Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4
lượt xem 9
download
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học được hoàn thành với mục tiêu nhằm rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý; Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc; Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc; Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh các em; Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp 5.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4”
- Lệ Thủy, tháng 5 năm 2021 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4” Họ và tên: Nguyễn Thị Hà Thu Chức vụ: Giáo viên chuyên biệt Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Sơn Thủy
- Lệ Thủy, tháng 5 năm 2021 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trường Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập tiếng Việt, chữ viết với phương pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa học nhất. Học sinh tiểu học chỉ có thể học tập các môn học khác khi có kiến thức tiếng Việt. Bởi đối với người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Môn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học có nhiệm vụ hoàn thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong 4 dạng hoạt động, tương ứng với 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Từ đó các em có thể học tập và giao tiếp trong môi trường học tập lứa tuổi, giúp học sinh có cơ sở để tiếp thu kiến thức lớp trên. Trong môn Tiếng Việt có nhiều phân môn (Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Tập làm văn, Luyện từ và câu, Kể chuyện), mỗi phân môn chứa đựng một bộ phận kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau để người học học tốt tiếng Việt. Trong đó Tập làm văn là phân môn mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành, thể hiện đậm nét dấu ấn cá nhân. Tập làm văn, viết văn, hành văn là cái đích cuối cùng cao nhất của việc học Tiếng Việt ở tiểu học. Đối với học sinh tiểu học, biết nói đúng, viết đúng, diễn đạt mạch lạc đã là khó; để nói, viết hay, có cảm xúc, giàu hình ảnh lại khó hơn nhiều. Cái khó ấy chính là cái đích mà phân môn Tập làm văn đòi hỏi người học cần dần đạt tới. Từ đó, các em được mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ và hình thành nhân cách. Chương trình Tập làm văn ở tiểu học chủ yếu là dạy văn miêu tả. Ngay từ lớp 2, lớp 3, các em đã được làm quen với văn miêu tả khi được tập quan sát, trả lời câu hỏi. Lên lớp 4, các em hiểu thế nào là văn miêu tả, biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn văn và liên kết đoạn văn thành một bài văn miêu tả đồ vật, cây cối hoặc con vật những đối tượng gần gũi và thân thiết của các em.
- Để hoàn thành bài văn miêu tả đối với học sinh lớp 4 thường rất khó khăn. Do đặc điểm tâm lý, khả năng tập trung chú ý quan sát của học sinh tiểu học chưa tinh tế, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa phát triển tốt, dẫn đến khi viết văn miêu tả, học sinh còn thiếu vốn hiểu biết về đối tượng miêu tả, ... hoặc không biết cách diễn đạt điều muốn tả. Đối với giáo viên đây cũng là loại bài khó dạy. Giáo viên còn thiếu linh hoạt trong vận dụng phương pháp và chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Vì vậy, không phải giờ dạy văn miêu tả nào cũng đạt hiệu quả mong muốn và không phải giáo viên nào cũng dạy tốt kiểu bài văn miêu tả. Việc tìm tòi phương pháp để hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý, lập dàn ý, tưởng tượng, ... còn nhiều hạn chế. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy lớp 4, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4” để nghiên cứu với hy vọng góp phần nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân và góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả ở lớp 4. 2. Điểm mới của đề tài Thông qua đề tài nghiên cứu này, nhằm giúp giáo viên: Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý. Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc. Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc. Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh các em. Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp 5. Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt. Tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy Tập làm văn nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng. Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học. 3. Phạm vi và đối tượng áp dụng 3.1. Phạm vi áp dụng Các dạng văn miêu tả lớp 4: Miêu tả đồ vật, miêu tả cây cối, miêu tả con vật. Thực trạng dạy học viết văn miêu tả của học sinh lớp 4 trường tôi công tác năm học 2020 – 2021. 3.2. Đối tượng áp dụng
- Thể loại văn miêu tả lớp 4. Học sinh lớp 4B tại đơn vị tôi đang giảng dạy. Thời gian nghiên cứu: Tháng 10 năm 2020 đến tháng 5 năm 2021. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Thực trạng dạy học văn miêu tả lớp 4. 1.1. Thuận lợi Nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo thực hiện công tác chuyên môn có hiệu quả, góp phần nâng cao tay nghề cho GV. Giáo viên đều được trang bị đầy đủ SGK, sách giáo viên, sách tham khảo, các phương tiện dạy học như máy chiếu để dạy giáo án điện tử. Đội ngũ giáo viên có năng lực, yêu nghề đã áp dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh một cách linh hoạt và hiệu quả. Từ lớp 2, 3 học sinh được tập quan sát và trả lời câu hỏi để làm quen với văn miêu tả, đã biết cách luyện tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên để tự chiếm lĩnh tri thức. Đối tượng miêu tả khá gần gũi với đời sống hằng ngày của học sinh như: đồ dùng học tập, cây bàng, con gà, ... Đặc điểm tâm lí học sinh tiểu học có tâm hồn trong sáng, thơ ngây, giàu cảm xúc và sức sáng tạo. Thế giới của các em là thế giới cổ tích. Những đồ vật, con vật, cây cối là những người bạn thân thiết, gần gũi, các em có thể tâm sự, chia sẻ tình cảm của mình. Đặc điểm tâm lí này rất thuận lợi cho việc khơi gợi ở các em những cảm xúc miêu tả bất ngờ, thú vị,... 1.2. Khó khăn Giáo viên chưa khơi gợi được sự ham học, yêu thích miêu tả đồ vật, con vật, cây cối,... xung quanh, chưa tạo được động cơ học văn miêu tả ở các em. Học sinh chưa hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả, chưa phân biệt được sự khác biệt giữa văn bản miêu tả với các kiểu bài văn khác. Khả năng quan sát và lựa chọn hình ảnh để quan sát và miêu tả chưa tinh tế. Vốn từ miêu tả còn nghèo nàn. Chưa có thói quen tích lũy các từ ngữ gợi tả. Kĩ năng lựa chọn từ ngữ, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn, kĩ năng diễn đạt,... còn hạn chế. Các em chưa biết cách sắp xếp ý khi viết bài, bố cục thiếu rõ ràng, chưa khoa học. Chưa có thói quen sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa khi làm văn. Khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế; cảm xúc, tình cảm không tự nhiên, có sự gượng ép. Trong tiết trả bài, học sinh chưa được sửa lỗi và tự sửa lỗi kĩ càng, đầy đủ; các em cảm thấy nặng nề, thất vọng về bài viết của mình.
- Các em chưa thực sự cảm thấy yêu thích môn học. Như chúng ta đã biết, sản phẩm của phân môn Tập làm văn là các văn bản ở dạng nói, dạng viết theo các dạng lời nói, kiểu bài văn do chương trình quy định. Sản phẩm của việc học văn miêu tả thường ở dạng viết. Năng lực viết chứng tỏ trình độ văn hóa, văn minh của một người. Đối với học sinh năng lực viết chứng tỏ tư duy logic, tư duy hình tượng đã phát triển ở một mức độ nhất định. Lên lớp 4, các em mới bắt đầu học cách lập dàn ý, dựng đoạn và viết thành đoạn văn hoàn chỉnh. Hơn nữa, khả năng ngôn ngữ của các em còn hạn chế. Mỗi bài văn miêu tả hay lại đòi hỏi khả năng tưởng tượng và sử dụng ngôn ngữ diễn đạt thật sinh động. Thực tế cho thấy, đa số học sinh lớp 4 viết văn miêu tả chưa hay hoặc xếp ý còn lộn xộn, lủng củng, hình ảnh trong bài văn chưa gợi tả, ít liên tưởng hoặc chỉ là sao chép các bài văn mẫu. Vậy nguyên nhân tại đâu? Đó cũng là điều trăn trở của tôi cũng như của các giáo viên trong khối. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy, tôi luôn tìm tòi, tham khảo tài liệu, trao đổi với đồng nghiệp giàu kinh nghiệm để nắm bắt những phương pháp tối ưu nhất phục vụ quá trình giảng dạy. Mỗi bài văn miêu tả là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, là sự đúc kết việc tiếp thu và vận dụng những kiến thức đã học. Đọc một số bài văn của học sinh, ta có thể thấy ngay được kết quả của việc dạy và học. Điều tra chất lượng viết văn miêu tả của học sinh của lớp 4B cuối học kì I năm học này có số liệu cụ thể như sau: Lớp Số lượng HS HTT HT CHT 4B 14 2 (14,2%) 9 (63,9 %) 3 (21,3%) Thông qua số liệu này ta có thể nhận thấy tỉ lệ học sinh Chưa hoàn thành kỹ năng Tập làm văn còn rất cao (21,3%). Bên cạnh đó, tỉ lệ học sinh Hoàn thành tốt lại chiếm tỉ lện rất thấp (14,2%). 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4 2. 1. Giải pháp 1: Tạo động cơ học văn miêu tả cho học sinh Công việc đầu tiên của dạy học Tập làm văn là tạo được động cơ, nhu cầu nói năng, kích thích học sinh tham gia vào cuộc giao tiếp (nói, viết) Sản phẩm của phân môn Tập làm văn là các bài văn nói hoặc viết theo các kiểu bài do chương trình quy định. Để sản sinh các bài văn này, học sinh phải có thêm nhiều kĩ năng khác ngoài các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt, kĩ năng dùng từ
- đặt câu. Đó là các kĩ năng phân tích đề, tìm ý và lựa chọn ý, kĩ năng lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn. Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn bậc tiểu học là mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Trong đó học văn miêu tả sẽ góp phần phát triển tư duy hình tượng cho các em nhờ các biện pháp so sánh, nhân hóa ,... khi miêu tả. Nhưng làm thế nào để thực hiện được nhiệm vụ trên mà không biến các em thành những “ thợ ” viết văn? Vậy ta cần kích thích các em yêu văn và có nhu cầu viết văn. Trước hết, hãy tạo tình huống khiến các em háo hức khám phá điều thú vị trong đối tượng miêu tả. Ví dụ: Giáo viên cho các em quan sát bức tranh cây hoa phượng đang ra hoa đỏ rực và hỏi: Quan sát tranh, em thấy cây hoa có đặc điểm gì mà nhà văn Xuân Diệu đã ví “ như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau.”? Học sinh sẽ phân tích tìm ra đặc điểm tương đồng của bộ phận nào đó của cây hoa với muôn ngàn con bướm đậu khít nhau. Qua đây cũng rèn cho các em óc quan sát tinh tế, sự liên tưởng và tư duy phân tích, kích thích các em suy luận. Dạy học sinh viết văn miêu tả phải gắn liền với việc hình thành những kĩ năng sống khác. Như dạy các em giữ gìn đồ vật, tổ chức cho học sinh trồng, chăm sóc và bảo vệ cây... Học sinh được trau dồi vốn sống, biết suy nghĩ, có những cảm xúc, tình cảm. Từ đó, mới dạy các em cách thể hiện suy nghĩ, tình cảm bằng ngôn ngữ nói, viết. Khi ra đề Tập làm văn, giáo viên nên chú ý đề bài cần yêu cầu viết về những gì gần gũi, thân thiết với học sinh, tạo ra được động cơ nói năng, kích thích các em muốn nói, viết về nội dung mà đề bài đã yêu cầu. Trong tiết Kiểm tra viết (sách Tiếng Việt 4 tập 2 – trang 92) có 4 đề bài gợi ý, giáo viên cần dựa vào đó ra đề nhằm gợi cảm xúc cho các em trước khi viết bài. Ví dụ: + Đề 1: Hãy tả một cây ở trường gắn với nhiều kỉ niệm cuả em. + Đề 2: Hãy tả một cây do chính tay em vun trồng. + Đề 3: Em thích loài hoa nào nhất? Hãy tả loại hoa đó. 2. 2. Giải pháp 2: Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm của văn miêu tả. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: Miêu tả là dùng ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình dung dược cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người. Nhà văn Phạm Hổ viết: “ Miêu tả là khi đọc những gì chúng ta viết, người đọc như thấy cái đó hiện ra trước mắt mình: một con người, con vật, một dòng sông, ... người đọc còn có thể nghe được cả tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy, thậm chí
- còn có thể ngửi thấy mùi sữa, mùi hương hoa hay mùi rêu, mùi ẩm mốc, ...nhưng đó mới chỉ là miêu tả bên ngoài, còn sự miêu tả bên trong nữa là miêu tả tâm trạng vui, buồn, yêu, ghét của con người, con vật và cả cây cỏ” (Viết văn miêu tả và văn kể chuyện) Như vậy, miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho người nghe người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết với đối tượng được miêu tả. Bởi vì trong thực tế không ai tả mà để tả, mà thường tả để gửi gắm suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá, những tình cảm yêu ghét cụ thể của mình. Các bài văn miêu tả ở tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối tượng mà học sinh yêu mến, thích thú. Vì vậy, qua bài làm của mình, các em phải gửi gắm tình yêu thương với những gì mình miêu tả. Đối tượng của văn miêu tả trong chương trình lớp 4 gồm có: Miêu tả đồ vật, cây cối, con vật. Tả đồ vật: Đối tượng của văn miêu tả đồ vật ở lớp 4 là những vật học sinh thường thấy trong đời sống hàng ngày gần gũi với các em, vì vậy cũng dễ trở thành gần gũi với các em. Đó có thể là cái trống, cái bút, quyển vở, cặp sách, cái đồng hồ báo thức, … Chúng là những đồ vật vô tri, vô giác nhưng gần gũi và có ích đối với học sinh. Mỗi đồ vật đều có hình dáng, màu sắc, kích thước, chất liệu cụ thể. Học sinh miêu tả những đặc điểm này trong bài văn của mình. Với những đồ vật có nhiều bộ phận, các em cần tập trung tả những bộ phận quan trọng nhất. Đó chính là những nét tiêu biểu để phân biệt đồ vật này với đồ vật khác. Đồ vật lại thường gắn liền với cuộc sống con người nên khi miêu tả phải nói tới công dụng, lợi ích của đồ vật cũng như tình cảm của con người đối với nó. Có như vậy, đồ vật mới hiện lên một cách sinh động và có hồn. Tả cây cối: Đối tượng của văn miêu tả cây cối là những cây trồng xung quanh học sinh. Đó có thể là một cây hoa, cây ăn quả hay cây cho bóng mát,… những cây có ích và gần gũi với các em. Mỗi loại cây có một hình dáng, đặc điểm, lợi ích nhất định. Vì vậy, khi miêu tả chúng, học sinh phải làm nổi bật những đặc điểm này. Tả cây ăn quả cần tập trung miêu tả hình dáng của cây, mùi vị của quả; tả cây lấy hoa cần tả hương sắc của hoa; tả cây cho bóng mát phải làm rõ dáng cây, tán lá, …
- Cây cối luôn sống trong thiên nhiên. Khi miêu tả, cần gắn chúng với miêu tả sơ lược xung quanh như mặt trời, đám mây, chim chóc, ao hồ và cả con người. Ta cũng cần chú ý tới lợi ích của chúng và tình cảm yêu mến gắn bó của người tả với cây. Tả con vật: Đối tượng của văn miêu tả con vật là những con vật quen thuộc gần gũi với học sinh. Đó là những con gà mái, gà trống, cún con, chú mèo,… Mỗi con vật đều có đặc điểm về hình dáng, đặc tính giống nòi riêng. Khi miêu tả, ta miêu tả cái chung, và cả những nét tiêu biểu như màu sắc, vóc dáng, tính nết. Những con vật miêu tả là những con vật gần gũi thân thiết và có nhiều lợi ích nên bài văn phải thể hiện được sự chăm sóc, tình cảm yêu mến của học sinh đối với chúng. Ở Tiểu học, phân môn Tập làm văn có nhiệm vụ rèn kĩ năng nói theo nghi thức lời nói, nói, viết các ngôn bản thông thường, viết một số văn bản nghệ thuật như miêu tả. Viết văn miêu tả, học sinh phải có kĩ năng đặc thù quan sát, diễn đạt một cách có hình ảnh. Tập làm văn cũng góp phần rèn luyện tư duy hình tượng, từ óc quan sát đến trí tưởng tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã quan sát được. Khả năng tư duy logic của học sinh cũng được phát triển trong quá trình phân tích đề, lập dàn ý viết đoạn …. Trong quá trình sản sinh văn bản cũng giúp học sinh có kĩ năng phân tích, tổng hợp, phân loại, lựa chọn. Thông qua viết văn miêu tả học sinh có sự hiểu biết và tình cảm yêu mến, gắn bó với đồ vật, cây cỏ, thiên nhiên với con người và vạn vật xung quanh: từ một quyển sách, đến một cây hoa, một chú gà trống… Từ đây, tâm hồn, nhân cách của các em sẽ được hình thành và phát triển . Để dạy tốt các bài Tập làm văn miêu tả ở Tiểu học, giáo viên cần vận dụng các tri thức về miêu tả,… hiểu biết về thể loại văn học; cần hiểu rõ tính đặc thù của kĩ năng viết văn miêu tả. Để “vẽ được bằng lời” phải dạy tìm ý trong văn miêu tả bằng cách dạy quan sát và ghi chép các nhận xét. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết cách vận dụng các giác quan để quan sát, biết cách lựa chọn vị trí và thời gian quan sát, biết cách liên tưởng và tưởng tượng khi nhận xét sự vật và phải biết diễn đạt điều quan sát được một cách gợi tả, gợi cảm, tức là có hình ảnh và cảm xúc… Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh, những ấn tượng về đối tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thông qua các giác quan trực tiếp của mình. Bài văn miêu tả thể loại mang tính chất nghệ thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn ngữ nghệ thuật giàu sức gợi tả, gợi cảm và là ngôn ngữ của những biện pháp tu từ. Tả là mô phỏng, tô vẽ lại, là so sánh ví von, nhân hoá bằng hình ảnh … chứ không phải là kể lể .
- Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mĩ. Dù miêu tả đối tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì văn miêu tả cũng không bao giờ sao chép, chụp ảnh máy móc những sự vật hiện tượng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện được cái mới, cái riêng biệt của đối tượng thông qua cảm nhận của mỗi người . Chẳng hạn, Trần Đăng Khoa nhìn trăng bằng con mắt tinh tế, bằng tình yêu của tâm hồn trẻ thơ, hồn nhiên, trong sáng: Trăng hồng như quả chín Lửng lơ lên trước nhà … … Trăng tròn như mắt cá Chẳng bao giờ chớp mi… … Trăng bay như quả bóng Bạn nào đá lên trời … Nhà văn Thép Mới lại lấy cảm hứng của của anh chiến sĩ đang mơ về tương lai của đất nước khi ngắm trăng trong đêm Trung thu độc lập đầu tiên: Trăng sáng mùa thu văng vặc chiếu khắp thành phố, làng mạc, núi rừng, … Cùng là vầng trăng, hay một sự vật những mỗi người cảm nhận theo cách riêng của mình, mà những người khác không phát hiện được hoặc chưa phát hiện được. Với mỗi học sinh, mỗi bài Tập làm văn là một một sản phẩm của từng cá nhân các em trước một đề tài. Sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách suy nghĩ, cách tả, cách diễn đạt, … Giáo viên cần có thái độ tôn trọng sự độc lập suy nghĩ, sáng tạo nếu nó không biểu lộ những lệch lạc. Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo của người viết, nhưng không có nghĩa là cho phép người viết “bịa” một cách tuỳ ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật. Giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, sáo rỗng … 2. 3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách lựa chọn hình ảnh, nội dung miêu tả. * Khi quan sát đối tượng miêu tả cần chú ý : Quan sát tổng thể đối tượng; chú ý cả trạng thái động và tĩnh; quan sát bằng tất cả giác quan thính giác, thị giác, xúc giác,... Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát thật kĩ Quan sát và so sánh điểm giống và khác nhau với các đối tượng khác có ở xung quanh bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó. Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các sự vật xung quanh.
- Ghi chép cẩn thận, đầy đủ khi quan sát. * Khi lựa chọn hình ảnh miêu tả và nội dung miêu tả cần: Căn cứ vào hình ảnh đã lựa chọn khi quan sát Căn cứ vào nội dung đã ghi chép Chọn lọc những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng, đẹp và khác biệt của đối tượng để miêu tả chi tiết. Lựa chọn hình ảnh, hoạt động khác của đối tượng để tả khái quát, bổ trợ tạo nên hình ảnh tổng thể về đối tượng; có thể lồng ghép các hình ảnh, sự việc gắn bó mật thiết với đối tượng. * Khi sắp xếp ý, đoạn cần phải: Căn cứ vào nội dung đã lựa chọn để sắp xếp từng ý( theo một thứ tự nào đó: từ ngoài vào trong, từ trước ra sau, từ xa đến gần, từ trên xuống dưới,...) Sắp xếp các ý theo đoạn với thứ tự đã lựa chọn cho phù hợp. Để viết được bài văn, học sinh cần tập viết đoạn. Trong chương trình TLV, bài tập viết đoạn chiếm số lượng nhiều. Đoạn văn được phân loại theo chức năng: đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn kết bài. Cách phân loại này chi phối cách xây dựng các kiểu bài viết đoạn mở bài, viết đoạn thân bài và đoạn kết bài. Mỗi đoạn văn theo chức năng này lại được phân loại nhỏ hơn: mở bài trực tiếp, mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng, kết bài tự nhiên( không mở rộng). Ví dụ khi dạy học sinh viết đoạn miêu tả đặc điểm bên ngoài chiếc cặp, giáo viên cần hướng dẫn học sinh: + Đề bài yêu cầu viết đoạn văn có nội dung gì? ( Tả đặc điểm, hình dáng bên ngoài chiếc cặp) + Hãy quan sát và ghi nhớ các đặc điểm bên ngoài của chiếc cặp . Cặp còn mới hay đã cũ ? . Cặp hình gì? Kích thước thế nào? . Cặp màu gì? Làm bằng vải hay da? . Quai cặp như thế nào? . Mặt cặp, nắp cặp được trang trí thế nào? . Khóa cặp nằm ở đâu, đóng mở cặp có âm thanh gì?...) + Viết đoạn văn miêu tả chiếc cặp đó. Chú ý viết đoạn văn có bố cục 3 phần: . Câu mở đoạn: giới thiệu khái quát đặc điểm của chiếc cặp. . Các câu thân đoạn: tả các chi tiết của chiếc cặp. . Câu kết đoạn: nêu tác dụng của chiếc cặp hoặc cảm nhận của em về chiếc cặp đó.
- 2. 4. Giải pháp 4: Giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả. Muốn lựa chọn từ ngữ để đặt câu, viết thành những câu văn có hình ảnh, học sinh phải có vốn từ phong phú. Do vậy, giáo viên cần giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả: * Tích luỹ vốn từ: Vốn từ được tích luỹ từ nhiều nguồn: giao tiếp hàng ngày; đọc sách, báo; xem, nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; cô giáo cung cấp;.. Ghi chép khi được nhận các từ ngữ dùng để miêu tả theo các chủ đề, cụ thể như: + Các từ thường dùng trong miêu tả cây cối: xanh mướt, mơn mởn; khẳng khiu; xum xuê; rực rỡ; đo đỏ; + Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật: tròn xoe, nhỏ nhắn,... + Các từ thường dùng trong miêu tả con vật: tinh nhanh, rón rén, oai vệ,... Các từ miêu tả đó thường là những từ láy, gợi lên hình ảnh, âm thanh,. . để miêu tả cho sinh động. * Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng: Tưởng tượng trong miêu tả rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh hoàn chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng như một sự hình dung về đối tượng mà ta nhắm mắt lại thì đối tượng sẽ hiện ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần gũi hơn. Tưởng tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được những điểm tương đồng với đối tượng khác, thấy được mối quan hệ của đối tượng với sự vật hiện tượng xung quanh, với những kỉ niệm hay kí ức mang dấu ấn sâu sắc trong lòng người viết. Từ tưởng tượng, học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng miêu tả bằng tình cảm, tình yêu của chính mình, thấy được tầm quan trọng của đối tượng được tả đối với chính mình và cả với những người xung quanh. Miêu tả gắn với tưởng tượng là một cách bộc lộ cảm xúc, tình cảm và khả năng cảm thụ cái đẹp của người viết văn miêu tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng miêu tả hoàn thiện hơn, sống động và gần gũi hơn. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tưởng tượng theo cách như sau: Không trực tiếp quan sát, tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng. Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những ảnh hưởng, tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh. So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng. Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng. Nhân hoá hay tự nhiên hoá một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng.
- Dự đoán trựớc khả năng và những điều tốt đẹp mà đối tượng có thể vươn tới. Liên tưởng với những điều mình đã biết; đã nghe, đọc, cảm nhận được về đối tượng từ trước tới nay. Ghi chép lại những gì mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào bài viết của mình. 2. 5. Giải pháp 5: Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và xây dựng bố cục bài văn. Bài tập luyện viết văn miêu tả là những bài tập viết thành đoạn, bài. Khi học sinh thực hiện viết bài văn miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm cách diễn đạt( dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá,...). Vì vậy, yêu cầu đặt ra là lời văn cần rõ ý, miêu tả sinh động, bộc lộ được cảm xúc, bố cục bài văn chặt chẽ, hợp lí trong từng đoạn, trong toàn bài để tạo ra một “chỉnh thể”. Các bài tập được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngôn bản và chứa đựng trong nó nhiều bài tập hình thành những kĩ năng bộ phận (xác định yêu cầu nói, viết và tìm ý, sắp xếp ý thành bài đến viết đoạn văn, liên kết đoạn văn thành bài,...) Kĩ năng viết của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Do đó, trong quá trình thực hiện các bài tập rèn luyện kĩ năng viết, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện tốt những yêu cầu trong các nhóm bài tập sau: * Nhóm bài tập tiền sản sinh ngôn bản: gồm các bài tập phân tích đề bài, xác định nội dung viết, tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu câu viết (miêu tả). Việc phân tích tìm hiểu đề giúp học sinh xác định được yêu cầu, nội dung, giới hạn của đề bài. Với mỗi đề bài cụ thể, khi phân tích tìm hiểu đề, các em phải trả lời được câu hỏi: Viết để làm gì? Viết về cái gì? Viết cho ai? Thái độ cần được bộc lộ trong bài viết như thế nào? Tình cảm của người viết phải thể hiện được qua cách miêu tả. * Nhóm bài tập sản sinh ngôn bản gồm bài tập viết đoạn và bài tập viết bài văn: + Bài tập viết đoạn văn: rèn cho học sinh kĩ năng tạo lập được đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý. Các đoạn văn được luyện viết là đoạn mở bài (trực tiếp, gián tiếp), đoạn kết bài (mở rộng, không mở rộng). Các đoạn phải có sự liền mạch về ý (không rời rạc, lộn xộn), các ý trong đoạn được diễn tả theo một trình tự nhất định nhằm minh hoạ, cụ thể hoá ý chính (có mở đầu, triển khai và kết thúc). *Hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn: Đoạn văn mở bài: Học sinh được học hai cách mở bài: mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp. Giáo viên nên để học sinh lựa chọn cách mở bài mà mình cho là hợp lí nhất và phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một
- vấn đề khác rồi mới dẫn vào vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu bằng một sự kiện, hoàn cảnh xuất hiện vật định miêu tả; hoặc bắt đầu bằng những câu thơ, ca dao.. . có liên quan đến yêu cầu của đề bài. Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được viết theo từng phần, từng ý đã được sắp xếp khi quan sát, chuẩn bị viết bài. Trong đó, thể hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện pháp nghệ thuật mà người viết vận dụng để miêu tả. Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong một bài văn nhưng lại rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết bài khô cứng, gò bó, thiếu chân thực. Các em thường làm kết bài không mở rộng, điều đó khiến bài văn chưa có sự hấp dẫn. Do đó, giáo viên cần hướng dẫn, gợi ý để học sinh biết cách và viết được phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên. Giáo viên có thể dùng câu hỏi gợi mở để khơi gợi cảm xúc của học sinh trong quá khứ, hiện tại, tương laị; hoặc trong hoàn cảnh nào đó đối với đối tượng được tả. VD: Tả cái trống trường: Ngày mới vào lớp 1, khi nghe tiếng trống trường, em có cảm giác gì? Bây giờ học lớp 4 rồi, ngày nào cũng nghe tiếng trống, em càng thấy như thế nào?... Hoặc Tả cây ăn quả: Hình ảnh cây sai trĩu quả gợi cho em cảm nghĩ gì? Mỗi khi ăn quả em nhớ đến điều gì? + Bài tập viết bài văn: thường được thực hiện trong cả một tiết học. Chúng luyện cho học sinh triển khai nhiệm vụ giao tiếp thành một bài. Bài văn phải có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại, các đoạn văn trong bài phải liên kết với nhau thành một bài văn hoàn chỉnh, được bố cục chặt chẽ theo ba phần: Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm, quan hệ của người miêu tả với đối tượng miêu tả. Thân bài: Dùng lời văn để tả, tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả ở những góc nhìn nhất định. Có thể sử dụng các biện pháp nghệ thuật để lột tả hình ảnh một cách sinh động. Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của người miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả. Nhóm bài tập viết đoạn, bài là những bài tập khó nhất, đòi hỏi sự sáng tạo nhất, yêu cầu học sinh phải vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết, cảm xúc về cuộc sống, về các đối tượng được tả và các kĩ năng ngôn ngữ đã được hình thành
- trước đó để tạo lập được đoạn, bài. Đây là một quá trình chuyển từ ý đến lời. Giáo viên phải luyện cho học sinh diễn đạt đúng những gì muốn tả. Ý có thể được diễn tả thành những lời khác nhau. Học sinh phải biết lựa chọn cách diễn đạt có hiệu quả nhất. Để rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh, giáo viên phải giúp học sinh xác định được mục đích của bài viết, chủ đề của bài viết và duy trì chủ đề này trong suốt bài viết để bài văn không lan man. Thật khó khi phân định đúng, sai ở một bài văn. Mà ta đánh giá bài văn đó có hay không, có đặc sắc không? Vì thế, bài văn phải bộc lộ tình cảm chân thành, hồn nhiên của các em ở từng câu, từng đoạn của bài, và cô đọng lại ở phần kết bài. Do vậy, giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách tưởng tượng, bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách thường xuyên, liên tục; từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và cả trong tiết trả bài. 2. 6. Giải pháp 6: Luyện tập cách sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết văn. Để bồi dưỡng kĩ năng diễn đạt, học sinh sẽ thực hành một số bài tập luyện viết như: với các từ cho sẵn, viết thành câu, luyện dùng từ bằng cách sửa lỗi dùng từ; từ ý đã cho viết thành câu gợi tả, gợi cảm, viết có sử dụng biện pháp tu từ theo yêu cầu, làm các bài tập mở rộng thành phần câu... để cách diễn đạt được sinh động, gợi tả, gợi cảm hơn. Giáo viên cần tiến hành theo mức độ tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu học sinh đặt câu đúng, sau yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ tình cảm. VD: Một học sinh tả chiếc bàn học: Mỗi lúc học bài mệt em thường áp mặt lên mặt bàn để cảm nhận hương thơm dìu dịu của một người bạn thân đã cần mẫn, miệt mài cùng em giải những bài toán khó. Miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người nghe. Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả và cũng không phải tự các em có sẵn tâm hồn văn chương như vậy. Học sinh có thể phát hiện tốt chi tiết có sử dụng biện pháp nghệ thuật gì nhưng khi viết văn lại khó vận dụng được. Giáo viên cần có biện pháp nào giúp các em? Tôi đã giúp các em bằng cách như sau: VD: Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cả xã hội thẳm tươi; người ta quên đoá hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán lớn xoè ra như muôn ngàn con bướm
- thắm đậu khít nhau. Cho học sinh phát hiện biện pháp nghệ thuật trong câu trên. Nêu tác dụng của việc so sánh như vậy. Giải thích vì sao có thể so sánh hoa phượng với muôn ngàn con bướm thắm ( mà không phải một con). Tập vận dụng so sánh tương tự: so sánh hoa phượng với hình ảnh khác theo cảm nhận của các em, hoặc so sánh loài hoa hay cây khác với hình ảnh nào đó. Chú ý giúp học sinh nhận ra những cách so sánh thú vị, giàu sức gợi tả và những so sánh không có giá trị. Yêu cầu các em ghi chép vào sổ tay những câu văn, thơ có sử dụng hiệu quả biện pháp nghệ thuật đó. 2. 7. Giải pháp 7: Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn. Kĩ năng TLV trước hết được chia thành kĩ năng nói, kĩ năng viết. Ở lớp đầu cấp, khẩu ngữ của các em phát triển hơn còn kĩ năng viết mới được hình thành nên bị ảnh hưởng của khẩu ngữ, các em nói thế nào, viết thế ấy, mắc các lỗi được tính vào lỗi vi phạm phong cách. Về sau, kĩ năng viết sẽ phát triển và sẽ ảnh hưởng tích cực trở lại với khẩu ngữ. Lên lớp 4,5 kĩ năng viết ngày càng phát triển. TLV có vai trò hàng đầu trong việc phát triển kĩ năng này. Đặc biệt, khi học viết văn miêu tả, học sinh lớp 4 bước đầu được học diễn đạt lưu loát, giàu hình ảnh. Mặt khác, sự liên kết nội dung là liên kết bên trong khó nhận thấy, nhiều người thường chú ý đến hình thức ngôn từ mà không coi trọng đến lôgic của các ý trong bài. Trong khi chữa văn cho học sinh, nhiều giáo viên thường chú ý chữa lỗi chính tả, chữa lời mà không chữa ý. Người giáo viên cần hiểu rõ mục tiêu của tiết trả bài để thực hiện một cách nghiêm túc, kĩ lưỡng, tránh làm “lấy lệ”, không thể qua loa, đại khái. Muốn làm được như vậy, giáo viên phải tiến hành như thế nào? * Chuẩn bị: Chấm bài thật kĩ, thấy rõ ưu, nhược điểm của từng bài viết; chữa lỗi tiêu biểu cần khắc phục ngay cho các em. Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại: Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi đặt câu, lỗi diễn đ ạ t , . . G h i lại các từ, câu, đoạn văn hay. Thống kê và phân loại bài theo mức độ: tốt, khá, trung bình, chưa đạt yêu cầu. Nhận xét chung về ưu, nhược điểm trong bài viết của học sinh. * Trong giờ trả bài: Đây là tiết học thực hiện nhóm bài tập kiểm tra điều chỉnh. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại đoạn đã viết, tự kiểm tra đối chiếu với mục đích yêu cầu đặt ra lúc
- đầu để tự đánh giá, sửa chữa bài viết của mình. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh xem xét cả nội dung và hình thức diễn đạt. Có thể phải cho học sinh luyện viết lại đoạn, bài. Tiến hành đúng như quy trình đã hướng dẫn (Linh hoạt về thời gian thực hiện các bước, hình thức tổ chức sửa lỗi như thảo luận nhóm, tuỳ theo kết quả bài viết của học sinh). Lưu ý: Học sinh phải thấy được lỗi trong bài văn của mình và của bạn; sửa được lỗi đó và ghi nhớ nó; hiểu rõ và có nhu cầu học hỏi những từ, câu, đoạn văn hay, giàu hình ảnh và sức gợi tả. Tôi muốn nhấn mạnh rằng: Trước khi cho học sinh học hỏi những từ, câu, đoạn văn hay cần lưu ý cho các em đọc lên (thành tiếng và đọc thầm) một cách diễn cảm thì tất cả các em mới cảm nhận được sự thú vị của cái hay đó. Tuy nhiên, ta cũng không nên đòi hỏi quá cao ở học sinh. Tuỳ vào đối tượng học sinh mà đặt ra các em sửa lỗi hay học từ, câu, đoạn hay ở mức độ nào. Giáo viên cần kiên trì, bền bỉ, không thể nóng vội, kịp thời ghi nhận những tiến bộ của học sinh dù là nhỏ nhất. Do vậy, khi học sinh biết viết văn miêu tả và viết được hay là khi các em đã bước đầu hiểu được đặc điểm của văn miêu tả, biết cách quan sát đối tượng, tích luỹ được vốn từ miêu tả nhất định, biết xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài; cách diễn đạt và xây dựng bố cục bài văn; biết cách tưởng tượng và sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết văn; được sửa lỗi kĩ lưỡng sau mỗi bài viết. Từ đó, các em viết bài dễ dàng hơn, thích thú hơn, có cảm xúc hơn, chất lượng bài viết được nâng cao. 2.8. Giải pháp 8: Thực hiện dạy học theo quan điểm tích hợp và giáo dục bảo vệ môi trường. Dạy văn miêu tả đòi hỏi sự nhiệt huyết của giáo viên rất cao thì mới thấy được sự tiến bộ của học sinh, mới khơi gợi được ở các em niềm say mê, thích thú. Các em không chỉ viết tốt bài theo đề giáo viên yêu cầu mà còn có nhu cầu miêu tả những đối tượng yêu thích khác. Không chỉ trong tiết TLV mới dạy học sinh học viết văn, ta còn hướng dẫn các em trong các tiết học khác của môn Tiếng Việt như dạy các em cảm thụ trong giờ Tập đọc, dạy dùng từ, đặt câu trong tiết LTVC, kích thích nhu cầu miêu tả một đồ vật nào đó trong khi tiếp xúc trò chuyện, hay các giờ ngoại khoá. Trong một lần hướng dẫn các em xếp hàng vào lớp, bất chợt tôi nhìn thấy cây bằng lăng giữa sân trường ở bông hoa đầu tiên. Tôi hỏi các em: Sân trường hôm nay có điều gì vừa mới, vừa lạ và rất đẹp? Các em quan sát nhanh và đều nhận thấy điều tôi muốn hỏi.
- Bông hoa ấy đẹp như thế nào và cho em cảm xúc gì? Các em rất hào hứng nói lên suy nghĩ của mình. Tôi giáo dục ý thức bảo vệ cây xanh bằng cách hỏi các em như sau: Bông hoa đẹp thế kia, em có nên ngắt để tặng một người em yêu quý không? Vì sao? Như vậy, trong một thời điểm ngắn, tôi đã đạt được nhiều mục đích: Các em xếp hàng nhanh mà không căng thẳng; kích thích các em phát triển khả năng quan sát, nhận xét tinh tế, khả năng dùng ngôn ngữ để diễn đạt.. .Trong khoảng thời gian sau đó, tôi tin rằng nhiều em còn suy nghĩ và vận dụng vốn từ của mình để tả về bông hoa đó theo cảm nhận riêng. Bên cạnh đó, cần dạy học tích hợp với các môn học khác làm giàu vốn sống, vốn hiểu biết của các em. VD: Thông qua học về chủ đề “ Thực vật và động vật” của môn Khoa học, học sinh có thêm hiểu biết về đặc điểm một số loài thực vật, động vật, hiểu được cách chăm sóc và ích lợi của chúng. Vì vậy, khi làm bài văn miêu tả( cây cối, con vật), các em sẽ tả cặn kẽ, sinh động và thể hiện tình cảm của mình một cách chân thật hơn. 2.9. Giải pháp 9: Khen ngợi, động viên học sinh kịp thời. Để kích thích học sinh học tập nói chung, học văn miêu tả giáo viên hãy dành cho các em những lời khen thích đáng. Các em sẽ phấn khởi, tự tin hơn và phát huy được khả năng tiềm tàng của bản thân, từ đó loại bỏ được những lo âu, tự ti cố hữu. Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng tương đối thành công khi dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4B do tôi chủ nhiệm. Kết quả đạt được: Qua một quá trình lao động, tìm tòi sáng tạo để thực hiện từng giờ môn Tập làm văn môt cách bài bản, có kế hoạch. Tôi nhận được một số kết quả như sau. a. Mặt mạnh: Tôi nhận thấy ngoài nhiệm vụ chính là biết làm một bài văn, học sinh được chủ động, tự do thể hiện cái “tôi” của mình một cách rõ ràng bộc bạch cái riêng của mình một cách trọn vẹn. Dạy Tập làm văn là dạy các em tập suy nghĩ riêng, tập sáng tạo, tập thể hiện trung thực con người mình qua từng bài học cụ thể. Qua đánh giá tôi thấy tất cả các em làm bài đạt yêu cầu, số lượng học sinh làm tốt bài văn miêu tả tăng đáng kể . b. Mặt hạn chế: Thời gian làm bài không dài( khoảng 30 25 phút), nên các em khi viết bài luôn mang tâm trạng vội vàng, sợ hết giờ. Vì vậy, các em chưa có sự chọn lựa, trau chuốt từ ngữ, câu văn,... nên phần nào hạn chế hiệu quả của bài viết.
- Kết quả kiểm tả chất lượng viết văn miêu tả của học sinh của lớp 4B cuối năm học này có số liệu cụ thể như sau: Lớp Số lượng HS HTT HT CHT 4B 14 6 (42,6%) 8 (57,4 %) 0 (0%) Căn cứ vào kết quả trên, so với điểm cuối học kì 1 đến cuối học kì 2 thì kĩ năng Tập làm văn của học sinh đã tiến bộ hẳn. Số lượng học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt khá cao, không còn học sinh chưa hoàn thành kiến thức kỹ năng môn học. Kết quả trên cho thấy “Một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lơp 4” mà tôi đã triển khai đã đạt được hiệu quả tốt và mang tính khả thi cao. Thông qua dạy học, tôi nhận ra rằng dạy học Tập làm văn cần nắm vững những cơ sở lí luận và phương pháp luận của nó khi đó giáo viên mới hiểu được ý đồ lựa chọn nội dung cụ thể ở các bài, của tác giả Sách giáo khoa cũng như quy trình và phương pháp học từng bài trong Sách giáo khoa, Chuẩn kiến thức kĩ năng ,.....Từ đó tổ chức, hướng dẫn và điều khiển tốt mọi hoạt động của mình, của học sinh, tạo ra chất lượng và hiệu quả giáo dục cao. Muốn làm được như vậy giáo viên phải được trang bị những tri thức về phương pháp dạy học tích cực và tạo được điều kiện để các em hoàn thành những kĩ năng cần thiết của phương pháp dạy học này. Tuỳ từng bài mà giáo viên lựa chọn áp dụng những biện pháp phù hợp để làm thế nào cho giờ học Tập làm văn có hứng thú và đạt kết quả cao nhất. III. PHẦN KẾT LUẬN 1. Ý nghĩa của đề tài Dạy học sinh viết văn miêu tả có một ý nghĩa to lớn vì nó có cả nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
- Phân môn Tập làm văn là một phân môn thực hành và giàu sức sáng tạo cá nhân. Có nhiều cách viết bài văn miêu tả và cũng có nhiều biện pháp để dạy văn miêu tả. Trên cơ sở kinh nghiệm giảng dạy, mỗi giáo viên đều có những cách thức dạy học riêng nhằm thực hiện tốt nội dung chương trình đã quy định. Tuy nhiên, để thành công khi dạy văn miêu tả, mỗi giáo viên đều phải thực hiện tốt các yêu cầu sau: Nắm chắc mục tiêu môn học, bài học. Luôn tìm tòi, trau dồi kiến thức và trình độ hiểu biết của bản thân. Linh hoạt trong phương pháp giảng dạy. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Luôn thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học. Phối hợp với các hoạt động ngoài giờ để tích lũy vốn hiểu biết và bồi dưỡng tâm hồn giàu cảm xúc cho các em. Luôn kiểm tra, đánh giá mức độ và kịp thời ghi nhận sự tiến bộ của học sinh. Chuyển sự đánh giá kết quả học tập của giáo viên thành kĩ năng tự đánh giá của học sinh. 2. Kiến nghị Đề xuất. Trong quá trình thực hiện và đưa vào thực tế trong phạm vi đề tài ở tiết Tập làm văn miêu tả lớp 4. Bản thân tôi đã rút ra nhiều kinh nghiệm và khẳng định đây là hình thức dạy học làm chuyển hoá quá trình học tập của học sinh. Như vậy cần phải thực hiện một số giải pháp sau: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý: quan sát bằng nhiều giác quan: mắt, mũi, tay, tai… qua đó học sinh phát hiện, khám phá đầy đủ các đặc điểm của sự vật, làm cho chúng hiện ra đầy đủ, rõ ràng tránh được những bài văn miêu tả chung chung mờ nhạt. Khi hướng dẫn học sinh quan sát cần gợi mở, dẫn dắt theo một trình tự hợp lý, để học sinh tự mình quan sát, tự mình cảm nhận tính chất muôn hình muôn vẻ của sự vật. Đây là điều kiện chủ yếu làm nền tảng giúp cho bài viết trở nên chân thật, tự nhiên và đây cũng là cơ sở cho sự phát huy trí tưởng tượng và năng lực sáng tạo của học sinh (sáng tạo trong cách nhìn, cách nghĩ, cách diễn đạt nội dung…). Đặc biệt, giáo viên phải sử dụng tranh. ảnh trong văn miêu tả cụ thể, từng vùng, từng miền khác nhau mà giáo viên lựa chọn tranh ảnh cho phù hợp để cho các em quan sát tốt hơn. Tích luỹ và lựa chọn vốn từ ngữ khi miêu tả cũng là biện pháp không kém phần quan trọng giúp cho học sinh nhớ lại một từ ngữ, một hình ảnh, biết lựa chọn từ ngữ hay, thích hợp, phong phú vào bài văn để thêm phần hấp dẫn. Bài văn miêu tả hay thì không thể thiếu cảm xúc của người viết, có thể hiện được cảm xúc trong bài văn thì mới thu hút người đọc, người nghe. Song, để quá trình đó diễn ra tốt, đòi hỏi người giáo viên phải nắm vững yêu cầu cơ bản và biết vận dụng linh hoạt sáng tạo trong từng tiết học với từng đối tượng được tả. Bởi vậy, dạy tập làm văn giáo viên không chỉ dựa vào sách
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2237 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 216 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 65 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn