Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp giúp học sinh lớp 1 rèn kĩ năng đọc tốt
lượt xem 3
download
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học được hoàn thành với một số biện pháp như: Giúp học sinh có kĩ năng đọc tốt và có hứng thú học Tiếng Việt thông qua các hoạt động học tập. Giúp học sinh phát huy được khả năng tư duy, rèn luyện cho các em khả năng biểu đạt và tăng cường kỹ năng giao tiếp. Rèn cho học sinh có thói quen học tập chủ động, thoải mái, nhẹ nhàng nhưng vẫn đảm bảo kỷ luật lớp học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp giúp học sinh lớp 1 rèn kĩ năng đọc tốt
- 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn sáng kiến Như chung ta đa biêt, Ti ́ ̃ ́ ếng Việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất ở bậc Tiểu học. Bên cạnh việc học Toán để phát triển tư duy logic thì việc học tiếng Việt sẽ giúp các em hình thành và phát triển tư duy ngôn ngữ. Thông qua môn Tiếng Việt, các em sẽ học cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình một cách chính xá và biểu cảm từ đó góp phần giáo dục các em hình thành và phát triển một nhân cách toàn diện, hài hoà. Cũng như các đơn vị trường Tiểu học khác trên địa bàn huyện, chương trình tiếng Việt lớp 1 đang học là tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục mới được áp dụng đại trà vào giảng dạy ở trường Tiểu học từ năm học 20162017. Với chương trình tiếng Việt mới này không chỉ giúp học sinh nắm chắc tri thức cơ bản về tiếng Việt, hình thành đồng thời các kĩ năng nghe – nói – đọc – viết một cách vững chắc mà học sinh lại luôn được tham gia hoạt động học tập một cách chủ động, tự tin. Thông qua việc làm, các thao tác học, các em tự tìm ra và chiếm lĩnh tri thức, từ đó phát huy được khả năng tư duy, năng lực tối ưu của bản thân. Nội dung của môn tiếng Việt tập trung hình thành những cơ sở ban đầu cho việc học đọc, học viết; định hướng cho việc học nghe, học nói dựa trên vốn Tiếng Việt mà các em đã có. Các bài học là bài học thực hành, được thấm vào học sinh một cách tự nhiên qua các bài học thực tế. Ví dụ: học âm /e/, sau đó viết con chữ “e”. Những tri thức về âm chữ cái, về tiếng (âm tiết) – chữ, về thanh điệu – dấu ghi thanh đều được học qua những bài dạy chữ. Những tri thức về câu trong đoạn hội thoại cũng không được dạy qua bài lý thuyết mà các em được hình dung cụ thể trong một văn bản cụ thể. Các em sẽ nhận diện được và sử dụng được các đơn vị của Tiếng Việt, các quy tắc sử dụng tiếng Việt trong lúc đọc, viết, nghe, nói. Đây là nền tảng cho các em trong việc phát triển tu duy ngôn ngữ, biểu hiện qua việc đọc thông 1
- thạo và hiểu đúng ý nghĩa một văn bản ngắn; nghe chủ động; nói chủ động, rành mạch. Mục tiêu chính ở đây là đem lại cho các em kĩ năng đọc thông, viết thạo, không tái mù chữ. Giúp các em nắm chắc luật chính tả, nắm chắc hệ thống cấu trúc ngữ âm tiếng Việt. Đây là nền móng khởi đầu cho việc học về sau. Có đọc thông thì mới viết thạo, mới hiểu nội dung, yêu cầu bài. Kĩ năng đọc là sự khởi đầu giúp học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập, giao tiếp. Ngoài việc thay đổi nội dung phân phối chương trình, sự thay đổi về cách đánh vần, cách tìm tiếng, cách thay dấu thanh… là một trong những vấn đề trọng tâm khiến giáo viên không khỏi tránh được những khó khăn, vướng mắc. Vì giáo viên phải làm quen với một phương pháp dạy mới làm sao giúp học sinh ̉ ̣ trai nghiêm, tự tìm hiểu, phát hiện ra kiến thức bài học. Có thể nói ưu điểm của tiếng Việt lớp 1 công nghệ Giáo dục là tích cực, mà ở đó học sinh chủ động, tự lực khai thác tri thức dưới sự hướng dẫn của ̉ ̣ giáo viên. Tuy nhiên đê hoc sinh th ực sự yêu thich va co h ́ ̀ ́ ưng thu khi hoc, có kĩ ́ ́ ̣ năng đọc tốt đo ́là những băn khoăn lớn của mỗi giáo viên khi giảng dạy. Chính từ những trăn trở này, tôi đã tiến hành nghiên cứu và thực hiện sáng kiến: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 1 rèn kĩ năng đọc tốt” nhằm tìm ra giải pháp: Giúp học sinh có kĩ năng đọc tốt va co h ̀ ́ ưng thu hoc Ti ́ ́ ̣ ếng Việt thông qua các hoạt động học tập. Giúp học sinh phát huy được khả năng tư duy, rèn luyện cho các em khả năng biểu đạt và tăng cường kỹ năng giao tiếp. Rèn cho học sinh có thói quen học tập chủ động, thoải mái, nhẹ nhàng nhưng vẫn đảm bảo kỷ luật lớp học. Mặt khác, qua việc đúc kết những kinh nghiệm cũng chính là một trong những cách để ghi nhận và xem xét lại quá trình thực hành giảng dạy, để hoàn 2
- thiện kỹ năng sư phạm của bản thân, để chọn lọc ra những gì đã làm tốt, cái gì cần phải làm tốt hơn và nghĩ cách khắc phục những gì chưa tốt. 1.2. Điểm mới của đề tài. Sáng kiến đã xây dựng được 10 giải pháp giúp học sinh rèn kĩ năng đọc tốt, trong đó đã thực hiện tốt quy trình giảng dạy tiếng Việt lớp 1 CGD và vận dụng linh hoạt quy trình giảng dạy mới phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh trường mình. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng của việc dạy và học Tiếng Việt Công nghệ giáo dục ở trường Tiểu học. Qua thực tê qua trinh ́ ́ ̀ dạy học Tiếng Việt Công nghệ giáo dục đã rèn luyện cho học sinh rất nhiều kỹ năng, phát huy được tính tích cực của học sinh. Các hoạt động học tập trên lớp hoàn toàn do học sinh chủ động: chủ động hợp tác, chủ động quan sát các kí hiệu, chủ động tư duy, chủ động phân tích…Nếu dạy theo tiếng Việt lớp 1 cũ, giáo viên chỉ cần chuẩn bị một số tranh, ảnh hoặc mẫu vật mẫu, có kế hoạch bài dạy chi tiết để dùng cho một tiết dạy là đủ. Khi lên lớp cứ theo trình tự các hoạt động ở các tiết là xong. Nhưng khi dạy Tiếng Việt Công nghệ giáo dục mới đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu kĩ thiết kế bài dạy, nắm vững quy trình các bước lên lớp, phải sử dụng các kí hiệu nhất quán thay cho ngôn ngữ nói, phải làm sao hướng dẫn được học sinh kết hợp đồng thời giữa đọc và sử dụng tay theo nhịp đọc cho đúng.Việc thay đổi hoàn toàn cả về nội dung chương trình lẫn phương pháp, hình thức tổ chức lớp học cũng đã gây nhiều tranh luận. Nhiều ý kiến cho rằng hay thì có hay nhưng không phù hợp với khả năng, trình độ nhận thức của các em nhất là các em học sinh vùng nông thôn, vùng núi khó khăn … Mặt khác đối với học sinh tiêu hoc ̉ ̣ , nhận thức của các em chủ yếu là nhận thức cảm tính. Các em chưa tự tin, còn rụt rè. Trong khi đó môi trường, nề 3
- nếp, nội quy học tập có sự khác biệt so với cấp học Mầm non. Các em còn mang theo thói quen tự do đi lại, thiếu tập trung, chơi là chính. Tuy nhiên có thể nói các em rất thích học, thích đọc, thích viết, thích được khen và thích thi đua cùng bạn xem ai nhớ và đọc được nhiều âm, vần. Nhưng trong giờ học còn sự gò bó, các em chưa thật chủ động làm chủ, chưa thật sự thể hiện hết năng lực sẵn có... Một số thuận lợi và khó khăn khi áp dụng Tiếng Việt Công nghệ giáo dục vào giảng dạy cho học sinh tiêu hoc nh ̉ ̣ ư sau: a. Thuận lợi Giáo viên dạy Tiếng Việt Công nghệ giáo dục luôn được sự quan tâm của cấp trên, đặc biệt là Ban Giám hiệu nhà trường thường xuyên động viên, tạo mọi điều kiện để giáo viên an tâm công tác và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đầu năm học phòng Giáo dục luôn tổ chức các buổi tập huấn chuyên đề: tiếng Việt Công nghệ giáo dục cho toàn bộ giáo viên giảng dạy lớp 1 trên địa bàn huyện để cùng học tập, trao đổi kinh nghiệm, chia sẽ những phương pháp dạy tốt đặc biệt là trực tiếp dự giờ tiết dạy mẫu của những giáo viên dạy gỏi lớp 1. Đây là một thuận lợi rất lớn cho mỗi giáo viên nhằm học tập, đúc rút kinh nghiệm, vận dụng vào giảng dạy tốt hơn. Giáo viên nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, có kinh nghiêm va năng l ̣ ̀ ực chuyên môn. Giáo viên không phải soạn bài nên có thời gian để quan tâm đến học sinh nhiều hơn, để nghiên cứu tài liệu, để nắm quy trình dạy, cách tổ chức thực hiện lên lớp với học sinh. Tài liệu sách thiết kế chi tiết cho các dạng bài, các mẫu của từng tiết dạy. 4
- Đa số các em đa số rất ngoan, dễ vâng lời, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ, động viên.... Có thể nói học sinh rất yêu thích học Tiếng Việt Công nghệ giáo dục vì giáo viên phát huy được tính tích cực của học sinh, giờ học diễn ra sôi nỗi, hào hứng, học sinh nắm được cách phân tích cấu trúc ngữ âm, xác định được các âm trong một tiếng như: âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối...Vì thế tiết học không gò bó, không có nhiều áp lực như trước. Đó chính là một lợi thế, giúp các em hứng thú hơn khi học, là động lực thức đẩy các em học tốt. b. Khó khăn Năm học 2019 2020, tôi được nhà trường phân công dạy lớp 1. Bởi lần đầu tiên tiếp xúc với một chương trình mới giáo viên lớp 1 trực tiếp đứng lớp như tôi rất băn khoăn lo lắng. Trong thực tế giảng dạy, giáo viên lớp 1 cũng đã gặp không ít lúng túng khi tất cả học sinh vào lớp 1 đa số chưa biết chữ mà nhìn vào nội dung sách Tiếng Việt CGD thì số lượng chữ trong mỗi tiết học rất nhiều lại yêu cầu học sinh phải đọc trơn các chữ đó sau khi học xong. Lần đầu tiên tiếp xúc với cách dạy theo CGD giáo viên chưa thành thạo với việc dạy các Việc trong mỗi tiết. Giáo viên phải nghiên cứu sách giáo khoa, đọc kĩ thiết kế, xem băng đĩa thật kĩ trước các mẫu bài rồi mới xâm nhập được bài dạy tốt. ̣ ̣ Day hoc theo phương phap m ́ ơi co nh ́ ́ ưng kho khăn nhât đinh, giao viên m ̃ ́ ́ ̣ ́ ới ́ ̣ ̀ ỡ ngỡ đoi hoi giao viên phai th tiêp cân nên con nhiêu b ̀ ̀ ̉ ́ ̉ ực sự tim toi, chuân bi chu ̀ ̀ ̉ ̣ ̉ ̣ ̣ ̣ ̣ ̀ ưng bai hoc, nhăm thu hut s đao, chu đông vân dung linh hoat vao t ́ ̀ ̀ ̣ ̀ ́ ự tham gia tich ́ cực cua tât ca cac em hoc sinh. ̉ ́ ̉ ́ ̣ ̉ ́ ̀ ơi gian đâu t Giao viên phai co nhiêu th ́ ̀ ̀ ư vao tiêt hoc sao cho phu h ̀ ́ ̣ ̀ ợp với đôí tượng hoc sinh. ̣ Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn những em thể chất yếu, bé nhỏ hơn so với bạn bình thường kèm theo đó là sự phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến. 5
- Bên cạnh đó học sinh trên địa bàn lại thuộc vùng khó khăn . Học sinh khối 1 trong trường có tới 17 em sống với ông bà già yếu nên rất khó khăn trong việc phối kết hợp cùng giáo viên rèn đọc cho con cháu, một số ông bà thì lại hướng dẫn sai cách phát âm, cách đánh vần nên các em loay hay giữa hai cách đọc khác nhau của cô và gia đình. Giảng dạy Tiếng Việt Công nghệ giáo dục cho học sinh Tiêu hoc nh ̉ ̣ ư thế nào cho phù hợp và đạt mục tiêu giáo dục? Như lời Giáo sư Hồ Ngọc Đại: “Học trò là trung tâm chứ không phải thầy giáo; học là chơi chứ không phải quá trình vật lộn đau khổ...và tinh thần của CGD là giải phóng trẻ em, lấy hạnh phúc là sự phát triển tự nhiên của trẻ em, là mục tiêu...Mỗi em là một người duy nhất trong xã hội, các em phải khác nhau, khác bố mẹ và thầy cô. CGD tôn trọng suy nghĩ tự do và cá tính khác biệt”. Cũng chính từ thông điệp này, qua quá trình giảng dạy tiếng Việt 1 CGD cho học sinh Tiểu học, tôi đã nghiên cứu, thực hiện và rút ra một số giải pháp cơ bản giúp giáo viên phần nào thực hiện có hiệu quả việc đổi mới nhăm giup hoc sinh có kĩ năng đ ̀ ́ ̣ ọc tốt. 2.2. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 rèn kĩ năng đọc tốt. 2.2.1. Kiểm tra kiến thức từng học sinh để phân loại. Mục đích: Nắm bắt được năng lực học sinh từ đó phân nhóm theo năng lực để có kế hoạch phù hợp, chủ động đúng đắn với từng đối tượng học sinh. Biện pháp thực hiện: Bước vào những ngày đầu năm học, tôi luôn quan tâm việc đọc và nhận biết qua mỗi âm trong bảng chữ cái để có biện pháp giúp đỡ cho từng em. Trong mỗi buổi học tôi luôn tranh thủ thời gian đầu giờ, giữa giờ, cuối giờ, để kiểm tra đọc một số em nhằm nắm được cách phát âm và sửa chữa kịp thời những học sinh phát âm chưa đúng. Tôi thường xuyên trả bài trong tiết học để nắm được việc tiếp thu bài và nắm âm chữ, cách phát âm của từng em. Một trong những lí do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ chưa ý thức tự giác cố gắng học tốt. Vì vậy giáo viên cần nắm rõ đặc điểm của từng học sinh, 6
- khả năng tiếp thu của từng em nhằm phát huy tính tích cực của từng em. Cần tổ chức tiết học sao cho nhẹ nhàng, tươi vui để các em thích học. 2.2.2. Tác động giáo dục. Mục đích: Phối kết hợp tốt hơn với gia đình, nhà trường nhằm tăng cường lực lượng giúp đỡ học sinh luyện đọc cũng như giáo dục các em một cách toàn diện ở mọi lúc, mọi nơi. Biện pháp thực hiện: Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp cha mẹ học sinh đầu năm học: Đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học. Yêu cầu gia đình thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, cách phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng …để cha mẹ nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà. Quán triệt với phụ huynh không được hướng dẫn cho con em đọc bài trước ở nhà vì cách đánh vần mới khác hẳn cách đánh vần cũ. Yêu cầu gia đình xây dựng góc học tập ở nhà cho học sinh và quản lí giờ học giờ chơi của các em. Hướng dẫn cha mẹ học sinh kiểm tra việc đọc của các em không theo thứ tự để tránh học sinh đọc vẹt dẫn đến không nhận biết mặt chữ. Thường xuyên trao đổi với gia đình có con em đọc chậm để cùng phối hợp với giáo viên giúp các em tiến bộ. Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình vật thật để tiết dạy vui, sinh động. Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm. Giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức. 7
- Đối với các học sinh chưa nhận diện được mặt chữ cái giáo viên nên dành nhiều thời gian để giúp đỡ các em và giúp các em bắt đầu học lại những nét cơ bản. 2.2.3. Tạo môi trường giao tiếp cho các em thông qua các hoạt động học tập phát triển vốn từ. Mục đích: Bước đầu giúp các em làm quen với môi trường mới, cách học cũng như mọi nề nế sinh hoạt, học tập. Các em được chuẩn bị các kĩ năng cần thiết cho việc học. Biện pháp thực hiện: Các em vứa chuyển từ môi trường Mầm non vào lớp 1 là hết sức bỡ ngỡ, rụt rè chưa mạnh dạn, đặc biệt là các em sống ở vùng nông thôn. Thông qua việc học tuần 0 sẽ giúp các em làm quen với thầy cô cũng như các bạn trong lớp. Từ đó phát triển vốn từ và khả năng giao tiếp một cách tự nhiên giúp các em tự tin hơn khi giao tiếp cũng như khi nhận và hoàn thành nhiệm vụ. Ở tuần 0 giáo viên cần các em làm quen với các đồ dùng học tập, các kí hiệu, tư thế viết bảng con, cách cầm viết, xoá bảng, sách giáo khoa, bút chì... Tuần 0 thực sự có ý nghĩa trong việc giúp học sinh làm quen với những quy ước và thao tác căn bản ban đầu, giúp quá trình học của học sinh diễn ra một cách thuận lợi và hiệu quả. 2.2.4. Chuẩn bị cho việc đọc. Mục đích: Tạo cho các em một tâm thế sẵn sàng học, sẵn sàng hợp tác và có thói quen, kĩ năng đúng theo yêu cầu đặc thù môn học. Biện pháp thực hiện: Để rèn cho học sinh thói quen đọc được tốt, tôi luôn chú ý và hướng dẫn học sinh đến việc đọc như sau: Tư thế cầm sách, cách đứng đọc, ngồi đọc. Khi đọc phải to rõ ràng, đủ cho cả lớp nghe, phát âm chính xác. Khen ngợi kịp thời em đọc tốt, em đọc tiến bộ, em hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài. 8
- Thường xuyên gọi em đọc chậm còn quên âm, vần lên bảng, đứng tại chỗ đọc. Giáo viên theo dõi chỉnh sửa khi học sinh đọc sai. Cho các em phát hiện chữ khó đọc và hướng dẫn học sinh luyện đọc nhiều lần những tiếng khó đọc theo hình thức: cá nhân, nhóm đôi, nhóm bốn, tổ, lớp... Hướng dẫ học sinh đọc: quan sát cách đọc của học sinh những chỗ học sinh đọc sai sau đó sửa phát âm cho các em. Hướng dẫn các em đọc không bỏ hoặc thêm tiếng, dấu thanh...đọc theo kí hiệu của giáo viên sau đó bỏ dần để học sinh quen với cách đọc. 2.2.5 Biện pháp dạy đọc mẫu của giáo viên. Mục đích: Giúp học sinh nghe phát âm về âm, vần đúng, chuẩn để bắt chước theo và từ đó các em biết cách đọc đúng, phát âm rõ ràng. Biện pháp thực hiện: Việc đọc mẫu của giáo viên giữ một vai trò quan trọng. Người thầy đầu tiên đặt nền móng, trang bị cho học sinh về chuẩn ngôn ngữ của lời nói, nhất là khi dạy đọc âm, vần lớp một. Giáo viên luyện đọc phát âm đúng cho học sinh, học sinh sẽ bắt chước rất nhanh khi đọc âm, vần, tiếng, từ mới. Vì thế giáo viên sửa phát âm phần âm, vần, tiếng thì không mấy khó. Khi đọc câu, để đọc đúng và hay, giáo viên phải có lòng ham muốn đọc hay và tự biết điều chỉnh đọc đúng và hay hơn. Để tránh bị phát âm lẫn giọng địa phương thì trước khi dạy đọc cho học sinh tôi cần chuẩn bị cho mình một giọng đọc phù hợp với nội dung bài nhằm sau khi đọc mẫu học sinh sẽ đọc đúng và hay. Với bài đọc có lời đối thoại cần phân biệt giọng đọc từng vai và cho các em luyện đọc lại. Với các em lớp 1 chưa yêu cầu cao về điều này nhưng cần tạo dựng từ đầu làm cơ sở về sau. Đối với chương trình tiếng Việt Công nghệ Giáo dục thì người giáo viên cần lưu ý khi đọc mẫu: Giáo viên chỉ nên đọc mẫu âm mới, vần mới còn với các 9
- tiếng mới có chứa âm, vần đang học thì khi cho học sinh đọc ở bảng (việc 1 và cả đọc tiếng khó ở việc 3) tuyệt đối không nên đọc mẫu. Những tiếng nào học sinh không đọc được thì che dấu thanh để học sinh đọc tiếng thanh ngang. Nếu tiếng thanh ngang đó học sinh không đọc được lúc đó giáo viên mới giúp học sinh nhận ra âm đầu, vần của tiếng đó để đọc được tiếng có thanh ngang rồi sau đó đọc tiếng có thanh khác. Ví dụ: Tuần 12: Vần: /am/, /ap/. Giáo viên chỉ đọc mẫu: /am/ rồi cho học sinh đọc. Khi các em đưa tiếng /lam/ vào mô hình rồi thay thanh và thay âm đầu để có tiếng mới. Học sinh đọc tiếng mới giáo viên viết bảng: làm, lám, lảm, lãm, lạm. bam, cam, cham, đam, ham... Giáo viên không đọc mẫu mà cho học sinh đọc cá nhân, đọc kết hợp phân tích tiếng, đọc nhóm, tổ, cả lớp. 2.2.6. Các thủ thuật ghi nhớ các âm, vần trong Tiếng Việt 1 Công nghệ Giáo dục. Mục đích: Giúp học sinh nắm vững cách đọc, biết đọc, dễ ghi nhớ các âm, vần từ đó vận dụng vào đọc tiếng, từ, câu, bài văn ngắn một cách nhanh nhất, tốt nhất. Biện pháp thực hiện: a. Về âm Giáo viên phải phát âm chuẩn để học sinh phát âm theo. Giáo viên chỉ phát âm một lần nhưng cần rõ ràng và chính xác. Nhưng đối với các em còn chậm giáo viên cần quan tâm chú trọng đến các em nhiều hơn. Nếu các em phát âm còn sai âm mới giáo viên cần phát âm lại 23 lần để giúp các em sửa chữa và nắm được, nắm chắc các âm đó. Cần nắm được đó là nguyên âm hay phụ âm ( thông qua việc phát âm dựa vào luồng hơi đi ra bị cản hay luồng hơi đi ra tự do) để đưa vào mô hình 10
- phân tích tiếng cho đúng tránh nhầm lẫn khi đưa vào mô hình ( phần đầu là phụ âm, phần vần bao giờ cũng là nguyên âm). Ví dụ: ng a Phụ âm nguyên âm Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Các em có nắm chắc từng chữ cái thì mới có thể ghép các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu. Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in khác nhau hay gặp trong sách báo như chữ a, chữ g thi tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết, ghi nhớ từng con chữ. Vào các buổi chiều, tôi cho học sinh sử dụng Bộ chữ in thường để tổ chức trò chơi “Ong tìm chữ”. Như vậy qua luyện tập củng cố hằng ngày học sinh ghi nhớ rất tốt các âm đã học, đọc tốt. Do vậy sau khi học xong phần âm cần giúp các em nắm chắc 38 âm vị của tiếng Việt. Học sinh cần ghi nhớ kĩ: Có 14 nguyên âm ghi bằng 20 chữ cái. Có 23 phụ âm ghi bằng 27 chữ cái. Biết ghép phụ âm đầu với nguyên âm tạo thành tiếng có thanh ngang, thay thanh ngang ở tiếng vừa tìm được để tạo thành các tiếng khác và đọc được các tiếng đó. Biết phân tích tiếng thanh ngang thành 2 phần : phần đầu và phần vần, phân tích tiếng có dấu thanh thành tiếng thanh ngang và dấu thanh (cơ chê tach ́ ́ đôi). Với mỗi bài học sinh đọc trôi chảy từ mô hình tiếng đến âm, tiếng từ, câu trong bài. 11
- Để đọc trên bảng tôi linh động chọn âm, tiếng luyện tùy vào đối tượng trong lớp mình. Yêu cầu học sinh đọc từ dễ đến khó, từ tiếng có thanh ngang đến các tiếng có dấu thanh. Ví dụ: đe,đè, đé, đẻ, đẽ, đẹ, rồi đến: bè, dẻ , chè. Trong các tiết dạy tôi đã sử dụng nhiều hình thức đọc: cá nhân, nhóm, tổ, cả lớp, các mức độ đọc: ( to nhỏ nhẩm thầm). Sau khi đưa chữ in thường giới thiệu, mô phỏng nét cho học sinh tôi chỉ vào chữ in thường cho các em đọc để các em nhận diện và nhớ rõ mặt chữ (đọc cá nhân, nhóm, tổ, lớp). Ví dụ: Việc 2a khi dạy âm /x/: Giáo viên đưa chữ /x/ in thường ra gắn lên bảng và nói: Đây là chữ x in thường. Gồm nét xiên phải và một nét xiên trái cắt chéo lên nhau.. Giáo viên chỉ vào chữ x để học sinh đọc: x in thường (cá nhân, nhóm, tổ, lớp…) Khi dạy xong phần giới thiệu chữ in thường tôi dùng chữ in thường đó gắn ngay một góc bảng. Mỗi ngày, trên tấm bìa được gắn thêm một chữ ghi âm mới. Cứ như vậy, vào 10 phút đầu giờ, ban học tập sẽ cho cả lớp ôn luyện đọc các âm giáo viên đã gắn lên bảng. Với cách đó giúp học sinh ghi nhớ mặt chữ và đọc tốt hơn. Ở Mẫu Âm, bài nào cũng vậy tôi đều luyện tập rất kĩ bước tìm tiếng mới (thay âm và thêm thanh để tìm tiếng mới). Mục đích của bước tìm tiếng mới là giúp học sinh có thêm vốn tiếng có chứa âm vừa học. Qua đó giúp các em đọc tốt hơn ở việc 3. Đối với bài dạy là phụ âm, bước tìm tiếng mới là thay âm chính bằng các nguyên âm đã học để có tiếng mới. Đối với bài dạy là nguyên âm, bước tìm tiếng mới là thay âm đầu bằng các phụ âm đã học để có tiếng mới. Ví dụ: Dạy âm /o/ Khi học sinh đưa được tiếng /nho/ vào mô hình thì cần yêu cầu học sinh chỉ vào mô hình đọc: /nho/ /nhờ/ /o/ /nho/, phần đầu /nhờ/, phần vần /o/. 12
- Cách đọc như thế giúp học sinh khắc sâu âm vừa học, vị trí mỗi âm trong mô hình tiếng tách thành hai phần. Giáo viên lệnh: “Thay âm đầu bằng các phụ âm đã học để có tiếng mới.” Học sinh nối tiếp đọc các tiếng các em thay, giáo viên viết lên bảng ở Việc 1 (bo, co, cho, do, đo,…), rồi chỉ cho các em đọc các tiếng mình vừa ghi lên bảng (cá nhân, nhóm, lớp). b. Về vần Để học tốt phần vần thì cần nắm chắc các âm đã học. Ví dụ: Học vần: /ân/ học sinh cần biết: vần /ân/ gồm hai âm ghép lại, âm chính /â/, âm cuối /n/. Phải nắm chắc việc phân tích tiếng, vị trí các âm trong mô hình. Ví dụ: /lân/ → / lờ/ /ân/ /lân/. Nắm chắc các mẫu vần đã học để khi đua tiếng vào mô hình không bị sai. Sang giai đoạn học vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm quen với các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng. Để giúp trẻ học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen: nhận diện, phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững. Đồng thời các em cần nắm vững 4 mẫu vần: Mẫu 1: Vần chỉ có âm chính: ba Mẫu 2: Vần có ân đệm và âm chính: oa Mẫu 3: Vần có âm chính và âm cuối: an Mẫu 4: Vần có đủ âm đệm – âm chính – âm cuối: oan VD: Mẫu 2: Vần có ân đệm và âm chính: oa Bài: Vần /oe / học sinh cần nhận diện rõ vần /oe/ có âm đệm /o/ đứng trước, âm chính /e/ đứng sau. 13
- c. Nắm chắc cơ chế đánh vần Các em còn nhầm lẫn với cách đánh vần cũ do nghe người thân trong gia đình đọc. Vì vậy giáo viên cần giúp các em nắm chắc cơ chế đánh vần với các bước: Bước 1: Tạm thời tách thanh ra để lại tiếng thanh ngang. Bước 2: Đọc tiếng thanh ngang. Bước 3: Trả lại thanh. Đọc trơn chữ ghi tiếng thanh ngang là cơ sở để đọc trơn chữ có các thanh. Nếu em nào quá chậm giáo viên hướng dẫn các em phân tích trên chữ quen gọi là đánh vần. Đánh vần theo cơ chế lưỡng phân (phân hai, tách hai, chia đôi). Ví dụ: 1. toán → /toan/ /sắc/ /toán/. 2. toan → /tờ//oan/ /toan/ . 3. oan → /o/an/ /oan/ . 4. an → /a/ //n/ /an/. Như vậy hướng dẫn học sinh đọc các tiếng mà các em còn quên theo cơ chế tách đôi: Tạm thời “bỏ” thanh ra (che đi) đọc trơn tiếng thanh ngang. Trả lại thanh – đọc tiếng có thanh (nhìn chữ thanh ngang rồi “ lắp” thanh vào) Đọc cả 4 mức độ: To nhỏ nhẩm thầm (đọc thầm đọc bằng mắt) vì đọc cả 4 mức độ là quá trình chuyển từ ngoài vào trong giúp học sinh dễ dàng ghi nhớ nên giáo viên cần huấn luyện ngay từ đầu và làm quyết liệt. Mỗi khi học sinh đọc phân tích cần quản lý việc học của học sinh (Bằng miệng và bằng tay) giúp học sinh nhận biết từng phần của tiếng có thanh ngang và tiếng có thêm thanh. Ví dụ: Tiếng /cá/ các em không đọc được thì cho các em đánh vần ra: /cá/ → /ca/ /sắc/ /cá/. Nếu không đọc được nữa cho các em phân tích tiếng /ca/ → /cờ/ /a/ /ca/. Không đọc được nữa thì gợi mở cho các em nhớ lại các nét cơ bản cấu tạo nên /c/ và /a/. Nắm được cơ chế đó các em sẽ đọc được dù bất kể tiếng nào. 14
- 2.2.7. Xây dựng mối đoàn kết giữa học sinh với nhau. Mục đích: Giúp học sinh biết yêu thương, đoàn kết giúp đỡ nhau trong học tập và hoạt động đồng thời tạo động lực thi đua trong học tập. Biện pháp thực hiện: Giáo dục học sinh mối quan hệ mật thiết với nhau. Quan tâm giúp đỡ nhau trong học tập nhất là những em tiếp thu chậm, con gia đình nghèo, các em sống với ông bà. Xây dựng đôi bạn cùng tiến: Giáo viên cho học sinh học chậm, đọc chậm ngồi gần với một học sinh đọc tốt. Bạn đọc tốt sẽ giúp bạn chậm khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh vần, đọc tiếng và giúp bạn trong thao tác vẽ mô hình, thay dấu thanh, tìm tiếng mới. Thời gian 10 phút đầu giờ luân phiên những học sinh có kĩ năng đọc tốt đọc cho cả lớp cùng ôn luyện bài. Sau đó lần lượt luân phiên các em trong lớp đọc bài, nếu bạn nào quên hoặc đọc sai thì bạn đọc tốt sẽ có nhiệm vụ phát hiện lỗi sai và giúp bạn đọc đúng. Khuyến khích những bạn đọc tốt nếu giúp được bạn đọc chậm tiến bộ sẽ nhận được phần thưởng. Chính việc làm này tạo sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau và có thói quen học tập tốt, xây dựng tốt nề nếp học tập. Ở nhà, tôi động viên các em trong cùng một xóm giúp đỡ lẫn nhau, cùng học, cùng chơi, cùng chia sẽ khó khăn trong học tập. 2.2.8. Xây dựng bầu không khí lớp học thân thiện, tạo hứng thú học tập. Mục đích:Tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Học sinh cảm nhận được sự thoải mái khi việc học của mình vừa gắn với kiến thức trong sách vở, vừa thông qua sự trải nghiệm của chính bản thân trong các hoạt động tập thể. Biện pháp thực hiện: 15
- Để học sinh tự tin hơn khi đọc và trình bày ý kiến của mình thì rất cần một môi trường học tập thân thiện. Đó là: Xây dựng bầu không khí học tập thân thiện. Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn. Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh ở mỗi địa phương, giúp các em tự tin trong học tập. Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Tổ chức các hoạt động tập thể, vui tươi, lành mạnh. Đại đa số học sinh tiểu học, các em rất ngại tiếp xúc với thầy cô. Vậy làm thế nào để các em mạnh dạn hơn thì giáo viên phải gần gũi, thân tình để các em dễ hoà đồng vào môi trường tập thể. Nếu các em nhận ra ở thầy cô một sự bảo bọc che chở, nhất là sự quan tâm, cảm thông thực sự, các em sẽ dần dần quấn quýt, tin cậy gần như tuyệt đối và thầy cô như là thần tượng của các em. Để làm được điều này thì cách nói, âm vực lời nói là vô cùng quan trọng. Có nghĩa là giáo viên chỉ phát âm vừa đủ nghe, tránh quát tháo, lớn tiếng dễ gây tâm lý sợ học, sợ thầy cô cho học sinh. Giáo viên phải biết điều chỉnh, tạo không khí hào hứng trong lớp học song vẫn giữ được tính kỉ luật, trật tự. Cho phép các em trao đổi ý kiến, nhờ bạn bên cạnh trợ giúp nhưng giáo viên phải nhắc nhở những học sinh mải chơi, nói chuyện riêng không chú ý luyện đọc. 2.2.9. Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức phát huy tính tích cực. Mục đích: Nhằm giúp học sinh hứng thú học tập, tạo một bầu không khí học tập vui chơi hết sức bổ ích để các em thể hiện hết, phát huy hết năng lực sẵn có của mình tránh rụt rè, thụ động, làm theo một cách máy móc. Biện pháp thực hiện: a. Phương pháp tổ chức trò chơi. Để cho các em ghi nhớ và khắc sâu kiến thức đã học, người giáo viên không chỉ nắm vững quy trình 4 việc trong sách thiết kế mà còn phải làm cho 16
- lớp học sôi nổi, học sinh thoải mái trong học tập. Chính vì điề đó giáo viên phải tạo ra những trò chơi học tập để làm cho không khí sôi nổi, tích cực đồng thời củng cố kĩ năng. Ví dụ: Khi dạy bài vần /ât/ tuần 12, giáo viên có thể sử dụng trò chơi “ Bắn tên” để cho học sinh tìm tiếng mới, mà lại giúp các em hứng thú học tập hơn. Luôn chú ý đến các em chưa mạnh dạn, tạo điề kiện để các em lần lượt được điều khiển trò chơi. Khi tổ chức trò chơi, giáo viên cần lưu ý: Lựa chọn trò chơi vừa sức với học sinh. Các em học nhưng phải vui, khi vui thích thì việc học tập sẽ là tự nguyện, không bị gò ép, thúc bách. Giáo viên cần lưu ý cần lựa chọn các trò chơi làm cho học sinh tự khám ra nội dung bài học một cách chủ động, thích thú và ghi nhớ được kiến thức một cách tự nhiên và sâu sắc. Trò chơi có chứa đựng nội dung và có quy chế nhất định mà học sinh phải tuân thủ. Trò chơi vừa mang tính chất vui chơi giải trí song đồng thời lại có ý nghĩa giáo dục. Dạy học bằng phương pháp tổ chức trò chơi là đưa học sinh đến với các hoạt động vui chơi giải trí nhưng có nội dung gắn liền với bài học. Trò chơi trong học tập có tác dụng giúp học sinh hăng say học tránh làm cho tiết học nặng nề nhàm chán, tăng cường khả năng thực hành kiến thức của bài học, phát huy hứng thú, tạo thói quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo của học sinh, lôi cuốn các em vào những hoạt động học tập Tổ chức vào thời điểm thích hợp. Trong thực tế dạy học, giáo viên thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để giới thiệu bài hay hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới. Do đó giáo viên nên linh hoạt tổ chức ở những thời điểm khác nhau nhằm tạo sự bất ngờ và giảm căng thẳng của giờ học. Lôi cuốn tất cả học sinh của lớp cùng tham gia. Trò chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn học sinh nên duy trì tốt hơn sự chú 17
- ý của các em với bài học. Trò chơi làm thay đổi hình thức học tập chỉ bằng hoạt động trí tuệ, do đó giảm tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là các giờ học kiến thức mới. Trò chơi có nhiều học sinh tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kỹ năng học tập hợp tác cho học sinh, tăng cường khả năng giao tiếp và giúp các em rèn kỹ năng hợp tác. Một số trò chơi có thể áp dụng như: đọc nhanh – đọc đúng; chỉ nhanh – chỉ đúng; đi chợ (lưu ý chợ chỉ bán nhứng đồ vật có chứa âm hoặc vần đang học) Ví dụ: trò chơi: Đọc nhanh – đọc đúng Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen: giỏi quá, giỏi quá. Tôi thường chọn những em đọc còn chậm đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng. Khi tổ chức trò chơi, giáo viên cần đánh giá cao phần tham gia của các đội, không làm qua loa đại khái, có khen thưởng, tuyên dương kịp thời cũng là một biện pháp làm cho học sinh thêm tích cực vì em nào cũng thích được khen, được thầy cô quan tâm đến việc làm của mình. Bên cạnh đó cần động viên những đội còn lại để các em cố gắng hơn ở lần sau. Sau mỗi lần chơi giáo viên cần nhận xét đánh giá kết quả của học sinh. Dựa vào yêu cầu, nội quy chơi, kết quả cuộc chơi giáo viên đánh gía cuộc chơi và phân loại thắng thua thật công bằng, rõ ràng. Giáo viên phải hết sức lưu ý vấn đề này vì đôi khi có giáo viên nêu yêu cầu và luật chơi rất khắt khe nhưng khi đánh giá kết quả lại đại khái, không chính xác hoặc không công bằng vì vậy sẽ làm cho học sinh mất phấn khởi, đôi khi các em biểu lộ sự phản đối với sự đánh giá đó và không chấp nhận kết luận của giáo viên. Để đánh giá đúng thực chất của cuộc chơi, giáo viên phải thống kê ra được những ưu điểm, nhược điểm của từng bạn tham gia chơi. Tuy nhiên vẫn cần sự đánh giá nhẹ nhàng mang tính chất động viên, khích lệ là chính, 18
- tránh tình trạng đánh giá để các em buồn và xấu hổ với bạn bè khi không thắng trò chơi. b. Phương pháp nhận xét nêu gương. Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với các em học chậm để giúp các em cố gắng hơn cho kịp bằng bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn học tốt trong lớp. Ví dụ: Bạn Bảo, bạn Trọng học giỏi vì bạn ấy rất chăm chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc để ngày càng học tốt hơn. Các bạn luôn thi đua với nhau xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em sẽ học giỏi như các bạn ấy nếu cố gắng đọc nhiều như các bạn. Đọc chưa thông, đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm, nhẩm xong đọc to lên và cứ thế mà đọc mãi, đọc đi, đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được ngay mới thôi. Tôi đã cùng đọc với các em còn chậm nhằm giúp đỡ khả năng đọc bài cũng như giúp các em phân tích tiếng, cách đọc sao cho nhanh như: nhẩm âm đầu → nhẩm vần → ghép âm đầu với vần → ghép dấu thanh thành tiếng… 2.2.10. Tăng cường nhận xét, đánh giá học sinh. Mục đích: Nhận biết được điểm mạnh, điểm yếu của học sinh để có biện pháp cải thiện, hoàn thiện phương thức dạy và học để phát triển năng lực của học sinh. Biện pháp thực hiện: Việc đánh giá quá trình và kết quả học tập của học sinh là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Nó không đơn thuần là thực hiện một quy định bắt buộc để giáo viên ghi nhận vào Sổ tay cá nhân mà dựa vào đó giúp giáo viên nắm được năng lực, khả năng phối hợp của từng học sinh, từ đó có kế hoạch tổ chức dạy học phù hợp và hiệu quả. Mặt khác cần theo dõi, đánh giá học sinh trong suốt quá trình học tập. Giáo viên cần quan sát thái độ học tập, đánh giá sự tiến bộ của các em. Do đó việc nhận xét không nên 19
- qua loa, đại khái mà lời nhận xét cần ngắn gọn, dễ hiều mang tính đọng viên , khích lệ cao. Khi thực hiện việc đánh giá, giáo viên cần nêu rõ những mặt được và chưa được để học sinh nắm và thực hiện tốt hơn. Bên cạnh việc tuyên dương những học sinh tích cực, chăm chỉ, đọc tốt giáo viên cũng cần nghiêm khắc nhắc nhở những học sinh chưa tập trung, lơ là, hay nói chuyện, làm việc riêng…để các em có trách nhiệm và ý thức hơn. Có 4 mức độ đánh giá đối với quá trình chiếm lĩnh đối tượng của học sinh: Mức 1: Làm được. Mức 2: Làm đúng. Mức 3: Làm đẹp. Mức 4: Làm nhanh. Mức 1, 2 là yêu cầu cơ bản, tối thiểu cần đạt 100% học sinh. Mức 3, 4 thể hiện sự phân hoá học sinh rõ nét trong quá trình dạy học. Hiện tại việc đánh giá môn học được thực hiện theo thông tư 22, do đó đánh giá cần thường xuyên đúng thực chất, công bằng và khách quan. Nếu giáo viên chỉ dựa trên cơ sở là bài kiểm tra cuối kì, cuối năm của các em là chưa đủ, chưa chính xác, mà phải dựa trên nhiều yếu tố như: kĩ năng đọc, tham gia các hoạt động ở lớp, …Chính vì vậy, giáo viên cần coi trọng khâu đánh giá toàn diện và xuyên suốt quá trình học tập. Kết quả sau áp dụng các giải pháp: Qua việc học tập theo chương trình Tiếng Việt 1 – CGD giúp cho học sinh có được sự tự tin, chững chạc khi nắm bắt kiến thức mới. Các em làm chủ được tiết học và hoạt động hết sức sôi nổi, biết thi đua đọc đọc đúng, đọc nhanh, đọc hay đặc biệt khi tìm tiếng mới các em thật sự hứng thú và thể hiện rõ năng lực cá nhân của mình không còn thụ động lắng nghe như khi học 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 439 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 220 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài tập tìm hình ảnh so sánh trong phân môn luyện từ và câu lớp 3
27 p | 169 | 24
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 189 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 175 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 123 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 168 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp giáo viên lớp 1 dạy tốt Hoạt động trải nghiệm theo chủ đề ở trường Tiểu học Thanh Liệt
39 p | 24 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 164 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 102 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 129 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 147 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp huấn luyện chạy cự ly ngắn cho học sinh
14 p | 96 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục tại Trường Tiểu học Ngọc Lâm đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông
9 p | 60 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh trường Tiểu học Cổ Đô
40 p | 14 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn