Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh lớp 1
lượt xem 2
download
Mục đích nghiên cứu đề tài là tìm hiểu thực trạng việc dạy và học phân môn kể chuyện ở lớp 1 trường chúng tôi. Từ đó đề xuất một số vấn đề những giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học phân môn kể chuyện sáng tạo ở lớp 1 theo định hướng tích cực hoá hoạt động của người học, lấy học sinh làm trung tâm.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh lớp 1
- 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: Trong chương trình môn Tiếng Việt, phân môn Kể chuyện có một vị trí quan trọng, được xếp liền sau phân môn Tập đọc do ranh giới giữa tiếng và văn nên Kể chuyện vừa thuộc phạm trù ngôn ngữ, vừa thuộc phạm trù hình tượng nghệ thuật văn chương. Đặc điểm này thống nhất cơ bản mang tính đặc trưng của môn học vừa là cung cấp tri thức về Tiếng Việt để phát triển tối đa năng lực ngôn ngữ của mình, biết sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt để làm công cụ giao tiếp và tư duy. Mặt khác phân môn Kể Chuyện có tác dụng lớn trong việc bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học phát triển ngôn ngữ và tư duy cho trẻ, góp phần hình thành nhân cách và đem lại cảm xúc lành mạnh cho học sinh bằng việc các em được nghe và được tham gia kể hàng trăm câu chuyện thuộc đủ các thể loại khác nhau trong suốt bậc tiểu học. Như vậy phân môn Kể chuyện có tác dụng giáo dục, giáo dưỡng thế hệ trẻ rất to lớn. Dạy phân môn này một mặt thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, mặt khác góp phần tạo nên tính hoàn chỉnh và thống nhất cao cho toàn bộ chương trình đào tạo. Tạo điều kiện tốt hơn tronh việc giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đào tạo con người mới của thời kì CNH- HĐH. Để thực hiện việc dạy phân môn Kể chuyện được tốt, đáp ứng được mục tiêu đề ra thì chúng ta phải có bộ chương trình hiện đại và hệ thống phương pháp dạy học hoàn chỉnh, tối ưu. Hiện nay chương trình Kể chuyện ở bậc Tiểu đặc biệt là Kể chuyện lớp 1 với việc đưa ra một hệ thống bài tập kể sáng tạo đã thực sự trở thành một cương lĩnh tiến bộ. Sự thay đổi nội dung chương trình đó đòi hỏi cần phải có sự đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp. Trong các tiết kể chuyện ở lớp 1 hiện nay, hầu hết các giáo viên đang còn sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống. Bên cạnh ưu điểm, những phương pháp này vẫn còn tồn tại và hạn chế. Đó là chưa phát huy được tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh, đồng thời không rèn luyện được kĩ năng lao động trí tuệ, gây cản trở việc chiếm lĩnh tri thức một cách thụ động. Việc rèn luyện kĩ năng không được quan tâm một cách đúng 1
- mức. Như vậy việc sử dụng phương pháp dạy học cũ làm hạn chế tính ưu việt của chương trình mới, đồng thời không phát huy được tính tích cực của HS trong quá trình học tập. Một vấn đề dặt ra, cần phải có sự đầu tư nghiên cứu về phương pháp dạy học làm sao để dạy cho các em cách suy nghĩ, cách tư duy sáng tạo, để làm dược điều đó không có con đường nào khác là phải sử dụng hệ thống các phương pháp dạy học tích cực trong đó phương pháp kể chuyện sáng tạo là một trong những phương pháp tối ưu nhất để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Kể chuyện lớp 1. Vì vậy tôi chọn đề tài: "Một số giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh lớp 1" là mục tiêu nghiên cứu của bản thân trong quá trình giảng dạy. 1.2. Mục đích nghiên cứu: - Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học phân môn kể chuyện ở lớp 1 trường chúng tôi. Từ đó đề xuất một số vấn đề những giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học phân môn kể chuyện sáng tạo ở lớp 1 theo định hướng tích cực hoá hoạt động của người học, lấy học sinh làm trung tâm. - Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn. - Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa với việc kể sáng tạo. - Đề ra các giải pháp dạy học kể sáng tạo. -Việc vận dụng giải pháp kể sáng tạo trong dạy học môn kể chuyện lớp 1. - Nâng cao chất lượng hiệu quả của việc dạy học kể chuyện ở lớp 1. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh lớp 1 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau : * Phương pháp thu thập tài liệu, thông tin : 2
- Tôi thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu khác nhau như : Tài liệu trên mạng internet, sách, báo để phục vụ cho việc lụa chọn các giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh lớp 1. * Phương pháp phân tích : Từ những nguồn tài liệu đã thu thập được tôi phải phân tích, lựa chọn những thông tin cần thiết, thích hợp. * Phương pháp thực nghiệm : Từ những tiết dạy thực nghiệm với những giải pháp khác nhau để đúc rút được những giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh lớp 1. * Phương pháp điều tra, đánh giá, thống kê : Tôi đối chiếu kết quả khi chưa áp dụng sáng kiến với kết quả tiết dạy thực nghiệm để thấy được hiệu quả của các biện pháp mình đã áp dụng. 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: * Quan điểm tâm lí học: Suốt chặng đường dài 5,6 năm trời nhờ sự giúp đỡ của người lớn, các chức năng tâm sinh lí của trẻ được hoàn thiện một cách tốt đẹp. Đó là cơ sở đầu tiên để đưa trẻ em hình thành và phát triển nhân cách con người để bước vào giai đoạn mới. Giai đoạn lứa tuổi của học sinh lớp 1, ở lứa tuổi này các em tiếp tục diễn ra sự phát triển tâm sinh lí ở mức độ cao hơn về mặt tâm lí, khả năng tri giác của học sinh lớp 1 mang tính chất đại thể ít đi sâu vào chi tiết, không mang tính chủ động. Trẻ em luôn hứng thú về một cái gì đó nhưng hứng thú biểu hiện dưới những hình thức khác nhau. Mỗi xúc động của các em lại kích thích đến cảm xuác và mỗi cảm xúc lại ảnh hưởng đến tri giác một cách khác nhau. Một trong những lĩnh vực phát triển tri giác cho học sinh lớp 1 là tri giác thẩm mĩ với các tác phẩm nghệ thuật. Điểm mới trong tri giác của các em là xuất hiện các hình tượng nghệ thuật. Việc các em tham gia vào hoạt động kể chuyện và nghe kể cũng là một trong những hình thức để tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. Một 3
- điểm quan trọng trong sự phát triển tâm sinh lí của học sinh lớp 1 là sự tưởng tượng. Giàu sức tưởng tượng là thuộc tính của trí tuệ gắn với năng lực hiểu biết của các em. Lứa tuổi các em đặc biệt là lớp đàu cấp, có thể nói đó là mảnh đất phì nhiêu để bồi đắp trí tưởng tượng cho con người. Học sinh lớp 1 thường nói lên những điều quá sự thật với niềm tin ngây thơ, những biểu hiện trên đều nằm trong sự tưởng tượng. Hoạt động tưởng tượng phải dựa trên nền tảng liên tưởng dựa trên sự ghi nhớ các sự vật hiện tượng. ý thức được vai trò của trí tưởng tượng phong phú của lứa tuổi học sinh lớp 1 và sự hấp dẫn trong văn học là rất cần thiết để khi dạy kể chuyện sáng tạo giáo viên sẽ có sẽ có sự vận dụng biện pháp, phương pháp có hiệu quả. Học sinh lớp 1 rất hiểu động, hiếu thắng , nhiều hứng thú và muốn biết tất cả. Các em thích nghe chuyện, thích quan sát. Các nhà tâm lí học cho rằng: “Đặc điểm nổi bật nhất trong tư duy của học sinh lớp 1 là tư duy cụ thể mang tính hình thức bằng cách dựa vào những đặc điểm trực quan và dựa vào những hành dộng thao tác trên những đối tượng cụ thể”. Đối với học sih lớp 1 tư duy trực quan, hình tượng phát triển mạnh. Từ những đặc điểm tâm sinh lí nói trên chúng ta đã xác định những biện pháp dạy học phân môn kể chuyện sáng tạo phù hợp nhất. * Quan điểm ngôn ngữ học: Giai đoạn giáo dục Tiểu học là góp phần làm cho trẻ sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ một cách thành thạo trong đời sống hàng ngày. Chúng ta biết rằng ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất giúp ta giao tiếp với người khác, lĩnh hội nền văn hóa, khoa học kĩ thuật để đưa đứa trẻ thành một thành viên của xã hội. Sự phát triển ngôn ngữ là quá trình bao gồm nhiều giai đoạn. Nếu như ở lứa tuổi Mẫu giáo bước đầu giúp cho trẻ hoàn thiện ngôn ngữ nói thì đến lứa tuổi học sinh Tiểu học ngôn ngữ nói của các em được phát triển ở mức cao hơn, đồng thời ở giai đoạn này các em còn hoàn thiện ngôn ngữ viết. Càng lên cao nhu cầu giáo tiếp càng mở rộng, vốn ngôn ngữ xã hội của các em càng phát triển nhanh. Do đó học sinh lớp 1 không chỉ sử dụng ngôn ngữ như một ơhương tiện thông báo mà đã sử dụng nó với ý 4
- nghĩa trao đổi và giao tiếp. Tuy nhiên trong thực tế vấn còn một số em nói năng chưa đúng, kém văn hoá, dùng sai từ. Sở dĩ có hiện tượng này là do sự phát triển ngôn ngữ của các em theo con đường tự phát, bắt chước hay học lõm. Vì vậy phân môn Kể chuyện có một vai trò cực kì quan trọng, góp phần hoàn thiện ở học sinh ngôn ngữ nói không phải chỉ ở mức bình thường mà rèn luyện ngôn ngữ nói một cách nghệ thuật. * Quan điểm Giáo dục học: Cũng theo các nhà Giáo dục học hiện đại thì chỉ khi nào có một phương án phát triển coi học sinh là nhân vật trung tâm của quá trình giáo dục, lấy học sinh làm nhân vật trung tâm của quá trình dạy học và tôn trọng nhân cách của nó như một thực thể hồn nhiên thì nền giáo dục đó mới là nền giáo dục nhân văn. Tuy nhiên trong quá trình đó vai trò của người giáo viên không hề bị hạ thấp mà cần phải được nâng cao. Giáo viên là người điều khiển, tổ chức quá trình dạy học. Đúng như nhà giáo dục vĩ đại Tiệp Khắc Cô men X ki đã nói: “Đứa trẻ ra đời thế nào, điều đó chẳng ai có thể quyết định được, nhưng dẫn dắt một cách đúng đắn để các em trở thành người tốt điểu đó tuỳ thuộc vào khả năng của chúng ta, những nhà Sư phạm, những cô giáo và những người mẹ hiền.” Chính vì vậy có thể nói vai trò của người giáo viên cực kì quan trọng. Thông qua việc nghiên cứu đặc điểm phát triển của học sinh lớp 1, tôi đã lấy đó làm căn cứ để nhìn nhận mặt bằng chung năng lực của học sinh lớp 1 khi làm quen hệ thống bài tập kể sáng tạo. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Tâm lí trẻ em đặc biệt là trẻ em ở lứa tuổi từ 1 đến 12 tuổi rất thích nghe kể chuyện . Chúng thường được nghe ông bà ,cha mẹ , thầy cô kể những câu chuyện cổ tích có những nhân vật thật gần gũi với lứa tuổi của chúng . Ngoài ra kể chuyện còn đem đến cho các em nhiều niềm vui , sự thích thú , thư giãn sau những giờ học căng thẳng . Những câu chuyện đó khơi gợi ở các em lòng yêu cái đẹp trong thiên nhiên, xã hội của con người. Nâng cao tâm hồn trong sáng, hướng các em tới những mơ ước cao xa cùng với sự phát triển hài hòa, toàn diện của bản thân. Ngoài 5
- ra những chuyện kể còn bồi dưỡng cho trẻ những tri thức thông thường về tự nhiên, xã hội. Môn kể chuyện còn là phân môn kích thích sự vận động linh hoạt của trí tuệ ,mở ra cho các em những chân trời mới, cho trí tưởng tượng làm phong phú các các hình thức màu sắc lí tưởng sống đang từng bước hình thành trong tâm trí trẻ em. Ánh mắt vui tươi, những tiếng cười sảng khoái, không khí nhộn nhịp, thư giãn trong giờ kể chuyện tạo ra sự gần gũi, cảm thông, long tin cậy giữa thầy cô và các em. Đặc biệt với những em còn rụt rè, nhút nhát, do bản thân hoặc do hoàn cảnh sống. Khi học tiết kể chuyện, các em sẽ có cơ hội gần gũi, hòa đồng với các bạn, các em được sống cùng những nhân vật trong truyện giúp các em tự tin, mạnh dạn hơn. Đối với học sinh tiểu học kể chuyện là môn học rất hấp dẫn và thường được các em học sinh chờ đón và tiếp thu bằng một tâm trạng hào hứng, vui thích. Qua đó tôi nhận thấy rằng kể chuyện là một môn học lý thú và hấp dẫn ở trường Tiểu học là có cơ sở. Ngoài ra kể chuyện còn hình thành cho trẻ tính mạnh dạn, khả năng diễn đạt câu chuyện theo lời văn của mình, Các em biết nhập vai nhân vật một cách tự nhiên giúp các tự tin vào khả năng diễn đạt của mình. Trong