intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:35

386
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của sáng kiến này là nhằm xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò để các con tích cực học tập góp phần nâng cao chất lượng dạy học và kết quả giáo dục toàn diện của nhà trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò

  1.     PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN THANH XUÂN TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH XUÂN NAM  ........ ........ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG MỐI QUAN HỆ GẦN GŨI, THÂN THIỆN GIỮA CÔ VÀ TRÒ                                       Lĩnh vực       : Chủ nhiệm Cấp học          : Tiểu học Tên tác giả       : Trần Thị Nụ Đơn vị công tác: Trường tiểu học Thanh Xuân  Nam Chức vụ          : Giáo viên
  2. Năm học 2018 – 2019 MỤC LỤC 2
  3. PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Nhà nước và nhân dân ta luôn quan tâm việc bảo vệ  và chăm sóc trẻ  em, coi đây là sự nghiệp cao quý, là trách nhiệm to lớn đối với thế hệ tương  lai, đối với tiền đề của dân tộc và của đất nước. Là người giáo viên dưới mái  trường xã hội chủ nghĩa, hơn ai hết chúng ta phải thấy được trọng trách của   mình trong sự nghiệp “trồng người”. Làm sao cho học sinh yêu thích học tập  cũng như hăng hái tham gia các hoạt động tập thể, sao cho các con cảm thấy   trường học là ngôi nhà thứ hai của mình và mỗi ngày đến trường của các con   thực sự là một ngày vui...Để đạt được điều đó, trước tiên các con phải thích  học. Từ  kinh nghiệm thực tế, tôi nhận thấy học sinh thích đi học là những  học sinh tìm được niềm vui khi tới lớp, những học sinh đó được thầy yêu,  bạn mến và việc học tập đối với các con không mấy vất vả. Học sinh đến  trường phải có niềm vui, có vui mới học được tốt.  Học sinh lớp Một được ví như  tờ  giấy trắng rất hồn nhiên trong quan   hệ  với các bạn và mọi người xung quanh. Học sinh rất tin vào những điều  được học, được nghe hằng ngày thầy cô dạy bảo. Vậy làm thế  nào để  tạo  dựng được mối quan hệ thân thiện giữa cô và trò để  từ  đó lôi cuốn học sinh  tham gia tích cực vào việc học tập là điều mà tôi đã từng băn khoăn trăn trở  bấy lâu nay. Cuối cùng tôi cũng tìm ra được một giải pháp tốt nhất cho học   sinh lớp tôi chủ  nhiệm, đó là:  “Một số  biện pháp xây dựng mối quan hệ   gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.” Từ đó kích thích học sinh hăng say học  tập. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Vào năm học mới, tôi định hướng trước cho mình phải gây được tâm  thế cho học sinh trong những ngày đầu năm học để rồi dẫn dắt các con bước   vào năm học đầy tự tin và phấn khởi. Để có được kết quả tưởng chừng như  đơn giản thế thôi nhưng cách thức để đi đến cái đích đó thật không đơn giản   chút nào. Có được niềm vui cho trẻ không phải tạo ra được từ  một giờ  học,  một ngày học hay một tuần học mà phải lôi cuốn, gây hứng thú cho học sinh   trên một bình diện rộng  ở  mọi nơi, mọi lúc, qua giao tiếp, qua cách cư  xử,  dạy dỗ của giáo viên cho học sinh. Do vậy đòi hỏi người giáo viên phải thật  nhẫn nại, có tình thương  chân thực với học trò. Chỉ  có tình thương yêu thực  sự và lòng cảm thông của cô mới xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa cô và  trò, từ đó góp phần kích thích học sinh hăng say học tập.  3/29
  4. III. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN VÀ PHẠM VI NGHIÊN cøu ­ Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối lớp Một; ­ Thời gian tôi tiến hành nghiên cứu từ  tháng 9 năm 2018 đến tháng 4   năm 2019; ­ Phạm vi nghiên cứu: Một số  biện pháp xây dựng mối quan hệ  gần  gũi, thân thiện giữa cô và trò. IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Để hoàn thành được đề tài này tôi cần làm tốt các nhiệm vụ sau đây: ­ Nghiên cứu một số vấn đề lí luận cơ bản làm cơ sở khoa học của đề  tài; ­ Nghiên cứu thực trạng về  việc xây dựng: “một số  biện pháp xây   dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò”. Trên cơ sở  đó phân  tích thực trạng để tìm ra biện pháp đổi mới việc xây dựng mối quan hệ này,  kích thích học sinh hăng say học tập; ­ Tổ  chức thực hiện các biện pháp nhằm xây dựng mối quan hệ  gần  gũi, thân thiện giữa cô và trò để  các con tích cực học tập góp phần nâng cao   chất lượng dạy học và kết quả giáo dục toàn diện của nhà trường. V. ỨNG DỤNG        Đ ối với học sinh lớp Một việc ứng dụng quan hệ gần gũi thân thiện giữa   cô và trò sẽ thu hút học sinh tích cực tham gia các hoạt động học tập, giúp các   con tự  tin hơn khi tiếp thu các kiến thức, phát huy khả  năng tư  duy độc lập   sáng tạo một cách phong phú và đa dạng, tạo nguồn cảm hứng, sự say mê học  tập của học sinh lớp Một. 4/29
  5. 5/29
  6. PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN 1. Những căn cứ khoa học 1.1  Luật giáo dục (ban hành năm 2005) Chương 2, mục 2, điều 23 của luật giáo dục đã chỉ rõ mục tiêu của giáo  dục Tiểu học: “Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ  sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,  thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.” Chương 2, điều 3 có chỉ  rõ hoạt động giáo dục phải thực hiện theo  nguyên lí học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận   gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã  hội. 1.2 Điều lệ trường Tiểu học. Trong điều lệ  quy định hoạt động giáo dục trong nhà trườ ng Tiểu   học đượ c chia thành hai bộ  phận: ho ạt  độ ng giáo dục trên lớ p và hoạt  động giáo dục ngoài giờ  lên lớp. Mỗi bộ  phận trên đều có chức năng là  thực hiện mục tiêu giáo dục. 1.3  Nhiệm vụ năm học của các trường Tiểu học Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội có hướng dẫn: Mục tiêu giáo dục Tiểu  học được thực hiện thông qua việc tổ  chức các hoạt động dạy học trong  trường Tiểu học. Hoạt động dạy học được thực hiện với hình thức lên lớp là  hoạt động đặc trưng, là hoạt động chủ yếu của nhà trường. Việc tổ chức các   hoạt động tập thể cho học sinh Tiểu học là rất cần thiết, nhằm hỗ trợ và bổ  sung cho hoạt động dạy học chính khoá nhằm thay đổi không khí học tập, tạo  nên hứng thú tích cực cho các con. 2. Cơ sở lí luận của đề tài Đối với học sinh Tiểu học, tình cảm, sự gần gũi, thân thiện của cô giáo   có vị trí đặc biệt vì nó là khâu trọng yếu gắn liền với sự nhận thức của trẻ.   Sự thân thiện ấy không chỉ kích thích trẻ nhận thức mà còn thúc đẩy trẻ hoạt   động, khám phá, tự vươn lên trong học tập. Học sinh lớp Một lần đầu tiên đến lớp nên rất e ngại khi tiếp xúc với  cô, với bạn mới. Có con còn khóc lóc, bám chặt lấy bố  mẹ  không chịu vào   lớp. Có con lại nhất định đòi bố mẹ phải vào ngồi cùng trong lớp. Đây cũng là  lúc giáo viên cần khéo léo tạo sự an tâm, tin tưởng cho các con để các con có   thể tự tin vào ngồi trong lớp học mà không còn lo sợ nữa. Sự gần gũi, ân cần,   6/29
  7. sự quan tâm nhẹ nhàng, sự cởi mở chân tình của cô giáo ngay từ lần đầu tiên  đến lớp sẽ  tạo nên những xúc cảm mạnh mẽ  và để  lại  ấn tượng sâu sắc   trong tâm hồn trẻ  thơ  của các con. Như  vậy xây dựng mối quan hệ  gần gũi,  thân thiện giữa cô và trò tức là chúng ta đã đặt nền móng cho việc hình thành   và phát triển nhân cách cho học sinh lớp Một nói chung và học sinh Tiểu học   nói riêng. Lứa tuổi học sinh Tiểu học đang trong thời kì phát triển, đây cũng là lúc  các con chuyển từ hoạt động chủ  đạo chơi là chủ  yếu (ở  trường Mầm non)   sang hoạt động học là chủ  yếu (ở  trường Tiểu học). Các con thường rất dễ  nhớ  những cũng rất dễ quên, mức tập trung chú ý còn thấp, vì vậy giáo viên   cần tạo hứng thú học tập và niềm tin cho trẻ để trẻ có thể yên tâm ngồi học   mà không phải lo sợ bất kì một việc gì cả. Có một câu nói rằng: “Dù đã dắt ngựa đến bờ sông cũng không thể bắt  nó uống nước được”. Vấn đề  học tập của trẻ  cũng vậy. Dù có bắt được  chúng ngồi ngay ngắn trong lớp nhưng nếu không thích thú, trẻ không thể học  tốt được. Chính vì vậy ngoài việc truyền đạt kiến thức cho học sinh của   người thầy, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết tạo niềm tin và gây hứng thú  học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng,sinh động. Học sinh tiếp   thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Đó là điều làm tôi phải suy   nghĩ, trăn trở  để  tìm cách gây dựng được mối quan hệ  gần gũi, thân thiện   giữa cô và trò từ đó gây hứng thú học tập cho học sinh.  II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG: Khảo sát thực trạng việc xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện với   học sinh để từ đó kích thích tinh thần hăng say học tập cho các con nhằm mục   đích là: ­ Xác định biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp mà tôi được phân   công chủ nhiệm; ­ Phân tích thực trạng để  tìm hiểu và xác định nguyên nhân dẫn đến   hạn chế của việc giáo viên chưa thực sự  gần gũi, thân thiện với học sinh và  học sinh cũng rất lo sợ khi phải nói chuyện với các thầy cô giáo. Đây chính là  cơ sở khoa học cần thiết để cải tiến, xây dựng những biện pháp đổi mới của   đề tài nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động dạy học trong nhà  trường. 7/29
  8. Để  nghiên cứu thực trạng đạt kết quả  tốt, cần thực hiện nghiêm túc  một số yêu cầu: đảm bảo tính kế hoạch, có sự chuẩn bị chu đáo, có tính linh   hoạt, mềm dẻo, tính thực tiễn, tính khoa học, tính kế thừa, tính hệ thống… 2. CÁCH TIẾN HÀNH NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG Tôi đã tiến hành phối kết hợp một số cách thức và biện pháp là: ­ Dự giờ đồng nghiệp đặc biệt là các tiết dự thi của các đồng chí tham  gia hội thi Giáo viên chủ nhiệm giỏi; ­ Tham khảo ý kiến của Ban giám hiệu về kế hoạch xây dựng công tác  chủ nhiệm lớp cho giáo viên; ­ Trao đổi, trò chuyện với học sinh và cha mẹ học sinh về mối quan hệ  gần gũi giữa giáo viên và học sinh, thu thập thêm những thông tin cần thiết để  xây dựng đề tài. 3. KẾT QUẢ  KHẢO SÁT HỌC TẬP CỦA HỌC SINH ĐẦU NĂM  HỌC 2018 ­ 2019: Kiến  Năng  Phẩm chất thức –  lực Kĩ  năng HTT HT CHT Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG 13HS 38HS 3HS 39HS 14HS 1HS 39HS 14HS 1HS Việc nghiên cứu để xác định rõ thực trạng và tìm hiểu kĩ về biện pháp   xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa giáo viên và học sinh chính là  cơ  sở  để  tôi suy nghĩ, mạnh dạn cải tiến và tìm ra các biện pháp xây dựng   mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò để kích thích học sinh hăng say  học tập đồng thời góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động  dạy học. III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN Như  chúng ta đã biết học sinh lớp Một khi  đến trường các con còn  nhiều bỡ ngỡ, lần đầu tiên được làm quen với nội quy trường lớp, với những   môn học và biết bao hoạt động khác mà  ở  trường Mầm non các con chưa  từng được trải qua. Vậy phải làm thế nào để giúp trẻ tập trung học tập, có ý   thức rèn luyện để  trở  thành con ngoan, trò giỏi. Người dìu dắt, giúp đỡ  các  8/29
  9. con vượt qua những bỡ  ngỡ  này, đó chính là cô giáo chủ  nhiệm. Sau đây là  những giải pháp tôi đã làm để xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa  cô và trò để kích thích học sinh hăng say học tập. 1. TẠO  ẤN   TƯỢNG   TỐT  ĐẸP   TRONG   HỌC   SINH   NGAY   TỪ  BUỔI ĐẦU TIÊN GẶP MẶT Như chúng ta đã biết, trước khi vào năm học mới bao giờ giáo viên nói  chung và giáo viên lớp Một nói riêng cũng có một buổi nhận lớp, làm quen với   học sinh. Đây là lúc thích hợp nhất để tôi thể hiện sự thân thiện của mình với   học trò ngay từ buổi gặp mặt đầu tiên. Ngày hôm đó các con thường được cha  mẹ  hoặc ông bà đưa đến lớp. Các con rất hào hứng cho buổi đầu tiên đến   trường này. Nhưng khi đến lớp gặp bạn mới, cô giáo mới thì các con lại rất e  ngại và không dám vào lớp một mình. Có con còn bám chặt lấy mẹ hay là bất  ngờ khóc rất to và kiên quyết đòi về nhà không chịu vào lớp. Là một giáo viên   chủ nhiệm có nhiều năm trực tiếp giảng dạy học sinh lớp Một nên tôi đã rất   quan tâm đến việc này và tôi đã cố gắng tạo sự an tâm, tin tưởng vào cô giáo  cho các con để các con bớt đi phần nào sự sợ hãi đó. Đầu tiên tôi tươi cười, nhẹ nhàng giới thiệu cho các con biết đôi điều  về  bản thân mình cũng như  về  trường, lớp mới nơi mà các con sẽ  học tập   trong năm học này. Sau đó gọi những bạn nhanh nhẹn, hoạt bát tự  giới thiệu  về  bản thân, về  trường Mầm non, về cô giáo cũ của con và hỏi xem con có  vui khi được đi học lớp Một không? Tiếp đến tôi bắt đầu trò chuyện với học sinh để  các con nói lên suy  nghĩ của mình. Tôi giới thiệu cho các con xem một vài hình ảnh về các hoạt   động học tập, vui chơi của các anh chị lớp trên. Một số hình ảnh như sau:  9/29
  10. Học sinh chơi Chi chi chành chành                           10/29
  11.                                  Học sinh chơi Bắt vịt Lễ trao phần thưởng cho học sinh tiêu biểu 11/29
  12. Học sinh tham gia văn nghệ chào mừng ngày 20/11 Tôi tin rằng với việc làm của mình các con sẽ  cảm thấy vui thích khi   đến trường Tiểu học.Với học sinh quá nhút nhát thì buổi học đầu tiên tôi cho   con đó ngồi gần bạn cùng học  ở  trường Mầm non hay ngồi gần bạn cùng  giới và nhanh nhẹn hơn để  giúp bạn nhanh chóng làm quen với trường lớp   mới. Từ đó làm giảm sự căng thẳng cho học sinh bằng cách cho các con vui  hát những bài hát mà con yêu thích. Việc làm này vô cùng cần thiết, nó vừa  động viên khích lệ  học sinh vừa tạo cho các con cảm giác yên tâm khi bước   chân vào học lớp Một. 2. TẠO   SỰ  GẦN   GŨI,   THÂN   THIỆN   VỚI   HỌC   SINH   TRONG  TỪNG TIẾT HỌC Do đặc điểm tâm lí của học sinh Tiểu học là trí nhớ  trực quan – hình  tượng được phát triển hơn trí nhớ từ ngữ ­ logic. Các con thường nhớ và giữ  gìn chính xác những sự  vật hiện tượng cụ  thể  nhanh hơn và tốt hơn những  định nghĩa, những lời giải thích dài dòng. Học sinh lớp Một có khuynh hướng  ghi nhớ  máy móc bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần một vấn đề  nào đó, có   khi chưa hiểu hết những mối liên hệ, ý nghĩa của vấn đề  đó. Chính vì vậy   nhiệm vụ của giáo viên là gây dựng cho học sinh tâm thế để ghi nhớ, hướng  dẫn các con thủ  thuật ghi nhớ  tài liệu học tập, kiến thức mà cô truyền đạt.  Chỉ  cho các con đâu là điểm chính, điểm quan trọng của bài học, tránh cho  học sinh ghi nhớ máy móc hay chỉ là học vẹt. Trong khi dạy kiến thức mới tôi luôn luôn động viên khích lệ học sinh   tự quan sát, nhận xét và tư duy để tìm ra kiến thức mới. Với câu hỏi tìm hiểu   bài mà cô đưa ra cho học sinh trả lời tôi luôn động viên học sinh: “Các con hãy   mạnh dạn lên nhé!”. Rồi hỏi học sinh ở dưới lớp: “Bạn nào muốn có câu trả  lời?”. Khi có học sinh nào đó trả lời đúng nhưng chưa đủ ý của câu hỏi thì tôi  vỗ  về các con bằng câu nói: “Con trả lời tốt lắm, có ai muốn bổ sung gì cho  bạn không nhỉ?”. Còn nếu học sinh trả lời đúng, trọn ý của của câu hỏi thì tôi  lập tức khen luôn: “Đó là một câu trả lời xuất sắc, chúng mình cùng khen bạn  nào.” Cứ  như  vậy học sinh sẽ  mạnh dạn giơ tay phát biểu ý kiến xây dựng  bài, lớp học rất sôi nổi và các con tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng, thoải mái.  Khi gọi học sinh đọc bài cũng vậy, tôi luôn luôn yêu cầu các con đọc   bài to, rõ ràng. Cứ như thế tôi luôn vỗ về học sinh bằng những câu động viên,  khích lệ  rằng con cứ  yên tâm, những âm nào, tiếng nào, từ  nào không nhớ,  12/29
  13. đọc sai thì cô sẽ  giúp con sửa sai, con đừng sợ. Vì vậy, dần dần đã tạo cho  học sinh thói quen mạnh dạn, tự tin và đã đọc to, lưu loát ngay từ tiết học đầu   tiên. Tuy nhiên trong khi học sinh thực hành làm bài tập không thể tránh khỏi  sai sót. Tuỳ vào từng trường hợp sai của học sinh mà cô có hướng giải quyết   khác nhau từ đó tạo cho học sinh tâm lí thật thoải mái tự tin khi học bài. Ví dụ 1: Chẳng hạn trong phần Học vần của môn Tiếng Việt, học sinh  được học âm “b” từ bài 2. Lúc này các con đã biết đọc, viết, nhớ tên âm và tên  chữ cái của nó. Đến bài 14 các con lại được học âm mới là “d, đ”. Khi đó rất   nhiều con lúng túng không phân biệt được đâu là “b” và đâu là “d”.  Hay  ở  bài 3 con được học dấu thanh sắc “/” và  ở  bài 5 con được học  dấu thanh huyền “ \”, đến đây nhiều học sinh lại nhầm lần hai dấu này với   nhau. Còn  ở  bài 22 các con được học âm mới là “p, ph, nh”, đến bài 24 các   con lại được tiếp âm mới là “q, qu, gi” , lúc này các con lại lúng túng khi  không phân biệt được đâu là “q” đâu là “p”. Trước tình trạng đó tôi đã: a. Tìm hiểu nguyên nhân. Nguyên nhân của tình trạng học sinh có sự  nhầm lẫn giữa chữ “p” với   chữ “q”; chữ “d” với chữ “b”; nhầm dấu thanh “ /” với dấu thanh “ \” … là do  tri giác của học sinh lớp một mang tính chất đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và  mang tính không chủ động, do đó các con phân biệt những đối tượng này chưa  chính xác, lúc nhớ, lúc quên. b. Cách giải quyết Trong từng tiết học cô giáo luôn tạo cho học sinh những định hướng  mốc tri giác. Chẳng hạn giúp học sinh phân biệt đâu là tay phải, đâu là tay  trái, sau đó phân tích cho các con thấy chữ “q” có nét sổ thẳng ở bên tay phải  còn chữ  “p” lại có nét sổ  thẳng  ở  bên trái (hai nét này đều là nét sổ  thẳng  được viết xuống dưới đường kẻ  ngang thứ  nhất là hai ô li). Hay chữ  “d” có   nét sổ thẳng ở bên phải còn chữ “b” lại có nét sổ thẳng ở bên trái (hai nét này  đều là nét sổ thẳng được viết từ đường kẻ ngang số bốn xuống dưới đường  kẻ  ngang thứ  nhất). Tương tự  như  vậy, dấu thanh “ /” được viết giống nét  xiên phải còn dấu thanh “ \” lại được viết giống nét xiên trái. Để  giúp học  sinh ghi nhớ  một cách dễ  dàng, giáo viên có thể  nhắc đi nhắc lại nhiều lần   cho các con ghi nhớ. Nếu trong quá trình dạy có con nào quên thì cô giáo lại  nêu lại qui  ước đơn giản đó để  giúp các con tự  phát hiện và nhớ  ra tên của  các chữ cái đó. 13/29
  14. Với học sinh ti ếp thu ch ậm, th ường xuyên nhầm lẫn giữa hai ch ữ  cái   này   với   nhau,   ngay   c ả   khi   tôi   đã   nhắc   lại   quy   ướ c   đó   mà   con   vẫn  không nhớ  ra thì có thể  gọi bạn khác nhắc bạn rồi yêu cầu con học sinh   đó đọc lại. Lần sau khi g ọi h ọc sinh đọ c bài mà bạn đó đọ c đúng tên chữ  cái thì giáo viên tuyên dươ ng ngay tr ướ c lớp để  động viên khích lệ  học   sinh. Tôi cảm thấy học sinh đó rất vui khi mình đượ c cả  lớp vỗ  tay cổ vũ,   như vậy lần sau con đó sẽ cố gắng vươ n lên trong học tập để  theo kịp các  bạn trong l ớp và nhận đượ c nhiều tràng vỗ tay của các bạn hơn. Ví dụ 2: Học sinh lớp Một thường hay mắc lỗi chính tả, ngay cả khi cô   giáo đọc lại cho cả lớp soát lỗi mà vẫn không phát hiện ra. Hay làm sai một  phép tính nào đấy, cho dù cô nhắc là con kiểm tra lại bài đi mà vẫn không phát  hiện ra mình làm sai phép tính nào cả. Đây là chuyện thường gặp khi trực tiếp   giảng dạy học sinh lớp Một học toán. Tôi đã tìm cách khắc phục tình trạng  này như sau: a. Tìm hiểu nguyên nhân: Đánh giá kết quả hoạt động học tập của bản thân là một việc làm rất  mới với học sinh lớp Một. Nó chưa thể trở thành kĩ năng cho các con được vì  khả  năng tập trung chú ý vừa nghe, vừa nhìn, vừa viết bài còn rất kém. Khả  năng ghi nhớ  các quy tắc ngữ  pháp còn nhiều hạn chế, nó rất cần sự  rèn  luyện thông qua các hoạt động học tập dưới sự  tác động sư  phạm của cô  giáo. Trong khi tính toán cũng vậy, nếu lần đầu tiên con đã tính ra kết quả thì  lần sau con cũng sẽ dễ dàng tính sai kết quả. b. Cách giải quyết. Với những bài học sinh viết sai chính tả, tôi viết lại từ  đúng lên bảng  và cho học sinh đối chiếu từ của cô với từ con viết trong vở. So sánh như vậy  các con sẽ  dễ  dàng nhận ra lỗi sai của mình. Bằng kinh nghiệm giảng dạy   của bản thân để tránh trường hợp học sinh viết sai nhiều tôi hướng dẫn cho   các con viết vào bảng trước. Đến lúc viết vào vở, tôi nhắc học sinh nhẩm đọc  lại từ và tự nhớ lại quy tắc chính tả trước khi viết.  Trong quá trình dạy học sinh tôi hình thành cho các con thói quen sau khi  viết xong một chữ  là con sẽ  nhẩm lại xem mình viết đúng chưa, có đủ  dấu  thanh chưa, nếu thiếu thì phải bổ sung ngay lập tức. Như vậy các con sẽ ít sai  lỗi chính tả  hơn. Một việc làm rất quan trọng giúp học sinh phát hiện ra lỗi   sai của mình là tôi cho các con đổi chéo vở để tự kiểm tra bài của nhau. 14/29
  15. Trong môn Toán cũng vậy, ngoài việc hình thành cho các con kĩ năng tự  kiểm tra bài của mình, tôi cũng tổ chức cho đổi chéo kiểm tra như môn Tiếng  Việt. Việc làm đó cũng giúp học sinh dễ  dàng phát hiện và sửa lỗi sai của   bản thân. Cũng có thể giúp học sinh sửa sai bằng cách cô chỉ vào phép tính sai,  bài toán sai và nhắc nhẹ  nhàng “Con kiểm tra lại phép tính này đi!”. Khi đó   học sinh sẽ  tự  tính toán lại và nhận ra ngay sai sót của mình. Cần lưu ý là  thấy học sinh làm bài sai tránh quát mắng ầm ĩ làm cho các con hoảng sợ  sẽ  mất tập trung và không thể học được. Khi học sinh làm sai, tôi thường chỉ cho  các con thấy mình sai  ở đâu và sửa sai như thế nào. Từ đó, học sinh vừa yên   tâm vì khi làm sai không bị cô mắng lại còn biết cách sửa sai kịp thời. Vì vậy   các con hoàn toàn tự  tin trong học tập và thế  là tôi đã thành công trong việc   dạy dỗ và giáo dục học sinh của mình. Với thái độ  ân cần nhẹ  nhàng của cô, học sinh sẽ  cảm thấy rất thoải  mái, tự tin trong học tập, không phải lo ngại mình làm sai sẽ bị cô giáo mắng  phạt gì cả. Không chỉ trong môn Toán và Tiếng Việt mà trong những môn học   khác tôi  cũng từng bước giảm bớt áp lực trong học tập bằng cách đưa vào   cuối mỗi tiết học các trò chơi nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức đã học cho  học sinh. Chẳng hạn như trong môn Tự  nhiên và Xã hội, sau khi học bài cây   hoa, tôi cho học sinh tham gia vào trò chơi đoán tên các loài hoa như sau: ­ Đưa một số câu thơ nói về loài hoa và yêu cầu học sinh nói tên hoa: Câu thơ Hoa gì ngủ hết đông tàn Xuân về hớn hở nhuộm vàng trời Nam? Hoa Mai 15/29
  16. Câu thơ Hoa gì thắm dịu màu sen Đón hoa đón cả tân niên vào nhà? Hoa Đào Câu thơ Tên mua được nhiều thứ Mà lại là loài hoa Nép trong đám cỏ loà xoà Cuống dài không lá, hoa mà chẳng thơm?    Hoa Đồng Tiền Câu thơ Hoa gì nở hướng mặt trời Sắc vàng rực rỡ thắm tươi vườn nhà? Hoa Hướng Dương 16/29
  17. Câu thơ          Hoa gì màu trắng,          Cánh mỏng khum khum  Như vòng tay mẹ  Đón gió thu về?   Hoa Cúc Trắng Sau khi học sinh nêu được tên hoa tôi cho các con so sánh với đáp án  của cô xem có đúng hay không. Làm như vậy các con vừa hào hứng tham gia   vào trò chơi vừa củng cố được nội dung của tiết học. Thêm vào đó để tạo sự  hứng thú cho việc học tập tôi còn đưa các con  ra chăm sóc công trình măng non:                                 Học sinh chăm sóc công trình măng non 3.   GẦN GŨI, THÂN THIỆN VỚI HỌC SINH TRONG CÁC HOẠT  ĐỘNG KHÁC CỦA TRƯỜNG, LỚP Ngoài việc tham gia vào các hoạt động học tập trên lớp, học sinh còn   được tham gia vào rất nhiều các hoạt động khác như: sinh hoạt tập thể, đọc  17/29
  18. truyện ở thư viện, múa hát tập thể, các hoạt động trải nghiệm, tham quan dã   ngoại… Đây là lúc giáo viên hoà mình với các con, cùng các con vui chơi   khám phá những điều kì lạ ở thế giới xung quanh.  Trong các tiết hoạt động tập thể  cũng vậy, học sinh được tham gia vào rất  nhiều các hoạt động khác nhau như: văn nghệ theo chủ đề (hát, múa, đọc thơ,  kể chuyện…); chơi các trò chơi dân gian; vẽ tranh theo chủ đề; học về quyền   và bổn phận của trẻ em; phòng tránh tai nạn thương tích và cùng các em tham  gia Lễ hội Bánh chưng: Lễ hội bánh chưng 18/29
  19. Học sinh thi gói bánh chưng   Ngoài ra, tham quan dã ngoại là một hoạt động thu hút được rất nhiều  học sinh tham gia. Đây là cơ  hội lớn để  bổ  sung kĩ năng sống, hiểu biết cho   học sinh và cũng là cơ  hội để  giáo viên thể  hiện sự  gần gũi, thân thiện của   mình. 19/29
  20. Học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa 4. TÍCH CỰC  ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NHẰM GÂY  HỨNG THÚ CHO HỌC SINH 4.1. Đổi mới phương pháp dạy học Trên thực tế chúng ta thấy không có một phương pháp dạy học nào là   tối ưu. Bên cạnh những phương pháp dạy học hiện đại: thảo luận, động não,  đóng vai… Người thầy cần phát huy những phương pháp dạy học truyền   thống: quan sát, hỏi đáp, thực hành, thí nghiệm, thuyết minh… trong một tiết  học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Phải nhận thức đượ c việc “dạy học có hiệu quả” có nghĩa là dạ y  học không chạy theo thành tích, mà phải dạy cho học sinh lĩnh hội kiến   thức một cách hiệu quả  nhất. D ạy theo cách tiếp cận dần với việc phân   hóa đối tượ ng học sinh .  4.2.Tổ chức nhiều hình thức dạy học khác nhau * Hình thức 1: Tăng cường hoạt động nhóm trong các môn học. 20/29
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2