intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một vài biện pháp giúp học sinh giải tốt bài toán có lời văn lớp 3

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

86
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến Một vài biện pháp giúp học sinh giải tốt bài toán có lời văn lớp 3 để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung và đối với học sinh lớp 3 nói riêng. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để nắm nội dung của sáng kiến kinh nghiệm!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một vài biện pháp giúp học sinh giải tốt bài toán có lời văn lớp 3

  1.    A. PHÂN M ̀ Ở ĐÂU ̀      I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:      Bước vào thế  kỷ XXI cả loài người đang sẵn sàng cho một tương lai mới,  một nền văn minh tin học, một xã hội xây dựng trên nền tảng tri thức, quyền   lợi thuộc về  trí tuệ. Nói tới tương lai của chúng ta không thể  không nói đến  giáo dục vì đó là chìa khoá để mở cửa tiến vào tương lai.      Đất nước ta đã và đang bước vào thời kỳ  đổi mới, chất lượng giáo dục là   vấn đề  hàng đầu trong nội dung công tác của ngành giáo dục, là vấn đề  sống  còn của một đất nước, một dân tộc.     Ở nhà trường Tiểu học, mỗi môn học đều góp phần vào việc hình thành, vào  việc phát triển những cơ  sở  ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người  Việt Nam.       Trong các môn học  ở  Tiểu học, môn Toán có vị  trí cực kỳ  quan trọng  vì  những lí do sau: ­ Các kiến thức và kĩ năng của môn Toán, có nhiều  ứng dụng trong đời sống  sinh hoạt của mọi người dân lao động. ­ Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ  về  số  lượng, hình  dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có phương pháp  nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu   quả trong đời sống. ­ Môn Toán góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp tư  duy,  phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề góp phần phát triển trí  thông minh, độc lập, sáng tạo, góp phần vào việc hình thành các phẩm chất của  người lao động mới.      Việc dạy giải toán  ở  Tiểu học là một trong những nội dung trong chương   trình môn Toán  ở  Tiểu học nhằm giúp học sinh tiếp thu và vận dụng những   kiến thức về Toán, được rèn luyện kĩ năng thực hành với những yêu cầu được  thể  hiện một cách đa dạng phong phú. Dạy học Toán giúp học sinh có điều  kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư  duy và có đủ  tư  cách, phẩm chất của  con người mới.      Trong thực tế, chất lượng của bộ môn Toán nói chung và đặc biệt môn Toán  lớp 3 nói riêng đã có nhiều kết quả khả quan song chưa thực sự đáp ứng được  với nhiệm vụ và yêu cầu môn học đề ra. Cụ thể là chất lượng môn Toán lớp 3  ­ trường Tiểu học chưa thực sự tương xứng với vị trí của môn Toán lớp 3 trong   chương trình học. Đặc biệt là kỹ năng giải toán của học sinh lớp 3 chính là vấn  đề  cần quan tâm. Trước thực tế  như  vậy tôi luôn suy nghĩ: Làm thế  nào để  giúp học sinh nắm vững kiến thức và vận dụng vào trong giải toán, góp phần  nâng cao chất lượng học môn Toán của học sinh lớp 3, giúp các em có kỹ năng   giải toán với tinh thần tự giác và hứng thú học tập.                                                                                                                                                                 Trang 1
  2.         Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán   được thông qua những câu văn nói về  những quan hệ, tương quan và phụ  thuộc, có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài  toán có lời văn chính là ở  chỗ  làm thế nào để  lược bỏ  được những yếu tố  lời   văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm  sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong   bài toán và tìm được những lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp   số của bài toán.      Là một giáo viên  trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy ở  khối lớp 3, qua kinh  nghiệm của bản thân và học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, tôi   đã rút ra được: “Một vài biện pháp giúp học sinh giải tốt bài toán có lời văn  lớp 3”  để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung   và đối với học sinh lớp 3 nói riêng.     Trong quá trình nghiên cứu sẽ không tránh khỏi thiếu sót, tôi rất mong được  sự góp ý, nhận xét của Hội đồng khoa học, của các đồng nghiệp.      II. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI:          Nghiên cưu va đ ́ ̀ ưa ra cac biên phap cu thê, thiêt th ́ ̣ ́ ̣ ̉ ́ ực nhăm giup cho h ̀ ́ ọc   sinh giải tốt bài toán có lời văn lớp 3 ở trương Tiêu hoc. ̀ ̉ ̣      III. PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA ĐỀ TÀI:          Phạm vi áp dụng của đề tài là những biện pháp giúp học sinh giải tốt bài  toán có lời văn lớp 3 ở tiểu học.                                                                                                                                                                 Trang 2
  3.    B. PHÂN NÔI DUNG ̀ ̣      I. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY VÀ HỌC GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN  Ở  TRƯỜNG TIỂU HỌC.      1. Thực trạng chung của nhà trường: * Thuận lợi: ­ Nhà trường được sự  quan tâm của chính quyền địa phương, của hội phụ  huynh học sinh. ­ Ban giám hiệu nhà trường nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ  đạo sát sao việc dạy  học của giáo viên và học sinh. ­ Đội ngũ giáo viên trong trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến trẻ . ­ Về học sinh: nhìn chung các em đều ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập. * Khó khăn: ­ Nhiều phụ  huynh học sinh không có nghề  nghiệp kinh tế   ổn định, đời sống  kinh tế còn nhiều khó khăn. Chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ  đến việc   học tập cũng như chất lượng học tập của các em. ­ Nhiều gia đình đi làm ăn xa, gửi con cho ông bà chăm sóc do ông bà đã già yếu   nên không quán xuyến được việc học hành của các cháu. ­ Do tâm lý chung của học sinh Tiểu học còn ham chơi nên nếu không có sự  quan tâm của gia đình, nhà trường việc học hành của các em thì khó có hiệu  quả cao. ­ Về  đội ngũ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy   song còn gặp nhiều khó khăn do trình độ giáo viên còn chưa đồng đều.      2. Thực trạng của lớp:      Năm học năm học 2019­2020, tôi được phân công chủ nhiệm giảng dạy lớp  3. 100% học sinh đều đi học đúng độ  tuổi, có sức khoẻ tốt, các em đều có nề  nếp, ý thức học tập. Các em biết vâng lời kính trọng thầy cô giáo, yêu lao   động, tham gia đầy đủ  các hoạt động ngoài giờ  lên lớp và các phong trào thi                                                                                                                                                                  Trang 3
  4.    đua. Các em đều là những học sinh được tiếp cận với chương trình Tiểu học  mới nên có nhiều thuận lợi cho giáo viên trong quá trình giảng dạy.      Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nghiệp, tôi nhận  thấy:      + Việc tóm tắt, tìm hiểu đề  đang còn nhiều khó khăn đối với một số  học  sinh trung bình và yếu của lớp 3. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa   cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp…     + Thực tế trong một tiết dạy 40 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều  – phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả  lời không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán.     + Tuy môn Toán đạt gần 100% từ trung bình trở lên, song số điểm giỏi chưa  nhiều, điểm đạt yêu cầu chủ yếu ở phần giải toán đơn, học sinh mắc lỗi nhiều  ở phần giải toán trong luyện tập và kiểm tra, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng   môn Toán.      3. Nguyên nhân:      Qua thực tế khảo sát tôi nhận thấy: ­ Nhiều học sinh chưa nghiên cứu kĩ đề  toán, nhiều học sinh vốn tiếng Việt   còn hạn chế, nên việc xác lập mối quan hệ giữa các dữ  kiện của bài toán còn  gặp nhiều khó khăn. ­ Một số học sinh chưa nắm chắc hệ thống các bài toán đơn đã được học, dẫn  đến còn lúng túng trong việc phát hiện mối quan hệ logic giữa các bài toán này. ­ Học sinh còn thiếu tự tin trong việc tìm cách giải, còn bị  hạn chế trong việc   lựa chọn các phép giải. ­ Các em chưa chú ý đến khâu kiểm tra, thường coi rằng bài toán đã giải xong   khi tính ra đáp số của bài. ­ Trong quá trình giảng dạy môn toán, giáo viên còn coi nhẹ một số bước trong   quá trình giải toán như: Tìm hiểu đề  toán, kiểm tra cách giải toán, nên nhiều   học sinh mắc những lỗi không đáng có. Giáo viên chưa quan tâm đến việc rèn   kĩ năng giải toán cho học sinh.  Đây là những nguyên nhân cơ  bản  ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giải  toán của học sinh. Khắc phục được những nguyên nhân trên có ý nghĩa hết sức  quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học, nhằm thực hiện  mục tiêu đào tạo con người mới, năng động, tự chủ, sáng tạo. Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, giúp các em học sinh có  hứng thú trong học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, tôi đã  mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp trong giảng dạy như sau:        II. MỘT SỐ  BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT DẠNG BÀI  GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 3:                                                                                                                                                                 Trang 4
  5.         1. Trao đổi với phụ huynh – Thống nhất biện pháp giáo dục.      1.1. Mục tiêu.        Chúng ta đều biết học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng  đến trường còn phụ  thuộc nhiều vào sự  quan tâm, nhắc nhở  của cha mẹ  và  thầy cô. Phần nhiều các em chưa chủ  động trong việc học tập. Chính vì vậy  giáo dục ý thức tích cực học tập cho các em là một yếu tố  không kém phần  quan trọng giúp các em học tốt hơn.      1.2. Cách tiến hành.       Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học của   nhiều em chưa cao. Để  thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” của ngành  giáo dục và giúp cho phụ huynh có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con  cái, tôi đã mạnh dạn trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của  lớp và những yêu cầu cần thiết giúp các em học tập như: Mua sắm đầy đủ  sách vở, đồ dùng – cách hướng dẫn các em tự học ở nhà, đặc biệt nhất là đối   với các ông bố  vào buổi tối cố  gắng bớt đi một chút thời gian chuyện trò với  bạn bè, tắt (vặn nhỏ  đài, ti vi) dành thời gian nhắc nhở, quan tâm cho các em   học tập… Rất mừng là đa số phụ huynh đều nhiệt liệt hoan nghênh biện pháp   trên vì lâu nay các phụ huynh còn đang vướng mắc nhiều về cách dạy học cho   các em. Riêng trong phần bài tập của sách Toán, tôi hướng dẫn phụ huynh cách  dạy các em luyện nêu miệng các đề toán, luyện nói và trả lời nhiều…      Tuy nhiên, cuộc họp phụ huynh lần này vẫn còn một số  gia đình vắng mặt   do có việc đột xuất, do chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc học và do  điều kiện gia đình còn nhiều khó khăn nên phó mặc việc học của con cái cho   giáo viên, cho nhà trường. Đối với những phụ huynh vắng mặt này, tôi tìm cách   gặp gỡ, trao đổi tại nhà. Trong số  đó có gia đình trao đổi họ  lung túng không  biết cách dạy con như thế nào nữa mà chỉ biết nhắc nhở con: “Học bài đi” rồi  con học gì, làm gì ở bàn học bố mẹ cũng không hay. Đối với những em này, tôi  phải hướng dẫn nhiều hơn ở lớp để về nhà các em tự học.      2. Giúp HS phân biệt rõ các dạng toán và chuẩn bị cho việc giải toán.      2.1. Mục tiêu.      Hai loại toán ở lớp 3 nói riêng và ở Tiểu học nói chung là: Toán đơn và toán  hợp. Mỗi loại toán này có vai trò quan trọng của nó. Việc giải các bài toán hợp  thực chất là giải một hệ  thống các bài toán đơn. Có kĩ năng giải các bài toán  đơn, học sinh mới có cơ sở giải các bài toán hợp. Do đó giáo viên cần giúp học  sinh hiểu rõ bản chất bài toán đơn để  vận dụng giải các bài toán phức tạp sau   này.      2.2. Cách tiến hành.       Ở  lớp 3, cùng với việc học phép nhân, chia, học sinh sẽ  giải các bài toán   đơn dùng phép nhân hoặc chia. Trong các đầu bài toán bằng lời văn, học sinh                                                                                                                                                                   Trang 5
  6.    thường gặp những từ  chìa khoá như: "Gấp lên, giảm đi bao nhiêu lần", "So  sánh hơn, kém bao nhiêu lần". Các từ  này thường được gợi ra phép nhân, chia  tương  ứng. Giáo viên cần chú ý học sinh tránh lẫn lộn " Bao nhiêu lần" với  "Bao nhiêu đơn vị" và hiểu đúng khái niệm này. Củng cố thói quen đọc và hiểu  đúng đề  bài để  ngăn ngừa tác dụng "Cảm  ứng" của các từ  "Chìa khoá". Giáo  viên giúp học sinh nắm vững ý nghĩa của phép nhân và phép chia đồng thời giúp  học sinh hiểu đúng các từ quan trọng trong đề toán.       Ở lớp 3, các bài toán đơn "Tìm một trong các phần bằng nhau của một số"  gắn với phép chia. Đối với học sinh lớp 3, tư  duy còn thiên về  cụ  thể  nên hai  loại bài toán "chia thành phần bằng nhau" và "chia theo nhóm" tuy đồng nhất  về  mặt ý nghĩa toán học và đều giải bằng phép tính chia, nhưng lại là hai bài  toán khác nhau về mặt ý nghĩa cụ thể. Tuy nhiên khi giải, giáo viên cần hướng   dẫn học sinh vượt qua sự khác biệt về mặt tâm lí để tập trung chú ý vào việc   tìm ra và thực hiện đúng phép tính thích hợp, còn việc tìm ra từ thích hợp (phép  chia), còn việc tìm ra từ thích hợp để "danh số" hoá số thương thì chủ yếu dựa   vào kinh nghiệm sống.      Mặt khác, đối với lớp 3, do tư duy của học sinh đã có những tiến bộ, song   vốn ngôn ngữ  vẫn còn hạn chế, nên việc nâng cao dần dần các yêu cầu về  kiến thức và kĩ năng một cách vừa sức học sinh, các yêu cầu về trừu tượng hoá   cần được chú ý, nhất là diễn tả các điều kiện, việc sử dụng sơ đồ  đoạn thẳng  và tia số, thay dần các hình vẽ tượng trưng, cần được coi như một công cụ phổ  biến, tinh lược hoá những từ ngữ của đề toán, giúp các em tiếp cận tốt hơn với  nội dung đề bài toán. Từ đó dẫn đến định hướng cách giải toán.      Khi học sinh nắm vững cách giải các bài toán đơn, có thể  gợi cho học sinh  khá, giỏi dùng chữ  thay dữ  kiện (ở  các bài có cấu trúc giống nhau), diễn đạt  các cấu trúc toán học, từ đó củng cố  ý thức về việc sử dụng các công cụ, thủ  thuật toán học giống nhau khi giải chúng. Việc sắp xếp các bài toán đơn mà khi  giải học sinh phải vận dụng các phép tính ngược sẽ  giúp các em nâng cao và  củng cố nhận thức về mối quan hệ giữa các phép tính ngược.      Việc sử dụng hình vẽ hay sơ đồ để minh hoạ các điều kiện của bài toán là   có ích với học sinh lớp 3 nói riêng, với học sinh Tiểu học nói chung. Tuy nhiên   cần phải hiểu rõ tác dụng của chúng (là chỗ dựa cho suy luận) trong việc giải   toán. Đối với các bài toán dễ  hay đã nắm vững cách giải cần chú ý đến phát  huy trí tưởng tượng của học sinh, từng bước thay đổi chỗ  dựa trực quan bằng   hình ảnh trong óc suy luận, vừa giúp học sinh mở rộng vốn hiểu biết vừa thúc  đẩy quá trình tư duy của học sinh.      3. Giúp học sinh nắm được quá trình giải toán.      3.1. Mục tiêu. Cái khó của việc giải bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ  được những yếu tố lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói                                                                                                                                                                  Trang 6
  7.    một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán  học chứa đựng trong bài toán và tìm được những lời giải phép tính thích hợp để  từ  đó tìm được đáp số  của bài toán. Do đó giáo viên cần giúp học sinh nắm   vững được quá trình giải toán.      3.2. Cách tiến hành.      Quá trình này thường được tiến hành theo các bước như sau : ­ Tìm hiểu nội dung bài toán. ­ Tìm cách giải bài toán. ­ Thực hiện cách giải bài toán. ­  Kiểm tra, đánh giá kết quả. Thực tiễn việc học giải toán đã khẳng định, sự  đúng đắn của các bước trong  việc giải toán nói trên. Để làm cho học sinh có thói quen và kĩ năng áp dụng sơ  đồ  đó, cần làm cho học sinh từng bước nắm được và thực hiện tốt trong quá  trình giải toán.      3.2.1.  Dạy học sinh tìm hiểu nội dung bài toán. Trước hết muốn tìm hiểu đầu bài, cần hiểu rõ cách diễn đạt bằng lời văn của  bài toán, các bài toán dưới dạng một bài văn viết, thường xen trộn 3 thứ ngôn  ngữ: Ngôn ngữ  tự nhiên, thuật ngữ  toán học và ngôn ngữ  kí hiệu (chữ  số, các  dấu phép tính, các dấu quan hệ  và dấu ngoặc), nên việc hướng dẫn đọc và  hiểu đầu bài toán rất quan trọng, nó giúp các em sử  dụng được ngôn ngữ  kí   hiệu đặc biệt, làm các em hiểu được nghĩa của các thuật ngữ  và kí hiệu sử  dụng đúng. Để kiểm tra học sinh đọc và hiểu đầu bài toán, giáo viên nên yêu cầu học sinh   nhắc lại nội dung đầu bài, không phải học thuộc lòng mà bằng cách diễn tả  bằng ngôn ngữ của mình, tiến tới trước khi tìm cách giải cho học sinh, học sinh   đã nhập tâm đầu bài toán để tập trung suy nghĩ về nó. Mỗi bài toán đều có 3 yếu tố cơ bản: Dữ kiện là những cái đã cho đã biết trong  đầu bài, những ẩn số là những cái chưa biết và cần tìm (các ẩn số  được diễn   đạt dưới dạng câu hỏi của bài toán) và những điều kiện là quan hệ giữa các dữ  kiện và  ẩn số. Hiểu rõ đầu bài là chỉ  ra và phân biệt rành mạch 3 yếu tố  đó,   từng bước thấy được chức năng của mỗi yếu tố trong việc giải bài toán. Ví dụ: Bài toán 4 ( SGK Toán 3 – trang 56) Có ba thùng dầu, mỗi thùng chứa 125 lít, người ta đã lấy ra 185 lít dầu từ  các   thùng đó. Hỏi còn lại bao nhiêu lít dầu ? Với bài toán trên học sinh cần xác định được: Cái đã cho (dữ kiện) là số lít dầu ở mỗi thùng: 125 lít. Điều kiện: đã lấy ra từ các thùng dầu đó 185 lít dầu.                                                                                                                                                                 Trang 7
  8.    Cái cần tìm (ẩn số): còn lại bao nhiêu lít dầu?  Trên cơ sở phân biệt rõ cái gì đã cho (dữ kiện), cái gì là điều kiện, cái cần tìm  (ẩn số) để tập trung suy nghĩ vào các yếu tố cơ bản này, cần giúp học sinh biết  tóm tắt đầu bài bằng cách ghi dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của bài toán dưới  dạng ngắn gọn cô đọng nhất. Tuyệt đại bộ  phận các bài toán ở  Tiểu học nói   chung,  ở  lớp 3 nói riêng, đều có những điều kiện để  minh hoạ  bằng sơ  đồ  (đoạn thẳng, hình vẽ tượng trưng). Vì vậy học sinh phải từng bước biết minh   hoạ  phần tóm tắt bằng sơ  đồ, nhất là sơ  đồ  đoạn thẳng hoặc minh hoạ  trên  trục số. Ví dụ:  Bài toán 3 (SGK toán 3 trang 166 ) Một hình chữ  nhật có chiều dài 12 cm, chiều rộng bằng 1/3 chiều dài. Tính  diện tích hình đó. Sau khi đọc kĩ đề bài, xác định được dữ kiện, điều kiện và ẩn số của bài toán,  học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng như sau:   Từ sơ đồ trên học sinh đã thể hiện đầu bài toán một cách ngắn gọn và cô đọng  nhất, đây là một yếu tố quan trọng giúp học sinh tìm tòi cách giải bài toán. Giáo  viên tập cho học sinh có thói quen từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu  tố  cơ  bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ  kiện và điều kiện  cần thiết có liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ  kiện không tường  minh, để diễn đạt chúng một cách rõ ràng hơn. Quá trình tìm hiểu đầu bài và tìm tòi lời giải kết hợp với nhau một cách chặt  chẽ. Nhiều trường hợp, khi tìm cách giải, học sinh gặp khó khăn phải trở  lại  tìm hiểu đầu bài, tìm hiểu dữ kiện và điều kiện.     3.2.2. Hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán.     Từ  việc giải một bài toán đơn sang bài toán hợp, học sinh phải giải quyết   một nhiệm vụ  khó khăn là phân tích bài toán hợp thành các bài toán đơn. Trên  tinh thần dạy học phát triển, việc làm cho các em nắm được các phương pháp  chung và các thủ thuật cơ bản thường dùng để giải các bài toán đa dạng nhưng   thường gặp và có những mức độ  phức tạp khác nhau là rất cần thiết. Để  giải  quyết được vấn đề này, giáo viên cần giúp học sinh biết  dẫn về một bài toán   đã biết cách giải. Khi giải một bài toán mới, học sinh biết dẫn nó về một bài  toán mà các em đã biết cách giải, hoặc có thể liên tưởng tới những hành động  thực tiễn nào đó mà các em đã thực hiện, để  giải quyết một nhiệm vụ nào đó  thì các em có thể có một gợi ý về cách giải. Ví dụ 1: Bài toán 2 phần a ( SGK toán 3 trang 38 ) Một cửa hàng buổi sáng bán được 60 lít dầu, số  lít dầu bán được trong buổi  chiều giảm đi 3 lần so với buổi sáng. Hỏi buổi chiều cửa hàng đó bán được   bao nhiêu lít dầu ?                                                                                                                                                                 Trang 8
  9.    Khi giải bài toán này qua phân tích hai điều kiện của bài toán và tập trung chú ý  vào hai điều kiện, các em dẫn tới những bài toán đã học về: "Tìm một phần   mấy của một số" để tìm số lít dầu bán được vào buổi chiều  (60 : 3 = 20 l.) Ví dụ 2: Bài toán 2 (SGK toán 3 trang 88) Người ta uốn một đoạn dây thép vừa đủ  thành một hình vuông cạnh 10cm.  Tính độ dài đoạn dây được. Đối với bài toán trên, các em cần phân tích các dữ  kiện đã biết, kết hợp quan  sát giáo viên thao tác trực quan trên mô hình để  nhận thấy độ  dài đoạn dây  chính là chu vi hình vuông được tạo thành. Từ  đó các em biết dẫn về  bài toán  đã biết “Chu vi hình vuông” để tìm được độ dài đoạn dây thép (10 x 4 = 40 cm) Bên cạnh đó việc quan sát và dự  đoán trong quá trình tìm ra lời giải cũng rất   quan trọng. Quan sát các dữ kiện có vai trò quyết định trong việc tìm ra lời giải   của bài toán. Ngoài ra, trong sách giáo khoa toán 3, bên cạnh phần lớn các bài toán dành cho   học sinh trung bình, còn một số  bài toán mà các dữ  kiện thường nhiều hơn,   phức tạp hơn, nhiều khi không được đưa ra trực tiếp hoặc tường minh. Việc  tìm phương pháp giải nhiều khi phụ  thuộc vào việc tìm ra "điểm nút" để  tập  trung tháo gỡ ra, việc lựa chọn con đường đúng đắn để tiếp cận nó. Muốn vậy   phải biến đổi bài toán, với một số biến đổi thường được dùng ở Tiểu học. Ví dụ : Bài toán 3 (SGK toán 3 trang 88) Mỗi viên gạch hình vuông có cạnh 20cm. Tính chu vi hình chữ nhật ghép bời 3   viên gạch như thế. Đây là bài tập vận dụng của bài “Chu vi hình vuông” nên không ít học sinh máy  móc đã vận dụng quy tắc tính chu vi hình vuông vừa học để tìm chu vi một viên  gạch, sau đó lấy chu vi một viên gạch gấp lên 3 lần để ra chu vi hình chữ nhật.  Và các em không hề nhận ra phương pháp giải của mình là sai lầm. Để  giải quyết vấn đề  này, theo tôi “nút thắt” cần tháo gỡ  chính là giúp học  sinh so sánh tìm ra điểm khác nhau giữa chu vi hình chữ  nhật được ghép từ  3   viên gạch hình vuông và tổng chu vi của 3 viên gạch hình vuông. Giáo viên cho   học sinh chỉ trên hình vẽ, và đồ lại bằng phấn màu để các em quan sát, so sánh   để nhận thấy tổng chu vi 3 viên gạch hơn chu vi hình chữ nhật cần tìm là 4 lần  cạnh viên gạch hình vuông. Từ đó các em phát hiện ra điểm sai lầm trong cách   giải nêu trên và tìm ra con đường đúng để tìm tòi lời giải cho bài toán : Trước   tiên cần xác định chiều rộng (cạnh viên gạch hình vuông : 10cm) và tìm chiều  dài ( 10 x 3 = 30 cm) của hình chữ nhật, sau đó đưa về bài toán tìm chu vi hình  chữ nhật để tìm ra đáp số.      3.2.3. Hướng dẫn học sinh thực hiện giải bài toán.      Khi thực hiện kế  hoạch giải bài toán, học sinh còn dựa vào các thủ  thuật  (hay phép) giải thích đối với từng khâu trong kế hoạch để đi đến kết quả mong                                                                                                                                                                  Trang 9
  10.    muốn. Đối với một số bài toán có cấu trúc riêng, thường sử dụng các thủ thuật  (phép) giải riêng. Với đặc điểm trình độ  tư  duy của học sinh lớp 3, việc sử  dụng phương pháp chung dưới hình thức các phép thích hợp với lứa tuổi sẽ  mang lại kết quả mong muốn. Một số phương pháp phù hợp hay được sử dụng  là:           + Tìm lời giải bằng sơ đồ: Ở  lớp 3, các bài toán đều mang tính chất đơn giản nên các dữ  kiện và điều   kiện của nhiều bài toán có thể diễn đạt trực quan bằng sơ đồ đoạn thẳng, loại  sơ  đồ  này được dùng phổ  biến làm chỗ  dựa cho việc tìm kế  hoạch giải bài  toán hoặc một phần bài toán. Trong nhiều bài toán liên quan đến việc so sánh, xếp thứ tự việc dùng tóm tắt   thay cho sơ đồ  đoạn thẳng, để  biểu diễn quan hệ giữa các số, tỏ  ra thích hợp  và mang lại kết quả tốt hơn. Ví dụ: Bài 3 (SGK toán 3 trang 58) Thửa ruộng thứ  nhất thu hoạch được 127 kg cà chua, thửa ruộng thứ  hai thu  hoạch được nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi thu hoạch   ở cả hai thửa ruộng được bao nhiêu ki­lô­gam cà chua ? Để giải bài toán này giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ. Sau khi đọc kĩ đề  bài ta thấy: Nếu coi số cà chua thu hoạch  ở  thửa ruộng thứ  nhất là 1 phần thì số cà chua thu hoạch ở thửa ruộng thứ  hai sẽ là 3 phần bằng  nhau. Ta có sơ đồ:                               Từ sơ đồ trên ta dễ nhận thấy mối quan hệ giữa số ki­lô­gam cà chua của  hai thửa ruộng, từ đó có thể nêu ra cách giải toán:                                              Bài giải:     Thửa ruộng thứ hai thu hoạch được số ki­lô­gam cà chua là:                                   127 x 3 = 381 (kg).     Cả hai thửa ruộng thu hoạch được số ki­lô­gam cà chua là:                                   127 + 381 = 508 (kg).                                                       Đáp số: 508 kg cà chua.        + Lựa chọn và kết hợp các phép giải: Khi điều khiển quá trình dạy học sinh giải toán, giáo viên cần phải động viên  học sinh cố gắng, tự tin tìm ra cách giải toán, tự tìm ra các thủ thuật thích hợp,  biết mò mẫm, quan sát, phỏng đoán, huy động các kinh nghiệm đã có để tìm ra  lời giải. Việc hướng dẫn các em giải toán, trước hết là học sinh khá giỏi, biết  từng bước dùng chữ  thay số cần tìm, diễn đạt quan hệ  bài toán bằng phương   trình và giải nó bằng thủ thuật thích hợp, vừa sức các em là điều cần chú ý.                                                                                                                                                                 Trang 10
  11.    Thực hiện giải bài toán bao gồm việc thực hiện các phép tính trong kế  hoạch  giải bài toán và trình bày bài giải. Theo chương trình toán hiện hành, thì mô  hình trình bày bài giải bài toán có lời văn ở lớp 3, mỗi phép tính, mỗi biểu thức   đều phải kèm theo câu lời giải, cuối bài có ghi đáp số. Ví dụ 1: Bài 3 (SGK Toán 3 trang 32) Mỗi lọ hoa có 7 bông hoa. Hỏi 5 lọ hoa như thế có bao nhiêu bông hoa ?                                                 Bài giải                    Năm lọ hoa như thế có số bông hoa là:                                    7 x 5 = 35 (bông hoa)                                                  Đáp số: 35 bông hoa. Ví dụ 2 : Bài 3 (SGK toán trang 106) Một đội trồng cây đã trồng được 948 cây, sau đó trồng thêm được bằng 1/3 số  cây đã trồng. Hỏi đội đó đã trồng được tất cả bao nhiêu cây ?                                               Bài giải                              Số cây đội đó trồng thêm là:                                       948 : 3 = 316 (cây)                            Đội đó trồng được tất cả số cây là:                                   948 + 316 = 1 264 (cây)                                                 Đáp số: 1 264 cây       3.2.4. Hướng dẫn học sinh kiểm tra, đánh giá kết quả.       Học sinh thường coi rằng bài toán đã giải xong, khi tính đáp số  hoặc tìm  được câu trả lời cho câu hỏi. Thế nhưng không phải học sinh nào cũng có niềm   tin chắc chắn vào kết quả mình tìm được, chỉ cần giáo viên hỏi vặn lại một và   câu là các em lại lúng túng, nghi ngờ cách giải của mình. Do đó kiểm tra cách  giải và kết quả bài toán là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán. Việc làm đó  giúp các em biết được kết quả bài làm cũng như cách giải bài toán của mình đã   đúng chưa, có phù hợp không. Việc kiểm tra, đánh giá cách giải bài toán phải  trở thành thói quen đối với học sinh ngay từ Tiểu học.      Ở lớp 3, cần tập cho học sinh biết nhìn lại toàn bộ bài giải, nhìn lại phương   pháp và các thủ thuật đã sử dụng (yêu cầu cao hơn ở lớp 1,2) để vừa kiểm tra   bài giải vừa nắm vững thêm cách giải.       Chú ý từng bước cho học sinh thói quen soát lại và suy nghĩ về  tính hợp lí   của cách giải đã chọn, tìm ra những chỗ dài dòng, chưa hợp lí để tìm cách cải   tiến, đặc biệt gây cho học sinh có thói quen tự  hỏi: "Có thể  giải bằng cách  khác không ?" Tìm được cách giải khác một mặt tạo điều kiện phát triển tư  duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. * Các hình thức thực hiện kiểm tra cách giải bài toán:                                                                                                                                                                 Trang 11
  12.    ­ Thiết lập tương  ứng các phép tính giữa các số  tìm được trong quá trình giải   với các số đã cho. ­ Tạo ra bài toán ngược với bài toán đã cho rồi giải bài toán đó. ­ Giải bài toán bằng cách khác. ­ Xét tính hợp lí của đáp số. Ví dụ: Bài 1 (SGK toán 3 trang 176). Một sợi dây dài 9 135 cm được cắt thành hai đoạn. Đoạn thứ nhất dài bằng 1/7   chiều dài sợi dây. Tính chiều dài mỗi đoạn dây ?                                           Bài giải                    Chiều dài của đoạn dây thứ nhất là:                                9 135 : 7 = 1 305 (cm).                    Chiều dài của đoạn dây thứ hai là:                                9 135 ­ 1 305 = 7 830 (cm).                                                         Đáp số: Đoạn thứ nhất: 1 305 cm.                                                                      Đoạn thứ hai:  7 830 cm. ­ Để  kiểm tra cách giải bài toán trên, giáo viên hướng dẫn học sinh thiết lập  tương  ứng giữa độ  dài đoạn dây thứ  nhất, độ  dài đoạn dây thứ  hai với chiều   dài của cả sợi dây. Ta thấy: 1 305 + 7 830 = 9 135 (cm). Dựa vào phép tính tương  ứng trên, ta khẳng định bài toán có cách giải và kết   quả đúng. ­ Để  kiểm tra cách giải bài toán trên, học sinh cũng có thể  giải bài toán bằng   cách khác. Chẳng hạn như :         Theo đầu bài ra ta có sơ đồ sau:  Ta thấy đoạn thứ  nhất dài bằng 1/7 sợi dây tức là cả  sợi dây chia ra thành 7   phần bằng nhau thì đoạn1 là một phần, suy ra đoạn 2 là sáu phần bằng nhau   vậy có thể tìm độ dài hai đoạn dây theo cách:                                                  Bài giải                                           Độ dài đoạn dây 1 là:                                           9 135 : 7 = 1305 (cm)                                            Độ dài đoạn 2 là:                                       1 305 x 6 = 7 830 (cm)                                                   Đáp số: Đoạn 1: 1 305 cm,                                                                 Đoạn 2: 7 830 cm.                                                                                                                                                                 Trang 12
  13.     Xét tính hợp lý của đáp số, ta thấy chiều dài của cả sợi dây, trừ đi độ dài của   đoạn 2, thì còn lại chiều dài của đoạn 1: 9 135 ­ 7 830 = 1 305 (cm). Từ đó ta khẳng định đáp số trên là kết quả đúng. * Hình thức kiểm tra, đánh giá. Như trên đã phân tích, ta thấy việc kiểm tra đánh giá lại bài làm là vô cùng cần   thiết. Cho nên hình thức tự kiểm tra được sử  dụng thường xuyên, và cần hình  thành cho mỗi học sinh thói quen tự  kiểm tra, đánh giá bài làm của mình. Bên   cạnh đó để việc kiểm tra, đánh giá đạt hiệu quả cao, không nhàm chán, các học  sinh có cơ hội giao lưu, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ thì giáo viên cũng có thể cho  học sinh kiểm tra, đánh giá lẫn nhau. Sau khi kiểm tra, các học sinh có thể đưa  ra lời nhận xét, góp ý phù hợp giúp bạn mình tiến bộ hoặc thông qua đó có thể  được nghe ý kiến hay của bạn để mình học tập.      4. Rèn kĩ năng giải toán cho học sinh:      4.1. Mục tiêu.             Việc rèn kĩ năng giải toán cho học sinh giúp hình thành năng lực khái quát   hoá và kĩ năng giải toán, rèn luyện năng lực sáng tạo trong giờ học tập cho học  sinh.      4.2. Cách tiến hành. Có thể tiến hành rèn kĩ năng giải toán cho học sinh bằng các cách sau : a. Giải các bài toán nâng dần mức độ phức tạp trong mối quan hệ giữa các số  đã cho và số phải tìm, hoặc điều kiện của bài toán b. Giải bài toán có nhiều cách giải khác nhau. c. Tiếp xúc với các bài toán thiếu và thừa dữ kiện hoặc điều kiện của bài toán d. Lập và biến đổi bài toán, hoạt động này có thể  tiến hành dưới những hình  thức sau: ­ Đặt câu hỏi cho bài toán mới chỉ biết dữ kiện hoặc điều kiện. ­ Đặt điều kiện cho bài toán. ­ Chọn số hoặc số đo đại lượng cho bài toán còn thiếu số liệu. ­ Lập bài toán tương tự với bài toán đã giải. ­ Lập bài toán ngược với bài toán đã giải. ­ Lập bài toán theo bảng tóm tắt hoặc sơ đồ minh hoạ. ­ Lập bài toán theo cách giải cho sẵn. Ví dụ  giáo viên đưa bài toán thiếu dữ  kiện : Túi gạo thứ  nhất bằng 1/3 túi  gạo thứ  hai. Hỏi túi gạo thứ hai đựng nhiều hơn túi gạo thứ nhất bao nhiêu ki­ lô­gam gạo ?                                                                                                                                                                 Trang 13
  14.              Ở bài toán này học sinh cần tìm hiểu đề  bài, phân tích để  thấy được bài  toán này thiếu dữ kiện. Túi gạo thứ nhất, túi gạo thứ hai đựng bao nhiêu ki­lô­ gam gạo chưa cụ  thể, mới chỉ có mối quan hệ  giữa số  gạo của hai túi, do đó   cần thêm dữ kiện vào và giải bài toán. Chẳng hạn, ta có thể  thêm dữ  kiện để  được bài toán như sau : Bài toán: Túi gạo thứ nhất đựng 8 kg gạo và bằng 1/3 số  gạo của túi thứ  hai.  Hỏi túi thứ hai đựng nhiều hơn túi thứ nhất bao nhiêu kilôgam gạo ?                                                       Bài giải                           Túi gạo thứ hai đựng số gạo là:                                       8 x 3 = 24 (kg)       Túi gạo thứ hai đựng nhiều hơn túi gạo thứ nhất số ki­lô­gam gạo là:                                      24 ­ 8 = 16 (kg)                                                     Đáp số: 16 kg gạo Ví dụ: Bài 3(SGK toán 3 trang 129) Lập bài toán theo tóm tắt sau rồi giải bài toán đó: Tóm tắt : 4 xe : 8 520 viên gạch.                3 xe : …...... viên gạch? Nhìn vào phần tóm tắt trên học sinh phát hiện ngay được bài thuộc dạng toán   “Toán hợp giải bằng hai phép nhân chia, có liên quan đến việc rút về  đơn vị”   và từ đó dễ dàng đặt được đề toán như sau :   Bài toán : Bốn xe ô tô chở  được 8 520 viên gạch. Hỏi 3 xe ô tô như  thế  chở   được bao nhiêu viên gạch?                                                       Bài giải                              Mỗi xe ô tô chở được số viên gạch là:                                     8 520 : 4 = 2 130 (viên gạch)                              Ba xe ô tô chở được số viên gạch là:                                     2 130 x 3 = 6 390 (viên gạch)                                                   Đáp số: 6 390 viên gạch      5. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập      5.1. Mục tiêu.      Đặc điểm chung của học sinh Tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế  chê các em trong học tập, rèn luyện. Do đó giáo viên cần động viên khích lệ kịp  thời giúp các em hứng thú trong học tập, từ đó các em sẽ chủ động và nâng cao   hiệu quả việc học giải toán có lời văn nói riêng và việc học nói chung.      5.2. Cách tiến hành.                                                                                                                                                                 Trang 14
  15.         Đối với những em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự  ti, vì vậy tôi luôn luôn   chú ý nhắc nhở, gọi các em trả  lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ  cần các em có  một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ  và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những em học khá, giỏi phải có những biểu   hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới khen. Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp   thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ  học sinh  trong học tâp.      Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một   yếu tố  không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học  tập, mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn.   Vì chúng ta đều biết học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp ba nói riêng có   trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. Đó là tiền  đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học tuy nhiên các em cũng rất dễ bị phân  tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa, cơ  thể  của các em  còn đang trong thời kì phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa  hoàn thiện vì thế  sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ  không thể  ngồi lâu  trong giờ  học cũng như  làm một việc gì đó trong một thời gian dài. Vì vậy,   muốn giờ  học có hiệu quả  thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương   pháp dạy học tức là kiểu dạy học: “Lấy học sinh làm trung tâm.” hướng tập  trung vào học sinh, trên cơ  sở  hoạt động của các em. Trong mỗi tiết học, tôi  thường dành khoảng 2 – 3 phút để cho các em nghỉ  giải lao tại chỗ bằng cách   chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ  học căng thẳng,  vừa giúp các em có phản  ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ  một số  nội dung bài đã  học… Một số trò chơi có thể sử dụng củng cố cuối tiết học là Ong đi tìm nhụy  ; A­la­đanh và cây đèn thần ; Ai nhanh, ai đúng ? ; Sai ở đâu, sửa ở đó …      Tóm lại: Trong quá trình dạy học, người giáo viên không chỉ  chú ý đến rèn  luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý  đến việc khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.       III. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:        Nhờ  áp dụng, kết hợp các biện pháp trên trong giảng dạy mà tôi đã thu  được những kết quả  ban đầu trong việc dạy học “Giải toán có lời văn” nói   riêng và trong chất lượng môn Toán nói chung bởi vì “Giải toán có lời văn” là  dạng toán khó và nhiều dạng bài mới so với học sinh khối lớp 3.       Ngay từ đầu năm học mới, sau khi nhận lớp, tôi đã thử nghiệm ngay   những  ý tưởng của mình và đến nay đã đạt được kết quả như sau: Thời  Hiểu   các   dạngCh   ưa   nắm  Giải thành  gian  toán tuy nhiên kĩ được   cách  thạo thử  Sĩ số năng giải chậm giải nghiệ m SL % SL % SL %                                                                                                                                                                 Trang 15
  16.    Trước  thử  5HS 1 20% 2 40% 2 40% nghiệ m Sau  thử  5HS 3 60% 1 20% 1 20% nghiệ m        Có được kết quả như vậy một phần nhờ tinh thần học tập tích cực, tự giác  của học sinh, sự  quan tâm nhắc nhở  của phụ  huynh học sinh, bên cạnh đó là   các biện pháp giáo dục đúng lúc, kịp thời của giáo viên.      Qua kết quả đã đạt được trên, tôi thấy số  học sinh yếu tuy vẫn còn nhưng  chỉ  còn với tỉ  lệ  khá nhỏ, số  học sinh khá giỏi tăng. So với năm học trước thì  kết quả  trên thật là một điều đáng mừng. Điều đó cho thấy những cố  gắng  trong đổi mới phương pháp dạy học của tôi đã có kết quả khả quan.      Với kết quả này, chắc chắn khi các em học lên các lớp trên, các em sẽ vẫn   tiếp tục phát huy hơn nữa với những bài toán có lời văn yêu cầu ở mức độ cao   hơn.                                                                                                                                                                 Trang 16
  17.    C. PHẦN KÊT LUÂN ́ ̣       1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:       Dạy học giải toán có lời văn thực sự là "hòn đá thử vàng" của dạy học toán,   là một yêu cầu quan trọng trong yêu cầu chung của môn toán, việc vận dụng,  tìm kiếm những biện pháp dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 nói   riêng và học sinh Tiểu học nói chung là đòi hỏi cấp thiết và cũng là mong muốn  của học sinh Tiểu học nói chung, là đòi hỏi cấp thiết và mong muốn của những  người quan tâm đến giáo dục, đặc biệt là giáo dục Tiểu học.      Từ lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: giúp học sinh giải toán có lời văn   tốt  ở  lớp 3 có vị  trí hết sức quan trọng, là cầu nối logic của môn toán từ  lớp  đầu cấp đến các lớp cuối cấp với yêu cầu ngày một cao hơn.       2. Bài học kinh nghiệm:       Qua những vướng mắc thực tế, cùng với lòng say mê, nhiệt tình nghiên cứu  và áp dụng thực tế vào lớp học do tôi chủ nhiệm đã giúp tôi hoàn thành ý tưởng  của mình. Mỗi lần thực hiện, vận dụng vào thực tế lớp học, tôi lại rút ra được  một vài kinh nghiệm sau:  ­ Người giáo viên phải thực sự có lòng nhiệt tình, say mê với nghề nghiệp, với  lương tâm trách nhiệm của người thầy.    ­ Trong quá trình giảng dạy phải luôn nắm bắt, đúc rút những vướng mắc,  khó khăn thực tế ở lớp mình dạy, để từ đó nghiên cứu tìm ra hướng giải quyết   tốt nhất.  ­ Mỗi biện pháp giáo dục của giáo viên phải được thực hiện đúng thời điểm,  đúng nội dung ở từng bài học.   ­ Cần quan tâm, động viên, khuyến khích, giúp đỡ  các em vượt qua mọi khó  khăn để học tập tốt hơn.                                                                                                                                                                 Trang 17
  18.      ­ Trong quá trình hướng dẫn giải toán có lời văn (ở lớp 3) giáo viên cần lưu ý   hơn nữa tới việc hướng dẫn cho các em cách đặt câu lời giải cho đúng và rõ  ràng.  ­ Để giúp học sinh có kĩ năng giải toán thành thạo, người giáo viên cần chú ý  nhiều đến kĩ năng: nghe ­ đọc ­ nói ­ viết, kĩ năng hỏi – đáp.  ­ Phải cố  gắng khắc phục các sai lầm của các em trong mỗi bài, mỗi phần,   mỗi dạng toán, tránh để các sai lầm dồn lại sẽ khó giải quyết.  ­ Điều rất quan trọng nữa là sự mềm mỏng, kiên trì uốn nắn học sinh của giáo   viên trong mọi lúc của giờ học.   ­ Trong từng tiết học, người giáo viên cũng cần tìm ra nhiều biện pháp, nhiều   hình thức hoạt động học tập và tập trung chú ý tới cả 3 đối tượng học sinh để  giúp các em học tốt hơn.   ­ Người giáo viên cần phải luôn luôn có ý thức học hỏi và trau dồi kiến thức  để đáp ứng với yêu cầu ngày một đổi mới của xã hội. Nếu được thực hiện đồng bộ, đúng lúc, kịp thời các biện pháp trên, tôi tin rằng  chất lượng môn toán nói chung và phần giải toán có lời văn nói riêng của các   em lớp 3 sẽ có kết quả nhất định và là nền móng vững chắc để các em học tốt   hơn ở các lớp sau.       3. Những ý kiến đề xuất:       Về lâu dài muốn đạt hiệu quả cao về “Giải toán có lời văn” đòi hỏi tất cả  giáo viên trong tổ, trường phải có lòng nhiệt tình phát huy cao độ  vai trò, trách  nhiệm của người giáo viên.       Do hạn chế  về  thời gian, điều kiện nghiên cứu và trình độ  hiểu biết của  bản thân, chắc chắn nội dung đề  tài còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự  giúp đỡ, góp ý của hội đồng xét duyệt và bạn đọc để đề tài tiếp tục triển khai   có chất lượng tốt hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn!                                                                                                                                                                 Trang 18
  19.                                                                                                                                                                    Trang 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2