intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm tăng cường kỹ năng sống cho học sinh trường Tiểu học Ea Bông thông qua các hoạt động Đội

Chia sẻ: Dung Hoang | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:26

64
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm với mục tiêu đào tạo con người mới, có đầy đủ kiến thức kỹ năng cho công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước hiện nay. Ngành giáo dục đặc biệt là bậc tiểu học đã đang có những thay đổi về phương pháp giảng dạy giúp học sinh chủ động, sáng tạo trong việc lĩnh hội kiến thức. Do vậy mục tiêu của đề tài này là trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, kỹ năng đúng mực, với cuộc sống thông qua việc tham gia các hoạt động giáo dục kỹ năng sống tại Liên đội. Qua đây hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực, loại bỏ dần dần những thói quen, hành vi tiêu cực, chưa phù hợp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm tăng cường kỹ năng sống cho học sinh trường Tiểu học Ea Bông thông qua các hoạt động Đội

  1. Mục lục Số thứ  tự Nội dung Trang Phần thứ nhất : Mở đầu 1 I Đặt vấn đề 1 – 2 II Mục đích nghiên cứu 2 – 3 Phần thứ hai : Giải quyết vấn đề 3 I Cơ sở lý luận của vấn đề 3 – 5 II Thực trạng 5 – 8 III Các giải pháp 9 – 18 IV Tính mới của giải pháp 19 V Hiệu quả của sáng kiến 19 – 20 Phần thứ ba : Kết luận, kiến nghị 20 I  Kết luận 20 – 21 II Kiến nghị 21 – 22 Tài liệu tham khảo 23 Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề Lịch sử giáo dục nước ta cho thấy, trong điều kiện đất nước còn chiến  tranh, nền kinh tế  còn yếu kém nhưng nền giáo dục Việt Nam đã đào tạo  những thế hệ người Việt Nam anh dũng, mưu trí trong đấu tranh; cần cù, sáng  tạo trong lao động đã góp phần giải phóng miền Nam thống nhất đất nước,  đưa   nước ta từ  một nước nghèo, kém phát triển trở  thành nước đang phát  triển, hội nhập với thế giới. 1
  2. Mục tiêu giáo dục và đào tạo của chúng ta hiện nay là đào tạo con  người mới Xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu này luôn thống nhất với mục tiêu giáo   dục của nhà trường phổ  thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về  đạo  đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản. Nhằm hình thành nhân  cách  con  người   Việt   Nam  trong  thời   đại  mới,  xây  dựng  tư   cách  và   trách  nhiệm công dân, chuẩn bị  cho học sinh tiếp tục học lên và đi vào cuộc sống   lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu. Để đạt được những mục tiêu trên, chúng ta phải giáo dục cho học sinh   trong một môi trường đồng bộ nghĩa là phải có sự phối kết hợp giữa các lực  lượng giáo dục trong xã hội, trong đó Nhà trường giữ vai trò chủ đạo.Với bậc   Tiểu học, người giáo viên chủ  nhiệm có vai trò vô cùng quan trọng đối với  học sinh.Người giáo viên chủ  nhiệm lớp đóng rất nhều vai trò: vừa là thầy  dạy học vừa là người cha, người mẹ  và cũng có lúc phải là người bạn tốt   nhất của các em. Từ  đó có thể  uốn nắn các em đi theo quỹ  đạo của mình..  Giáo viên chủ nhiệm lớp thực hiện nhiệm vụ quản lí lớp học và là nhân vật  chủ chốt, là linh hồn của lớp, người tập hợp, dìu dắt giáo dục học sinh phấn   đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, bạn tốt, công dân tốt và xây dựng một tập   thể học sinh vững mạnh. Bên cạnh những giờ  dạy trên lớp, giáo viên chủ  nhiệm phải biết phối   hợp với giáo viên bộ  môn và hoạt động các tổ  chức đoàn thể  góp phần giáo  dục kỹ  năng sống cho học sinh thông qua hoạt động giao lưu, tham quan về  nguồn; thông qua những bài học lịch sử, những buổi đi thực tế  thăm các di   tích lịch sử, văn hoá của địa phương. giáo viên giúp học sinh hiểu và thấm  nhuần những truyền thống qúy báu của dân tộc, tinh thần yêu nước, đấu tranh   bất khuất trong dựng nước và giữ  nước của ông cha, truyền thống nhân đạo  sâu sắc, tinh thần đoàn kết… Từ  đó, học sinh thấy được trách nhiệm của   mình với đất nước, gia đình, xã hội và bản thân, biết giữ  gìn và phát huy  những  truyền  thống  tốt   đẹp   của   dân  tộc,  hình   thành  cho   học  sinh   những   phương cách ứng xử nhân văn, nhân ái, phẩm chất đạo đức chuẩn mực trong  nhà trường. Khi tham gia vào bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào phục vụ cho cuộc  sống đều đòi hỏi chúng ta phải thỏa mãn những kỹ  năng tương  ứng. Rèn  luyện kỹ năng sống cho học sinh là nhằm giúp các em rèn luyện kỹ năng ứng  xử thân thiện trong mọi tình huống; thói quen và kỹ năng làm việc theo nhóm,  kỹ  năng hoạt động xã hội; Giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức   khỏe, ý thức tự bảo vệ bản thân, phòng ngừa tai nạn giao thông, đuối nước và   các tệ  nạn xã hội. Đối với HS tiểu học việc hình thành các kỹ  năng cơ  bản  trong học tập và sinh hoạt là vô cùng quan trọng,  ảnh hưởng đến quá trình   hình thành và phát triển nhân cách sau này. 2
  3. Chính vì nhận thức rõ vị  trí và tầm quan trọng của“ Rèn luyện kỹ năng  sống cho học sinh”bản thân tôi, một giáo viên được nhà trường phân cônglàm  Tổng phụ trách Đội nhiều năm liền nên tôi mạnh dạn đưa ra đề tài“Một số   kinh nghiệmtăng cường kỹ  năng sống cho học sinh trường Tiểu học Ea   Bông thông qua các hoạt động Đội”làm đề  tài Sáng kiến kinh nghiệm để  chia sẻ cùng tất cả quý thầy cô giáo đồng nghiệp.  Tăng cường kỹ  năng sống cho học sinh tiểu học thông qua các hoạt  động của tổ chức Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh. Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào hoạt động giáo dục nhằm  tăng cường kỹ  năng sống cho học sinh  ở  bậc Tiểu học thông qua các hoạt   động của tổ  chức đội. Cụ  thể  là tại Liên đội trường tiểu học Ea Bông  bản  thân tôi là giáo viên Tổng phụ trách Đội. II. Mục tiêunghiên cứu Với mục tiêu đào tạo con người mới, có đầy đủ kiến thức kỹ năng cho  công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước hiện nay. Ngành giáo dục  đặc biệt là bậc tiểu học đã đang có những thay đổi về  phương pháp giảng   dạy giúp học sinh chủ  động, sáng tạo trong việc lĩnh hội kiến thức. Do vậy  mục tiêu của đề  tài này là trang bị  cho học sinh những kiến thức, giá trị, kỹ  năng đúng mực, với cuộc sống thông qua việc tham gia các hoạt động giáo  dục kỹ  năng sống tại Liên đội. Qua đây hình thành cho học sinh những hành  vi, thói quen lành mạnh, tích cực, loại bỏ  dần dần những thói quen, hành vi   tiêu cực, chưa phù hợp. Đồng thời giúp học sinh có thể vận dụng thật tốt những kiến thức mà   mình đã được học vào cuộc sống, tăng tính thực tiễn cho các kiến thức của  các bộ môn đã được học trong chương trình chính khóa. Tạo điều kiện để  học sinh có thể  thực hiện đúng bổn phận của mình,  và phát triển một cách toàn diện nhất về thể chất cũng như về trí tuệ và tinh   thần, đạo đức của bản thân. Bắt đầu từ năm học 2008 – 2009 Bộ giáo dục và Đào tạo đã phát động  phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Trong  đó một nội dung rất quan trọng là rèn luyện kỹ  năng sống cho học sinh. Vì  vậy qua đề  tài này giúp trường xây dựng tốt phong phong trào thi đua “Xây   dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Trong phạm vi đề  tài này, bản thân tôi xin được chia sẻ  một vài kinh   nghiệm về tăng cường giáo dục kỹ năng sống nói chung, một số hình thức về  giáo dục kỹ năng sống đã thực hiện tại Liên đội trong những năm qua. 3
  4. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận của vấn đề 1.Những khái niệm có liên quan đến hoạt động giáo dục kỹ năng sống Hiện nay có rất nhiều khái niệm về  Kỹ  năng sống, nhưng để  đưa ra  một khái niệm chung nhất có lẽ  vẫn chưa có. Nhưng theo tôi chúng ta cần  hiểu về khái niệm kỹ năng và kỹ năng sống như sau: Kỹ năng  là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một   hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử  dụng để  giải quyết tình huống hay   công việc nào đó phát sinh trong cuộc sống. Kỹ  năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả  nhất, giúp giải quyết  hoặc đáp  ứng các nhu cầu cụ  thể, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển   của con người. Kỹ năng sống bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư  duy trong não bộ của con người. Kỹ năng sốngcó thể hình thành một cách tự  nhiên, thông qua giáo dục hoặc rèn luyện của con người. Các nhóm nhận biết về Kỹ năng sốngđược chia ra như sau: a.Theo UNICEF kỹ năng được chia làm 3 cụm chủ đề ­ Kỹ năng truyền thông và giao tiếp bao gồm; + Truyền thông giao tiếp cá nhân. + Kỹ năng thương lượng từ chối. + Kỹ năng lắng nghe và chia sẻ. + Kỹ năng hợp tác và làm việc theo nhóm. + Kỹ năng biện hộ. ­ Kỹ năng lấy quyết định và suy nghĩ có phán đoán bao gồm: + Kỹ năng lấy quyết đinh/ giải quyết vấn đề. + Kỹ năng tư duy có phán đoán ­ Kỹ năng ứng phó và làm chủ bản thân bao gồm: + Kỹ năng làm tăng sức mạnh nội lực để tự chủ. + Kỹ năng làm chủ cảm xúc. 4
  5. + Kỹ năng quản lý stress. b.Theo WHO: cũng được chia làm ba nhóm kỹ năng cơ bản ­ Kỹ  năng tư  duy: bao gồm ý thức về  bản thân, ý thức xã hội, xác lập   mục đích, giải quyết vấn đề, ra quyết định. ­ Kỹ năng xã hội: bao gồm việc đánh giá và công nhận giá trị của người   khác, kỹ năng làm việc với người khác và hiểu vai trò của họ, xây dựng mối   quan hệ  tích cực với gia đình và bạn bè, lắng nghe và truyền đạt cho hiệu  quả, nhận trách nhiệm và đối phó với stress. ­ Kỹ năng thương lượng: đây không chỉ là thương lượng với người khác  mà còn thương lượng với chính bản thân. c.Theo tổ chức Hội đồng kinh tế xã hội Châu Á Thái Bình Dương của Liên  Hợp Quốc lại phân loại kỹ năng sống thành  3 dạng ­ Kỹ năng sống để phát triển cá nhân. ­ Kỹ năng sống để tạo mối quan hệ với người khác. ­ Kỹ năng công nghệ. Tóm lại, tuy có khác nhau trong cách phân loại kỹ  năng sống nhưng  chung quy lại có 10 kỹ năng sống cơ bản sau: ­ Kỹ năng ra quyết định ­ Kỹ năng giải quyết vấn đề. ­ Kỹ năng tư duy sáng tạo. ­ Suy nghĩ có phán đoán. ­ Truyền thông có hiệu quả. ­ Kỹ năng giao tiếp. ­ Ý thức về bản thân. ­ Kỹ năng thấu cảm. ­ Kỹ năng ứng phó với cảm xúc. ­ Kỹ năng ứng phó với stress. 5
  6. 2.Các văn bản có liên quan đến công tác giáo dục kỹ  năng sống trong   trường Tiểu học  ­Công văn số 463/BGDĐT­GDTX của Bộ Giáo dục và đào tạo ngày 28   tháng 01 năm 2015   ­ Công văn số  4026/BGDĐT­GDCTHSSV  của Bộ Giáo dục và đào tạo  “Về  việc  tăng cường giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh” ngày 01 tháng 9  năm 2017.    ­ Chương trình bồi dưỡng thường xuyên bậc Tiểu học  Trong chương trình bồi dường thường xuyên dành cho giáo viên Tiểu   học có nhiều Modul dành cho giáo viên Tiểu học với các nội dung liên quan  đến công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học. Trong đó thể hiện  rõ nhất ví dụ ở các Modul như:  Modul TH 39: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học qua các môn  học;  Modul TH 40: Thực hành giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh tiểu học   qua một môn học;  Modul TH 41: Giáo dục kỹ năng sống qua các hoạt động giáo dục;  Modul TH 42: Thực hành giáo dục kỹ năng sống trong một số hoạt động   ngoại khóa ở tiểu học.  II. Thực trạng vấn đề: Trong cuộc sống hiện nay việc phát triển của công nghệ  đã mang lại  cho chúng ta những hiệu quả mà công nghệ đã tạo ra. Bên cạnh những thành  công của công nghệ  đối với cuộc sống thì nó cũng có những mặt trái mà  chúng ta cần phải khắc phục. Hiện nay, chúng ta đang sống trong môi trường  công nghệ  nên kĩ năng sống của học sinh phổ  thông nói chung và học sinh  tiểu học nói riêng còn rất nhiều hạn chế. Trong quá trình giáo dục chúng ta  thường mới chỉ  quan tâm tới việc dạy chữ  và chưa quan tâm nhiều tới việc  dạy làm người cho học sinh. Vì vậy việc thích ứng với xã hội, với cuộc sống   xung quanh là một vấn đề  khó với các em. Qua điều tra cho thấy tình trạng   học sinh nói tục, chửi bậy, đánh nhau vẫn xảy ra. Trong đó các kĩ năng như  tương trợ nhau, giao tiếp, diễn đạt trước đám đông được các thầy cô giáo tích  cực hình thành và củng cố  nhưng chưa thể hiện được nhiều. Học sinh ngày  càng thực dụng, ích kỉ, lười hoạt động và không thích tham gia các hoạt động  ngoài giờ lên lớp ở nhà trường hơn. 6
  7. Việc giảng dạy Kỹ năng sốngđã được đưa vào chương trình giảng dạy  trong thời khóa biểu, giúp các em học sinh tiếp thu bài dễ  dàng hơn vì đã có  những nội dung học và tìm hiểu cụ thể, rõ ràng hơn. Đối với Liên đội Tiểu học Ea Bôngđã được Ban giám hiệu tạo điều kiện   thuận lợi để tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa trong năm học phù hợp với  lứa tuổi và tình hình thực tế. Thông qua các hoạt động ngoại khóa, các buổi  sinh hoạt dưới cờ  đã lồng ghép việc giáo dục kỹ  năng sống cho các em từ  những điều đơn giản nhất như: lễ  phép với người lớn tuổi, giữ  gìn vệ  sinh  chung, tuân thủ nội quy trường lớp. Hiện nay việc tổ chức và tham gia các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên  lớp trong các nhà trường vẫn chưa được quan tâm nhiều. Một số  giáo viên  vẫn còn xem nhẹ  các hoạt động giáo dục ngoài giờ  lên lớp, nhiều gia đình   học sinh chưa thực sự quan tâm đến việc tham gia các phong trào của con em  mình, từ  đó cũng coi nhẹ  việc rèn các kĩ năng sống cho học sinh và con em  mình. Trường nằm trong địa bàn có điều kiện kinh tế  ­ xã hội đặc biệt khó   khăn, hầu hết gia đình các em đều làm nông nên điều kiện kinh tế còn nhiều   khó khăn. Nhiều học sinh phải  ở  nhà với ông bà vì bố  mẹ  đi làm ăn xa nên  thiếu sự  quan tâm dạy dỗ  của bố  mẹ. Đây chính là điều kiện tốt để  các tệ  nạn xã hội xâm nhập vào các em nếu các em không được trang bị tốt nhất các   kỹ năng sống cho mình. Nhân cách học sinh được hình thành và phát triển thông qua hai con  đường cơ  bản là con đường học trên lớp và con đường tham gia các hoạt   động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Việc tổ  chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ  lên lớp trong trường  tiểu học là điều kiện tốt nhất giúp học sinh tích lũy và rèn kỹ  năng sống có   hiệu quả. Thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ  lên lớp các em được  hợp tác, trải nghiệm các kỹ  năng sống. Vì vậy giáo viên cần thiết kế  và tổ  chức thực hiện các hoạt động ngoài giờ lên lớp sao cho học sinh có cơ hội thể  hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm và biết phân tích kinh nghiệm sống của   chính mình và của người khác. Sau khi học kỳ  I năm học 2017   ­ 2018 kết thúc và vào đầu năm học  2018­2019 tôi đã tiến hành khảo sát với chủ  đề  “ Kỹ  năng của em”, kết quả  thu được như sau: Tổng số  Kỹ năng khi tham gia giao thông 7
  8. học sinh Kỹ năng  Có hình  Kỹ năng chưa tốt tố t thành kỹ  năng SL % SL % SL % 2017­ 287 150 52,2 92 32 45 15,8 2018 2018­ 285 145 50,8 98 34,5 42 14,7 2019 Kỹ năng phòng tránh đuối nước, tai nạn thương tích  Tổng số  học sinh Kỹ năng  Có hình  Kỹ năng chưa tốt tố t thành kỹ  năng SL % SL % SL % 2017­ 287 140 48,7 109 38,1 38 13,2 2018 2018­ 285 135 47,3 115 40,4 35 12,3 2019 Kỹ năng phòng tránh bị xâm hại Tổng số học  sinh Kỹ năng tốt Chưa có kỹ năng SL % SL % 2017­ 157 54,7 130 45,3 2018 8
  9. 287 2018­ 285 155 54,3 130 45,7 2019 Kỹ năng tham gia và tổ chức các hoạt động Kỹ năng tốt Chưa có kỹ năng Tổng số học  sinh SL % SL % 2017­ 287 210 73,1 77 26,9 2018 2018­ 285 198 69,4 87 30,6 2019 *Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.  Qua bảng tổng hợp trên kết quả  cho thấy, học sinh có kỹ  năng tham  gia giao thông chưa tốt là   trên 14%. Học sinh chưa có kỹ  năng phòng tránh   đuối nước, tai nạn thương tích chiếm 13%. Học sinh chưa có kỹ  năng phòng  tránh bị  xâm hại là 45,3% và học sinh chưa có các kỹ  năng tổ  chức các hoạt   động tập thể  là 26 – 30,6%. Như  vậy chúng ta có thể  thấy được một số  kỹ  năng cần thiết hiện nay như phòng tránh bị xâm hại, tai nạn thương tích, đuối   nước vẫn chiếm tỉ lệ khá cao. Điều đó yêu cầu chúng ta cần phải có các biện   pháp để giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng một cách tốt nhất để  vận dụng  vào thực tiễn cuộc sống. Việc học sinh còn thiếu những kỹ năng đó xuất phát từ một số nguyên  nhân như:  Một số gia đình các em có điều kiện kinh tế khó khăn, cha mẹ thường  xuyên mâu thuẫn với nhau, một số em cha mẹ đi làm ăn xa nên việc quan tâm  giáo dục các em gần như khoán trắng cho nhà trường. Bên cạnh đó một số em  được gia đình chiều chuộng nên sớm được tiếp xúc với công nghệ  nên thiếu  đi các kỹ năng cần thiết. Bên cạnh đó thì việc giáo dục các em  ở  trong các nhà trường vẫn còn  chú trọng chủ yếu vào dạy kiến thức cho các em mà thiếu sự giáo dục và rèn  9
  10. luyện kĩ năng sống cho các em nên các em thiếu đi các kỹ  năng sống cần  thiết. Mặt khác là sự tác độ của cơ chế thị trường, sự phát triển của khoa học  công nghệ  đã tác động mạnh vào lối sống của các em, xem nhẹ  lời khuyên  của cha mẹ, thầy cô dẫn đến những biểu hiện lệch lạc về  chuẩn mực đạo  đức. III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: Khi áp dụng việc giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh  ở  bậc tiểu học   mục tiêu đưa ra với một số nội dung như : ­ Biết tự ứng xử trong các trường hợp xảy ra hàng ngày. ­ Biết cách hợp tác với các bạn trong và ngoài lớp trong việc thực hiện  nhiệm vụ học tập cũng như sinh hoạt. ­ Có lối sống lành mạnh, biết cách tự chăm sóc mình. ­ Nhận biết lòng biết ơn, các giá trị đạo đức cơ bản trong cuộc sống. ­ Biết bao dung, vị  tha, tôn trọng với bạn bè, biết quan tâm đến những   người xung quanh. *  Một số  biện pháp nhằm tăng cường giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh  thông qua các hoạt động của Đội: Từ  thực trạng đã nêu  ở  phần trên, là giáo viên Tổng phụ  trách đội tôi  luôn bám sát tình hình thực tế  của học sinh trường mình, cố  gắng truyền tải  