intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4A Trường TH Mai Thủy

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

43
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học được hoàn thành với mục tiêu nhằm đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Bồi dưỡng cho học sinh năng lực cảm thụ văn học và rèn kĩ năng viết văn cho học sinh thông qua thể loại văn miêu tả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4A Trường TH Mai Thủy

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN CẢI TIẾN KĨ THUẬT MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN MIÊU TẢ  CHO HỌC SINH LỚP 4A TRƯỜNG TH MAI THỦY                                                                                                                          1
  2.                             Mai Thủy, tháng 5 năm 2012 CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN CẢI TIẾN KĨ THUẬT MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN MIÊU TẢ  CHO HỌC SINH LỚP 4A TRƯỜNG TH MAI THỦY                                                                                                                          2
  3. Họ và tên: Nguyễn Văn Dũng                                   Chức vụ: Giáo viên  Đơn vị: Trường TH Mai Thủy Mai Thủy, tháng 5 năm 2012 A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài    Cùng với sự  phát triển của đất nước, sự  phát triển về  lĩnh vực giáo dục cần   phải được chú trọng và quan tâm đúng mức. Vì vậy, việc đổi phương pháp dạy  học đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ thị cho Sở Giáo dục các tỉnh thực hiện.   Trong nhiều năm qua, Phòng Giáo dục và Đào tạo Lệ Thủy đã coi trọng và triển   khai đổi phương pháp dạy học. Song không phải địa phương nào, trường nào,  giáo viên nào cũng thực hiện tốt vấn đề  này. Đối với việc dạy học phân môn  Tập làm văn, nếu giáo viên thực hiện tốt các phương pháp dạy học phát huy tính   tích cực, chủ động của học sinh sẽ giúp các em phát huy cao độ trí tuệ, cảm xúc,  sự năng động, sáng tạo trong học tập và giao tiếp. Trên thực tế, nhiều giáo viên   ở  nhiều nơi, do chưa vận dụng thành công các phương pháp dạy học tích cực,  học sinh còn bị đặt ở thế thụ động lĩnh hội tri thức nên hiệu quả dạy học chưa   khả  quan. Cụ  thể  là, học sinh chưa nói, viết theo cách cảm, cách nghĩ của văn  chương.      Hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy học là nhằm phát huy tính tích cực,  chủ  động, sáng tạo của người học. Đổi mới phương pháp dạy học là vừa kế  thừa và phát huy những mặt tích cực của những phương pháp dạy học quen   thuộc, vừa áp dụng hiệu quả những phương pháp dạy học mới. Việc lựa chọn                                                                                                                           3
  4. phương pháp dạy học phải căn cứ vào từng loại bài học, từng nội dung dạy học  ở từng lớp, phải căn cứ vào điều kiện, phương tiện dạy học ở từng vùng, từng  trường. Phân môn Tập làm văn là phân môn đòi hỏi học sinh phát huy cao độ trí   tuệ và cảm xúc để thực hiện các yêu cầu bài học. Vì vậy, việc rèn kĩ năng viết   văn (đặc biệt là văn miêu tả) cho học sinh là điều rất quan trọng và hết sức cần  thiết. Vấn đề đặt ra là rèn kĩ năng viết văn cho học sinh như thế nào cho hợp lí,  hiệu quả, đảm bảo khoa học ; phát huy được tính tích cực, chủ  động  của học  sinh, phát huy cao độ trí tuệ và cảm xúc của các em để thực hiện tốt các yêu cầu   của bài học ? Để trả lời cho vấn đề này, tôi đã mạnh dạn đưa ra đề tài: “Một số  biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả  cho học sinh lớp 4A Trường TH Mai   Thủy” với mong muốn góp phần nhỏ  bé công sức của mình vào sự  nghiệp đào  tạo thế hệ trẻ, góp phần cụ thể hoá định hướng đổi mới phương pháp dạy học  ở  nhà trường tiểu học. Đồng thời qua đó để  đúc rút những kinh nghiệm thiết   thực cho bản thân trong công tác giảng dạy sau này. II. Mục đích đề tài      Đề tài nhằm mục đích : ­ Đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4 ­ Bồi dưỡng cho học sinh năng lực cảm thụ văn học và rèn kĩ năng viết văn cho   học sinh thông qua thể loại văn miêu tả. ­ Rút ra bài học kinh nghiệm bổ ích cho bản thân. ­ Làm tài liệu tham khảo cho đồng nghiệp. III. Nhiệm vụ đề tài ­ Nghiên cứu một số đặc điểm tâm lí, nhận thức của học sinh tiểu học; dựa vào   kinh nghiệm dạy học của bản thân, từ  đó đưa ra các biện pháp dạy học rèn kĩ   năng viết văn thông qua thể loại văn miêu tả cho học sinh một cách thích hợp. ­ Kiểm tra tính khả thi của đề tài. IV. Đối tượng và phạm vi đề tài                                                                                                                          4
  5. 1. Đối tượng  ­ Học sinh lớp 4 ­  Các biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4. 2. Phạm vi      Học sinh lớp 4A Trường TH Mai Thủy. V. Phương pháp nghiên cứu      Để đưa ra đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp : ­ Phương pháp nghiên cứu lí luận và thực tiễn ­ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm ­ Phương pháp thống kê, điều tra, vấn đáp ­ Phương pháp thực nghiệm B. NỘI DUNG CHÍNH I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận 1.1. Thế nào là văn miêu tả ?    Văn miêu tả là văn dùng để miêu tả sự vật, hiện tượng, con người,... một cách   sinh động, cụ  thể  nó vốn có nhưng văn miêu tả  không phải là sự  sao chép máy  móc thực tế khách quan mà nó là sự nhận xét, đánh giá hết sức phong phú tưởng  tượng của người viết.     Bất kì một hiện tượng nào của đời sống cũng có thể trở thành đối tượng của  văn miêu tả nhưng không phải bất kì sự miêu tả nào cũng trở thành văn miêu tả.   Khi sự  miêu tả  lạnh lùng khách quan nhằm mục đích thông báo trí tuệ    thì đó  không phải là loại văn miêu tả. Văn miêu tả phải là loại văn nhiều cảm xúc với  những rung động, những nhận xét tinh tế, sáng tạo nhằm mục đích thông báo  thầm kín người đọc qua văn bản miêu tả. Nhận thức thực tế khách quan không                                                                                                                            5
  6. phải bằng con đường lí trí mà chủ  yếu bằng những cảm xúc rung động mạnh   mẽ của tâm hồn. 1.2. Phương pháp chung để dạy học sinh viết văn miêu tả     Phương pháp chung thường để  dạy học sinh viết văn miêu tả  theo các bước  sau: Bước 1 : Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của đề bài đã cho Bước 2 : Hướng dẫn học sinh dựa vào gợi ý ở  sách giáo khoa để  lập dàn ý chi   tiết Bước 3 : Yêu cầu hs trình bày miệng dàn ý đã lập để chỉnh sửa lỗi (nếu có) Bước 4 : Yêu cầu học sinh dựa vào dàn ý đã lập để viết thành đoạn văn, bài văn  hoàn chỉnh.  1.3. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học    Ở lứa tuổi tiểu học, trình độ nhận thức và tư duy của các em còn non yếu: Tri  giác của các em mang tính chất đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và mang tính không   chủ động. Do đó, các em phân biệt những đối tượng còn chưa chính xác, dễ mắc  sai lầm có khi lẫn lộn... Hay nói cách khác, khi tri giác, sự phân tích một cách có  tổ  chức và sâu sắc  ở  học sinh còn yếu. Học sinh thường “thâu tóm” sự  vật về  toàn bộ, về đại thể để tri giác.     Do hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất ở học sinh lớp 4, 5 chiếm ưu thế  tương đối nên trí nhớ trực quan ­ hình tượng được phát triển hơn trí nhớ từ ngữ ­   lôgic. Các em nhớ  và gìn giữ  chính xác những sự  vật, hiện tượng cụ thể nhanh   hơn và tốt hơn những định nghĩa, những lời giải thích dài dòng. Nhiều học sinh   lớp 4, 5 còn chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết sử dụng sơ đồ  loogic và dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết xây dựng dàn ý tài liệu cần  ghi nhớ. Hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định do tính tích cực học tập của học  sinh quy định. Một đặc điểm cần lưu ý là tưởng tượng của học sinh lớp 4, 5 đã   mất dần, thoát khỏi  ảnh hưởng của những  ấn tượng trực tiếp. Mặt khác, tính                                                                                                                           6
  7. hiện thực trong tưởng tượng của học sinh gắn liền với sự phát triển của tư duy  và ngôn ngữ. Tư  duy của học sinh lớp 4, 5 bắt đầu chuyển dần từ  tính cụ  thể  sang tính trừu tượng, khái quát. Hoạt động phân tích ­ tổng hợp phát triển mạnh   hơn. Các em có thể phân tích đối tượng mà không cần tới những hành động thực   tiễn với đối tượng đó. Tư duy hình thức đã bắt đầu có sự phát triển (tuy còn ít).  Năng lực khái quát hoá của các em phát triển tương đối mạnh. Vì vậy, trong quá  trình dạy học nói chung và dạy phân môn Tập làm văn nói riêng, giáo viên cần  phải chú ý rèn luyện năng lực tư duy, năng lực cảm thụ văn cho các em. 1.4. Các dạng bài làm văn miêu tả ở lớp 4    Nội dung và yêu cầu viết văn miêu tả được thể hiện qua các dạng bài tập làm   văn cụ thể:  ­ Tả đồ vật ­ Tả cây cối ­ Tả con vật     Nội dung các bài làm văn giúp học sinh thực hành, rèn luyện các kĩ năng sử  dụng tiếng Việt như  thực hành các nghi thức lời nói, rèn kĩ năng diễn đạt, kĩ   năng xây dựng văn bản tiếng Việt. Thông qua những đề  bài cụ  thể, học sinh   luyện tập trau dồi và sáng tạo ngôn bản trên hai hình thức nói và viết. Muốn giải   quyết yêu cầu của một đề bài cụ thể, học sinh phải huy động toàn bộ  vốn kiến   thức của mình: kiến thức văn học, kiến thức đời sống, kiến thức ngôn ngữ, ...  Và những kĩ năng cần thiết: kĩ năng nhận diện đặc điểm thể văn, kĩ năng phân   tích đề, kĩ năng tìm ý lập dàn ý, kĩ năng diễn đạt, chọn từ, tạo câu, kĩ năng mở  đề ­ kết luận, ... 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Sự cần thiết phải rèn kĩ năng viết văn cho học sinh lớp 4                                                                                                                          7
  8.    Kĩ năng viết văn là một kĩ năng rất khó của phân môn Tập làm văn. Để có thể  phát huy cao độ trí tuệ và cảm xúc của các em, thực hiện tốt các yêu cầu của bài  học là cả một quá trình lâu dài và có sự chuẩn bị chu đáo.     Trong quá trình làm văn (sáng tạo văn bản), học sinh thường nói và viết theo  cách “thấy và nghĩ thế nào viết thế ấy” do lối tư duy trực quan. Các em chưa và  ít dùng các hình ảnh so sánh hay nhân hóa  để miêu tả đối tượng. Do vậy bài văn   của các em thiếu cảm xúc, nghèo hình ảnh, chưa có “hồn” của văn chương. Bố  cục bài văn thiếu tính mạch lạc, lô­gic, cách diễn đạt ý còn vụng.    Các lỗi viết câu sai ngữ pháp, câu không đủ thành phần chủ ­ vị, dùng sai dấu   câu làm cho câu cụt, câu què, ...  Các lỗi dùng từ sai hoặc dùng từ không chính xác do hiểu không đúng nghĩa của  từ và câu khi diễn đạt.      Tìm ra các loại lỗi văn viết cụ  thể  của học sinh sẽ  giúp giáo viên có định   hướng khắc phục lỗi văn viết của học sinh tốt hơn.    Với tầm quan trọng nêu trên và qua hiện trạng dạy học hiện nay cho thấy sự  cần thiết phải rèn kĩ năng viết văn và cảm thụ văn cho học sinh, đặc biệt là học  sinh lớp 4, 5. 2.2. Thực trạng tình hình dạy học viết văn miêu tả  cho học sinh lớp 4.   Nguyên nhân thực trạng. 2.2.1. Tiến hành khảo sát ­ điều tra    Để tìm hiểu thực trạng dạy học rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp  4,  tôi đã tiến hành khảo sát, điều tra trên cả  hai đối tượng là giáo viên và học  sinh Trường Tiểu học Mai Thuỷ. A. Về phía học sinh    Năm học 2011 ­ 2012, tôi đã được Nhà trường và chuyên môn phân công chủ  nhiệm và giảng dạy lớp 4A. Ngay từ  đầu năm, tôi đã tiến hành khảo sát chất                                                                                                                            8
  9. lượng phân môn Tập làm văn đối với 26 học sinh lớp 4A Trường TH Mai Thuỷ  qua bài kiểm tra đầu năm và thu được một số kết quả như sau:  Bảng 1 : Thống kê điểm bài khảo sát đầu năm        Điể Tổn m 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 g số  Lớp hs 4A 0 1 2 3 6 8 3 2 1 0 26 * Điểm trung bình bài kiểm tra đầu năm: ĐTB = 5,5 Bảng 2 : Thống kê tỉ lệ phần trăm điểm bài khảo sát đầu năm        Xếp loại Giỏi Khá Trung bình Yếu Ghi  (9, 10) (7, 8) (5, 6) (1, 2, 3, 4) chú SL % SL % SL % SL % Lớp 4A 1 3,8 5 19,2 14 53,8 6 23,0 Nhận xét :    Nhìn vào bảng thống kê 1 cho thấy : Điểm của học sinh qua bài kiểm tra tương   đối thấp. Điểm trung bình là 5,5. Điều này cho thấy chất lượng dạy học phân   môn Tập làm văn còn thấp, đặc biệt là chất lượng văn viết của học sinh.     Từ bảng thống kê 2 chúng tôi nhận thấy : Số học sinh yếu kém chiếm một tỉ  lệ tương đối cao: 23,0%. Ngược lại tỉ lệ học sinh khá giỏi rất hạn chế: 23,0%.   Kết quả  này phần nào phản ánh hiệu quả  dạy học phân môn Tập làm văn cho   học sinh chưa cao. Bảng 3 : Thống kê các loại lỗi văn viết của HS lớp 4A       Lỗi Lỗi viết  Tổng số  Lỗi chính tả Lỗi dùng từ Lớp câu học sinh 4A 13 11 14 26                                                                                                                          9
  10. Bảng 4 : Thống kê tỉ lệ phần trăm mắc lỗi của HS lớp 4A       Lỗi Lỗi viết  Lỗi chính tả Lỗi dùng từ Tỉ lệ (%) Lớp câu 4A 50,0 42,3 53,8 100    Nhận xét:     Bảng thống kê cho thấy : Nhiều học sinh đều mắc các loại lỗi văn viết nêu   trên, đặc biệt là lỗi viết sai các dấu thanh ; dùng từ  không chính xác ; viết câu   què, câu cụt, có nhiều từ ngữ thừa, rườm rà, lủng củng. B. Về phía giáo viên    Tôi tiến hành điều tra thực trạng dạy học rèn kĩ năng viết văn và cảm thụ văn   cho học sinh qua mẫu phiếu dành cho đối tượng giáo viên. Số  lượng điều tra là   6/6 giáo viên khối 4, 5 của Trường Tiểu học Mai Thủy. Tôi đã thu được một số  kết quả như sau: Bảng 5 : Vai trò của kĩ năng viết văn đối với học sinh lớp 4, 5 Vai trò của kĩ năng viết văn đối với  Số lượng GV Tỉ lệ (%) hs lớp 4, 5 Rất quan trọng 5 83,3 Quan trọng 1 16,7 Không quan trọng 0 0    Qua bảng thống kê trên tôi nhận thấy : Không có giáo viên nào cho rằng vai trò  của kĩ năng viết văn và cảm thụ  văn đối với học sinh lớp 4, 5 là không quan   trọng (tỉ  lệ  0%). Điều này cho thấy, hầu hết các giáo viên đã ý thức được tầm   quan trọng của kĩ năng này. Trong đó, tỉ  lệ  giáo viên xác định vai trò rất quan   trọng (83,3%) và quan trọng (16,7%). Việc xác định hay không xác định được  tầm quan trọng của kĩ năng này sẽ  phần nào  ảnh hưởng đến chất lượng dạy   học phân môn TLV. Qua đó cũng để  khẳng định rằng : vai trò của kĩ năng viết                                         10
  11. văn và cảm thụ văn đối với học sinh lớp 4, 5 là rất quan trọng, ảnh hưởng trực   tiếp đến chất lượng dạy học của môn học. Bảng 6 : Sự quan tâm của GV đối với việc rèn kĩ năng viết văn cho HS lớp   4, 5 Mức độ quan tâm của GV Số lượng GV Tỉ lệ (%) Rất quan tâm 5 83,3 Quan tâm 1 16,7 ít quan tâm 0 0 Không quan tâm 0 0    Từ bảng thống kê trên, tôi nhận thấy : Hầu hết Gv đều quan tâm đến việc rèn  kĩ năng viết văn cho HS. Tỉ lệ 83,3% GV rất quan tâm là một tỉ lệ tương đối cao.  Mức độ quan tâm của GV sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn nội dung và phương  pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn. 2.2.2. Nguyên nhân thực trạng 2.2.2.1. Học sinh ­ Khả năng nhận thức của học sinh còn hạn chế ­ Hệ thống từ ngữ TV rất phong phú và đa dạng, mỗi từ thường có nhiều nghĩa   và nhiều cách sử  dụng khác nhau trong nói và viết. Tuỳ  từng ngữ  cảnh cụ  thể  mà dùng nghĩa đen hay nghĩa bóng của từ, có sự  lựa chọn từ  trong cùng trường  nghĩa (những từ  có nghĩa gần nhau) ...HS  ở  tiểu học không thể  có năng lực để  phân biệt ngữ cảnh mà lựa chọn từ, lựa chọn nghĩa và dùng từ một cách phù hợp  và chính xác nhất. ­ Ngoài ra, viết câu sai ngữ pháp còn do học sinh không nắm được cách sử dụng  dấu câu, các thành phần chính của câu TV nên các em thường viết câu cụt, câu   không có nghĩa,... ­ Năng lực cảm thụ  văn học của học sinh còn yếu nên bài viết của học sinh   thiếu sự sáng tạo, nghèo hình ảnh                                        11
  12. ­ Học sinh ít tập trung trong lúc giáo viên giảng bài, chưa biết dựa vào các điểm   tựa để ghi nhớ, chưa biết xây dựng dàn ý tài liệu cần ghi nhớ.  ­ Chưa hình thành được kĩ năng viết văn ­ Học sinh còn ít được luyện tập ­ thực hành 2.2.2.2. Giáo viên ­ Một số  GV chưa khai thác triệt để  nội dung bài dạy hoặc không sáng tạo khi   dạy, cứ rập khuôn theo phương pháp của sách giáo viên ­ Khi hướng dẫn học sinh viết văn, GV chưa đưa ra các gợi ý dưới dạng “mở”  cho học sinh lựa chọn để tìm các hình ảnh, chi tiết thích hợp. ­ Một số giáo viên dạy học trên tinh thần “đối phó” ­ Chưa thực sự  chú trọng rèn kĩ năng viết văn cho học sinh (chưa quan tâm  hướng dẫn học sinh sửa lỗi viết văn) ­ Hiệu quả của phương pháp giảng dạy còn chưa cao 3. Nhận xét chung    Vị trí của phân môn Tập làm văn ở Tiểu học là rất quan trọng. Nhưng thực tế,   chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn nói chung chưa cao. Đối với việc   học văn thì học sinh cần phải thực hành, luyện tập nhiều. Hơn nữa, do đặc  điểm của học sinh tiểu học là “mau nhớ, mau quên” cho nên cần phải hình thành  kĩ năng và thói quen cho các em trong suốt quá trình dạy học. Vai trò của việc rèn  kĩ năng viết văn cho học sinh hết sức quan trọng trong việc phát triển tư duy trẻ.  Học tốt phân môn Tập làm văn sẽ góp phần giúp học sinh học tốt các phân môn  và môn học khác.                                        12
  13. II. MỘT SỐ  BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN MIÊU TẢ  CHO HỌC SINH LỚP 4A TRƯỜNG TH MAI THỦY     Từ  thực trạng nêu trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số  biện pháp nhằm rèn kĩ  năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4A dưới đây: 1. Biện pháp 1: Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập (rèn kĩ   năng nhận diện đặc điểm thể văn và phân tích đề bài)    Bất kì một đề bài Tập làm văn nào, việc giúp học sinh nắm vững yêu cầu của  đề  bài là rất quan trọng. Đây là định hướng đầu tiên để  học sinh hệ  thống lại   trong trí nhớ của mình thể loại văn cần tả. Từ đó, xác định bố cục bài văn và dàn  ý của thể loại văn cần tả. Tức rèn cho các em có thói quen và kĩ năng nhận diện   thể văn cũng như kĩ năng phân tích đề bài.  Ví dụ  : Đề  bài “Tả  cái bàn học  ở  lớp hay  ở  nhà của em” (SGK TV4, T2, trang   18) ­ Giáo viên cần giúp học sinh xác định đúng thể  loại văn bằng cách đưa ra các  gợi ý để học sinh lựa chọn (văn kể chuyện, văn miêu tả hay văn nhật dụng, viết   thư, ...). ­ Sau khi học sinh xác định được thể loại văn (tả đồ vật), giáo viên giúp học sinh  xác định yêu cầu của đề  bài: Tả  cái gì ? (Tả  cái bàn học  ở  lớp hay  ở  nhà của   em).     Việc làm này giúp học sinh nhận ra rằng: đồ vật các em cần tả là một cái bàn   học ở lớp hay ở nhà của em chứ không phải là tả những cái bàn học khác. Đây là   bước rèn cho học sinh kĩ năng phân tích đề bài. ­ Bước tiếp, giáo viên có thể  đưa ra một số  đề  bài tương tự  yêu cầu học sinh  nhận diện thể văn và phân tích đề bài để xác định yêu cầu: Tả cái gì ?     Ví dụ: Đề  bài  Tả  chiếc cặp sách của em hay Đề  bài Tả  chiếc áo em mặc   đến lớp hôm nay, ...)                                        13
  14.    Với các đề bài này, học sinh phải xác định được: thể văn là văn miêu tả (tả đồ  vật) và các em tả chiếc cặp của mình chứ không phải tả chiếc cặp của bạn; tả  chiếc áo mà các em mặc đến lớp hôm nay chứ không phải chiếc áo nào khác. Ví dụ: Đề bài Tả một cây có bóng mát (SGK TV4 T2, trang 92)   Học sinh phải xác định được những cây nào là cây có bóng mát (cây có tán xòe   rộng, lá dày có thể che bóng mát như cây bàng, cây cổ thụ, cây đa, ...)    Học sinh xác định được đối tượng miêu tả tức là đã có kĩ năng phân tích đề bài. 2. Biện pháp 2 : Đưa ra các gợi ý dưới dạng mở  nhằm cung cấp cho học   sinh một số đặc điểm, công dụng, tính cách ... liên quan đến đối tượng cần  tả  ; chú ý những nét riêng, đặc sắc của đối tượng được tả  nhằm rèn kĩ  năng tìm ý.    Với đề bài Tả một cây có bóng mát (SGK TV4 T2, trang 92), GV có thể đưa ra  các gợi ý: Về  hình dáng của cây (to lớn, cành lá xum xuê; cây như  một chiếc ô  xanh hay ngọn tháp xanh khổng lồ, ...). Về màu sắc của lá (xanh đậm, xanh nhạt,   xanh non tơ, ...); kích thước, hình dáng của chiếc lá (lá hình bầu dục, hình chiếc   quạt; tán lá xòe rộng, lá dày đan xen nhau kín khít, mỗi chiếc lá như  một chiếc   quạt xanh, ...). Về  công dụng (che bóng mát, tạo cảnh quan cho trường, ..); cây  có bóng mát các em tả  có điều gì đặc biệt so với những cây có bóng mát hay   những loại cây khác: cây đã được trồng lâu năm, cành lá xum xuê, gốc cây to, ...    Ví dụ với đề bài Tả cái đồng hồ báo thức, GV có thể sử dụng phương pháp  đàm thoại hoặc phương pháp trực quan (tranh ảnh, băng hình) để  cung cấp hình  ảnh về đối tượng miêu tả. Sau đó, giáo viên gợi ý đưa ra một số từ ngữ miêu tả  dưới dạng mở để học sinh lựa chọn phù hợp với đối tượng miêu tả. Ví dụ: Về hình dáng đồng hồ (tròn, vuông, hình chữ nhật, hình chú mèo, hình chú   gà, ...). Về màu sắc (xanh lá cây, xanh da trời, xanh dương, vàng nhạt, vàng tươi,   đỏ  thẫm, đỏ  chon chót, ...). Về các bộ  phận và đặc điểm của các bộ  phận (các                                          14
  15. con số màu gì? (màu đen hoặc xanh, đỏ, ..); được sắp xếp như thế nào? (sắp xếp   trên một đường tròn, sắp xếp thành hình vuông hay hình chữ  nhật, ...); có mấy  kim? (3 kim) đó là những kim nào? (kim giờ, kim phút, kim giây); mỗi kim có đặc  điểm gì? (kim giờ to chạy chậm, kim phút mảnh hơn chạy nhanh hơn, kim giây  mảnh chạy như  có ai đuổi, ...). Về  công dụng của đồng hồ  (đồng hồ  giúp em   xem giờ, báo thức, ..). Chiếc đồng hồ  báo thức của em có đặc điểm gì đặc biệt   so với những chiếc đồng hồ khác (ví dụ đặc biệt về hình dáng, về tiếng chuông   báo thức hay về màu sắc, ...)...    Để biện pháp trên có hiệu quả cao, giáo viên cần phải huy động tính tích cực,  chủ  động của nhiều học sinh trong lớp, đặc biệt là những học sinh mà vốn từ  TV còn hạn chế  nhằm giúp các em có được vốn từ  cần thiết phục vụ cho việc   làm bài tập 3. Biện pháp 3 : Hướng dẫn học sinh dùng từ  để  đặt câu miêu tả  (miệng)  và sửa lỗi (nếu có) nhằm rèn kĩ năng chọn từ, tạo câu, kĩ năng diễn đạt.    Sau khi học sinh đã có một vốn từ TV nhất định liên quan đến đề bài, giáo viên  cần hướng dẫn học sinh tập đặt câu miêu tả; đồng thời kết hợp sử  dụng các  hình  ảnh so sánh, nhân hoá để  làm nổi bật sự  vật: ngoại hình hay hoạt động  được miêu tả. Để làm được điều này, giáo viên cần phải chuẩn bị một hệ thống   câu hỏi để dẫn dắt học sinh tự mình tìm ra kiến thức. ­ Trở lại với Đề bài “Tả cái bàn học ở lớp hay ở nhà của em” (SGK TV4, T2,  trang 18), GV cần giúp học sinh biết sử  dụng đúng từ  ngữ  để  đặt câu trong   những tình huống cụ thể. Ví dụ, học sinh không thể miêu tả mặt bàn hình vuông   (vì bàn học sinh) hay bàn được làm bằng sợi ni lông tổng hợp. ­ Tuỳ  từng ngữ  cảnh cụ  thể  mà GV hướng dẫn học sinh dùng nghĩa đen hay  nghĩa bóng của từ, có sự lựa chọn từ trong cùng trường nghĩa (những từ có nghĩa   gần nhau). Trong quá trình hướng dẫn học sinh đặt câu (miệng), giáo viên cần                                         15
