intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

41
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến chỉ ra các biện pháp cụ thể nhằm rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp tôi nói riêng và lớp 2 nói chung. Với mong muốn góp phần nhỏ bé công sức của mình nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt nói chung và rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh nói riêng ở Tiểu học, cụ thể hoá định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Nhà trường tiểu học. Đồng thời qua đó để đúc rút những kinh nghiệm thiết thực cho bản thân trong công tác giảng dạy sau này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2

  1. 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn sáng kiến         Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển  những cơ  sở  ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam.  Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Toán, môn Tiếng Việt có vị trí  hết sức quan trọng.  Như  chúng ta đã biết, mục tiêu của môn Tiếng Việt  ở  trường Tiểu học nhằm hình thành và phát triển  ở  học sinh các kĩ năng sử  dụng tiếng Việt như  nghe, nói, đọc, viết để  học tập và giao tiếp trong cuộc   sống. Thông qua việc dạy và học môn Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các  thao tác tư duy; cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản v ề ti ếng Vi ệt   và những kiến thức xã hội, tự nhiên và con người về văn hóa và văn học Việt   Nam; bồi dưỡng tình yêu và  thói quen giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ;   hình thành nhân cách con người. Một trong những phân môn không kém phần  quan trọng của môn Tiếng Việt đó chính là phân môn Chính tả.    Chính tả là cách viết chữ được xem là “chuẩn” (tức là viết đúng âm  đầu, đúng vần, đúng dấu thanh, đúng quy định về  viết hoa, viết thường).   Trong các môn học quy định hiện nay với học sinh Tiểu học, phân môn Chính  tả là phân môn không kém phần quan trọng vì nó giúp học sinh viết đúng, viết  đẹp và rèn luyện tính cẩn thận … Thông qua việc “Luyện nét chữ, rèn nết  người” để đánh giá kết quả dạy học môn Tiếng Việt nói chung, kĩ năng viết   chính tả nói riêng đối với học sinh và giáo viên ở trường tiểu học nói chung. Trên thực tế, đã có nhiều nhà giáo đã đưa ra nhiều cách làm khác nhau   để  nâng cao hiệu quả  của việc dạy học phân môn Chính tả. Tuy nhiên, do  chưa áp dụng thành công các phương pháp, biện pháp dạy học nên hiệu quả  dạy học phân môn chính tả chưa cao. Hiện tượng viết sai chính tả  ở  trẻ  em   bậc Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng là khá phổ biến. Do cách   phát âm của một số vùng miền khác nhau. Đặc biệt đối với học sinh là người  miền Trung. Vì cách phát âm thực tế  của các phương ngữ  đều có những sai   1
  2. lệch với chính âm, cho nên không thể  thực hiện phương châm dạy học sinh  “Nghe như  thế  nào, viết như  thế   ấy được”. Mà phải biết dạy cho học sinh  biết kết hợp giữa ngữ âm và ngữ nghĩa. Mặt khác, việc hiểu nghĩa của các từ  giúp cho việc viết đúng chính tả  cũng là điều quan trọng mà nhiều học sinh  chưa làm được. Khi thoát khỏi phạm vi của bài viết trong chính tả, khi học  các môn học khác thì học sinh mắc nhiều lỗi chính tả thông thường. Đặc biệt   là khi viết tập làm văn, các em phải tự thể hiện năng lực học Tiếng Việt qua  việc trình bày những kiến thức, bộc lộ suy nghĩ tình cảm của mình thì các em  viết sai nhiều, bài viết mắc quá nhiều lỗi chính tả. Điều này  ảnh hưởng tới  kết quả  học tập của các em  ở  môn Tiếng Việt cũng như  các môn học khác,  hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất tự tin, trở nên rụt rè, nhút nhát. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 2, bản thân tôi luôn trăn trở,   suy nghĩ tìm các biện pháp tối  ưu để  giúp  học sinh nắm vững các quy tắc  chính tả  và hình thành kĩ năng, kĩ xảo chính tả. Nói cách khác giúp học sinh  hình thành năng lực và thói quen viết chính tả đúng. Vì vậy mà tôi lựa chọn và  vận dụng “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp  2” mà tôi đang trực tiếp giảng dạy nhằm khẳng định những việc đã làm được  tại lớp, đồng thời trao đổi kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở  trường tiểu học. 1.2. Điểm mới của sáng kiến Sáng kiến chỉ ra các biện pháp cụ thể nhằm rèn kĩ năng viết đúng chính   tả cho học sinh lớp tôi nói riêng và lớp 2 nói chung. Với mong muốn góp phần   nhỏ  bé công sức của mình nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng  Việt nói chung và rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh nói riêng ở Tiểu  học, cụ thể hoá định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Nhà trường tiểu  học. Đồng thời qua đó để đúc rút những kinh nghiệm thiết thực cho bản thân  trong công tác giảng dạy sau này. 1.3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến 2
  3. Học sinh lớp 2 trường tôi đang công tác 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH DẠY HỌC RÈN KĨ NĂNG VIẾT CHÍNH TẢ CHO   HỌC SINH LỚP 2. NGUYÊN NHÂN THỰC TRẠNG 2.1.1. Thực trạng tình hình dạy học rèn kĩ năng viết chính tả  cho học  sinh lớp 2. Năm học 2014 ­ 2015, tôi đã được nhà trường và chuyên môn phân công  chủ nhiệm và giảng dạy lớp 2B. Ngay từ đầu năm, tôi đã tiến hành khảo sát   kĩ năng viết chính tả đối với 25 học sinh lớp 2 mà tôi chủ nhiệm qua bài kiểm  tra và thu được kết quả như sau:  Bảng 1. Thống kê số lỗi chính tả trong bài kiểm tra của học sinh HS   viết   đúng  HS viết sai  HS viết sai  HS   viết   sai  Tổng  chính tả 1­ 2 lỗi 3 ­ 4 lỗi trên 5 lỗi số HS TL  TL  TL  TL  SL SL SL SL (%) (%) (%) (%) 25 15 40 2 8 4 16 4 16 Nhận xét: Đa số học sinh thường mắc phải các loại lỗi sau: * Về dấu thanh: Tiếng Việt có 6 dấu thanh (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì nhiều  học sinh chưa phân biệt được hai thanh hỏi, ngã : ví dụ từ “giúp đỡ”, các em  viết “giúp đở” (Em Trần Anh Hai Trực, Đặng Thị Ánh Tuyết, Phạm Văn Long   Vũ, …). Tuy chỉ có 2 thanh nhưng số lượng tiếng mang 2 thanh này không ít và   rất phổ biến. 3
  4. Ngoài ra, trong quá trình dạy học, tôi còn nhận thấy học sinh viết sai dấu   hỏi/ngã trong các từ ngữ: đỗ rác, thi đổ, trời đỗ mưa, xe đổ lại. (BT 3b, Tiếng  Việt 2, tập 1, trang 25), … * Về âm đầu:  Trong bài viết, một số em viết lẫn lộn các từ ngữ sau: Từ “đề nghị” viết  thành “đề ngị”, từ “người” viết thành “nghười” (em Đặng Phạm Viết Thành,  Trần Võ Quốc Anh, Phạm Thị Thúy) Ngoài ra, học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây: + c/k: Ví dụ Cim khâu, ciên nhẫn, … (BT2, TV2, tập 1, trang 6) + ng/ngh: Ví dụ ngỉ ngơi, nghề ngiệp … (BT2, TV2, tập 1, trang 25) + s/x:  Ví dụ soa đầu, sâu cá, … (BT2b, TV2, tập 1, trang 15) + d/gi: Ví dụ gia dẻ, cặp gia, … (BT3a, TV2, tập 1, trang 33), … Trong các lỗi trên, lỗi về c/k, d/gi, ng/ngh là phổ biến nhất . * Về vần: Học sinh viết từ “đặc biệt” thành “đặt biệt”, “đề nghị” thành “đền nghị”  (em Lê Thị Bảo Trâm, Trần Anh Hai Trực).  Ngoài ra, học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi vần sau đây: vần ăn/ăng:  ví dụ cố gắn, gắng bó, gắn sức, … (BT2b, TV2, tập 1, trang15) hay vần ai/ay:  Bàn tai, ngài hội, chảy chuốt… hoặc vần ân/ anh: quả chân, bành thành, … 2.1.2. Nguyên nhân mắc lỗi 2.1.2.1. Về dấu thanh Học sinh chưa phân biệt được thanh hỏi và thanh ngã do vốn từ  còn hạn  chế; chưa nắm chắc một số quy tắc viết chính tả. Mà số lượng tiếng mang 2  thanh này khá lớn. Do đó lỗi về  dấu thanh này rất phổ  biến. Lỗi này còn do  nhiều nguyên nhân như: phát âm sai; thời gian thực hành luyện viết chính tả  cho các em còn hạn chế; giáo viên chưa phân tích và sửa chữa lỗi sai chính tả  cho những học sinh viết sai; một số sách, tài liệu học tập còn in sai lỗi chính  4
  5. tả   ở  một số  văn bản; và một nguyên nhân lớn hơn là một số  giáo viên chưa  nắm vững các quy tắc, cơ sở khoa học để hướng dẫn cho học sinh. 2.1.2.2. Về âm đầu HS có sự  lẫn lộn giữa các chữ  ghi âm đầu c/k, ng/ngh. d/gi do các em  chưa nắm chắc nghĩa của từ  ; chưa ghi nhớ  được các mẹo luật chính tả  và  thực hành – luyện tập còn ít. Ngoài ra, có  một số âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng   (ví dụ: /k/ ghi bằng c, k, qu…) dĩ nhiên là có những quy định riêng cho mỗi  dạng, nhưng đối với học sinh lớp 2 thì rất dễ lẫn lộn. 2.1.2.3. Về vần HS có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi vần là do các em chưa nắm chắc nghĩa  của từ cũng như các quy tắc viết chính tả và mẹo luật chính tả. Ngoài ra, có 2  nguyên nhân gây ra sự lẫn lộn về âm chính trong các vần này: ­ Nguyên nhân thứ nhất là do sự phức tạp của chữ quốc ngữ: Nguyên âm   /ă/ lại được ghi bằng chữ  a trong các vần ay, au, các nguyên âm đôi ie,  ươ,   uô lại được ghi bằng các dạng iê, yê, ia, ya; ươ, ưa; uô, ua (bia ­ khuya, biên   ­ tuyến, lửa ­ lương, mua ­ muôn); âm đệm /w/ lại được ghi bằng 2 con chữ  u và o :  ­ Nguyên nhân thứ hai là do cách phát âm lẫn lộn trong phương ngữ. 2.1.3. Nhận xét chung Sở dĩ học sinh chưa hành thành được kĩ năng, kĩ xảo chính tả một phần  do giáo viên chưa vận dụng thành công các phương pháp, biện pháp dạy học ;  một phần do học sinh chưa nắm chắc các quy tắc chính tả, chưa hiểu được  nghĩa của các từ và các mẹo luật chính tả. Mặt khác, vốn từ của học sinh còn  hạn chế và ít được sử dụng thường xuyên, ít được thực hành – luyện tập. Vì  vậy, mỗi giáo viên cần phải tìm tòi, nghiên cứu tìm ra các biện pháp cụ  thể  5
  6. nhằm khắc phục thực trạng nêu trên. Như  thế, hiệu quả  dạy học phân môn   Chính tả nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung sẽ được nâng cao. 2.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ CHO HỌC SINH   LỚP 2 Xuất phát từ  những lỗi chính tả  và nguyên nhân nêu trên, trong học kì   vừa qua, bản thân tôi đã vận dụng một biện pháp nhằm giúp học sinh viết  đúng chính tả sau đây: 2.2.1. Biện pháp 1: Giúp học sinh luyện phát âm đúng ­ Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện phát âm   cho học sinh để  phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ  quốc ngữ là chữ ghi âm ­ âm thế nào, chữ ghi lại thế ấy. ­ Việc rèn phát âm không chỉ được thực hiện trong tiết Tập đọc mà được  thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học như  Chính  tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn… ­ Với những học sinh có vấn đề về mặt phát âm (nói ngọng, nói lắp,…),  giáo viên lưu ý học sinh chú ý nghe cô phát âm để viết cho đúng. Vì vậy, giáo  viên phải cố gắng phát âm rõ ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học sinh   viết đúng được. Ví dụ: Với bài tập chép Phần thưởng (TV2, tập 1, trang 15), trước khi   cho học sinh viết, giáo viên cần lưu ý học sinh phát âm từ “đặc biệt” như sau: ­ Yêu cầu tất cả học sinh nghe GV phát âm, chú ý môi và lưỡi khi phát âm ­ GV phát âm và cho một số học sinh thường phát âm sai từ này đọc lại. ­ Gv theo dõi, sửa sai cho học sinh (đảm bảo đến khi tất cả học sinh đều đã  phát âm đúng) 2.2.2. Giúp học sinh nắm vững cách viết dấu hỏi/ngã. Trong tiếng Việt, tiếng có thanh hỏi chiếm tỷ  lệ  nhiều hơn thanh ngã.  Chúng ta hướng dẫn học sinh học những tiếng thanh ngã, những tiếng còn lại   là thanh hỏi, sẽ  đỡ  tốn công hơn. Cần nên vận dụng tất cả  các cơ  quan: tai   6
  7. nghe, mắt nhìn, tay viết. Cho học sinh đọc kỹ  những văn bản viết dấu đúng  chính tả, và nhất là tập viết đúng cho quen mắt, quen tay. Càng được thực  hành nhiều, học sinh sẽ có kỹ năng viết đúng hỏi/ngã. Song, việc rèn cho học  sinh học tập như  vậy trước hết giáo viên phải giúp học sinh nắm được quy  luật, cơ  sở  khoa học của cách viết đúng dấu hỏi/ngã. Phương pháp này đòi  hỏi nhiều hiểu biết về ngữ âm học, áp dụng những quy luật biến dị của âm  thanh và về từ nguyên học để tìm tòi gốc rễ của mỗi tiếng. *   Giáo viên hướng dẫn học sinh cách viết hỏi/ngã trong từ  Từ  Hán ­   Việt  Dù muốn hay không, trải qua hơn nghìn năm đô hộ  của Trung Quốc,  Việt Nam chúng ta chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn hóa Trung Hoa. Mặc  dù đã cải biến và chữ  viết được thay thế  bằng chữ  Quốc ngữ, nhưng còn  nhiều từ  chúng ta dùng thường ngày là từ  Hán ­ Việt, chiếm tỷ  lệ  đến 70%   tổng số từ trong tiếng Việt. Viết hỏi/ngã trong từ Hán ­ Việt không theo một  quy tắc, quy luật nào cả, chỉ  có mẹo giúp chúng ta viết đúng hỏi/ngã. Đó là,  viết dấu ngã tất cả những tiếng bắt đầu bằng D, L, V, M, N, Nh, Ng và Ngh;  hay nhớ câu: "Mình Nên Nhớ Là Viết Dấu Ngã".  Ví dụ: dĩ vãng, dã man, lãng du, lãnh đạm, viễn xứ, vĩ nhân, mỹ  miều,   cần mẫn, nỗ lực, não nề, hàng ngũ, ngôn ngữ, nghiễm nhiên, …  Ngoài các tiếng bắt đầu bằng những phụ  âm đã nêu trên, từ  Hán ­ Việt   được viết bằng phụ âm khác hoặc không có phụ âm được viết bằng dấu hỏi,   ví dụ như: đảo điên, tưởng tượng, kiểu cách, ... Nhưng vẫn có một số trường  hợp ngoại lệ  vẫn viết bằng dấu ngã:  kĩ  (kĩ thuật, kĩ xảo),  bãi  (bãi bỏ, bãi  khóa),  hữu  (bằng hữu, hữu nghị),  phẫu  (phẫu thuật, giải phẫu),  tiễn  (tiễn  đưa, tiễn biệt, tống tiễn), … Ví dụ: Giáo viên giúp học sinh viết đúng hỏi/ngã trong từ  Hán ­ Việt thông   qua bài tập sau 7
  8. Các từ  Hán ­ Việt sau đây theo đúng quy luật hỏi ngã. Hãy sửa lại lỗi  chính tả  (nếu có) : diễn biến, biễu diển, hướng dẩn, hùng dũng, vủ  khúc, ô   nhiểm, lảng phí, kiều diễm, khã năng, thủy triều, thế kĩ, … ­ GV hướng dẫn học sinh vận  dụng cách viết các tiếng có dấu ngã để  làm bài tập này. Các tiếng còn lại sẽ là dấu hỏi ­ Học sinh thảo luận theo cặp hoặc làm bài cá nhân để  hoàn thành bài   tập. Kết quả  cần đạt là: diễn biến, biểu diễn, hướng dẫn, hùng dũng, vũ  khúc, ô nhiễm, lãng phí, kiều diễm, khả năng, thủy triều, thế kỉ, … * Hướng dẫn học sinh cách viết hỏi/ngã trong từ Láy Từ  láy là những từ  ghép gồm hai (hay nhiều) tiếng mà một trong các  tiếng đó hoàn toàn không có nghĩa nếu tách ra riêng lẻ.  ­Ví dụ: buồn bã, liều lĩnh, hoàn hảo, lảo đảo, ...  Gặp những tiếng chưa có cặp có đôi, thì cố tìm tiếng láy ghép vào cho có   cặp, sau đó áp dụng quy tắc: huyền ­ ngã ­ nặng; sắc ­ hỏi ­ không (luật thuận   thanh hay quy tắc hài thanh) hỗ  trợ  để  viết đúng hỏi/ngã. Thí dụ  gặp chữ  kĩ/kỉ, nếu nghĩa trong câu cho phép ghép được với   càng  thành  kĩ càng  thì  kĩ  dấu ngã (do  càng  viết dấu huyền). Cách viết hỏi/ngã trong từ  láy theo luật  thuận thanh có các trường hợp sau: + Ngã ­ huyền: bẽ bàng, buồn bã, lờ lững, ngỡ ngàng, … + Ngã ­ nặng: cãi cọ, đẹp đẽ, giãy giụa, rõ rệt, … + Ngã ­ ngã: bẽn lẽn, bỡ ngỡ, lững thững, … + Hỏi ­ sắc: hối hả, mới mẻ, ngất ngưởng, … + Hỏi ­ không: Bảnh bao, lẻ loi, nghỉ ngơi, sửa sang, … + Hỏi ­ hỏi: đủng đỉnh, lỏng lẻo, lởm chởm, tỉ mỉ, thỏ thẻ, … Còn có cách tìm xem chữ cùng nghĩa với chữ chưa biết viết hỏi hay ngã  thuộc thanh nào, để  quyết định theo luật thuận thanh.  Thí dụ  gặp chữ  mảnh   vải, chữ  cùng nghĩa với mảnh là miếng ­ thanh sắc, vậy mảnh dấu hỏi. Còn  mãnh hổ, mãnh có nghĩa là mạnh ­ thanh nặng, nên mãnh viết bằng dấu ngã. 8
  9. Phân môn Chính tả lớp 2 có các dạng bài tập rèn luyện cách viết hỏi/ngã   trong từ láy như: Điền dấu hỏi/ngã vào các chữ in nghiêng sau:      + lặng le, mạnh me, buồn ba, vương vai. (Bài tập 3b, Tiếng Việt 2, tập 1, tr.85) Hoặc, chúng ta có thể  giới thiệu bài tập dạng: Tạo một từ  láy với mỗi  tiếng sau đây: củ ­ cũ; giả ­ giả; hải ­ hãi; rả ­ rã; thẫn ­ thẫn; … 2.2.3. Giúp học sinh viết đúng chính tả thông qua giải nghĩa từ ­ Biện pháp thứ ba để khắc phục lỗi chính tả  cho học sinh là giải nghĩa   từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu, Tập   đọc, Tập làm văn… nhưng nó cũng là viêc làm rất cần thiết trong tiết Chính  tả, khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích  cấu tạo tiếng. ­ Có nhiều cách để giải nghĩa từ  cho học sinh: Giáo viên có thể cho học  sinh đọc chú giải, đặt câu (nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh đã hiểu  nghĩa từ), tìm từ  đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả  đặc điểm hoặc sử  dụng vật  thật, mô hình, tranh ảnh,… ­ Với những từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt từ  đó trong văn cảnh cụ  thể để giải nghĩa từ. Ví dụ ở bài tập: Điền vào chỗ trống: ­ đổ hay đỗ: … rác, thi …, trời … mưa, xe …lại. ­ rủ hay rũ: Cười … rượi, lá … xuống mặt hồ. (Bài tập 3b, Tiếng Việt 2, tập 1, tr 25) Ở bài tập này, học sinh khó phân biệt được đổ/đỗ  và rủ/rũ để  điền vào  chỗ phù hợp. Giáo viên cần phải giải thích nghĩa của các từ cho học sinh hiểu   mới có thể  làm được.  Đổ: (1) nằm xuống mạnh và đột nhiên (cây đổ, nhà   đổ); (2) nói xe nghiêng (tàu đổ  mất ba toa); (3) chảy ra (đã đổ  máu, đổ  mồ   hôi); (4) gán cho (đổ  vạ, đổ  tội). Đỗ: (1) với nghĩa dừng lại (tàu đỗ  lại); (2)  nghĩa đỗ đạt (đỗ tiến sĩ); (3) nghĩa tạm thời (ở đỗ). Hoặc rủ: (1) nghĩa thuyết  9
  10. phục người khác (rủ  nhau đi chơi); nghĩa buông thõng (trướng rủ  màn che).  Còn rũ: nghĩa gục xuống vì hết sinh lực. Việc giúp học sinh giải nghĩa từ giáo  viên nên hướng dẫn các em dùng từ  điển Tiếng Việt để giải thích nghĩa của  từ. 2.2.4. Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật chính tả Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối   hàng loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất  hữu hiệu.  * Về âm đầu : ­ Phân biệt  c/k, g/gh, ng/ngh:  Ngay từ  lớp 1, các em đã được làm quen với   luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên  âm i, e, ê, iê. Giáo viên cần giúp học sinh nắm chắc luật chính tả này để học  sinh viết chính xác hơn.  Ví dụ: Điền vào chỗ trống g hay gh:           + Lên thác xuống …ềnh           + …ạo trắng nước trong           + …i lòng tạc dạ. (Bài tập 2, Tiếng Việt 2, tập 1, tr 93) ­ Để phân biệt âm đầu s/x:  Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi nhớ đa số  các  từ  chỉ  tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng  s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn,   sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng,   so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử,  sơn dương, san hô… Ví dụ:  Điền vào chỗ trống: s/x: chim…ẻ, san…ẻ, …ẻ gỗ. …uất khẩu, năng….uất. * Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn : ­ Một số từ có vần “ênh” chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: gập   ghềnh, khấp khểnh, lênh đênh ,… 10
  11. ­ Hầu hết các từ  tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, eng   éc, xập xình, bình bịch ,… ­ Vần “uyu” chỉ  xuất hiện trong các từ  : khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã  khuỵu. ­ Vần “oeo” chỉ xuất hiện trong các từ : ngoằn ngoèo, khoèo chân . ­ Khi nào thì viết  “i” hay “y” :  +  Khi “i” đứng độc lập thì được viết “y”. Ví dụ : đại ý , như ý, ý chính, … +   Khi “i” đứng sau âm đệm thì được viết “y”. Ví dụ: chuyện, luyến,  truyện, khuyên,…  + Một   số   trường  hợp “i”  là bán  nguyên  âm .Ví   dụ: loay  hoay, xoáy,   quay, ... + Trong trường hợp tiếng không có phụ  âm đầu thì nguyên âm đôi “iê”  được viết là “yê” . Ví dụ : yêu, yên, yết, yếm,… Ví dụ: * Tìm các từ chứa tiếng có vần ươt hoặc ươc có nghĩa như sau:        + Dụng cụ để đo, vẽ, kẻ: (thước kẻ)        + Thi không đỗ: (trượt)        + Người chuyên nghiên cứu, bào chế thuốc chữa bệnh: (Dược sĩ)         * Tìm các từ chỉ hoạt động:         + Chứa tiếng bắt đầu bằng d: (dắt, dỗ dành, dạy, ..)         + Chứa tiếng bắt đầu bằng gi: (giặt, giày, giẻ, …) 2.2.5. Giúp học sinh viết đúng chính tả  thông qua thực hành – luyện tập   với hệ thống các bài tập chính tả về thanh điệu, âm vần dễ nhầm lẫn.     Giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học  sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong   văn cảnh cụ  thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc  chính tả để các em ghi nhớ. ­ Bài tập trắc nghiệm: 11
  12. * Khoanh tròn vào chữ cái trước những chữ viết đúng chính tả: a. Hướng dẩn b. Hướng dẫn c. Giải lụa d. Dải lụa e. Oan uổng f. Oan uổn * Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ   S vào ô trống trước những chữ viết sai chính tả: Rau muốn Rau muống Chải chuốc Chải chuốt Giặc quần áo           Giặt quần áo ­ Bài tập chọn lựa: * Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:     + Cháu bé đang uống ……… (sửa, sữa)     + Học sinh …...........mũ chào thầy giáo. (ngả, ngã).     + Đôi …… này đế rất …….. (giày, dày)     + Sau khi ……. con, chị ấy trông thật …… (xinh, sinh)     + Lan thích nghe kể……….hơn đọc……….. (truyện, chuyện) ­ Bài tập phát hiện: * Tìm từ sai chính tả trong câu sau và sửa lại cho đúng:       + Cả phòng khéc lẹc mùi thuốc lá.       + Bức tườn bị nức ngang nức dọc. ­ Bài tập điền âm, vần: * Điền vào chỗ trống:       + s/x: chim…ẻ, san…ẻ, …ẻ gỗ. …uất khẩu, năng….uất.  + ươn/ương: bay l…..., b…. chải, bốn ph….. , chán ch…\…  + iêt/ iêc: đi biền b…....., thấy tiêng t…/.., xanh biêng b…/.. ­ Bài tập tìm từ: 12
  13. Học sinh tìm từ  ngữ  chứa âm, vần dễ  lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua  gợi ý  từ đồng âm, từ trái nghĩa * Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng ươt hoặc ươc có nghĩa như sau:       + Dụng cụ để đo, vẽ, kẻ:        + Thi không đỗ:       + Người chuyên nghiên cứu, bào chế thuốc chữa bệnh: * Tìm những từ chứa tiếng có iê hoặc yê:         + Trái nghĩa với khỏe.         + Chỉ con vật nhỏ, sống thành đàn, rất chăm chỉ         + Cùng nghĩa với bảo ban.                                         (Bài tập 2, Tiếng Việt 2, tập 1, tr 106) *Tìm các từ chỉ hoạt động: + Chứa tiếng bắt đầu bằng r: + Chứa tiếng bắt đầu bằng d: + Chứa tiếng bắt đầu bằng gi: + Chứa tiếng có vần ươt: + Chứa tiếng có vần ươc: * Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau: + Trái nghĩa với từ thật thà: + Đoạn đường nhỏ hẹp trong thành phố: + Khung gỗ để dệt vải: ­ Bài tập phân biệt: * Đặt câu để phân biệt từng cặp từ sau: + da­ gia + ngả ­ ngã ­ Bài tập giải câu đố * Em chọn tr hay ch để điền vào chỗ trống rồi giải câu đố sau: Mặt….. òn, mặt lại đỏ gay 13
  14. Ai nhìn cũng phải nhíu mày vì sao Suốt ngày lơ lửng… ên cao Đêm về đi ngủ, ….ui vào nơi đâu?                                             (là gì?) 2.2.6. Giúp học sinh viết đúng chính tả thông qua trò chơi Trò chơi là một hoạt động nhằm thu hút học sinh hứng thú học tập sau  một giờ  học căng thẳng. Vì vậy tôi thường tổ  chức trò chơi cuối giờ  học   chính tả, thường có nội dung sát với chủ  đề  bài tập tránh sự  nhàm chán cho   các em. Ví dụ: Sau bài tập chép “Bạn của Nai Nhỏ”, tôi tổ  chức cho học sinh  làm BT 3b, TV2, tập 1, trang 25 bằng cách : Cho học sinh thi tìm nhanh những  từ ngữ có dấu hỏi / dấu ngã hoặc từ ngữ có âm đầu ng/ngh. Cho các đội chơi   cùng trình độ thi tiếp sức, mỗi đội không quá 5 em, viết các từ tìm được theo  yêu cầu. Có thể  cho các em đặt câu với từ  vừa tìm được để  hiểu nghĩa của  từ. Kết quả: các em tìm được rất nhiều từ đúng theo yêu cầu + Từ  ngữ  có dấu hỏi/ngã mà các  em tìm được là : đổ  rác, trời đổ  mưa, thi  đỗ, xe đỗ lại, bé bỏng, mừng rỡ, hung dữ, bãi cỏ, … + Từ  ngữ  có âm đầu ng/ngh là : ngày tháng, nghỉ  ngơi, người bạn, nghề  nghiệp, ngăn cản, nghiêm nghị, nghi ngờ, …          Qua trò chơi nhằm giúp các em khắc sâu được kiến thức đã học các từ. 2.2.7. Hướng dẫn học sinh tự phát hiện lỗi và sửa lỗi         Song song với việc ôn tập gúp học sinh nắm vững các qui tắc và mẹo   chính tả, việc hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi trong bài viết cũng  rất quan trọng. Đây là một thói quen mà giáo viên cần phải rèn cho học sinh,   không chỉ ở chính tả mà ở tất cả các môn học khác.  * Đối với bài chính tả Đoạn bài, sau khi học sinh viết xong, tôi tổ chức  cho học sinh đổi vở và soát lỗi lẫn nhau. Tôi qui định lỗi cụ thể, yêu cầu các   14
  15. em soát lỗi bài viết của bạn, dùng bút chì gạch dưới chữ viết sai, tổng hợp số  lỗi rồi trả về cho bạn tự sửa  (ghi từ chứa tiếng sai rồi sửa lại đúng chính tả). Đối với những em viết sai nhiều, tôi phân công một học sinh giỏi đổi  vở và soát lỗi với học sinh đó. Sau khi các em soát lỗi xong, tôi mới thu vở để  chấm và nhận xét. Trong giờ chính tả, tôi chỉ  chấm nhanh khoảng một phần   ba lớp. Nhưng giờ  ra chơi, tôi cố  gắng chấm hết, chấm thật kĩ và ghi nhận  xét cụ  thể, khen những em có sự  tiến bộ. Khi trả  vở  cho học sinh, tôi khen  ngợi những em đã soát lỗi bài viết của bạn chính xác, tuyên dương những em   có tiến bộ, động viên những em còn viết sai nhiều sửa lỗi trong vở bằng cách  ghi các từ đó vào giấy nháp từ đúng đã sửa.  * Đối với các bài tập, tôi thường tổ chức cho các em làm bài trong nhóm  nhỏ  bằng nhiều hình thức thi đua như:  Ai nhanh ai đúng, Tìm nhanh viết   đúng, … Các nhóm ghi bài làm của nhóm mình vào bảng nhóm hoặc phiếu bài   tập để cả lớp nhận xét, bầu chọn nhóm thắng cuộc.       2.2.8. Giúp học sinh viết đúng chính tả qua các môn học khác Rèn cho học sinh viết đúng chính tả  không chỉ  rèn trong giờ  chính tả  hay giờ tập đọc mà rèn cho các em ở các môn học khác như: giờ tập viết cũng  cần rèn cho các em viết đúng chính tả, đúng mẫu chữ, đều nét, viết đúng mẫu   chữ hoa. Các em chỉ rèn viết đẹp quên chú ý đến lỗi chính tả, do đó cũng còn  rơi rớt một số em còn viết sai ở câu ứng dụng trong bài viết. Ví dụ: Học sinh viết câu “Ăn chậm nhai kĩ” trong phân môn tập viết  (TV2, tập 1, trang 17) như sau: Ăn chậm nhai kỉ. Có 03 em (Trực, Tuyết, Trâm) viết “nhai kĩ” thành “nhai kỉ”. Tôi đã   hướng dẫn các em sữa ngay thành “nhai kĩ” và giúp các em hiểu nghĩa từ  để  phân biệt từ đúng: “nhai kĩ” với  từ sai “nhai kỉ” (trong tự kỉ, kỉ luật). Hoặc học sinh viết câu “Chia ngọt sẻ bùi” (TV2, tập 1, trang 35) thành “Chia   ngọt sẽ bùi”. Tương tự cách trên, tôi đã hướng dẫn học sinh sửa sai ngay. * Đối với phân môn Luyện từ và câu: 15
  16. Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập 1 (TV2, tập 1, trang 35), em Bảo Trâm  đã tìm được một số từ chỉ người, trong đó có từ bác sỉ, kỉ sư viết sai chính tả.   Tôi đã hướng dẫn em sửa sai và viết lại “bác sĩ, kĩ sư”, đồng thời giúp em  hiểu nghĩa và cách sử dụng của các từ đó, phân biệt “sĩ” trong từ “bác sĩ” với  “sỉ” trong từ “vô liêm sỉ” hay phân biệt với “kỉ” trong từ “tự kỉ”, “kỉ luật”, … Đối với phân môn Tập làm văn cũng vậy, tôi luôn rèn cho các em đọc  đúng, viết đúng, trả  lời đúng sau những câu gợi ý hoặc tranh minh hoạ, đó   cũng giúp cho các em nói đúng, viết đúng. Trong các bài văn viết về một đoạn   văn ngắn từ 5 ­ 7 câu vẫn còn sai lỗi thông thường như thanh hỏi, thanh ngã,  âm, vần Đối với môn Đạo đức và môn Tự  nhiên ­ xã hội, tôi cũng luôn sửa lỗi  sai   trong các lần làm bài tập và nhắc nhở các em chú ý. Tôi luôn kiểm tra vở bài tập chính tả, chú ý đến học sinh chậm tiến bộ  nhiều hơn, học sinh hay mắc lỗi, phát hiện lỗi sai và hướng dẫn cho các em  viết lại nhiều lần ra giấy nháp. Tóm lại, trên thực tế, các biện pháp nêu trên cần được tiến hành một  cách đồng thời và liên tục trong mỗi tiết dạy. Bởi không thể  ngày một ngày  hai mà học sinh hình thành được kĩ năng mà cần phải có một quá trình lâu dài  và kiên trì. Cũng không thể rèn kĩ năng cho tất cả các học học sinh trong cùng  một lúc mà phải biết nên tập trung rèn kĩ năng cho học sinh nào trước, học  sinh nào sau. 2.3. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC         Trong quá trình đứng lớp, tôi đã áp dụng các biện pháp trên và nhận thấy  học sinh lớp tôi có tiến bộ  rõ rệt. Bản thân các em cũng ý thức hơn khi viết   bài nên bài viết ít mắc lỗi chính tả  hơn. Không chỉ   ở  phân môn Chính tả  mà  sự tiến bộ của học sinh thể hiện ngày càng rõ nét trong các bài làm của phân  môn khác như viết Tập làm văn, làm lời giải toán có lời văn,…Với những học   sinh đã viết đúng chính tả thì các em viết ngày càng đẹp và đều nét hơn. 16
  17. Bảng 2. Kết quả bài kiểm tra chính tả tra cuối học kỳ 1 năm học 2014 – 2015  của học sinh lớp tôi như sau:  HS viết đúng  HS viết sai  HS viết sai  HS viết sai  Tổng số HS chính tả 1­ 2 lỗi 3­ 4 lỗi trên 5 lỗi TL  TL  TL  TL  SL SL SL SL (%) (%) (%) (%) 25 22 88 2 8 1 4 0 0 Mặt khác, kết quả Ngày hội viết chữ đẹp cấp trường vừa được tổ chức,   học sinh lớp tôi đã đạt được 2/4 giải nhất, 2/4 giải nhì. * Đánh giá kết quả đạt được: Qua bảng thống kê 2 cho thấy số học sinh   viết đúng chính tả là 22 em, chiếm tỉ lệ 88% (tăng so với đầu năm là 7 em) ;   số học sinh viết sai 1 – 2 lỗi chính tả  là 2 em, chiếm tỉ lệ 8% (giảm 2 em so   với đầu năm) ; số học sinh viết sai chính tả 3 – 4 lỗi là 1 em, chiếm tỉ lệ 4%   (giảm 03 em so với đầu năm) ; số học sinh viết sai 5 – 6 lỗi không có em nào  (giảm 2 em so với đầu năm). Kết quả đạt được cho thấy bước đầu các biện  pháp mà tôi đã áp dụng đem lại hiệu quả tích cực trong việc rèn kĩ năng viết  chính tả  cho học sinh lớp tôi, trường tôi nói riêng và học sinh tiểu học nói  chung. 