cho các em những Kỹ năng sốngthông qua những hoạt động, những hình thức  giáo dục phù hợp với lứa tuổi, giúp các em tự chủ động lĩnh hội kiến thức và  tự  trải nghiệm rút ra cho mình bài học để  áp dụng trong cuộc sống.Căn cứ  vào chương trình hoạt động ngoài giờ của nhà trường, kết hợp với các chủ đề  sinh hoạt của Liên đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, mà giáo viên chọn   ra những hình thức giáo dục phù hợp. ­ Biện pháp 1: Tìm hiểu thực tế học sinh và tạo mối thân thiện với học   sinh. Là một giáo viên được nhà trường tin tưởng giao trọng trách làm giáo  viên­ tổng phụ trách đội, bản thân tôi cũng như nhiều đồng nghiệp khác rất tự  hào, nhưng xen lẫnđâu đó vẫn có những nỗi lo không tên. Vì trọng trách một  người giáo viên tổng phụ  trách rất nặng nề, và cóý nghĩa to lớn đối với các  em học sinh 10
  11. Việc tìm hiểu gần gũi cũng như tạo mối quan hệ thân thiện với các em  không đơn giản một chút nào. Người giáo viên vừa cần nghiêm khắc giúp các  em tự  giác thực hiện nề  nếp nội quy nhà trường, cũng như  cần phải thân   thiện, là nơi để các em chia sẻ  những vấn đề  khó nói, hoặc những khó khăn  gặp phải trong cuộc sống. Điều vui nhất của giáo viên tổng phụ trách  là được thường xuyên tiếp   xúc, quan tâm uốn nắn học sinh của mình. Chúng tôi có điều kiện tiếp xúc với  cha mẹ  học sinh để  cùng nhau bàn biện pháp giáo dục một số  em học sinh   chưa chăm ngoan.Khi các em tiến bộ  và trưởng thành, chúng tôi cảm thấy  mình như nhận được một món quà vô giá. Đó cũng là nguồn động viên to lớn  cho những thầy cô làm công tác kiêm nhiệm. Do đó khi bước vào năm học mới. Giáo viên tổng phụ tráchphải quản lý  toàn diện  học sinh của toàn trường  và cần  tìm hiểu những vấn đề  cơ  bản  như: + Hoàn cảnh và những thay đổi, những tác động của gia đình đến học   sinh của mình. + Hiểu biết những đặc điểm của các em học sinh (về sức khỏe, sinh lý,  trình độ  nhận thức, năng lực hoạt động, năng khiếu, sở  thích, nguyện vọng,   quan hệ xã hội, bạn bè….) + Quản lý toàn diện đặc điểm học sinh của mình, nắm vững mục tiêu  đào tạo, giáo dục cả về mặt nhân cách và kết quả học tập của học sinh, đồng  thời nắm vững hoàn cảnh của từng em để kết hợp giáo dục  để các em phấn  đấu và trưởng thành. Làm giáo viên tổng phụ trách đội là một nghệ thuật, đòi hỏi người giáo  viên phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo về  lời ăn, tiếng nói, tác  phong làm việc cho đến trình độ chuyên môn; quan hệ với trò như người thân   để trò cảm thấy vừa gần gũi, vừa đáng tin cậy; kiên trì giáo dục học sinh theo   kiểu mưa dầm thấm lâu. ­   Biện   pháp   2:   Tổ   chức   cho   học   sinh   tham   gia   các   hoạt   động   trải   nghiệmsáng tạo. Nhân cách học sinh được hình thành qua hai con đường cơ  bản: Con  đường học trên lớp và con đường hoạt động ngoài giờ lên lớp. Hoạt động ngoài giờ  lên lớp là một hoạt động quan trọng, góp phần  nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà   trường. Chính từ  những hoạt động như: lao động, sinh hoạt tập thể, hoạt   động xã hội đã góp phần rất lớn trong việc hình thành nhân cách của học sinh.  Giúp các  em biết tự  giáo dục, tự  rèn luyện, tự  hoàn thiện mình. Có thể  nói   việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp là xây dựng cho các em các mối   quan hệ phong phú, đa dạng một cách có mục đích, có kế hoạch, có nội dung   11
  12. và phương pháp nhất định, gắn giáo dục với cộng đồng, tạo sự  thân thiện  trong mọi tình huống. Biến các nhu cầu khách quan của xã hội thành những  nhu cầu của bản thân HS. Nhân cách trẻ được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động có  ý thức. Chính trong quá trình sống, học tập, lao động, giao lưu, vui chơi giải   trí... con người đã tự hình thành và phát triển nhân cách của mình. Việc tổ  chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ  lên lớp trong trường  Tiểu học là điều kiện tốt nhất giúp HS tích luỹ  và rèn kĩ năng sống có hiệu   quả. Thông qua các hoạt động ngoài giờ  lên lớp các em được hợp tác, trải  nghiệm các kĩ năng sống. Vậy giáo viên cần thiết kế và tổ chức thực hiện các   hoạt động ngoài giờ  lên lớp sao cho HS có cơ  hội thể hiện ý tưởng cá nhân,   tự  trải nghiệm và biết phân tích kinh nghiệm sống của chính mình và người   khác. Dưới đây là một vài hình thức bản thân tôi đã trải nghiệm và áp dụng  có hiệu quả đối với Liên đội: ­ Biện pháp 3: Hoạt động “Trang trí lớp học thân thiện”. Trong những năm qua Bộ GD&ĐT đã phát động phong trào thi đua “Xây  dựng trường học thân thiện  ­ học sinh tích cực” rộng khắp trên cả  nước. Ở  trong môi trường đó các em được học tập và sinh hoạt trong một bầu không  khí thân thiện, gần gũi như  gia đình, điều đó góp phần giúp các em hứng thú   trong học tập và đem lại hiệu qua cao trong giáo dục. Nơi đó trường học, lớp  học được các em coi như ngôi nhà chung, ngôi nhà thứ hai của mình và các em  thấy được mỗi ngày đến trường, đến lớp là một ngày vui, bản thân các em   thêm yêu trường, yêu lớp, gắn bó với ngôi nhà chung đó. Lớp học thân thiện  gắn bó chặt chẽ với việc phát huy tính tích cực của học sinh, tăng cường giáo  dục các kĩ năng sống cho các em. Trong môi trường phát triển toàn diện đó,  học sinh hứng thú học tập, biết rèn luyện kĩ năng và phương pháp học tập,  trong đó đặc biệt là phát huy khả  năng tự  tìm hiểu, khám phá,tư  duy sáng  tạo… Chính vì vậy để  giáo dục,rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thành  công tôi luôn quan tâm đến việc trang trí “Lớp học thân thiện”. Đưa cây xanh  vào lớp học. Theo tôi, lớp học thân thiện phải có cây xanh, bởi lẻ  một lớp   học xanh mát, ngập tràn sắc màu thiên nhiên, sẽ giúp các em có một tâm trạng   vui tươi nhẹ nhàng với mỗi ngày đến lớp. Nhìn ở phương diện khoa học : cây   cỏ lá hoa được ví như lá phổi thanh lọc những khí chất độc hại cho cơ thể. Ở  góc độ đời sống tinh thần, màu xanh thiên nhiên có tác dụng giúp tâm hồn thư  giản, sảng khoái. Qua đó giáo dục các em tinh thần bảo vệ môi trường sống  quanh mình. 12
  13. Trong năm học 2016 – 2017 với phòng học còn chưa được tu sửa, tôi đã  cho các em cùng dọn vệ  sinh, trang trí thêm các vật dụng như: giá sách, rèm   màn mới, trang trí các tranh ảnh, hoặc đồ vật địa phương… Trong năm học 2017 – 2018tôi đã tham mưu với lãnh đạo nhà trường tổ  chức  Hội thi “Lớp học thân thiện”,  thông qua hội thi đã giáo dục các em   ý  thức giữ  gìn vệ  sinh lớp học cũng như  trường mình; các em cùng nhau đoàn   kết, hợp tác để  tìm hiểu cách trang trí thế  nào cho đẹp, cho lạ; và lao động   vừa sức của mình, cùng với cha mẹ  mình dọn dẹp, sơn sửa mới phòng học.  Với không gian lớp học mới, sạch đẹp, khang trang, giúp các em đến lớp với  tinh thần tươi vui, phấn khởi, hăng say với các bài học của thầy cô giáo hơn.  Đây mới là những kết quả đáng để trân trọng và phát huy. Trang trí lớp học thân thiện ­ Biện pháp 4: Tổ chức các hoạt động  “Lao động dọn vệ sinh”. Để đánh giá xếp loại học sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy định dựa  trên bốn tiêu chí: Văn hóa, đạo đức, lao động và văn thể mĩ. Nhưng hiện nay,   tiêu chí hoạt động lao động của học sinh trong trường học dường như đã bị  bỏ qua, những hoạt động đó dần được “dịch vụ hóa”. Những năm về trước, hầu hết các trường học đều tổ chức lao động cho  học sinh. Các nhà trường thường xuyên duy trì hình thức thay phiên từng lớp   lao động trong tuần với các công việc như  quét dọn sân trường, lớp, nhổ cỏ,   lau bàn ghế… Các em thực hiện những công việc đó trước giờ  học hoặc ra  chơi giữa giờ. Học sinh tự  “lao động” sẽ  giúp các em biết giữ  gìn kết quả  công sức lao động của mình, tránh thói quen dựa dẫm ỷ lại, không xả rác bừa   13
  14. bãi trong trường lớp và những nơi công cộng. Tự  các em biết mình phải làm  gì để giữ gìn môi trường xung quanh sạch đẹp. Vì vậy, việc “bỏ  qua kỹ  năng lao động  ở  các trường học hiện nay là  một hình thức gián tiếp làm học sinh lười vận động và sợ lao động. Sự chậm  chạp, ít hoạt động cơ bắp không chỉ có ở học sinh khu vực thành phố mà còn   xuất hiện nhiều ở học sinh các vùng nông thôn. Không chỉ các em học sinh ở  thành phố  mà phần đông học sinh  ở  các vùng nông thôn, ngoài thời gian học   tập, giải trí thì không phải làm bất cứ công việc gì khác. Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục các em tự lao động   dọn vệ sinh cho lớp mình cũng như làm sạch khuôn viên nhà trường. Bản thân  tôi trong những năm qua đã phối hợp cùng với Ban đại diện cha mẹ học sinh  để làm có hiệu quả phương pháp này. Tạo cho các em thói quen tự giác trong  lao động như: quét sân trường, lớp, lau bàn ghế... Giáo dục thông qua lao  động là việc làm quan trọng trong giáo dục phát triển toàn diện, nhằm hình   thành ở các em những phẩm chất của người lao động mới: Yêu lao động, quý  trọng người lao động, giúp các em có được các kỹ năng lao động phục vụ cho  sinh hoạt và chuẩn bị cho học sinh các kỹ năng lao động cần thiết trong tương   lai.  Việc lao động dọn vệ  sinh tại lớp học cũng là hoạt động xây dựng  “Công trình măng non” gây quỹ trong chương trình hoạt động Công tác Đội và  phong trào thanh thiếu nhi của Hội đồng Đội cấp trên, cũng như  Liên đội  TNTP Hồ  Chí Minh chỉ  đạo. Chính từ  những hoạt động như  vậy gián tiếp   giúp các em hiểu thêm về hoạt động Đội và tham gia hoạt động một cách tự  giác. Qua những buổi sinh hoạt lao động ấy, giúp các em dần làm quen và có  ý thức làm việc vì tập thể, rèn tính kiên trì, tính độc lập, tình đoàn kết, sự hợp   tác nhóm của các em càng thêm thắt chặt, gắn bó. Đồng thời giúp các em thấu   hiểu được một phần giá trị của lao động và nỗi vất vả của người lao động. 14
  15. Lao động dọn vệ sinh vườn trường ­ Biện pháp 5: Tổ chức các hoạt động ngoài giờ khác. Hoạt động giáo dục Kỹ năng sốngcho học sinh còn thông qua tiết sinh  hoạt dưới cờ. Trong các giờ  sinh hoạt này giáo viên có thể  linh động nhiều  hình thức để  giúp tiết sinh hoạt của mình không bị  nhàm chán, không gò bó  trong những hình thức cũ, gây ra sự không hứng thú đối với các em. Giờ  sinh  hoạt không hạn chế trong việc nhận xét những vi phạm nề nếp, nội quy của   các em, mà là nơi cô giáo và học sinh cùng tương tác trong các hoạt động như  trò chơi hay kể chuyện… Qua các hoạt động này việc tạo cho các em nhiều  kỹ năng như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lãnh đạo, kỹ  năng lắng nghe… Đặc  biệt là sự  tự  giác trong việc tham gia chơi cùng nhau, hợp tác, đoàn kếtđể  hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sau đây là một số hình thức giáo viên tổng phụ trách đội có thể sử dụng   trong các buổi sinh hoạt dưới cờ, giúp buổi sinh hoạt sinh động và lôi cuốn  các em: a.Hình thức trò chơi *Mục đích ­ Giúp tạo ra môi trường để các em tham gia vào hoạt động giáo dục kỹ  năng sống một cách tự nhiên, nhiệt tình. 15
  16. ­ Chơi và được chơi là nhu cầu thiết yếu đối với tâm sinh lý của lứa tuổi  học sinh tiểu học. Hoạt động trò chơi sẽ giúp các em tự  khám phá ra các giá  trị, những kỹ năng, thông qua các trò chơi được triển khai. ­ Giúp học sinh bộc lộ tính cách trong khi tham gia các trò chơi. ­ Tạo cơ hội để các em phát huy khả năng làm việc nhóm. ­ Giúp các em cởi mở, đoàn kết, tự tin hơn. * Yêu cầu khi tổ chức trò chơi ­ Trước tiên trò chơi phải phù hợp với lứa tuổi của học sinh tiểu học. ­ Trò chơi phải đáp ứng mục tiêu của hoạt động đề ra. ­ Trò chơi phải phù hợp với không gian, thời gian diễn ra. ­ Trò chơi cần có đầy đủ các phương tiện, dụng cụ để đáp ứng yêu cầu. ­ Trò chơi cần tạo ra sự vui vẻ và có ý nghĩa giáo dục thực sự. * Phạm vi áp dụng phương pháp trò chơi khi tổ chức các hoạt động giáo  dục kỹ năng sống ­ Trò chơi nên áp dụng cho một đến hai hoạt động sau của buổi sinh  hoạt, vì đây là giai đoạn cần tạo ra cho các em không khí hứng khởi, tạo sự  vui tươi trước khi bước vào lớp. ­ Tùy vào nội dung của việc giáo dục kỹ  năng sống mà lựa chọn trò  chơi cho phù hợp. * Cách thức tiến hành phương pháp trò chơi ­ Mục đích chính khi sử dụng  trò chơi là làm phương tiện để triển khai   các nội dung của giáo dục kỹ năng sống. Do vậy không được để trò chơi lấn  át mục đích chính của mình. ­ Người quản trò mời mọi người cùng tham gia vào trò chơi. ­ Giới thiệu với mọi người về  luật chơi, có thể  hướng dẫn cách sử  dụng các dụng cụ (nếu có) khi chơi. ­ Khi trò chơi diễn ra người giáo viên luôn khuyến khích động viên  người chơi để trò chơi diễn ra sinh động. ­ Sau khi kết thúc trò chơi người giáo viên nêu kết quả  và ý nghĩa của  trò chơi. 16
  17. b.Hình thức kể chuyện *Mục đích   Nhằm hướng các em học sinh đến gần nhất với mục tiêu cần giáo dục   qua nội dung câu chuyện. Giúp các em lĩnh hội kiến thức cần truyền đạt một cách nhẹ nhàng, dễ  hiểu nhất. Kích thích sự  hứng thú của trẻ  vì kể  chuyện là phương pháp gần gũi  nhất với các em học sinh, phù hợp với tâm lý của trẻ. Đồng thời phương pháp này cũng được sử dụng nhiều khi tổ chức buổi   giáo dục kỹ năng sống cho cả trường với số lượng học sinh đông, nhiều lứa  tuổi. Nội dung ý nghĩa được rút ra từ  câu chuyện sẽ  giúp học sinh ghi nhớ  một cách dễ dàng hơn. *Yêu cầu khi sử dụng phương pháp kể chuyện ­ Người tổ chức cần chuẩn bị câu chuyện có ý nghĩa, phù hợp với nội  dung của buổi sinh hoạt giáo dục kỹ năng sống. ­ Chú ý đến phương tiện sử dụng kể chuyện cần chỉn chu, hoàn chỉnh. ­ Người kể  chuyện cần chuẩn bị  thật kỹ  càng phần truyền đạt câu  chuyên, cố  gắng thu hút học sinh vào câu chuyện, nhằm tránh sự  nhàm chán   khi nghe chuyện.  *Đối tượng, phạm vi sử dụng phương pháp kể chuyện: Phương pháp kể chuyện được sử dụng phù hợp cho mọi lưa tuổi trong   học sinh tiểu học. Tuy nhiên tâm lý mỗi đối tượng học sinh là khác nhau, do  vậy người kể  chuyện cần chọn lọc thật kỹ càng những câu chuyện cho phù  hợp. Phương pháp kể chuyện cũng được sử  dụng nhiều trong các buổi sinh   hoạt giáo dục kỹ  năng sống, ví dụ  các buổi nói chuyện chuyên đề, các bài  giảng – tiết sinh hoạt trong lớp... Phương pháp này tác động nhanh đến nhận thức và tình cảm của học  sinh vì vậy có thể  sử  dụng  ở  hoạt động thứ  2 hoặc 3 của buổi sinh hoạt   chuyên đề. *Cách tiến hành phương pháp  17
  18. ­ Nắm vững mục đích: việc kể  chuyện không chỉ  thỏa mãn nhu cầu  giải trí cho học sinh, mà nhằm đến mục đích giáo dục. Do vậy người kể  chuyện cần chọn lọc câu chuyện có tính giáo dục, có ý nghĩa. ­ Nội dung câu chuyện: Người kể  chuyện phải nắm thật vững nội   dung, trình tự câu chuyện. Cần trình bày câu chuyện một cách đơn giản, sống   động, tránh dài dòng, lan man. Chú ý đến những ý chính trong câu chuyện. Với  những câu chuyện có kết thúc mở, người kể  chuyện cần làm sáng tỏ  những  điều tốt, điều chưa tốt giúp các em dễ dàng tự rút ra cho mình bài học. ­ Cách kể  chuyện: Người kể  chuyện cần nắm vững những tình tiết  trong câu chuyện. Cần hóa thân vào nhân vật trong chuyện. Sử  dụng ngôn  ngữ  một cách đơn giản, dễ  hiểu. Chú ý đến ngôn ngữ  khi kể  chuyện : chất  giọng rõ ràng, truyền cảm, nét mặt, điệu bộ, cử chỉ cũng là một phần lớn góp  vào thành công cho nội dung kể chuyện. Trong khi kể chuyện cũng cần chú ý  đến tâm trạng của học sinh: các em chú ý lắng nghe câu chuyện, hay không  chú ý, ngó nghiêng, nghịch ngợm... Sau khi kể xong câu chuyện cần đặt luôn  câu hỏi giúp học sinh rút ra ý chính, điều cần học tập, điều không nên học  tập. * Một số hoạt động của Liên đội trường Tiểu học Ea Bông nhằmtăng  cường giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động của Đội  thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh: Hoạt động văn hóa nghệ thuật: Đây là một loại hình hoạt động quan trọng, không thể thiếu được trong  sinh hoạt tập thể  của trẻ  em, nhất là học sinh tiểu học. Hoạt động này bao   gồm nhiều thể loại khác nhau: Hát, múa, thơ ca, kịch ngắn, kịch câm, tấu vui,   độc tấu, nhạc cụ, thi kể  chuyện… Các hoạt động này góp phần hình thành  cho các em kỹ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông. Đây là một trong những  kỹ  năng rất quan trọng trong xu thế  toàn cầu hóa. Xác định được tầm quan  trọng của hoạt động này nhà trường đã thường xuyên tổ  chức các hoạt đông  phù hợp với chủ điểm từng tháng. 18
  19. Tổ chức Hội diễn văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 - Hoạt động vui chơi giải trí, thể dục thể thao:  Hiện nay với xu thế phát triển mới của thời đại việc các em tiếp xúc  với công nghệ là điều không thể tránh khỏi, bên cạnh những mặt tích cực thì  việc các em tiếp xúc với công nghệ cũng mang lại rất nhiều hệ lụy từ đó làm   cho các em thiếu đi những kĩ năng cần thiết để thích nghi với cuộc sống hiện  tại. Vì vậy, việc tổ chức cho các em tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí  là nhu cầu thiết yếu của trẻ, đồng thời là quyền lợi của các em. Nó là một  loại hoạt động có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với học sinh ở trường tiểu học.   Hoạt động này làm thỏa mãn về tinh thần cho trẻ em sau những giờ học căng  thẳng, góp phần rèn luyện một số phẩm chất: tính tổ chức, kỉ luật, nâng cao  tinh thần trách nhiệm, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái….  19
  20. Tổ chức thi Điền kinh cấp trường ­ Hoạt động xã hội:  Hoạt động này thường được tổ chức nhằm giáo dục các em các kĩ năng  chia sẻ, hợp tác. Thông qua hoạt động này, giáo dục cho các em tình yêu quê   hương đất nước, niềm tự  hào dân tộc và giáo dục các em có tinh thần trách  nhiệm, có nghĩa vụ  đối với cộng đồng; các em sẽ  được bồi dưỡng thêm về  nhân cách, đặc biệt là tình người. Trong thực tế, hoạt động này đã được  nhà   trường tiến hành tương đối tốt. Hoạt động này phải được khai thác một cách  triệt để nhằm phát triển tối đa nhân cách ở các em. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2