  16. phân tích các từ dùng sai trong ngữ cảnh câu văn để học sinh nhận biết. Phân tích  cấu trúc câu sai ngữ  pháp (nếu có): Chỉ  ra các thành phần câu, trật tự  của các  thành phần câu, trật tự từ trong câu, cách sử  dụng dấu câu, ... để  học sinh nhận  biết lỗi sai trong câu và tự sửa lỗi. Ví dụ: Trong bài viết Tả chiếc bàn học ở lớp hay  ở nhà của em , em Nguyễn  Thị  Nga lớp 4A viết như sau: Bố  mẹ bảo em phải dữ gìn cẩn thận và em sẽ   luôn giữ mãi đến năm lớp sáu mà em luôn giữ mãi đến khi chiếc bàn hư.     Hay trong bài văn tả chiếc cặp, em Dương Thị Thu Hường lớp 4A tả như sau:   Chiếc cặp em đeo trên mình một màu hồng xinh xinh.    Do các em chưa hiểu nghĩa của từ  và cách dùng từ  đặt câu để  tạo nên một ý  nghĩa trọn vẹn nên sa vào lủng củng, rườm rà; diễn đạt sai ý. ­ Bên cạnh đó, khi hướng dẫn học sinh đặt câu miêu tả, giáo viên cần gợi ý cho  học sinh dùng các hình ảnh so sánh, hình ảnh nhân hoá để làm nổi bật ngoại hình  hay hoạt động được miêu tả. Ví dụ: Miêu tả cây bàng: “Cây bàng như một chiếc   ô xanh khổng lồ; mỗi chiếc lá bàng như  một chiếc quạt xanh quạt vào không  gian” (Trích trong bài văn Tả một cây có bóng mát của em Cái Thị Tú) hay nhân  hóa chiếc bàn học mang tính cách của con người: “Đến giờ rồi, vào học thôi. Đó  là tiếng gọi thân thuộc của chiếc bàn học của em đấy” (Trong bài văn Tả chiếc   bàn học ở lớp hay ở nhà của em của em Khắc Thị Quỳnh Như lớp 4A) 4. Biện pháp 4 : Cho học sinh tự lập dàn ý chi tiết và trình bày miệng dàn ý  trước khi viết văn nhằm rèn kĩ năng tạo lập văn bản (liên kết câu tạo   thành đoạn, bài) ­ Giáo viên cần hướng dẫn học sinh trình bày bố cục của văn bản (tức là sự xếp   đặt, trình bày các phần để  tạo nên một nội dung hoàn chỉnh : miêu tả  theo trình   tự  thời gian hay không gian) bằng câu hỏi dẫn dắt : Em cần trình bày bài viết   của mình như thế nào ? (Trình bày theo mấy phần? Đó là những phần nào ?)                                        16
  17. ­ Hướng dẫn học sinh xác định đúng nội dung của từng phần (mở bài, thân bài và  kết bài)   Biện pháp này là bước cơ bản giúp học sinh viết được một bài văn miêu tả có  chất lượng. Sau khi học sinh đã có một vốn từ  TV nhất định liên quan đến yêu   cầu của bài tập, GV cho học sinh lập dàn ý chi tiết và trình bày miệng dàn ý vừa   lập. GV giúp học sinh sửa lỗi dùng từ, đặt câu, diễn đạt,... để hoàn thiện những  ý cơ bản nhất theo yêu cầu của đề bài.      Ví dụ  với đề  bài “Tả  chiếc cặp sách của em” (SGK TV4, T2, trang 18) , GV  cần hướng dẫn hs lập được một dàn ý chi tiết như sau (minh họa): * Mở bài (trực tiếp hay gián tiếp) ­ Mở  bài trực tiếp: Vào đầu năm học mới, mẹ  mua cho em một chiếc cặp xinh  xắn. ­ Mở bài gián tiếp: Cũng như bao đứa bạn cùng lớp, ngày khai trường là ngày mà  em mong chờ  nhất. Trước ngày khai trường, mẹ  đã mua cho em đủ  sách vở  và   đồ  dùng học tập. Trong số  đó,  ấn tượng nhất là chiếc cặp sách mà mua về  từ  Thủ đô Hà Nội.... * Thân bài : ­ Hình dáng, kích thước: chiếc cặp hình chữ nhật, dài khoảng hai gang tay, rộng  một gang tay, ... ­ Cặp vừa có quai đeo, vừa có quai xách nên rất tiện ­ Màu sắc: Bao trùm chiếc cặp là một màu xanh lơ (xanh nhạt, xanh đậm, ..) với  đường viền màu đỏ (màu đỏ viền đen, ...) ­ Chất liệu: Cặp được làm bằng sợi ni lông tổng hợp nên không thấm nước, bền   và đẹp ­ Đường khâu đều đặn bằng chỉ dù đen (đỏ, xanh, ...) chạy vòng quanh chiếc cặp                                        17
  18. ­ Cấu tạo: Cặp gồm có hai, ba, ... ngăn được ngăn cách bởi các lớp vải mềm.   Mỗi ngăn có một công dụng riêng của nó... ­ Nắp cặp có khóa cặp bằng nhựa (sắt mạ kền, mạ vàng, ..) màu đen để  chống  trộm ­ Một số đặc điểm nổi bật trên chiếc cặp: mặt cặp được trang trí thêm hình chú   thỏ, tranh phong cảnh, đồng lúa vàng, ... làm tăng thêm vẻ đẹp cho chiếc cặp... * Kết bài (mở rộng hay không mở rộng) ­ Kết bài không mở  rộng: Em rất vui và tự hào khi có được chiếc cặp xinh xắn  này. ­ Kết bài mở rộng: Chiếc cặp là người bạn đồng hành thân thiết của em mỗi khi   đến trường. Ngày ngày, em không quên dùng một chiếc giẻ  mềm lau chùi cho   chiếc cặp luôn sạch sẽ. Đối với em, chiếc cặp này thật quý biết bao!    Sau khi lập được dàn ý dưới sự hướng dẫn của GV, Gv cho hs trình bày miệng   dàn ý vừa viết nhằm rèn kĩ năng diễn đạt, liên kết câu tạo thành đoạn, bài tránh  rơi vào lủng củng, câu què, câu cụt, dùng từ thiếu chính xác. 5. Biện pháp 5 : Thường xuyên tổ chức kiểm tra, đánh giá kĩ năng viết văn  của từng học sinh (qua việc thực hành ­ luyện tập  ở lớp cũng như  ở nhà),  từ  đó phân loại đối tượng học sinh và lập kế  hoạch phụ  đạo trong thời   gian tiếp theo     Việc nắm bắt và phân loại đối tượng học sinh là rất cần thiết đối với mỗi  giáo viên. Trên cơ  sở  đó, giáo viên biết mình cần quan tâm đến học sinh nào ?   Học sinh này yếu những kĩ năng gì ? Học sinh kia yếu những kĩ năng gì ? để có  biện pháp rèn luyện thích hợp.    Trên thực tế, các biện pháp nêu trên cần được tiến hành một cách đồng thời và   liên tục trong mỗi tiết dạy. Mặt khác, giao bài tập về nhà và kiểm tra việc học ở  nhà là một việc làm không thể thiếu, làm cơ sở cho việc tiếp thu kiến thức của                                         18
  19. các em  ở lớp được thuận tiện hơn. Tuy nhiên, không thể  ngày một ngày hai mà  học sinh hình thành được kĩ năng mà cần phải có một quá trình lâu dài và kiên trì.  Cũng không thể  rèn kĩ năng cho tất cả  các học học sinh trong cùng một lúc mà   phải biết nên tập trung rèn kĩ năng cho học sinh nào trước, học sinh nào sau. III. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC    Các biện pháp nêu trên tôi đã áp dụng để rèn kĩ năng viết văn cho học sinh lớp   4A Trường TH Mai Thủy và đã thu được một số kết quả như sau (theo kết quả  khảo sát chất lượng đợt 4 năm học 2011 ­ 2012) Bảng 7: Thống kê điểm bài khảo sát đợt 4 (Phân môn TLV)        Điể Tổn m 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 g số  Lớp hs 4A 0 0 0 0 3 3 13 6 1 0 26 * Điểm trung bình là  : 7,0 Bảng 8: Thống kê tỉ lệ phần trăm       Xếp  Yếu kém  Trung bình Khá  Giỏi Ghi  loại (1, 2, 3, 4)  (5, 6) (7, 8)  (9, 10) chú SL % SL % SL % SL % Lớp 4A 0 0 6 23,0 19 73,1 1 3,8 Bảng 9 : Thống kê các loại lỗi văn viết của HS lớp 4A       Lỗi Lỗi viết  Tổng số  Lỗi chính tả Lỗi dùng từ Lớp câu học sinh 4A 5 4 3 26 Bảng 10 : Thống kê tỉ lệ phần trăm mắc lỗi của HS lớp 4A                                        19
  20.       Lỗi Lỗi viết  Lỗi chính tả Lỗi dùng từ Tỉ lệ (%) Lớp câu 4A 19,2 15,4 11,5 100 * Đánh giá kết quả đạt được:     Từ  các bảng thống kê cho thấy: Điểm trung bình cuối năm (7,0) tăng so với  đầu năm (5,5). Số học sinh yếu kém (điểm từ 1 đến 4) không có em nào, chiếm   tỉ lệ 0% (so với đầu năm là 23,0%). Số học trung bình (điểm từ 5 đến 6) là 6 em,  chiếm tỉ  lệ  23,0% (so với dầu năm là 53,8%). Số  học sinh khá giỏi (điểm từ  7   đến 10) là 20 em, chiếm tỉ lệ 76,9% (so với đầu năm là 23,0%). Kết quả trên cho   thấy số  học sinh yếu kém đã không còn, tỉ  lệ  học sinh trung bình được giảm  xuống và tỉ lệ học sinh khá giỏi đã được nâng lên đáng kể.      Mặt khác, các loại lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi viết câu tuy vẫn còn nhưng   cũng đã giảm so với đầu năm.      Những kết quả  đạt được cho thấy các biện pháp nêu trên bước đầu đem lại   hiệu quả.  IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM ­ Giáo viên cần phân loại đối tượng học sinh ngay từ  đầu năm học để  lập kế  hoạch phụ đạo, bồi dưỡng. ­ Việc rèn kĩ năng viết văn và cảm thụ văn cho học sinh là rất cần thiết. Vì vậy,   trong quá trình dạy học, giáo viên cần chú trọng rèn và sửa lỗi văn viết cho sinh   ngay từ lớp 2. ­ Cần chuẩn bị bài dạy kĩ càng, chu đáo để  giúp giáo viên khi lên lớp cảm thấy  tự tin, tổ chức giờ dạy có hiệu quả hơn ­ Cần xác định trọng tâm kiến thức bài dạy và kĩ năng cơ bản cần rèn luyện cho   học sinh qua mỗi loại bài                                        20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2