intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm về giảng dạy môn Tiếng Việt Lớp 3 qua phân môn Tập làm văn trường TH Đồng Tĩnh B

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

41
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy – chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói - ngôn bản và dưới dạng viết - văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội. Chính vì vậy hướng dẫn học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc rất lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm về giảng dạy môn Tiếng Việt Lớp 3 qua phân môn Tập làm văn trường TH Đồng Tĩnh B

  1. PHÒNG GD&ĐTTAM DƯƠNG MàSKKN TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỒNG TĨNH B 06 BÁO CÁO KẾT QUẢ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP: CƠ SỞ   ; TỈNH:        Tên sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm về giảng dạy môn  Tiếng Việt Lớp 3 qua phân môn Tập làm văn trường TH Đồng Tĩnh B  Môn/nhóm môn: Tiếng Việt Tổ bộ môn: 2+3 Mã môn: 06 Người thực hiện: Phan Thị Hoa Mai Điện thoại: 0979.691.189       Email: phanthihoamai.c1dongtinhb@vinhphuc.edu.vn Tam Dương, năm 2017
  2. PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG TRƯỜNG TH ĐỒNG TĨNH B =====***===== BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN      Tên sáng kiến: Một số kinh nghiệm về giảng dạy môn Tiếng Việt  Lớp 3 qua phân môn Tập làm văn trường TH Đồng Tĩnh B       Tác giả sáng kiến: Phan Thị Hoa Mai
  3. BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu  Phân môn Tập làm văn là một phân môn có vai trò quan trọng trong việc   giúp học sinh hình thành văn bản nói và viết. Đây là một phân môn mang tính  trừu tượng trong chương trình Tiếng Việt tiểu học. Dạy phân môn Tập làm văn  có hiệu quả cao tức là người giáo viên đã xâu chuỗi kiến thức từ các phân môn:  Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Chính vì thế mà phân môn tập làm văn có   tính chất tổng hợp, là kết quả lĩnh hội các kiến thức của môn Tiếng Việt. Trong  chương trình tiểu học hiện nay, mục tiêu chính của môn Tiếng Việt là hình  thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Đặc biệt ở lớp   3, phân môn tập làm văn rèn cả  bốn kỹ  năng: nói, nghe, đọc và viết. Trong giờ  tập làm văn học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập  (nói, viết); xây dựng các loại văn bản và các bộ  phận cấu thành văn bản. Bên  cạnh đó học sinh còn tập kể lại những mẩu chuyện được nghe thầy, cô kể trên  lớp. Bên cạnh đó qua từng nội dung bài dạy, phân môn tập làm văn còn bồi   dưỡng thái độ   ứng xử  có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi  dưỡng tình cảm lành mạnh tốt đẹp cho học sinh.      Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con  người thực hiện quá trình tư  duy – chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư  tưởng, tình  cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao   động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói ­ ngôn bản và dưới dạng viết ­ văn bản) giữ vai  trò quan trọng trong sự  phát triển xã hội. Chính vì vậy hướng dẫn học sinh nói  đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc rất lớn  vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói  riêng.    Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học, đòi hỏi người thầy phải biết vận   dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho  phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh (HS) để  giờ  học diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng và có hiệu quả. Trong giảng dạy giáo viên phải   có nghệ  thuật sư  phạm, biết dẫn dắt, gợi mở đưa học sinh giải quyết các tình   huống và thông qua việc xử  lí các tình huống đó học sinh lĩnh hội được kiến  
  4. thức bài học. Đối với phân môn Tập làm văn, để  thực hiện được điều đó càng  khó hơn. Qua thực tế  giảng dạy học sinh lớp 3, tôi thấy hầu như  học sinh rất   lúng túng, chưa biết cách vận dụng để làm các dạng bài Tập làm văn. Từ đó, tôi  đã tìm cách để hướng dẫn học sinh phương pháp học tập để  học tốt phân môn  Tập làm văn với dạng bài: “Kể  hay nói, viết về  một chủ  đề”. Từ  thực tế  vận  dụng, tôi tổng hợp thành kinh nghiệm : “Một số kinh nghiệm về giảng dạy môn  Tiếng Việt Lớp 3 với phân môn Tập làm văn trường TH Đồng Tĩnh B” với dạng  bài “Kể hay nói, viết về một chủ đề” với hi vọng trao đổi với đồng nghiệp về  các phương pháp giảng dạy phân môn Tập làm văn dạng bài “Kể hay nói, viết  về một chủ đề”, nhằm làm tốt hơn vai trò giảng dạy, giúp học sinh dễ dàng hơn  trong khi làm các bài tập dạng này. 2. Tên sáng kiến: Một số kinh nghiệm về giảng dạy môn Tiếng Việt Lớp  3 qua phân môn Tập làm văn trường TH Đồng Tĩnh B  3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Phan Thị Hoa Mai ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến:Trường Tiểu học Đồng Tĩnh B – Tam Dương –  Vĩnh Phúc ­ Số điện thoại: 0979 691178;  ­ E­ mail: phanthihoamai.c1dongtinhb@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Phan Thị Hoa Mai 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:  Nghiên cứu tìm ra một số  giải pháp hợp lí nhằm nâng cao hiệu quả  giờ  học môn Tiếng Việt lớp 3 qua phân môn Tập làm văn với dạng bài: Kể hay nói,   viết về một chủ đề.         Sử dụng mang ý nghĩa, bản đồ  tư  duy để  giúp học sinh tìm kiếm và phát  triển diễn đạt ý tưởng, giúp cho các em khi làm bài tập làm văn dạng  “Kể hay   nói, viết về một chủ  đề” có thêm vốn từ  ngữ, tạo cho các em có sự  liên tưởng  các chi tiết hình ảnh trong cùng một chủ  đề, biết sắp xếp các chi tiết hình ảnh  ấy tạo thành một ngôn bản (nói) hay văn bản (viết). Từ đó, có sự mạnh dạn tự  tin trong học tập cũng như trong giao tiếp. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 15/9/2016 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: ­ Về nội dung của sáng kiến:  Với sự học hỏi của bản thân, sử dụng mạng ý nghĩa và bản đồ tư duy vào   giảng dạy phân môn tập làm văn lớp 3 đã giảm hẳn áp lực học tập, học sinh 
  5. thoải mái, tự tin hơn khi thực hiện bài tập dạng Kể hay nói (viết) theo chủ  đề.   Kinh nghiệm tuy không lớn nhưng đã nâng cao chất lượng phân môn Tập làm   văn nói riêng và môn Tiếng Việt lớp 3 nói chung.  Các giải pháp: b.2.1. Hình thành và phát triển “môi trường tư liệu ở lớp học” Trước tiên tôi thực hiện hình thành “môi trường tư  liệu  ở  lớp học” để  giúp học sinh có điều kiện dễ  dàng sử  dụng từ  ngữ  khi sử  dung mạng ý nghĩa   hay bản đồ tư duy mà tôi trình bày ở phần sau.         + Thu thập và trưng bày các bài văn mẫu của học sinh khá giỏi năm trước. + Phân tích điểm hay của các bài đọc tiêu biểu cho các thể  loại văn bản,   giới thiệu thành bộ sưu tập và trưng bày. + Xây dựng từ  điển lớp: Giáo viên đưa ra hoặc hướng dẫn học sinh thu   thập danh mục các từ mà các em đã biết theo chủ đề Tập làm văn trong sách giáo  khoa. + Tập cho học sinh có thói quen quan tâm đến các trường hợp sử  dụng từ  hay trong khi đọc, kể chuyện hay luyện từ và câu. b.2.2. Sử dụng “Mạng ý nghĩa”: Sử dụng “Mạng ý nghĩa” như là sử dụng một đồ dùng dạy học, một biện   pháp dạy học cụ thể. Sử dụng mạng ý nghĩa là cách thức giáo viên tổ  chức cho  học sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủ  động và sáng tạo trong dạy học Tập  làm văn. Phương pháp này hướng đến việc cá thể  hoá tối đa  hoạt động nói và   viết của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được   chuẩn mực cơ bản của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của   mỗi học sinh trên cơ  sở  khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em  cũng như những ý tưởng và ngôn từ trong các bài đọc theo chủ đề mà các em đã  được học trong SGK.           *Tiến trình thực hiện phương pháp mạng ý nghĩa:  Hoạt động 1: Tìm hiểu đề Trong hoạt động này, học sinh định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong   trí nhớ  để  xác định đối tượng đó là ai? Là gì?  ở  đâu? Lúc nào?.. vào khung chủ  đề.  Trong trường hợp dùng vật thật hay tranh  ảnh thì khung chủ  đề  cũng chính là  chúng.  Để thực hiện hoạt động này tôi sử dụng một trong các hình thức sau: ­ GV  trò  chuyện khơi  gợi rồi  đề  nghị  học  sinh nhắm mắt nghĩ  về   đối  tượng,
  6. ­ Tạo tình huống khơi gợi rồi đề nghị học sinh nghĩ đến chủ đề hay đề tài. ­ Kể một mẩu chuyện nhỏ liên quan đến đề bài, kết hợp đặt câu hỏi hướng  học sinh đến đề tài. ­ Dùng tranh  ảnh hoăc mẫu vật thật do giáo viên mang đến lớp hay do học  sinh tự sưu tầm. ­ Cho học sinh tô màu rồi đặt tên cho một hình vẽ nào đó (do giáo viên cung   cấp) liên quan đến đề tài. ­ Sử dụng mô hình (khung ngôi nhà, khung ngôi trường ...). Trên nền khung   giáo viên hướng dẫn  học sinh vẽ hay viết thêm chi tiết vào. ­ Sử dụng một đoạn văn mẫu lấy từ bài tập đọc đã học hay từ  các bài làm   của học sinh.   Hoạt động 2: Tìm ý  Học sinh tập trung động não nghĩ về  đối tượng đã xác định trong khung   chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến đối tượng ấy.   Khi tiến hành hoạt động này tôi thực hiện theo các bước sau: ­ Sử dụng hệ thống câu hỏi để kích thích và định hướng cho học sinh phát   triển ý. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở, hướng đến việc khơi gợi kinh   nghiệm riêng, vốn sống thực tế của các em. Ví dụ  đối với văn miêu tả, câu hỏi  có thể được triển khai theo hướng mở sau: Em thấy gì?  Em nghe gì? Em nghĩ gì?  Em cảm thấy gì?... ­ Đưa ra một khung mạng trong đó cho sẵn vài ý, phần còn lại để học sinh  suy nghĩ và đưa thêm ý vào để  hoàn thành mạng (khung mạng ý nghĩa có thể  được trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo nội dung từng bài : Bông  hoa, chùm bong bóng, mạng nhện, một cây với những cành lá... ­ Đối với học sinh khá giỏi hay học sinh đã quen với việc sử dụng mạng,   giáo viên nên để các em tự nghĩ và viết ra các ý mà không cần đưa một hệ thống  câu hỏi hoàn chỉnh. ­ Học sinh viết các ý dưới dạng từ  hay cụm từ  xung quanh chủ đề. Giáo  viên tuyệt đối tránh viết chốt lại một số  từ  về  đề  bài. Cần xoá đi những ý đã   được ghi lên bảng trong giai đoạn làm mẫu nghĩa là khi học sinh làm việc cá  nhân trong phiếu học tập thì trên bảng chỉ còn lại khung mạng trống.   Hoạt động 3: Lập dàn ý : Sắp xếp ý đã có trong mạng.  ­ Hướng dẫn học sinh đánh số  thứ  tự  cho các ý tìm được, lưu ý trình tự  chung của thể loại văn đang làm và hướng dẫn có tính chất mở (đoạn văn miêu  tả  thì lưu ý những chi tiết nào có ý nghĩa giới thiệu chung thì nói trước, ý nào  miêu tả chi tiết, cụ thể thì nói sau).
  7. ­ Mỗi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự. ­ Gọi vài học sinh lên thể  hiện mạng ý nghĩa của mình đã làm trước lớp   để cả lớp theo dõi. Ngoài khung mạng làm mẫu, GV vẽ sẵn trên bảng các mạng  tương tự và che chúng lại. Sau khi HS đã tìm ý và hình thành mạng ý nghĩa trong  phiếu bài tập, giáo viên cho một số em lên thể hiện lại ý của mình vào các khung  mạng trên bảng.  Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài dưới  dạng nói hay viết  ­ Nếu là bài tập nói, giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn mạng ý nghĩa của   mình diễn đạt thành câu, thành bài trước lớp hay theo nhóm, cặp, theo nhóm đôi   là tốt nhất. ­ Nếu là bài tập viết, giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt mỗi từ  ngữ  xoay quanh mạng ít nhất một câu.  Hoạt động 5: Trao đổi, sửa chữa và nhận xét: ­ Nếu là bài nói, cho vài nhóm học sinh thể hiện lại trước lớp rồi tổ chức   trao đổi nhận xét và rút kinh nghiệm về cách nói phù hợp với yêu cầu của nội  dung và thể loại của đề bài . ­ Nếu là bài viết: Tổ  chức cho học sinh đọc sửa chữa bản nháp của mình  theo hình thức nhóm/cặp (đổi vở cho nhau sửa chữa). Giáo viên theo dõi giúp đỡ  chung.   Hoạt động 6: Dựa vào bản nháp đã được sửa, học sinh viết lại bài hoàn  chỉnh. *Ví dụ minh họa Ví dụ 1: Đề bài: Nói về quê hương em (BT2­TV3 ­Tập1­ Tr92) 1. Chuẩn bị:  Phiếu học tập a..Hoàn thành bảng dưới đây Tên bài đọc Quê hương là... Chi tiết làm em xúc động nhất Giọng   quê  ...................................... .............................................................. hương ...................................... .............................................................. Quê hương  ..................................... ............................................................... ..................................... .............................................................. Đất   quý,   đất  ..................................... ............................................................. yêu ..................................... ............................................................. Vẽ quê hương ..................................... ...............................................................
  8. ..................................... .............................................................. b. Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu em   rất đồng ý.         Qua các bài đọc trên em thấy quê hương:            Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình.            Là nơi mình sinh ra và lớn lên.            Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm.            Là nơi mà khi xa mình thấy nhớ thương.    c. Các em hãy nghĩ về quê hương mình:          Quê em ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? Cảnh vật đó có gì  đáng nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào? 2. Cách tiến hành  Hoạt động 1: Giúp HS tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thông tin ý  tưởng để  nói. Trước hết GV phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học  sinh hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm) ­ GV treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự nêu  kết quả  bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, GV bổ  sung hoàn thành bài  tập. Giới thiệu nội dung chủ đề “Nói về quê hương”. Hoạt động 2: HS tập trung động não nghĩ về quê hương đã xác định trong   khung chủ  đề  và viết ra bất kì những từ  ngữ  nào liên quan đến quê hương mà  mình đang nghĩ tới. ­ GV treo bài tập c (ghi sẵn ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để  kích thích học sinh hồi tưởng. ­ HS làm vào giấy nháp; GV đồng thời gọi hai em làm vào bảng phụ  ghi  vào khung chủ đề cụm từ “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào  của mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưư ý HS chỉ ghi từ hoặc cụm từ)  Ví dụ:                                           Vườn cây                  công viên                thành phố yêu                       con sông                      Quê hương em              bờ đê, bãi cỏ                                                                                                           nông thôn                  đường phố              nhà cao tầng      Hoạt động 3: HS đánh số thứ  tự  các ý mình vừa tìm được, GV hướng  dẫn các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3.
  9. ­ GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý HS trung bình và yếu để  giúp các em  điều chỉnh.            Chẳng hạn với ví dụ trên, học sinh có thể đánh số thứ tự như sau:                      vườn cây (4)            công viên (4)            thành phố (1)          yêu (5)                                                  con sông (2)                     Quê hương em                   bờ đê, bãi cỏ (3)                                                                                                    nông thôn (1)                  đường phố (3)              nhà cao tầng (2) Hoạt động 4: HS nhìn mạng của mình và nói  Cho hai em nói mẫu trước lớp .   Ví dụ : Quê hương em thuộc một vùng nông thôn yên bình. Ở đó có cây đa  cổ  thụ  che bóng rợp cả  một vùng. Giếng nước trong veo. Trước mặt ngôi nhà   em là con sông quê hương uốn lượn quanh làng. Ven sông là bờ  đê với bãi cỏ  xanh mượt, những chú trâu béo tròn đang ung dung gặm cỏ. Em rất thích tắm  mình dưới con sông ấy khi mùa hè đến. Em yêu quê hương của mình.  Hoặc: Em và gia đình sống ở thành phố. Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà   cao tầng. Trên đường phố, mọi người và xe cộ  đi lại tấp nập. Ngày nghỉ, em   thường được bố mẹ dẫn đi chơi công viên, được ngồi trên cái ghế đá mát rượi.  Cảm giác của em lúc đó rất là thích. Em yêu quý nơi này. ­ Cả lớp nhận xét, GV bổ sung. Hoạt động 5: Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). GV bao quát lớp đặc   biệt lưu ý giúp học sinh yếu. Hoạt động 6: HS nói thể hiện trước lớp ­ GV gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp (không nhìn mạng ý nghĩa).  Nếu là học sinh yếu, có thể cho học sinh nhìn mạng để nói. ­ Tổ chức cho HS thể hiện mở rộng cảm xúc về quê hương mình. Khuyến  khích HS tự tìm đặt và trả lời thêm câu hỏi mở rộng. Chẳng hạn: Quê em có gì  đặc biệt? Em mơ ước gì về quê hương của mình? GV nhận xét chung. Ví dụ 2: Dạy bài : Kể về gia đình (BT1­TV3 ­tập1­ tr 28)     Đối với bài tập này, giáo viên cần rèn cho học sinh kỹ năng nói : Kể được  một cách đơn giản về gia đình mình với một người bạn mới quen. 1. Chuẩn bị : Bảng phụ: Gia đình em có những ai? Làm công việc gì? Tính   tình như thế nào? Tình cảm của em đối với gia đình? 2. Cách tiến hành           Hoạt động 1:
  10. ­ Cho HS đọc yêu cầu bài tập, GV giúp HS tìm hiểu yêu cầu của bài tập:  Kể về gia đình mình cho bạn mới quen biết. ­ Học sinh tập trung động não nghĩ về  gia đình và viết ra bất kỳ  những từ  ngữ nào liên quan đến gia đình mình. ­ Giáo viên treo bảng phụ lên bảng. HS đọc thầm và hồi tưởng. ­ HS làm vào giấy nháp. GV gọi đồng thời hai em làm vào bảng phụ, ghi vào   khung chủ  đề  cụm từ  “gia đình mình” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của  mình có được xung quanh chủ đề đó.   Ví dụ:                 Làm ruộng                    anh, chị                          học sinh                  Ông, bà                         Gia đình mình                 bố, mẹ                 Yêu thương                      em                                    hạnh phúc Hoạt động 2: Học sinh đánh số thứ tự của mình vừa tìm được theo thứ tự 1,2,3...   Chẳng hạn có thể đánh số thứ tự như sau:                     Làm ruộng                    anh, chị (3)                         học sinh (4)                        Ông, bà (1)                        Gia đình mình                 bố, mẹ (2)                 Yêu thương (5)                     em  (3)                                  hạnh phúc (6)  ­ GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh trung bình và yếu để giúp các  em điều chỉnh.   Hoạt động 3: Học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình và nói  ­  GV gọi 2 em đại diện kể về gia đình mình trước lớp.   Ví dụ  : Gia đình mình có 6 người : Ông bà, bố mẹ tớ, anh Hà và tớ. Ông  bà mình đã lớn tuổi rồi. Bố mẹ tớ đều ở nhà làm ruộng. Anh Hà là học sinh lớp   7. Ông bà mình rất hiền, thường kể chuyện cho mình nghe. Mẹ  mình luôn bận   bịu với việc nhà, vì thế mình yêu mẹ lắm. Lúc nào rảnh việc học, mình lại giúp  đỡ bố mẹ. Gia đình mình rất hạnh phúc. ­ Cả lớp nhận xét, GV sửa lỗi và cách diễn đạt cho các em (nếu có sai sót). b. 2.3. Sử dụng “Bản đồ tư duy”: Ngoài việc sử dụng mạng ý nghĩa nêu trên, trong khi dạy tập làm văn lớp   3, tôi sử dụng bản đồ tư duy thay cho sơ đồ mạng ý nghĩa. Bản đồ tư duy là một  phương tiện trực quan, muốn xây dựng được nó để dạy tập làm văn, người giáo  viên cũng phải suy nghĩ, tìm tòi đặc biệt là các từ ngữ phục vụ theo yêu cầu của   từng chủ đề, đề  bài. Giáo viên thiết kế bản đồ  tư  duy cần phải đảm bảo đúng  
  11. kiến thức của từng bài, từng chủ  đề  và đảm bảo tính thẩm mĩ để  qua đó học   sinh tiếp nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang lại hiệu quả giờ học cao   hơn. Ví dụ khi dạy đề bài:  Nói, viết về người lao động trí óc (BT1, 2 ­ TV3 ­  Tập 2 – Tr38), các bước đi như đã trình bày ở trên, giáo viên sử dụng bản đồ  tư  duy như sau thay cho việc sử dụng mạng ý nghĩa:  Qua bản đồ  tư  duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ  liệu (các từ  ngữ phục  vụ cho đề bài) để hoàn thành bài nói về người lao động trí óc dễ dàng hơn.  Ví dụ  1: Cô em là bác sĩ làm việc tại bệnh viện huyện. Hằng ngày, cô đều  đến bệnh viện miệt mài với công việc của mình. Mỗi khi khám bệnh, cô ân cần   hỏi han người bệnh về tình trạng bệnh tật. Ai cũng khen cô khám bệnh rất giỏi,   kê đơn phát thuốc uống là khỏi ngay. Mọi người rất yêu quý cô. Em thật tự hào  về cô của em. Ví dụ 2: Em muốn kể về cô giáo đang dạy lớp 3 của em. Hàng ngày, cô lên  lớp dạy chúng em học, bài nào chưa hiểu, cô tìm mọi cách để giảng giải, hướng   dẫn chúng em đến hiểu thì thôi. Cô thu từng chồng vở tập làm văn của chúng em  mang về, em đoán rằng cô chắc phải thức cả đêm để chấm bài, để sửa từng câu  chữ cho chúng em. Rồi cô còn soạn bài cho buổi học ngày mai…Cô là một người  giáo viên tận tụy, hết lòng vì học sinh thân yêu. Nhớ ơn cô, chúng em luôn chăm  chỉ học tập để cô vui lòng.  Hoặc khi dạy bài: Kể về một buổi biểu diễn nghệ thuật (BT1, 2 ­TV3 ­  tậpII ­ tr 48), giáo viên thực hiện các bước như sau:  ­ Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu   của bài tập: Kể về buổi biếu diễn nghệ thuật (Hoặc buổi biểu diễn văn nghệ ở  trường em).
  12. ­ Học sinh tập trung động não nghĩ về  buổi biểu diễn và viết ra bất kỳ  những từ ngữ nào liên quan đến buổi biểu diễn. ­ Giáo viên treo bảng phụ  vẽ  bản đồ  tư  duy lên bảng. Giới thiệu cho học   sinh biết một số từ ngữ liên quan đến biểu diễn nghệ thuật. Học sinh nhìn bản  đồ tư duy, tự suy nghĩ và hồi tưởng. ­ Yêu cầu học sinh từ một từ trong bản đồ, viết ít nhất một câu về chủ đề  biểu diễn nghệ thuật. ­ Học sinh ghi vào giấy nháp về buổi biểu diễn. ­ Giáo viên gọi một vài em kể về buổi biểu diễn cho cả lớp nghe.  ­ Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung. Chẳng hạn: Chủ nhật tuần trước em được bố  mẹ cho đi xem xiếc. Mở  mà   là tiết mục đu dây của một cặp diễn viên nam nữ. Họ  thật là dũng cảm khi đu  trên sợi dây tít trên cao. Sau đó là tiết mục xiếc thú: nào khỉ  đi xe đap, chó làm   toán, voi đá bóng… tiết mục nào cũng thật là hấp dẫn. Em thích nhất là tiết mục   biến giấy thành hoa, thành chim bồ câu. Người diễn viên thật khéo léo trong khi   biểu diễn. Em rất thán phục các diễn viên biểu diễn trong ngày hôm đó. Hoặc: Cứ  đến 20/11 hằng năm, trường em lại tổ chức đem văn nghệ  chào   mừng ngày Nhà giáo Việt Nam. Đúng 7 giờ thì khai mạc buổi biểu diễn. Sau đó   là lần lượt tiết mục của các lớp. Bạn Hồng Nhung lớp 3D với tiết mục hát đơn   ca “Bông hồng tặng cô” mượt mà, tình cảm. Tiết mục kể chuyện “Bác Hồ  đến  thăm trại nhi đồng” của em Thanh Thùy lớp 2C thật truyền cảm, xúc động. Em  thích nhất là tiết mục tam ca “Tiếng hát bạn bè mình” của lớp em. Các bạn vừa  hát, vừa biểu diễn rất chuyên nghiệp. Rồi còn các tiết mục múa của các em lớp   một thật uyển chuyển, dễ  thương. Thật là một buổi biểu diễn đầy ý nghĩa để  dânh tặng các thầy cô. *Lưu ý: Học sinh lớp Ba tư duy chưa nhanh, suy nghĩ để tìm ra các từ  ngữ  phục vụ  cho đề  bài chưa nhiều nên học sinh khó vẽ  được bản đồ  tư  duy hoàn  
  13. chỉnh. Bởi vậy trong khi dạy Tập làm văn muốn đạt hiệu quả, tôi chuẩn bị bản   đồ tư duy hoặc sơ đồ mạng ý nghĩa sẵn, sau khi hướng dẫn xong thì có thể xóa  đi và yêu cầu học sinh áp dụng vào để  tự  làm bài. Đối với những học sinh khá  giỏi, tôi hướng dẫn các em vẽ bản đồ tư duy trong một số bài học nhưng không  yêu cầu quá cao đối với học sinh. Nếu học sinh vẽ được bản đồ tư duy phục vụ  cho bài học thì giáo viên cần định lượng thời gian phù hợp để các em hoàn thành,   tránh tình trạng lạm dụng vẽ rồi không đạt yêu cầu đề bài nêu ra.  ­ Về khả năng áp dụng của sáng kiến:  Để  thực hiện được các biện pháp trên, mỗi giáo viên phải là người nắm  chắc kiến thức, hiểu rõ những điều mà đề bài yêu cầu; là người tổng hợp được   kiến thức các môn học để  giúp học sinh nhanh chóng hiểu và làm theo yêu cầu  của mỗi đề bài. Mỗi học sinh phải tham gia tích cực, giàu trí tưởng tượng, vận động tư  duy theo yêu cầu của giáo viên, từ  đó mới nhanh chóng tìm được các từ  ngữ  thuộc chủ đề và hoàn thành bài nói (viết) trong thời gian quy định. Để  thực hiện tốt các bài tập dựa vào mạng ý nghĩa hay bản đồ  tư  duy,  trong các tiết dạy các phân môn khác của môn Tiếng Việt như  Tập đọc, Kể  chuyện, Luyện từ  và câu, người giáo viên phải giúp học sinh nắm được các từ  ngữ  thuộc chủ  điểm đang học, từ  đó có vốn từ  phục vụ  cho việc hiểu mạng ý  nghĩa hay bản đồ tư duy mà giáo viên đưa ra trong tiết Tâp làm văn cuối tuần. Các biện pháp trên nên thực hiện đồng bộ, thường xuyên trong giờ  dạy   Tập làm văn, phối hợp với sử dụng SGV như là một đồ dùng dạy học. Ngoài ra,   các biện pháp đưa ra phải phù hợp với khả  năng của học sinh thì mới đạt hiệu  quả cao.  8. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Rèn cho học sinh kỹ  năng diễn đạt bằng lời nói (viết) về  một chủ  đề  thuộc các chủ  điểm của môn học: Nói, viết về  thành thị  hoặc nông thôn thuộc  chủ điểm Thành thị và Nông thôn; Kể về gia đình thuộc chủ  điểm Mái ấm; Kể  về một buổi thi đấu, kể về lễ hội, … Xem xét cách triển khai câu hỏi gợi ý ở mỗi đề, chúng ta có thể  thấy dạng  đề này hầu như là sự  kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tường thuật, thuyết   minh và phát biểu cảm nghĩ. Trong sách giáo viên, các kiểu đề này chủ yếu được  tiến hành theo một trình tự như sau: ­ Giáo viên giới thiệu bài: ­ Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài: + Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập
  14. + GV cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong SGK hay hệ thống câu  hỏi trong SGV hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài. + Một học sinh kể mẫu và giáo viên nhận xét ­ Học sinh tập nói theo tổ (nhóm). ­ Đại diện một số nhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét. ­ Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết. Trình tự  dạy học như  vậy bài nào cũng giống bài nào, dẫn đến sự  nhàm   chán, thiếu sự sáng tạo và không tích hợp được các phân môn học khác của môn  Tiếng Việt. Khi dạy dạng đề  này, ngoài phương án được nêu trên (trong sách giáo  viên), tôi đã tham khảo một số kinh nghiệm trên mạng internet của đồng nghiệp  và của chính bản thân, trước hết là nghiên cứu dạy thật tốt các phân môn khác  trong môn Tiếng Việt, sau đó sử  dụng mạng ý nghĩa và bản đồ  tư  duy để  giúp  học sinh tìm kiếm và phát triển diễn đạt ý tưởng, giúp cho các em khi làm bài  tập làm văn dạng  “Kể hay nói, viết về  một chủ đề” có thêm vốn từ  ngữ, giúp  cho các em dựa vào mạng ý nghĩa hay bản đồ  tư  duy, có thể  nói (viết) thành  đoạn văn theo yêu cầu đề  bài một cách dễ  dàng hơn, tạo sự  mạnh dạn tự  tin   trong học tập. 9. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:  9.1. Đánh giá thực trạng của các nhà trường khi chưa áp dụng sáng kiến: a. Thuận lợi, khó khăn * Thuận lợi về phía giáo viên ­ Đặc trưng phân môn Tập làm văn là hình thành và rèn luyện cho học sinh  khả năng trình bày văn bản nói (viết) ở nhiều thể loại khác nhau. Để  thực hiện   mục tiêu đó, mỗi giáo viên không ngừng học hỏi, cải tiến phương pháp và hình  thức tổ  chức dạy học để  giúp học sinh nắm được kiến thức, nói (viết) được  đoạn văn theo yêu cầu. ­ Giáo viên luôn quan tâm chăm sóc học sinh trong từng tiết học, nghiên cứu  nội dung bài dạy, lựa chọn các phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với mỗi  đối tượng học sinh. ­ Qua các phương tiện thông tin  đại chúng, qua bồi dưỡng chuyên môn   thường xuyên, giáo viên luôn được tiếp cận với những phương pháp day học đổi  mới, phát  huy tính tích cực sáng tạo của học sinh. * Thuận lợi về phía học sinh
  15. ­ Ở lứa tuổi học sinh lớp 3, các em rất thích tìm tòi, học hỏi. ­ Nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm  văn nói riêng rất phong phú. Sách giáo khoa kênh chữ  rõ ràng, các câu hỏi sát  thực; kênh hình được trình bày đẹp phù hợp tâm lí lứa tuổi. ­ Học sinh đã được làm quen kĩ năng tạo lập văn bản ở các lớp dưới. Đây là   cơ sở giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3. * Khó khăn về phía giáo viên ­ Trong giảng dạy phân môn Tập làm văn, khi rèn kĩ năng nói, viết cho học   sinh giáo viên có đầu tư nghiên cứu mục tiêu từng bài dạy, lựa chọn các phương  pháp phù hợp với đối tượng học sinh nhưng sự đầu tư chưa sâu, hầu hết chỉ dựa   vào sách giáo viên nên hiệu quả môn dạy chưa cao. ­  Một số  đề  bài chưa thực sự  gần gũi với học sinh như  kể  về  một ngày   hội, viết tin thể  thao… thiếu thực tế  nếu giáo viên chỉ  nói suông thì học sinh  không hiểu, không nắm bắt được nên hiệu quả chưa cao. ­ Việc tổ  chức giờ  học trên lớp của giáo viên chưa phát huy dược vốn   ngôn ngữ vốn có của các em cũng như  chưa khơi dậy  ở  học sinh sự mạnh dạn   tự tin trong học tập. * Khó khăn về phía học sinh   ­ Môn tập làm văn là một môn khó, nhiều em còn ngại làm văn, lười suy  nghĩ nên ở các giờ học các em còn ngại phát biểu, viết bài sơ  sài. Cách dùng từ  đặt câu chưa đúng, viết đoạn văn còn nghèo ý, chưa có sự sáng tạo. Hầu hết học   sinh chỉ trả lời hay viết đúng theo câu hỏi gợi ý. Đây là những vấn đề  nan giải đòi hỏi người giáo viên phải có biện pháp  thích hợp để từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Tập làm văn. b. Thành công, hạn chế  Đối với học sinh Khi tôi vận dụng các biện pháp này trong giờ  dạy Tập làm văn, học sinh   buộc phải có sự tư duy động não suy nghĩ vấn đề mà giáo viên nêu ra, tìm tòi các  từ ngữ, hình ảnh phù hợp với chủ đề trong bài nói, viết. Học sinh phải sắp xếp   ý, hình ảnh phù hợp sau đó sắp xếp câu để thành đoạn văn phù hợp chủ đề. Tóm   lại biện pháp này giúp học sinh học tập rất tích cực, hiệu quả. ­ Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Qua kiểm   tra, chất lượng các bài văn của học sinh nâng lên rõ rệt. Bài Tập làm văn dạng  Kể hay nói, viết về một chủ đề đã có những ý tưởng độc lập, sáng tạo, có màu  
  16. sắc riêng; một số  em còn có những ý tưởng độc đáo, mới lạ. Hầu hết học sinh   đã biết nói (viết) một đoạn văn ngắn theo chủ  đề, diễn đạt khá lưu loát, trôi  chảy. ­  Ở  các tiết học Tập làm văn, khi đã làm quen với cách học này, học sinh   mạnh dạn, tự  tin hơn trong học tập cũng như  giao tiếp nhất là đối với những   học sinh trung bình và yếu.   ­ Khi vận dụng các giải pháp trên vào dạy Tập làm văn  ở  lớp 3, giờ  học   không trầm như trước mà học sinh chú ý học hơn nhiều, qua thực hành giao tiếp   cho thấy khả năng hoạt động học tập của học sinh rất tích cực, hiệu quả, chất  lượng phân môn Tập làm văn và môn Tiếng Việt nói chung được nâng lên rõ rệt.  Đối với giáo viên Khi dạy các bài tập dạng này, giáo viên hoàn thành mục tiêu bài dạy, không  còn cảm thấy áp lực vì học sinh đã viết được đoạn văn theo yêu cầu dễ  dàng  hơn.  Hạn chế Phương pháp này yêu cầu người giáo viên phải tổng hợp được kiến thức từ  các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, đòi hỏi giáo viên phải có kĩ năng phân   tích, tổng hợp, tóm lại phải nắm chắc nội dung chương trình của môn Tiếng  Việt lớp 3. c. Mặt mạnh, mặt yếu: Giúp cho học sinh nói (viết) được đoạn văn đúng  chủ đề theo yêu cầu của đề bài. Học sinh phải nắm được các từ  ngữ  thuộc chủ  đề, mạnh dạn trình bày ý  kiến của bản thân. d. Nguyên nhân ­ Nguyên nhân thành công: Bản thân tích cực tìm tòi học hỏi, nghiên cứu kĩ  chương trình, sách giáo khoa và kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm. Đặc biệt có  sự  quan tâm của đồng nghiệp, của lãnh đạo nhà trường trong việc giúp đỡ  bản  thân trong công tác chuyên môn. ­ Nguyên nhân hạn chế: Một số  giáo viên chưa tổng hợp được kiến thức   trong quá trình giảng dạy, chưa thực sự  quan tâm đến chất lượng học sinh nói   chung và chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng. e. Phân tích, đánh giá về các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Vậy làm thế  nào để  thực hiện được mục tiêu dạy học của môn Tập làm  văn, khắc phục thực trạng học Tập làm văn như đã nói trên? Nhà xuất bản Giáo 
  17. dục Việt Nam đã phát hành bộ  sách Hướng dẫn dạy Tiếng Việt lớp 3 dành cho   giáo viên. Người giáo viên có thể lấy đó làm cơ sở để tham khảo, tiến hành thiết   kế  bài giảng Tập làm văn của lớp mình phụ  trách. Tuy nhiên, sách giáo viên  (SGV) khi hướng dẫn dạy dạng bài Kể hay nói, viết về một chủ đề hầu hết chỉ  hướng dẫn theo một cách, dẫn đến GV thụ  động kiến thức  ở  SGK,  SGV mà ít   tìm tòi đọc thêm tài liệu khác liên quan đến giảng dạy đặc biệt là khi dạy Tiếng   Việt nên ngôn ngữ  của giáo viên còn hạn hẹp, bí từ. Khi tổ  chức các hoạt động  trong giờ học, một số giáo viên chưa phân định được hoạt động nào là trọng tâm   nên hình thức tổ chức dạy còn dàn trải, chưa có sự  liên kết giữa các hoạt động.  Một số giáo viên chưa chịu khó suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng các phương pháp dạy   học và hình thức dạy học khác nhau vào các tiết dạy mà chỉ giảng dạy theo một  quy trình áp đặt rập khuôn đã hướng dẫn trong SGV. Một số  đề  bài trong Sách giáo khoa còn thiếu thực tế, xa rời vốn sống của   học sinh. Khi làm bài, các em chỉ dựa vào các hình ảnh, tư liệu mà giáo viên cung  cấp nên bài viết còn sơ sài, chưa có sự sáng tạo. Do cách tổ chức giờ học còn nhàm chám, rập khuôn nên trong giờ  Tập làm  văn, đa số  học sinh chỉ trả lời câu hỏi theo gợi ý mà ít chịu tìm tòi các chi tiết,  hình ảnh phù hợp chủ đề, dẫn đến nói, viết bài Tập làm văn cho có, lấy lệ. 9.2. Đánh giá kết quả đạt được sau khi áp dụng sáng kiến Khảo sát đầu năm về  môn Tiếng Việt, hầu hết phần viết học sinh chưa   đạt điểm cao, đặc biệt là phần tập làm văn. Cụ thể: Năm học TSHS Hoàn thành Chưa hoàn thành Ghi chú SL % SL % 2016­2017 33 26 78,8 7 21,2 Sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên, cuối năm học kết quả  phần viết   môn Tiếng Việt như sau: Năm học TSHS Hoàn thành Chưa hoàn thành Ghi chú SL % SL % 2016­2017 33 33 100 0
  18. Mạng ý nghĩa hay bản đồ  tư  duy giúp học sinh có căn cứ  để  hoàn thành   câu, tiến tới viết đoạn, bài.  Sau khi nhận lớp, tôi tiến hành khảo sát học sinh để nắm được thực trạng  đầu năm. Sau đó, áp dụng các giải pháp đã nêu ở trên, chất lượng phân môn Tập  làm văn được nâng lên rõ rệt. Những học sinh trước chỉ  trả  lời câu hỏi hoặc   không biết viết gì đã có thể dựa mạng ý nghĩa để sắp xếp ý, để nói (viết) được  đoạn văn hoàn chỉnh về chủ đề mà bài tập yêu cầu. Những học sinh khá, giỏi thì   đã có thể tự lập được mạng ý nghĩa hay bản đồ  tư  duy, viết được những đoạn   văn có hình ảnh, có sự sáng tạo, có cảm xúc mà tôi giới thiệu kèm theo bài viết   này. Đó là phần thưởng cho sự nỗ lực cố gắng của mỗi học sinh cũng như  của   bản thân tôi trong quá trình truyền dạy tri thức cho các em. 10. Danh sách tổ chức đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu  Số  Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực T áp dụng sáng kiến T 1 Phan Thị Hoa Mai Trường TH Đồng Tĩnh B ­  Giảng dạy môn Tiếng  Tam Dương ­ Vĩnh Phúc Việt lớp 3 qua phân môn  Tập làm văn Đồng Tĩnh, ngày 20 tháng 2 năm 2017 Đồng Tĩnh, ngày 20 tháng 2 năm 2017 Thủ trưởng đơn vị Tác giả sáng kiến Nguyễn Thị Chung Phan Thị Hoa Mai
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2