tiết kể chuyện các em có thể hòa mình vào những nhân vật mình yêu thích. Các em được sống trong thế giới riêng của mình. Vì thế việc dạy kể chuyện cho các em rất cần sự đầu tư của giáo viên và phải xác định được tầm quan trọng của tiết kể chuyện. Nhưng qua thực tế giảng dạy hiện nay , một số giáo viên vẫn chưa dành cho môn học này sự đầu tư xứng đáng. Tiết kể chuyện diễn ra rất tẻ nhạt, buồn chán. Giáo viên giảng dạy rất sơ sài. Có khi lên lớp giáo viên chỉ cầm sách đọc câu chuyện cho học sinh nghe một cách thờ ơ qua loa và không có cảm xúc sau đó cho học sinh đọc lại. Một tiết kể chuyện diễn ra ngắn gọn, buồn chán và đơn điệu. Vì vậy tiết kể chuyện chưa lôi cuốn học sinh, chưa tạo được hứng thú, lòng say mê học đối với phân môn này. Tiết kể chuyện diễn ra dưới hình thức độc thoại của giáo viên trong một giọng kể tẻ nhạt, không có tranh minh họa và học sinh chưa được hòa nhập vào từng nhân vật trong truyện vì giáo viên còn xem nhẹ tiết kể chuyện. Giáo viên chưa tạo được sự hứng thú học tập và phát huy tính tích cực của học 6
- sinh. Các em chưa được bộc lộ hết khả năng kể chuyện cũng như tính sáng tạo ở mỗi em. Thậm chí có những giáo viên còn xem phân môn này là môn học phụ nên dạy rất sơ sài. Xuất phát từ những đặc điểm tình hình qua quá trình giảng dạy môn kể chuyện. Bản thân tôi nhận thức rằng quá trình dạy kể chuyện là một quá trình nghệ thuật khoa học phức tạp, tinh tế nhiều mặt và có tính chất độc đáo. Và điều này càng bộc lộ rõ nét hơn qua phân môn kể chuyện. Vì vậy bản thân tôi là giáo viên Tiểu học, tôi đã nghiên cứu tìm ra những hướng giải quyết để tìm cách nào tiến hành “ Một tiết kể chuyện giúp học sinh biết kể chuyện sáng tạo theo chương trình cải cách mới của học sinh lớp 1 đạt hiệu quả cao hơn” . * Chương trình sách giáo khoa kể chuyện lớp 1. Toàn bộ chương trình sách giáo khoa lớp 1 có 27 bài kể chuyện khác nhau như: Thần thoại, cổ tích, ngụ ngôn, truyền thuyết... ở giai đoạn Học vần học sinh được học 15 bài ôn tập, sau phần ôn tập các âm và vần mới học trong tuần, phần luyện viết và phần Tập đọc. Tất cả nội dung cùng được dạy trong 1 tiết do vậy ở giai đoạn này Kể chuyện chưa có tiết dạy riêng và bố trí sau 2 vòng nghĩa là 1 tuần có 1 tiết Kể chuyện. Mỗi mục kể chuyện được thiết kế từ 4 đến 6 tranh minh hoạ. Ví dụ: Bài: “Thỏ và Sư tử" Trang 45 có 4 tranh; Bài: “Tre ngà” Trang 57 có 6 tranh. Các tranh ở đây chỉ mang tính chất là điểm tựa để học sinh có thể dựa vào đó để kể lại chuyện. Mục kể chuyện trong sách giáo khoa được nhận biết bằng kí hiệu rất phong phú và sinh động đó là một học sinh nữ đang nói, tay phải giơ lên làm hiệu. Tiếp theo là tên truyện và tranh vẽ. Đến phận luyện tập tổng hợp có thêm chữ ở dạng yêu cầu hay câu hỏi gợi ý dưới tranh: Ví dụ: Chuyện “Sói và Sóc” (Tiếng Việt 1 – tập 2, trang 108). 1. Nghe kể chuyện 2. Kể lại từng đoạn theo tranh. - Tranh 1: Chuyện gì xảy ra khi Sóc đang chuyền trên cành cây? - Tranh 2: Sói định làm gì Sóc? - Tranh 3: Sói hỏi Sóc thế nào? - Sóc đáp ra sao? 7
- - Tranh 4: Sóc giải thích vì sao Sói buồn? 3. Phân vai kể lại toàn bộ câu chuyện * Hình thức bài tập kể sáng tạo: Các hình thức bài tập này được sắp xếp xen kẽ trong một tiết học, tạo nên sự đa dạng phong phú trong hoạt động học tập, tận dụng khả năng cuẩ mỗi học sinh. Khắc phục tình trạng nhàm chán, đơn lẻ khi phải nghe và kể lại một chiều như trước đây… Vậy kể chuyện sáng tạo nhằm phát huy tính độc lập sáng tạo của học sinh. * Sự kết hợp kênh hình và kênh chữ: Kể chuyện ở lớp 1 được xây dựng giữa kênh hình và kênh chữ với mức đọ khác nhau. Tuy nhiên ở lớp 1 kênh hình hoàn toàn chiếm ưu thế, 100% bài kể chuyện được thiết kế dưới dạng kênh hình ở phần Học vần và phần Luyện tập tổng hợp. điều này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 1, các em chưa biết đọc nên một văn bản chuyện dài thực sự là một khó khăn với các em . Hơn nữa đặc điểm tâm lí học sinh lớp 1 thiên về trực quan sinh động, nên nội dung câu chuyện được thể chế hoá bằng các tranh vẽ ngộ nghĩnh có tác dụng hấp dẫn trí tò mò của các em. * Bài kể chuyện có nội dung cố định: Do đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 1 là khả năng ghi nhớ chưa cao nên ở đây chỉ sử dụng 2 hình thức bài tập kể sáng tạo. Dựa theo tranh kể lại từng đoạn truyện và kể lại toàn bộ câu chuyện. Các hình thức này được sắp xếp dạy sau khi học sinh đã hoàn thành phần Học vần. Cấu trúc chung của một tiết Kể chuyện ở chương trình lớp 1 thường là sau khi giáo viên kể mẫu từ 2 đến 3 lần, học sinh được hướng dẫn quan sát tranh trả lời câu hỏi gợi ý để nhớ lại từng đoạn câu chuyện theo tranh và sau đó kể lại toàn bộ nội dung câu chuyện. Ví dụ: kể chuyện “ Trí khôn” (trang 72): 1. Nghe kể chuyện. 2. Kể lại từng đoạn câu chuyện theo tranh. 8
- - Tranh 1: Hổ nhìn thấy gì? - Tranh 2: Hổ và trâu nói gì với nhau? - Tranh 3: Hổ và người nói gì với nhau? - Tranh 4: Câu chuyện kết thúc như thế nào? 3. Kể lại toàn bộ câu chuyện. Khác hẳn so với chương trình 165 tuần các hình thức bài tập đều được sắp xếp hoàn toàn bằng kênh chữ. Nhưng ở chương trình mới đối với học sinh lớp 1 các bài tập kể sáng tạo được sắp xếp đan xen cả kênh hình lẫn kênh chữ tuy nhiên trong đó kênh hình chiếm ưu thế hơn. Ở dưới mỗi bức tranh thường có các câu hỏi, giúp học sinh nhớ lại nội dung câu chuyện. điều này phù hợp với đặc điểm của học sinh lớp 1, do học sinh lớp 1 đọc chưa thông viết chưa thạo, khả năng ghi nhớ chưa tốt nên các văn bản truyện kể dài dòng thực sự là khó khăn đối với các em. Hơn nữa đặc điểm tâm lí của các em thiên về trực quan sinh động, nên nội dung câu chuyện được thẻ chế hoá bằng các bức tranh ngộ nghĩnh, sinh động, vui mắt có tác động hấp dẫn trí tò mò của học sinh rất lớn. Lúc đó hàng loạt câu hỏi tại sao? được xuất hiện trong đầu các em. Muốn trả lời được câu hỏi thì phải lắng nghe, nhớ, hiểu rồi suy luận, liên tưởng rồi kể lại từng đoạn của câu chuyện. Sau khi kể lại từng đoạn của câu chuyện, yêu cầu học sinh phải có khả năng tổng hợp để liên lết các phần của câu chuyện lại với nhau, kể lại câu chuyện một cách mạch lạc theo ngôn ngữ riêng của mình. Chỉ với 2 hình thức bài tập, nhưng chương trình kể chuyện lớp 1 bước đầu giúp các em làm quen với hệ thống các bài tập sáng tạo. Từ đó hoàn thành dần cho các em phương pháp học tập tích cực. * Bài kể chuyện có nội dung không cố định: Bài kể chuyện không có nội dung cố định thực chất là những bài tập “mở” mang tính sáng tạo nhằm khai thác kinh nghiệm và vốn sống cho các em. Rèn cho các em kĩ năng nói cơ bản quan trọng như: Kĩ năng sắp xếp chi tiết, kĩ năng lựa chọn hình thức ngữ điệu nói. Thông qua các hình thức bài tập này bước đầu tập 9
- dượt khả năng tưởng tượng, cách thiết kế xây dựng một câu chuyện mới cho học sinh. Điều đó cho thấy việc dạy học Kể chuyện ở Tiểu học hiện nay (nhất là học sinh lớp 1) Giáo viên phải có đầu tư thích đáng về mặt lí luận để thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, làm nó thích ứng với nội dung chương trình mới nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Cùng với phân môn khác giúp học sinh rèn luyện kĩ năng giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ lời nói một cách có văn hoá. Xuất phát từ thực trạng trên, trong đề tài này tôi đi sâu nghiên cứu “Phương pháp kể sáng tạo trong phân môn Kể chuyện cho học sinh lớp 1”. Với chủ ý muốn dóng góp 1 phần nhỏ bé của mình vào công cuộc đổi mới phương pháp dạy học, góp phần đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người có đức có tài cho xã hội hôm nay và mai sau. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Đối với dạng bài kể chuyện có nội dung cố định: * Cách kể chuyện của giáo viên: - Đối với dạng bài kể chuyện có nôị dung cố định ở lớp 1 thì nội dung truyện kể không được in trong sách học sinh. Do đó trong giờ kể giáo viên phải kể mẫu một cách sáng tạo. để đảm bảo biện pháp dạy học này có hiệu quả trong quá trình kể Giáo viên phải thực hiện một số quy tắc sau: - Truyện kể mẫu không được quá dài, bố cục chặt chẽ, phù hợp với cốt truyện và tính cách nhân vật. - Giáo viên có thể sáng tạo lời kể, tức là kể kết hợp tả những hình ảnh, chi tiết đặc sắc hoặc có thể thay đổi, thêm bớt lời đối thoại trong câu chuyện. - Phương pháp kể kết hợp với giải thích và thay thế từ khó hiểu, phương pháp này có tác dụng trong việc phát triển ngôn ngữ và làm tiền đề kể sáng tạo cho học sinh: Ví dụ: chuyện “ Con Rồng cháu Tiên”. Mở đầu câu chuyện, giáo viên có thể thêm vào "Ngày xửa ngày xưa đã lâu lắm rồi” hoặc có thể thay thế từ "Sức khoẻ kì lạ" bằng “ Sức khoẻ phi thường”. 10
- - Phương pháp dùng lời chuyển tiếp các đoạn trong một câu chuyện, lời chuyển tiếp vừa có ý nghĩa nhắc lại sự liên tục giữa các đoạn trong câu chuyện, vừa khêu gợi sự suy nghĩ của học sinh. Ví dụ chuyện: “Sói và Sóc” Sau khi giáo viên kể xong đoạn 1, giáo viên có thể dẫn dắt: Liệu Sói có thả Sóc ra không? Để biết được điều đó các em hãy nghe cô kể tiếp đoạn 2 của câu chuyện - Có thể kết hợp phương pháp trao đổi gợi mở bằng câu hỏi tự trả lời. Sử dụng phương pháp này nhằm nhấn mạnh cho học sinh những chi tiết quan trọng của câu chuyện. Khi kể chuyện “Sói và Sóc” giáo viên có thể đặt câu hỏi giữa chừng: Các em có biết tại sao Sói lại thả Sóc ra không? Lúc này buộc học sinh phải suy nghĩ, khi đó giáo viên kể tiếp câu chuyện sẽ giúp cho các em ghi nhớ được lâu, mặt khác nó còn tránh được tình trạng thụ động của học sinh trong quá trình nghe cô kể mẫu. - Một điểm không kém phần quan trọng trong việc kể sáng tạo là giáo viên phải lựa chọn giọng kể, cách kể thu hút học sinh. - Để câu chuyện thêm sinh động có sức cuốn hút học sinh, trong quá trình kể giáo viên nên kết hợp giọng kể với các yếu tố phi ngôn ngữ, đồng thời sử dụng tranh ảnh minh hoạ cho những chi tiết quan trọng Ví dụ: Kể câu chuyện: “Con Rồng cháu Tiên” như sau: 1. Ngày xửa, ngày xưa, Đã lâu lắm rồi, có chàng Lạc Long Quân vốn là con Rồng ở dưới biển, thân hình vạm vỡ và sức khoẻ phi thường. Chàng kết duyên với nàng Âu Cơ vốn là Tiên ở trên núi. Chẳng bao lâu, Âu Cơ mang thai. Nhưng lạ kì thay, Âu Cơ lại đẻ ra một cái bọc trứng và 7 ngày sau từ cái bọc trứng ấy nở ra 100 người con xinh đẹp và khoẻ mạnh. Ngày qua ngày, gia đình họ sống rất dầm ấm và hạnh phúc. Nhưng Lạc Long quân vẫn không nguôi nhớ biển nơi chôn rau cắt rốn của mình. Một hôm chàng hoá thành Rồng bay ra biển. Âu Cơ và đàn con ở lại. Vợ nhớ chồng, con ngóng bố. Mẹ con nàng bèn trèo lên đỉnh núi cao gọi Lạc Long Quân trở về. 11
- Liệu Lạc Long Quân có nghe thấy tiếng gọi của Âu Cơ và chàng có trở về núi để gặp người vợ yêu dấu của mình nữa hay không? Cô mời các em nghe tiếp đọan 2 nhé. 2, Lạc Long Quân từ biển bay lên núi gặp lại vợ con. Trong cuộc hội ngộ đó, họ đã bàn với nhau: “ Rồng với Tiên quen sống ở 2 vùng khác nhau. Ta nên chia đôI đàn con, một nửa theo mẹ lên núi, một nửa theo cha xuống biển – Khi nào gặp nguy biến thì báo cho nhau biết để cứu giúp nhau.” Thế là năm mươi người con cùng Âu Cơ lên rừng, còn lại theo Lạc Long Quân xuống biển. Riêng chỉ có người con trai cả ở lại đất Phong Châu được làm vua nước Văn Lang. Đó là vua Hùng thứ nhất. Vậy bây giờ các em đã biết vì sao người Việt Nam chúng ta tất cả đều gọi là "Con Rồng cháu Tiên” đều được gọi là "Đồng bào” chưa? Câu chuyện trên, tôi đã áp dụng giải pháp kể sáng tạo. Về giọng kể, đoạn đầu giáo viên kể giọng chậm rãi, đoạn cuối cần kể với giọng vui vẻ, tự hào. * Cách dạy học sinh kể sáng tạo chuyện. Dạy cho học sinh hình thành với nội dung câu chuyện là rất quan trọng. Tuy nhiên, mỗi câu chuyện kể của học sinh là một sự sáng tạo nghệ thuật- nghĩa là các sản phẩm ấy không giống nhau mà mang bản sắc riêng của từng cá nhân. Muốn giúp học sinh thực hiện được điều đó, trước hết đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp dạy học sinh kể sáng tạo. Sự sáng tạo của học sinh trong quá trình kể chuyện không phải là các em tự nghĩ ra một nhân vật hay một mâu thuẫn nào đó mà là sự sáng tạo trong lời kể, giọng kể. Qua sự sáng tạo làm cho mối nhân vật trong câu chuyện hiện lên rõ nét hơn, học sinh bộc lộ thái độ yêu, ghét, buồn, vui với từng nhân vật. Từ đó biến câu chuyện chung thành câu chuyện riêng của mỗi em. Một trong những mục tiêu của tiết kể chuyện ở bài tập có nội dung cố định trong chương trình Kể chuyện là ; + Học sinh nhớ đựơc nội dung cốt truyện. + Học sinh kề lại chuyện một cách diễn cảm, sáng tạo, mạch lạc 12
- Để đạt được mục tiêu đó, trong giờ kể chuyện giáo viên cần thực hiện một số hoạt động sau: + Giáo viên kể mẫu chuyện một cách sáng tạo + Giáo viên đặt câu hỏi gợi mở giúp học sinh nhớ lại nội dung cốt chuyện, xâu chuỗi được các tình tiết trong cốt truyện . Tóm lại : Các bước trên được áp dụng trong quá trình giúp trẻ kể sáng tạo. áp dụng biện pháp này một mặt giúp học sinh nhớ lại chuyện, mặt khác giúp các em nắm được ý nghĩa của câu chuyện mầ không cần có đủ mặt từng lời kể trong văn bản, để chuyển sang hoạt động sáng tạo ở trẻ. Tổ chức hoạt động kể chuyện sáng tạo này giáo viên cần động viên, khuyến khích để học sinh thi đua kể và có nhiều em được kể chuyện. 2.3.2. Đối với dạng bài kể chuyện có nội dung không cố định. - Dạy cho học sinh hồi tưởng lại câu chuyện: Đối với dạng bài tập này đòi hỏi học sinh nhớ lại, kể lại các sự kiện theo đúng diễn biến không gian và thời gian nhất định. - Dạy cho học sinh phát huy trí tưởng tượng sáng tạo: Giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi “mở” nhằm phát huy trí tưởng tượng sáng tạo của học sinh. Sự sáng tạo của các em có thể trên cơ sở sự việc chính, các em tưởng tượng sáng tạo ra các sự việc phụ làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn. Để phát huy trí tưởng tượng của học sinh trong việc xây dựng chuyện, giáo viên cần khơi gợi, mở rộng phạm vi, không gian xung quanh sự việc chính. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. Trước khi áp dụng các giải pháp kể chuyện sáng tạo, tôi đã khảo sát về khả năng tiếp thu của HS và thu được kết quả như sau: Lớp Sĩ số Giới tính Xếp loại học lực Ghi Nam Nữ HTT HT CHT chú 1A 39 21 18 5 25 9 13
- Sau khi khảo sát, tôi bắt đầu vận dụng các giải pháp dạy kể sáng tạo trong quá trình dạy phân môn kể chuyện. Tôi nhận thấy, tiết Kể chuyện thường được các em chờ đón và tiếp thu với một tâm trạng hào hứng, vui thích. Khác ở hẳn với những tiết học khác, ở những tiết Kể chuyện, Giáo viên và các em học sinh hầu như thoát li khỏi sách vở mà giao hoà tình cảm một cách tự nhiên, thông qua nội dung câu chuyện được kể, thông qua lời kể của giáo viên và lời kể của các bạn. Mọi người như được sống trong những giây phút hồi hộp, xúc cảm ngoài hoạt động thông thường của một tiết học bởi không có hiện tượng truy bài, hỏi bài căng thẳng. Qua quá trình vận dụng các giải pháp kể chuyện sáng tạo với lớp của mình tôi đã thu được kết quả rất khả quan. Cụ thể như sau: Lớp Sĩ số Giới tính Xếp loại học lực Ghi Nam Nữ HTT HT CHT chú 1A 39 21 18 23 16 0 Từ bảng trên tôi có thể rút ra một số nhận xét sau: Mức độ hoạt động tích cực của học sinh trong giờ học biểu hiện khá rõ. Học sinh được cuốn hút vào các hoạt động học tập một cách sôi nổi. Qua câu hỏi gợi ý và sự hướng dẫn của giáo viên. học sinh tự xây dựng được nội dung câu chuyện theo mạch tư duy của mình, các em hào hứng kể lại chuyện một cách sáng tạo. Hầu hết học sinh được lôi cuốn vào nội dung của bài học. Sự tập trung chú ý của học sinh rất cao thể hiện ở chỗ học sinh tích cực đưa ra các câu trả lời của mình về nội dung câu chuyện, tập trung chú ý lắng nghe bạn khác kể lại chuyện đồng thời tham gia sôi nổi vào việc kể lại câu chuyện một cách sáng tạo. Từ những phân tích trên, ta có thể dễ dàng nhận thấy khi sử dụng các giải pháp kể sáng tạo đã mang lại kết quả khả quan. Việc sử dụng các giải pháp này có tác dụng làm cho học sinh hứng thú hơn trong việc nghe và kể lại chuyện trong tiết kể chuyện. 14
- 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ. 3.1. Kết luận: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đã đặt ra: + Tìm hiểu về cơ sở lí luận và thực tiễn. + Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa với việc kể sáng tạo. + Đề ra một số giải pháp dạy kể sáng tạo. Từ việc nghiên cứu đó tôi đã rút ra được một số kết luận sau: - Để phát huy những ưu điểm của chương trình phân môn kể chuyện ở lớp 1. Giáo viên cần phải sử dụng phương pháp dạy học một cách thích hợp, trong đó cần coi trọng phương pháp dạy học hiện đại đặc biệt là phương pháp kể sáng tạo. - Phương pháp kể sáng tạo kích thích niềm say mê, hứng thú học tập của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả giờ học - Vận dụng phương pháp kể sáng tạo vào việc dạy kể chuyện sẽ khai thác được vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm của học sinh, phát huy được tính độc lập, sáng tạo và phát triển tư duy trí tuệ của học sinh. Tuy nhiên tôi nghĩ rằng, không có phương pháp nào là vạn năng. Do đó trong quá trình dạy học phân môn kể chuyện ở khối lớp 1 cần phải linh hoạt phối hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau. 3.2 . Kiến nghị: - Chuyên môn nhà trường: + Cần tổ chức bồi dưỡng phương pháp dạy học nhiều hơn nữa cho giáo viên, đặc biệt là phương pháp kể sáng tạo - Phương pháp đặc trưng của phân môn Kể chuyện của lớp 1 nói riêng và của cấp Tiếu học nói chung. + Cần tổ chức các giờ dạy mẫu để giáo viên được dự giờ, đúc kết kinh nghiệm để nâng cao tay nghề của mình. + Thường xuyên tổ chức các cuộc thi kể chuyện cho học sinh để các em được phát triển tốt hơn năng khiếu kể chuyện và yêu thích môn học. 15
- - Giáo viên: Cần đánh giá đúng vai trò, vị trí và tầm quan trọng của phân môn kể chuyện ở lớp 1 hiện nay. Từ đó giáo viên cũng như học sinh có sự đầu tư thích đáng cho môn học, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả giờ dạy. 16
- Tài liệu tham khảo 1. Phương pháp kể sáng tạo truyện cổ tích thần kì - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội- 2001 ( Hà nguyễn Kim Giang). 2. Tiếp cận xu thế đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay - Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 3- 1993 ( Nguyễn Sinh Hy). 3. Giáo trình tâm lí học lứa tuối và Sư phạn - Tài liêụ lưu hành nội bộ ( PTS Phạm Minh Hùng- PTS Thái Văn Thành). 4. Dạy Kể chuyện ở trường Tiểu học - NXBGD -2000 (Chu Huy) 5. SGK Tiếng Việt lớp 1 (T1,T2). 6. Sách Kể chuyện lớp 1- Chương trình CCGD MỤC LỤC THỨ TỰ NỘI DUNG TRANG 1 MỞ ĐẦU 1 1.1 Lí do chọn đề tài 1 1.2 Mục đích nghiên cứu 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu 2 17
- 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 3 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 3 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh 5 nghiệm 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 10 2.3.1. Đối với dạng bài kể chuyện có nội dung cố định. 10 2.3.2. Đối với dạng bài kể chuyện có nội dung không cố định. 13 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động 13 giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 3 KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 15 3.1 Kết luận 15 3.2 Kiến nghị 15 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2238 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 216 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 168 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 65 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn