, kiến thức, kĩ năng, thái độ cần đạt ở mỗi bài dạy để từ đó định hướng cho mình: Nhận xét cái gì? Nhận xét năng lực, kiến thức, kĩ năng nào của học sinh? Ở những vấn đề của bài học hôm này cần quan tâm nhận xét những học sinh nào? Ví dụ: Trong môn Tiếng việt 1- công nghệ giáo dục giáo viên cần dạy đúng thiết kế, đúng quy trình 4 việc một cách nghiêm ngặt, vận dụng các bước trong từng việc linh hoạt. Giáo viên không được phép xem nhẹ hay bỏ sót một thao tác nào, không được thay đổi trật tự các thao tác. Từ đó dự kiến các lời nhận xét cho phù hợp với từng bài, từng đối tượng học sinh, dự kiến những lời tư vấn, hướng dẫn để học sinh sửa chữa khắc phục những tồn tại thiếu xót. Chẳng hạn khi dạy bài vần /anh/, /ach/; vần /ênh/, /êch/; vần /inh/, /ich/… giáo viên chú ý sửa ngọng cho những học sinh phát âm chưa chuẩn nhiều hơn là những học sinh phát âm chuẩn rồi bằng cách cho học sinh phát âm, phân tích trong nhóm; nghe bạn phát âm, phân tích trong nhóm để tự sửa và sửa cho nhau; cho học sinh phát âm trước lớp, nghe giáo viên phát âm. Nếu học sinh phát âm còn chưa chuẩn giáo viên khuyến khích, động viên các em như: “Nếu em chú ý lắng nghe bạn, cô giáo phát âm cô tin em sẽ đọc đúng”. Hoặc nếu học sinh sửa được “Cô biết em sẽ làm tốt”… Khi viết chính tả học sinh chưa nắm vững luật chính tả về âm đệm, luật chính tả e, ê … giáo viên yêu cầu: “Em hãy nhắc lại luật chính tả về âm đệm…”, cho học sinh phân tích tiếng đó bằng tay rồi viết… Trong môn Toán khi học sinh chưa thuộc các bảng cộng, trừ thì giáo viên cần có những lời tư vấn, động viên, nhắc nhở như: “Em đọc lại bảng cộng, trừ cùng các bạn trong nhóm”; “Nếu em chú ý hơn trong giờ học, cô tin rằng em sẽ thuộc bảng cộng, trừ … ngay trên lớp…”. Trong môn Đạo đức, một bài học được dạy trong hai tiết. Tiết một nhằm cung cấp cho học sinh các kiến thức, các chuẩn mực hành vi đạo đức của con người. Tiết học thứ hai giúp học sinh thể hiện những hành vi, thái độ, kĩ năng đã được học ở tiết một thực hành vào thực tế cuộc sống. Xác định được mục tiêu tiết học như vậy thì giáo viên sẽ nhận xét học sinh một cách chính xác, cụ thể và đúng đối tượng mà mình muốn hướng tới. Khi dạy bài: “Sách vở và đồ dùng học tập” giáo viên đưa ra một số tấm gương biết giữ gìn sách vở, đồ dùng cẩn thận, cho cả lớp quan sát sách vở của những học sinh đó đồng thời nhắc nhở, hướng dẫn lại cho những học sinh chưa biết giữ gìn đồ dùng có ý thức hơn, biết những việc nên làm để sách vở, đồ dùng học tập của mình luôn sạch sẽ, bền đẹp. Giao cho học sinh tự theo dõi, nhắc nhở lẫn nhau và báo cáo thường xuyên việc giữ gìn, sắp xếp sách vở đồ dùng học tập vào các tiết sinh hoạt lớp mỗi tuần. Tuyên dương khen ngợi những học sinh có tiến bộ và thường xuyên giữ gìn sách vở cẩn thận, nhắc nhở động viên những học sinh chưa giữ gìn và sắp xếp sách vở gọn gàng tự nhận xét, đánh giá việc làm của mình. 8
  9. Như vậy, nếu người giáo viên muốn lời nhận xét, tư vấn của mình đúng đối tượng, có trọng tâm, không sáo rỗng, không nhận xét kiểu chung chung, lời nhận xét, tư vấn tác động trực tiếp đến học sinh, những vấn đề mà học sinh cần điều chỉnh theo hướng tích cực thì đòi hỏi giáo viên phải suy nghĩ kĩ về mục tiêu bài dạy kết hợp với thực tế quan sát các đối tượng học sinh hàng ngày, thường xuyên trong các hoạt động khác nhau. 3.3. Biện pháp 3: Tích hợp các hình thức nhận xét, đánh giá trong quá trình giáo dục và dạy học Đối với học sinh lớp một cần tăng cường nhận xét bằng lời, đặc biệt là với đầu năm học, khi học sinh mới bắt đầu tập đọc các tiếng bằng vật thật và mô hình, đọc các âm … thì rõ ràng học sinh không thể đọc hiểu được lời nhận xét, đánh giá của giáo viên ghi trong vở. Lúc này việc giáo viên thường xuyên nhận xét, đánh giá, tư vấn bằng lời là việc cực kỳ cần thiết và hữu ích với học sinh. Cuối học kì I, học sinh đã bắt đầu đọc được các câu dài. Lúc này lời nhận xét của giáo viên phải cụ thể, rõ ràng, ngắn gọn. Ví dụ giáo viên chấm và ghi lời nhận xét ở bài làm của học sinh: 9
  10. Trên đây là một số ví dụ bài làm của học sinh được cô giáo chấm và được cô giáo sửa lỗi, nhắc nhở, động viên. Theo tôi, nếu chúng ta quan tâm sát sao tới từng học sinh, từng bài học, từng lỗi nhỏ như vậy sẽ giúp ích rất nhiều cho sự phát triển toàn diện của học sinh (Học sinh vui vì được cô quan tâm; Những lời khen, lời nhắc nhở là động lực để các em vươn lên; Kiến thức, kĩ năng: được cô sửa lỗi cẩn thận để tránh mắc lại). Chính vì những lí do này nên đòi hỏi giáo viên, đặc biệt là giáo viên lớp một phải quan tâm rèn chữ, cách trình bày sao cho khoa học. Sau khi nhận xét, đánh giá, giáo viên có thể gặp riêng học sinh, chỉ rõ lỗi và nêu lại lời nhận xét của mình cho học sinh nghe nhất là những học sinh cần được tư vấn, hướng dẫn. Nhưng không thể nêu lại với tất cả học sinh trong lớp vì như thế không có đủ thời gian. Vậy phải làm thế nào? 10
  11. Tôi đã chia các đối tượng học sinh trong lớp thành các nhóm khác nhau để có thể phát huy năng lực cá nhân và quan tâm tới tất cả các đối tượng học sinh trong lớp: + Nhóm học sinh học tập tích cực, tiếp thu tốt, năng động, tự giác, tự tin thể hiện bản thân trong tất cả các hoạt động. + Nhóm nhân tố bí ẩn - đây là những học sinh có năng lực tuy nhiên thiếu sự quan tâm hoặc quan tâm chưa đúng cách từ phía phụ huynh hoặc có năng lực nhưng nhút nhát… + Nhóm cần giúp đỡ - những học sinh này chỉ phát huy năng lực khi được quan tâm, không bao giờ chủ động tham gia các hoạt động giáo dục, không tự tin, khó khăn khi làm việc cá nhân…. + Nhóm cần giúp đỡ đặc biệt - đây là nhóm đối tượng cá biệt: nghịch ngợm, hiếu động, tự do, khó khăn trong nhận thức, giao tiếp…. Trong các môn học tôi lại chia nhỏ thành các nhóm năng lực khác nhau. Chẳng hạn trong môn Tiếng Việt, tôi chia thành các nhóm: + Nhóm có kĩ năng thực hành tốt, thao tác nhanh, tự tin, mạnh dạn khi trình bày trước lớp. + Nhóm có kĩ năng viết (đọc) cần cố gắng. + Nhóm cần sự hỗ trợ giúp đỡ từ thầy cô, bạn bè… Từ việc chia thành các nhóm nhỏ như vậy, giáo viên có thể chủ động hơn trong nhận xét, đánh giá; Mặt khác, giáo viên cũng định hướng đúng những mặt học sinh cần giúp đỡ để từ đó quan tâm đến từng đối tượng cụ thể. Ví dụ như trong lớp tôi năm nay có em: Đinh Quang Hà, Lê Duy Hoàng - là những học sinh nhút nhát, tiếp thu khá khó khăn kiến thức cơ bản, hơi nghịch ngợm nhưng rất chăm lao động, hay kê bàn ghế, tích cực vệ sinh lớp học, thu dọn đồ dùng cùng cô giáo. Những lúc như vậy tôi đều động viên, khen ngợi các em và tặng quà vào buổi sinh hoạt lớp, đồng thời nhắc nhở một cách nhẹ nhàng những điểm em cần sửa, cần cố gắng. Trong từng tiết học tôi thường xuyên gọi các em đọc bài, trình bày trước lớp nhất là trong môn Tiếng việt 1 – công nghệ giáo dục tôi thường xuyên gọi các em lên tổ chức cho lớp chơi trò chơi giữa tiết học, tự trình bày và giới thiệu về bản thân, trường lớp, thầy cô giáo và gia đình, tự đánh giá việc đọc, viết của mình… Hoặc đối với em: Bùi Nguyễn Thị Thu Hồng - là một học sinh khuyết tật, đầu năm học đến trường nhút nhát, không giao tiếp với ai. Sau khi tìm hiểu về hoàn cảnh và tâm sinh lý của em tôi thường xuyên gần gũi, trò chuyện động viên, hướng dẫn em tham gia học tập một cách tỉ mỉ, bắt tay khi em không viết được, cùng em phát âm, phân tích, đánh vần, khi em phát âm đúng tôi đã khen ngợi: “Em làm rất tốt”, “Cô hài lòng về em”, “Cô tin tưởng ở em, em sẽ học tốt nếu em cố gắng…”. Với những lời động viên, khích lệ, sự quan tâm đặc biệt em Hồng đã mạnh dạn, tự tin hơn, tham gia vào các hoạt động cùng các bạn. Từ sự quan tâm học sinh như vậy đến cuối kì I tôi đã không khó khăn khi ghi các nhận xét cho học sinh. Cùng với lời nhận xét tôi đặc biệt quan tâm đến đặc điểm tâm lí của học sinh là thích được khen, được tặng thưởng để động viên, khích lệ học sinh. Những món 11
  12. quà rất nhỏ thôi, một cục tẩy, một chiếc bút, một cái nhãn vở, một quyển truyện tranh, một hộp đất nặn...là những món quà không thể thiếu với cách thay đổi về nhận xét, đánh giá mới với học sinh đặc biệt là học sinh lớp một. Học sinh sẽ vui, phấn khởi thế nào khi trong vở có dòng chữ: Em viết có tiến bộ; Nét chữ của em đẹp, đáng khen và kèm theo đó là một phiếu đổi quà! Cuối học kì I, sau khi dự sơ kết toàn trường vào cuối buổi học hôm đó, tôi đã trực tiếp phát giấy khen và phần thưởng trước lớp để các em cảm thấy phấn khởi, có mục tiêu phấn đấu, động viên các em có tiến bộ để các em không cảm thấy buồn chán hay thua kém bạn bè và tự đặt ra mục tiêu phấn đấu trong học kì II. Tất cả những hình thức trên khi được áp dụng với học sinh lớp tôi, tôi thấy có hiệu quả rõ rệt: học sinh hào hứng, phấn khởi trước khi bước vào bài học; Các em thêm tự tin; Những học sinh nhút nhát, tiếp thu chậm luôn được giáo viên quan tâm, giúp đỡ nên các em bớt dần tự ti để thể hiện mình. 3.4. Biện pháp 4: Phối hợp giữa các đoàn thể trong nhà trường trong các hoạt động nhận xét, đánh giá học sinh 3.4.1. Phối hợp với các giáo viên bộ môn, Tổng phụ trách Nếu trước đây, đánh giá học sinh chủ yếu dựa vào kết quả hai môn Toán và Tiếng Việt thì hiện nay theo cách đánh giá mới đã thay đổi hoàn toàn. Một học sinh phải được đánh giá toàn diện ở tất cả mọi mặt: kiến thức, kĩ năng, năng lực, phẩm chất. Để học sinh phát triển toàn diện như vậy thì một mình giáo viên chủ nhiệm không thể làm tròn trách nhiệm này. Đây là lí do mà tôi rất coi trọng vai trò của giáo viên bộ môn và Tổng phụ trách Đội. Trước hết, tôi sẽ gặp gỡ trao đổi với đồng nghiệp về tình hình lớp học, sĩ số, những học sinh cá biệt ngay từ đầu năm học. Tôi nghĩ rằng đây là một việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm chính là người tiếp xúc nhiều nhất 12
  13. với học sinh ở trường, là người phải nắm rõ hơn các thầy cô khác về học sinh của mình. Từ những trao đổi về đặc điểm lớp, khi dạy các tiết Âm nhạc, Mĩ thuật, Thủ công. Thể dục giáo viên bộ môn sẽ có sự quan tâm cụ thể, giao những nhiệm vụ phù hợp với đặc điểm của từng em từ đó mới phát huy hết năng lực cá nhân và cùng với giáo viên chủ nhiệm đưa ra những nhận xét, đánh giá phù hợp với học sinh, cùng giúp học sinh đó phát huy tố chất và nâng cao năng lực hành vi. Với đặc điểm nổi trội của các cá nhân mà giáo viên chủ nhiệm cung cấp, thầy cô Tổng phụ trách cũng sẽ chủ động lựa chọn nòng cốt cho các đội văn nghệ, tham gia các hoạt động thể dục thể thao của nhà trường. Việc làm này cũng tạo thêm cơ hội để học sinh lớp mình được tham gia vào các sân khấu lớn hơn, vượt ra khỏi phạm vi lớp học, học sinh có cơ hội giao lưu với bên ngoài nhiều hơn. Sau khi trao đổi, cung cấp thông tin về học sinh cho các giáo viên bộ môn, Tổng phụ trách, giáo viên chủ nhiệm cũng sẽ tiếp nhận thông tin ngược trở lại từ giáo viên bộ môn để có cái nhìn toàn diện, đầy đủ về học sinh từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá chính xác về từng học sinh lớp mình. Như vậy để đánh giá, nhận xét học sinh một cách toàn diện thì giáo viên chủ nhiệm phải phối kết hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn và giáo viên tổng phụ trách đội. 3.4.2. Tăng cường vai trò của cá nhân và ban cán sự lớp Bên cạnh những nhận xét, đánh giá từ các giáo viên, học sinh còn được tham gia vào hoạt động tự đánh giá nhận xét bản thân và nhận xét đánh giá, tư vấn cho bạn. Ví dụ: Trong môn Tiệt việt 1- công nghệ giáo dục, khi dạy tiết 7, 8 “luật chính tả về nguyên âm đôi”, ở việc 2 “đọc bài: Chiến thắng Bạch Đằng”. Nếu học sinh đọc bài tốt tôi yêu cầu: “Em tự nhận xét, đánh giá việc đọc của minh”. Em học sinh đó sẽ tự đánh giá mình: “Em đọc bài to, rõ ràng, tự tin, em sẽ phát huy hơn nữa…” hoăc: “Em thấy mình đọc bài trôi trảy, rõ ràng, tự tin, em hứa sẽ cố gắng hơn nữa…”. Nếu học sinh đọc bài chưa tốt, thì em học sinh đó tự đánh giá: “Em đọc bài chưa trôi trảy, còn nhỏ, em sẽ rèn đọc thêm nhiều để đọc bài trôi trảy hơn”… Song song với học sinh tự đánh giá mình, tôi yêu cầu các học sinh tham gia đánh giá bạn. Cũng trong tiết 7, 8 “Luật chính tả về nguyên âm đôi”, việc 3 “viết chữ hoa M”, khi học sinh viết bảng con chữ hoa M cỡ nhỡ, cỡ nhỏ mà chữ viết chưa ngay ngắn học sinh sẽ nhận xét: “chữ viết của bạn chưa ngay ngắn, bạn nên rèn viết nhiều để chữ viết ngay ngắn hơn” hoặc “chữ viết của bạn chưa đủ độ cao, bạn cần quan sát kĩ chữ mẫu để viết chữ đúng mẫu …”; Khi học sinh được bạn nhận xét, tư vấn rồi, tôi hỏi lại học sinh đó: “Em cảm thấy thế nào khi nghe lời nhận xét, tư vấn của bạn?”, học sinh đó trả lời: “Em thấy chữ viết của mình chưa đúng mẫu, em cảm ơn bạn đã tư vấn, em hứa sẽ rèn viết nhiều cho chữ viết đúng mẫu hơn…”. Như vậy khi khuyến khích học sinh tự nhận xét đánh giá và khuyến khích học sinh tham gia nhận xét, đánh giá tư vấn cho bạn ở tất cả các tiết học của từng môn học một cách linh hoạt thì học sinh sẽ có ý thức tự học, tự điều chỉnh cách học; giao tiếp, hợp tác. Ngoài việc tự đánh giá nhận xét về bản thân và tham gia đánh giá, tư vấn cho bạn ở các môn học thì học sinh tôi còn được tự đánh giá, tham gia đánh giá bạn và mọi hoạt động của lớp trong giờ sinh hoạt cuối mỗi tuần. 13
  14. Và đây là lí do tôi bầu luân phiên ban cán sự lớp. Mỗi học sinh trong lớp đều có cơ hội tham gia vào các vị trí khác nhau : Lớp trưởng, lớp phó (lớp phó học tập, lớp phó lao động, lớp phó văn nghệ….), tổ trưởng, tổ phó. Dù năng lực các em có khác nhau nhưng khi được người lớn tin tưởng giao việc các em sẽ rất tự hào, coi đây là một động lực vươn lên trong học tập, rèn luyện chứ không chỉ chăm chăm vào kết quả học tập các môn văn hóa. Ở lớp do tôi phụ trách cứ hết nửa học kì lại luân phiên bầu ban cán sự lớp và các em trong lớp luôn có ý thức phấn đấu để được bạn bè, cô giáo tin tưởng giao cho nhiệm vụ mới, những học sinh không còn giữ những vị trí trong ban cán sự lớp cũng không cảm thấy buồn mà luôn có động lực để phấn đấu rèn luyện. Như vậy khi học sinh mạnh dạn, tự tin tự đánh giá mình và tham gia đánh giá bạn, phát huy vai trò của ban cán sự lớp, tất cả các em đều có cơ hội được làm lớp trưởng, lớp phó … luân phiên nhau. Nếu tổ chức tốt được hoạt động này, giáo viên cũng sẽ có những cơ sở thuận lợi để nhận xét, đánh giá học sinh một cách có hiệu quả. 3.5. Biện pháp 5: Nâng cao chất lượng các buổi sinh hoạt tập thể, các tiết hoạt động tập thể Mục đích của các buổi sinh hoạt tập thể, các tiết hoạt động tập thể là: tạo ra nhiều cơ hội để học sinh luyện tập, thực hành kĩ năng sống mà các môn học đã cung cấp cho các em. Chẳng hạn như: kĩ năng nghe, nói, đọc, viết từ môn Tiếng việt 1- công nghệ giáo dục, các kĩ năng giao tiếp trong môn Đạo đức, Tiếng việt, các kĩ năng sống trong môn Toán, Tự nhiên và Xã hội, Thủ công, Mĩ thuật, Âm nhạc, Thể dục…. giúp học sinh thêm tự tin, tích cực qua đó giáo viên điều chỉnh, hướng dẫn thêm cho học sinh những điểm yếu mà trong quá trình học tập học sinh mắc phải một cách nhẹ nhàng, mang tính khích lệ. 3.5.1. Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt lớp Trong các buổi sinh hoạt lớp, tôi thường tổ chức theo các nội dung chính sau: Thời gian Nội dung hoạt động Người điều khiển -Nhận xét và tự nhận xét về: - Ban cán sự lớp nhận + Đạo đức: xét, bổ sung ý kiến + Chuyên cần: Tiết: + Học tập: Sinh hoạt + Các hoạt động khác: lớp + Những bạn gặp khó khăn trong học tập, rèn luyện: + Những bạn tiến bộ trong học tập: - Nhận xét cụ thể ưu điểm của lớp và nêu gương cụ thể - Giáo viên chủ nhiệm + Đạo đức: + Chuyên cần: 14
  15. + Hoạt động học tập: . Có ý thức tốt khi tham gia vào các hoạt động học tập: . Có nhiều cố gắng trong học tập: . Kết quả học tập, rèn luyện có tiến bộ: + Các hoạt động khác: . Văn nghệ: . Vệ sinh: . Tham gia giao thông: . Chăm sóc và bảo vệ cây, hoa: … + Những học sinh gặp khó khăn trong học tập: . Tư thế ngồi học: . Đọc: . Viết: . Toán: + Những học sinh tiến bộ trong học tập: - Năng lực: - Phẩm chất: - Nhắc nhở những tồn tại chung - Bình bầu thi đua: - Tất cả học sinh trong + Cá nhân: lớp. + Tổ: - Giáo viên chủ nhiệm - Triển khai công việc tuần tới: - Giáo viên chủ nhiệm - Đăng kí thi đua: - Học sinh + Cá nhân: + Tổ: - Văn nghệ, liên hoan - Ban cán sự lớp Như vậy việc nhận xét, đánh giá được thực hiện xuyên suốt, trong tất cả các tiết học và các hoạt động giáo dục mà học sinh được tham gia. Nếu có thực hiện như vậy thì cách nhận xét, đánh giá mới mới có hiệu quả chứ không chỉ là nhận xét qua loa, hời hợt và không biết nên nhận xét gì đối với học sinh. 15
  16. Học sinh nhận xét đánh giá Học sinh lắng nghe nhận xét 3.5.2. Động viên học sinh tham gia vào các phong trào văn nghệ, các sân chơi trí tuệ do nhà trường tổ chức Ngoài việc học tập trên lớp, học sinh cũng thể hiện rất rõ cá tính của mình khi tham gia các phong trào, cuộc thi. Nắm được điểm này, giáo viên cần quan tâm tới tất cả đối tượng học sinh trong lớp để khuyến khích các em tham gia. Với những học sinh thích tham gia các hoạt động tập thể thường là những học sinh rất năng động, tự tin và tích cực. Tuy nhiên có những học sinh có vẻ nhút nhát, ngại tham gia các hoạt động tập thể lại đạt kết quả rất tốt khi được thầy cô động viên, giúp đỡ. Từ các hoạt động này, giáo viên có thể đưa ra những nhận xét chính xác hơn về năng lực của mỗi cá nhân học sinh. Bên cạnh việc động viên học sinh tham gia các phong trào của trường, tôi cũng động viên khuyến khích các em tham gia các sân chơi trí tuệ: tham gia giải toán qua mạng Internet, Tham gia thi Trạng nguyên Tiếng Việt, Giao thông thông minh… các em đều hào hứng, tích cực tham gia. Sau khi thi cấp trường tôi đã có những phần quà nho nhỏ tặng các em để khích lệ, động viên mặc dù các em không được chọn để đi thi cấp huyện nhưng các em vẫn tích cực tự luyện để nâng cao kiến thức của mình. “Học mà chơi, chơi mà học” với tinh thần đó tôi khuyến khích các em tham gia các trò chơi dân gian do Đội tổ chức để giảm bớt căng thắng mệt mỏi sau các giờ học. Do đó việc khuyến khích học sinh tham gia các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, các sân chơi trí tuệ tạo điều kiện để học sinh được thể hiện mình. Từ đó giáo viên lại có thêm những minh chứng để đánh giá, nhận xét học sinh được toàn diện hơn. 16
  17. Học sinh hội diễn văn nghệ Thi kéo co Học sinh thi vẽ tranh chào mừng 20-11 17
  18. Vui chơi có thưởng 3.6. Biện pháp 6: Sử dụng linh hoạt các lời nhận xét nhằm động viên, khuyến khích, giúp đỡ học sinh tiến bộ 3.6.1. Đối với các môn học Bên cạnh việc quan tâm đến các biện pháp để giáo viên chủ động, khắc phục khó khăn khi nhận xét, đánh giá học sinh theo Thông tư 30, tôi cũng đã suy nghĩ và ghi lại một số lời nhận xét cho các môn học, đặc biệt là với môn Toán, Tiếng Việt nhờ đó bản thân bớt lúng túng, khó khăn hoặc những lúc cảm thấy bí từ có một điểm tựa để tham khảo. Ví dụ như: Môn TIẾNG VIỆT 1 CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC Mức ĐỌC VIẾT NÓI độ - Đọc tốt, to, rõ ràng, - Nét chữ đẹp, khéo léo, - Đã biết nói thành Tốt tự tin, thật đáng khen! trình bày bài khoa học. câu, tự tin trình - Đọc to, rõ ràng, trôi - Viết đúng, sạch sẽ bày ý kiến trước trảy. - Viết đúng chính tả, đúng lớp. - Đọc đúng, trôi chảy cỡ chữ - Nói rõ ràng, mạch lạc - Nói đúng yêu cầu cần trao đổi. - Đọc đúng nhưng đọc - Nét cong (khuyết, thắt…) - Nói được câu, đủ Khá còn nhỏ, có chữ phát viết chưa đẹp, chưa đúng ý theo yêu cầu âm chưa rõ, em cố cỡ chữ, nếu em quan sát nhưng chưa tự tin, gắng sửa lỗi phát âm chữ mẫu kĩ hơn cô tin em em nên tích cực thì sẽ đọc tốt hơn. sẽ viết đẹp. chia sẻ trước lớp. - Đọc khá lưu loát, chú - Em chú ý ghi dấu thanh, ý sửa lỗi phát âm. dấu phụ cho đúng luật 18
  19. - Đọc đúng chữ song chính tả. em đọc còn ngọng, phát âm chưa rõ tiếng có thanh ngã, em cần rèn thêm … - Đọc chưa lưu loát, - Bài viết đúng, lưu ý nét - Nói thành câu Có em cố gắng tự rèn đọc nối trong chữ… nhưng chưa đủ ý. khó cá nhân và tích cực - Lưu ý khoảng cách, vị trí - Em nói đủ câu, khăn hơn trong khi đọc ghi dấu thanh nhưng diến đạt nhóm. - Em nên chủ động rèn chữ chưa tốt, lần sau - Cần rèn luyện thêm, viết và kĩ năng trình bày cố gắng nhé. nếu em chăm chỉ rèn bài. đọc, cô tin em sẽ đọc tốt hơn. - Cố lên, rồi các em sẽ đọc tốt như các bạn nếu các em cố gắng đọc bài nhiều ở lớp cũng như ở nhà. - Đọc chưa nhanh, - Viết chưa cẩn thận, chưa - Cần chú ý nói Cần quên chữ, chú ý nghe đúng mẫu. Cần rèn chữ thành câu. giúp cô giáo và bạn đọc để nhiều em nhé. - Chú ý nói thành đỡ đọc cho đúng. - Cần chú ý ghi dấu thanh câu, em cố gắng - Em đánh vần lại rõ ràng, chú ý khoảng cách rèn thêm nhé. tiếng… cùng cô giáo. các chữ cách nhau đúng - Em cần cố gắng quy định. Cố gắng hơn em luyện đọc nhiều hơn nhé. nữa nhé. - Em cần rèn đọc lại bài nhiều lần thì em sẽ đọc tốt hơn … Mức độ TOÁN - Bài làm tốt, trình bày đẹp, đáng khen! Tốt - Em hiểu bài và làm bài rất tốt, cô khen em! - Nắm vững nội dung bài học - Vận dụng kiến thức tốt - Bài làm đúng, trình bày rõ ràng. - Bài làm đúng song còn gạch xóa, viết số chưa rõ, cần chú ý rèn kĩ năng trình bày bài. Khá - Còn sai 1, 2 phép tính. 19
  20. - Vẽ đoạn thẳng chưa thẳng - Lời giải của bài toán chưa đầy đủ, em đọc kĩ bài toán lần sau sẽ không mắc phải lỗi này. - Cần ghi nhớ kiến thức… Có - Nắm kiến thức bài … chưa tốt, con cần ôn lại nội dung này khó khăn - Chưa nắm được kiến thức bài …, trình bày bài chưa rõ ràng, gạch xóa, số viết chưa rõ. - Cần cố gắng làm bài và chú ý nghe giảng hơn. Những lời nhận xét trên được giáo viên sử dụng linh hoạt, ghi rõ ràng, cẩn thận trong vở như một lời nhắc nhở, động viên học sinh, tư vấn học sinh. Ngoài ra với những học sinh có cố gắng, có tiến bộ… để ghi nhận nỗ lực của các em, tôi có thể ghi : - Cô rất vui vì sự tiến bộ của em. - Cô rất tự hào vì có học sinh chăm ngoan như em. - Em hãy cố gắng hơn nữa nhé! - Sự cố gắng của em đã thành công! Em đã nắm chắc kiến thức cô dạy!(Chữ viết, kĩ năng đọc, kĩ năng làm bài… của em đã tiến bộ) 3.6.2. Đối với việc xét tuyên dương khen thưởng học sinh Dựa vào điều 16 Thông tư 30, Nhà trường đã giúp chúng tôi có thêm căn cứ để dựa vào đó xét tuyên dương khen thưởng cho học sinh vào cuối kì I và cuối năm học với Bộ tiêu chí tuyên dương khen thưởng học sinh. Dựa vào đây, giáo viên có thêm cơ sở để có thể linh hoạt hơn trong nhận xét, đánh giá học sinh suốt quá trình học tập. BỘ TIÊU CHÍ TUYÊN DƯƠNG KHEN THƯỞNG HỌC SINH TT Nội dung Các tiêu chí Nội dung 1: Đánh giá quá trình học Tiêu chí 1: Đánh giá thường 1 tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của xuyên đối với tất cả các môn học sinh theo chuẩn kiến thức, kĩ học và hoạt động giáo dục. năng từng môn học và hoạt động giáo Tiêu chí 2: Kết quả học tập dục khác theo chương trình giáo dục thông qua kiểm tra định kì. phổ thông tiểu học. Tiêu chí 3: Thành tích trong các cuộc thi. Nội dung 2: Đánh giá sự hình thành Tiêu chí 1: Tự phục vụ, tự 2 và phát triển một số năng lực của học quản sinh gồm 3 tiêu chí Tiêu chí 2: Giao tiếp, hợp tác Tiêu chí 3: Tự học và giải quyết vấn đề. Nội dung 3: Đánh giá sự hình thành Tiêu chí 1: Chăm học, chăm 3 và phát triển một số phẩm chất của làm; tích cực tham gia các hoạt học sinh gồm 4 tiêu chí động giáo dục 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2