Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một vài biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
lượt xem 20
download
Mục đích của sáng kiến này là giúp hiểu sâu hơn về nội dung dạy học giải toán ở lớp 3, các phương pháp và hình thức tổ chức giờ dạy về giải toán ở lớp 3, các hướng phát triển cho một bài toán về giải toán ở lớp 3.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một vài biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 GIẢI BÀI TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH Lĩnh vực/ môn : Toán Cấp học : Tiểu học Năm học: 2016 – 2017
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 GIẢI BÀI TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH Năm học: 2016 – 2017
- MỤC LỤC
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính PHẦN MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong tình hình hiện nay, giáo dục là một vấn đề được cả xã hội quan tâm. Đảng và nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Bậc học tiểu học được coi là nền tảng của các bậc học. Quá trình học ở tiểu học là nền móng cho học sinh có vốn kiến thức để học tiếp lên các lớp trên. Trong các môn học mà học sinh học ở bậc tiểu học, môn Toán là bộ môn rất quan trọng. Đây là môn học chiếm tương đối nhiều thời gian học của học sinh trong suốt quá trình học phổ thông. Đây cũng là môn học có rất nhiều ứng dụng trong thực tiễn cuộc sống. Cùng với các môn học khác, môn Toán góp phần hình thành nhân cách cho học sinh. Ở bậc tiểu học, môn Toán cung cấp cho học sinh những hiểu biết ban đầu một cách tương đối có hệ thống về số tự nhiên, phân số, số thập phân, các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản; hình thành các kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống; bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt đúng cách phát hiện và cách giải quyết vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng, chăm học và hứng thú học tập toán, hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. Quá trình cung cấp kiến thức toán học cho học sinh trong dạy học ở tiểu học được chia thành hai giai đoạn thì nội dung toán học lớp 3 được coi là cầu nối để học sinh học tiếp ở giai đoạn hai. Ở lớp 3, các em tiếp tục hoàn thiện những kiến thức kĩ năng của giai đoạn một và chuẩn bị cho sự phát triển cao hơn về kiến thức kĩ năng của giai đoạn hai ở lớp 4 và lớp 5. Trong chương trình toán học ở lớp 3, mạch kiến thức về giải toán chiếm khoảng 9% tổng thời lượng của môn học nhưng lại vô cùng quan trọng đối với học sinh bởi: bước đầu giúp học sinh làm quen giải toán hợp, nội dung này còn được học kết hợp với nội dung dạy số học, hình học và bước đầu yêu cầu học sinh biết tư duy, tìm tòi, sáng tạo khi biết vận dụng các bài toán đơn đã học để giải toán. . . Đặc biệt hơn, với học sinh lớp 3, việc giải thành thạo các bài toán bằng hai phép tính là vô cùng cần thiết bởi những kiến thức này chính là 4
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính cơ sở để học sinh vận dụng học ở giai đoạn hai khi giải những bài toán nhiều hơn hai phép tính, những dạng toán điển hình. . . . Khả năng tư duy để tìm ra các bước giải bài toán bằng hai phép tính ở lớp 3 tốt sẽ giúp các em dễ dàng hơn khi giải các bài toán về tìm số trung bình cộng của các số, tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số, tìm hai số khi biết tổng số và tỉ số của hai số, tìm hai số khi biết hiệu số và tỉ số của hai số, tính diện tích hình bình hành, diện tích hình thoi ở lớp 4, giải toán về đại lượng tỉ lệ thuận, tỉ lệ nghịch, một số bài toán có nội dung hình học ở lớp 5. Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, không phải bất kì một vấn đề nào trong sách giáo khoa hay nội dung kiến thức cần cung cấp cho học sinh mà giáo viên đưa ra học sinh đều hiểu và vận dụng được ngay. Trong quá trình dạy học, bằng tâm huyết nghề nghiệp và những kinh nghiệm đã đúc rút được cho từng môn học ở mỗi khối lớp, cho từng mạch kiến thức hay từng bài dạy, người giáo viên có thể có những biện pháp, những cách thức truyền đạt khác nhau sao cho học sinh hiểu bài, hiểu sâu, nhớ lâu và biết vận dụng bài học vào thực tế cuộc sống. Đó mới chính là cái đích cuối cùng của dạy học: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình. Chính vì những lí do trên mà tôi đã chọn cho mình đề tài nghiên cứu về "Một vài biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính " trong chương trình Toán 3. Việc chọn đề tài này giúp tôi hiểu sâu hơn về nội dung dạy học giải toán ở lớp 3, các phương pháp và hình thức tổ chức giờ dạy về giải toán ở lớp 3, các hướng phát triển cho một bài toán về giải toán ở lớp 3. Từ đó, tôi sẽ vận dụng tốt hơn vào thực tiễn giảng dạy của mình. 5
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lí luận Các bài tập về giải toán bằng hai phép tính thực chất là các bài tập yêu cầu học sinh phải nắm được các bài toán đơn đã học và biết vận dụng các bài toán đơn ấy để giải quyết các bài toán giải bằng hai phép tính từ việc suy luận, thấy được mối liên hệ giữa hai phép tính đó để làm thành các bước giải cho bài toán giải bằng hai phép tính. Tuy nhiên, để làm được các bài tập này, các em phải nắm được mấu chốt của vấn đề là để giải quyết được yêu cầu của bài cần xem xét điều chưa biết có liên quan thế nào với các dữ kiện đã cho trong bài toán. Từ việc hiểu mấu chốt về các mối liên quan giữa cái đã biết và cái cần tìm của bài toán đó, học sinh phải biết vận dụng các dạng toán đã học với các kĩ năng tính toán mà các em có được khi học toán để thành lập các bước giải cho bài toán nghĩa là các em đã giải quyết được yêu cầu của đề bài. Việc xây dựng các bài tập về giải các bài toán giải bằng hai phép tính dựa vào các kiến thức về giải toán có lời văn mà học sinh đã có khi học toán 1 , 2 và các dạng toán đơn mà các em được học trong chương trình môn Toán ở lớp 3. Với lứa tuổi của học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh học lớp 3, các em thường bắt chước hoặc ghi nhớ một cách máy móc. Việc học tập giúp các em hình thành và phát triển ghi nhớ có ý nghĩa, biết lập luận để tìm ra sự liên quan giữa dữ kiện bài toán cho biết và yêu cầu của bài. Những kiến thức các em có được qua học tập môn Toán và được gắn liền với thực tiễn đời sống sẽ được các em nhớ lâu, kích thích ở các em sự liên tưởng, tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Nhờ đó ghi nhớ của trẻ có ý nghĩa và chất lượng hơn. Những khác biệt về nhận thức về khả năng tư duy của trẻ thường được biểu hiện rõ nét trong việc suy luận và vận dụng kiến thức đã học vào thực tế. Ngày nay, nhà trường hiện đại lấy học trò là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học, học trò mới là chủ thể của quá trình học. Trẻ em ngày nay rất thông minh, 6
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính nhanh nhẹn trong việc nắm bắt cái mới, biết vận dụng kiến thức học trong nhà trường vào thực tiễn đời sống rất nhanh. Bởi thế giáo dục cần trang bị cho trẻ những kiến thức kĩ năng phù hợp với nhận thức của các em. Nói tóm lại: Quan điểm về xây dựng chương trình môn Toán phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 3 là cơ sở khoa học cho việc soạn thảo chương trình môn Toán 3 với các mạch nội dung về Số học, Đại lượng và đo đại lượng, Yếu tố hình học, Giải toán. Trong đó, mạch kiến thức về giải toán có nội dung giải bài toán bằng hai phép tính. 2. Cơ sở thực tiễn Trong thực tế, học sinh được tiếp xúc với giải toán có lời văn từ khi bắt đầu hình thành phép cộng, phép trừ trong môn Toán ở lớp 1 qua những bài tập có yêu cầu viết phép tính thích hợp dựa vào những hình ảnh cụ thể như: bên trái có 1 quả bóng bay, bên phải có hai quả bóng bay hoặc trên cành có 3 con chim đậu có 1 con chim nữa đang bay đến, … với yêu cầu ngày một tăng dần như cho biết hình ảnh và viết sẵn các chữ số, yêu cầu học sinh điền thêm dấu phép tính thích hợp; hoặc cho biết hình ảnh, yêu cầu học sinh tự viết thành phép tính thích hợp. Khi học sinh lớp 1 đã thành thạo cộng, trừ các số trong phạm vi 10, các em được học về "Bài toán có lời văn" với các dạng toán về "gộp", "thêm", "bớt" và một số bài toán giải bằng phép tính trừ mà thực chất đó chính là dạng toán "Tìm số hạng trong một tổng". Ở lớp 2, cùng với việc củng cố các bài toán có lời văn đã học ở lớp 1, các em đã được làm quen và được luyện tập rất nhiều về giải các bài toán đơn thuộc các dạng toán điển hình: Bài toán về nhiều hơn; Bài toán về ít hơn; So sánh hai số hơn (kém) nhau bao nhiêu đơn vị; Các bài toán về “gộp các nhóm bằng nhau”; Các bài toán về chia đều; Các bài toán về tìm thành phần trong phép tính khi được học về tìm số hạng trong một tổng, tìm số bị trừ, tìm số trừ,… Lên đến lớp 3, bên cạnh việc ôn tập, củng cố các dạng toán đã được học ở lớp 2, học sinh được học thêm một số dạng toán đơn về gấp một số lên nhiều lần giảm đi một số lần, tìm một trong các phần bằng nhau của một số, các bài toán liên quan đến hình học như tính chu vi, diện tích hình chữ nhật, hình vuông. Đặc biệt, các em được học "Bài toán giải bằng hai phép tính" mà mỗi phép tính giải trong những bài toán này chính là phép tính để giải một trong những bài toán đơn đã học. Việc học các bài toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 có vai 7