2.4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM         ­ Việc phát hiện lỗi chính tả, thống kê, tìm nguyên nhân gây lỗi, từ  đó   đưa ra các biện pháp khắc phục là rất cần thiết, không thể  thiếu trong quá  trình dạy ­ học Tiếng Việt. Nhưng không phải chỉ đưa ra các biện pháp khắc  phục là có thể  thực hiện một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi   chính tả là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền  bỉ, không được nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ  ngay trong vài  tuần nhưng cũng có những học sinh thì sự  tiến bộ  diễn ra rất chậm, không   phải vài tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kỳ. Nếu giáo viên không  biết chờ đợi, nôn nóng thì chắc chắn sẽ thất bại. 17
  18. ­ Ngay từ khi các em mới bắt đầu “làm quen” với Tiếng Việt, giáo viên  nên hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ,   quy tắc ghi âm chữ quốc ngữ… tránh trường hợp học sinh vì thiếu hiểu biết   dẫn đến sai sót. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan sát, kiểm tra,  … từ  đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc, hoặc những lỗi mà học   sinh hay mắc phải để kịp thời sửa chữa, uốn nắn. ­ Với giáo viên, việc nắm chắc quy tắc, vận dụng vào từng bài tập một  cách phù hợp để  rèn luyện cho học sinh rất quan trọng và cần thiết. Mặt  khác, qua thói quen giao tiếp nói và viết hàng ngày giúp các em viết đúng   chính tả hơn nên mọi lúc, mọi nơi giáo viên phải là người mẫu mực trong khi   viết để học sinh có cơ  hội học tập theo. Giáo viên luôn phải tự  học để  nắm   được quy tắc, căn cứ, cơ sở khoa học của việc nói, viết đúng chuẩn; Thường  xuyên  đọc  sách  báo,  viết  bài  luận  để   có  thói  quen dùng  từ  và  viết chính   xác.Việc rèn luyện phải được thực hiện thường xuyên, tổ chức một cách bài   bản, dựa trên những quy tắc, căn cứ  khoa học nhất định nhằm tạo cho HS   thói quen viết đúng chính tả, góp phần giữ  gìn sự  trong sáng của tiếng Việt,   từng bước hình thành nhân cách của trẻ.  3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của sáng kiến Nhà trường Tiểu học là cái nôi đầu tiên giáo dục trẻ em khi các em bước   vào tuổi đi học. Chính vì lẽ đó, chúng ta cần phải coi trọng việc rèn luyện cho  học sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, đặc biệt là kỹ năng viết đúng chính  tả. Bởi vì, một khi đã trở  thành thói quen viết không đúng thì sau này lớn lên  khó sửa chữa được. Sáng kiến này nhằm mục đích nói trên. 18
  19. Qua triển khai sáng kiến ở cơ sở bước đầu đã thu được những kết quả  sau: ­ Đã đưa ra được một số  biện pháp và ví dụ  minh hoạ  để  rèn kĩ năng  viết đúng chính tả  cho học sinh lớp 2 mà tôi trực tiếp giảng dạy, góp phần  nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt và đổi mới nội dung, phương   pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ  động, linh hoạt và sáng tạo   của học sinh. ­ Việc áp dụng các biện pháp nêu trên cho thấy bước đầu các biện pháp  này đã đem lại hiệu quả và có tính khả thi Song bên cạnh đó, sáng kiến này còn một số hạn chế nhất định : Các biện pháp trên mới chỉ  áp dụng rèn kĩ năng viết đúng chính tả  cho  học sinh lớp 2 mà tôi đang chủ nhiệm. 3.2. Đề xuất Nên chăng cần tổ  chức các chuyên đề  sinh hoạt chuyên môn về  rèn kĩ  năng viết chính tả  để  trao đổi, rút kinh nghiệm (trong tổ, trong trường hoặc   liên trường) Những kết quả  đạt được của sáng kiến mới chỉ  là bước đầu. Tác giả  đề  tài hi vọng sẽ  tiếp tục nghiên cứu để  khắc phục những hạn chế  và mở  rộng phạm vi ứng dụng của sáng kiến. Rất mong được sự trao đổi, góp ý của  chuyên môn, đồng nghiệp và bạn bè để giúp tôi hoàn thiện sáng kiến này. Xin chân thành cảm ơn ! 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
22=>1