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính trò rất quan trọng đối với việc học tập môn Toán bởi những bài toán giải bằng hai phép tính là cơ sở để học sinh vận dụng, suy luận khi các em học tập ở giai đoạn hai để giải được những bài toán nhiều hơn hai phép tính và vận dụng nó trong đời sống thực tế hàng ngày. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ Trong thực tế giảng dạy có những nội dung kiến thức mà giáo viên đưa ra nhiều học sinh không hiểu được bản chất của nội dung đó mà chỉ áp dụng một cách máy móc. Chính vì vậy nên khi có một nội dung nào đó có yêu cầu cao hơn, đòi hỏi các em phải suy luận các em sẽ lúng túng, không biết suy luận để tìm ra cách giải. Nội dung dạy giải bài toán bằng hai phép tính cũng vậy, đây là nội dung mới mẻ và rất khó đối với học sinh. Đối với học sinh lớp 3, khả năng suy luận của các em còn hạn chế, lần đầu tiên các em phải giải nhũng bài toán đòi hỏi phải tư duy, suy luận nhiều. Khi giải các bài toán đơn, việc tìm câu lời giải cho phép tính, đa số các em đều dựa vào câu hỏi của bài toán nên khi giải những bài toán bằng hai phép tính, việc tìm câu lời giải cho phép tính thứ nhất nhiều em còn hạn chế. Nhiều em còn sai khi ghi danh số của các phép tính, đặc biệt là những bài toán mà danh số của hai phép tính không giống nhau. Ở lớp 3, các bài toán giải bằng hai phép tính rất nhiều dạng mà hầu như chẳng thể xếp những bài toán ấy thành dạng điển hình nào nên việc giải các bài toán đó lại càng khó khăn với các em. Còn đối với giáo viên, dạy học sinh giải bài toán bằng hai phép tính đôi khi cũng còn những hạn chế như chưa khắc sâu cho học sinh mỗi phép tính giải trong bài chính là dạng toán đơn nào các em đã học, chưa hướng dẫn học sinh mối quan hệ giữa các phép tính trong bài toán, câu hỏi để gợi ý học sinh tìm bước giải còn chưa sát, chưa khái quát được những dạng toán giải bằng hai phép tính, … Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể chỉ hướng dẫn học sinh giải những bài toán bằng hai phép tính trong sách giáo khoa mà chưa chú trọng đến việc khắc sâu dạng toán, chưa đưa ra được những hình thức dạy học toán nhằm phát triển tư duy năng lực của học sinh, chưa đòi hỏi ở các em sự tập trung suy nghĩ, tìm tòi, khám phá,.. nên nội dung dạy học còn đơn điệu, tẻ nhạt. Chính vì vậy mà hiệu quả của việc giải toán còn có những hạn chế nhất định. III. CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ 8
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính 1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc cách giải các bài toán đơn Các bài toán đơn học sinh được học bao gồm các bài toán giải bằng một trong các phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Đây là các bài toán các em được học trong chương trình môn Toán của các lớp 1, 3 và nửa đầu học kì 1 ở lớp 3. Ngoài ra, các em còn được học khi giải các bài toán liên quan đến tính chu vi, diện tích của hình chữ nhật, hình vuông. Các bài toán đơn mà học sinh đã học đều là các bài toán thuộc các dạng toán điển hình. Có thể chia các bài toán đơn thành các dạng như sau: 1.1. Các bài toán đơn giải bằng phép tính cộng Đây là các bài toán thuộc các dạng toán: Bài toán về gộp hai số; Bài toán về thêm một số đơn vị; Bài toán về nhiều hơn; Bài toán về tìm số bị trừ. 1.2. Các bài toán đơn giải bằng phép tính trừ Đây là các bài toán thuộc các dạng toán: Bài toán về bớt; Bài toán về ít hơn; Bài toán về so sánh hai số hơn kém nhau một số đơn vị; Bài toán về tìm số hạng trong một tổng; Bài toán về tìm số trừ. 1.3. Các bài toán đơn giải bằng phép tính nhân Đây là các bài toán thuộc các dạng toán: Bài toán về gộp các nhóm bằng nhau; Bài toán về gấp một số lên nhiều lần; Bài toán về tìm số bị chia; Bài toán về tính chu vi, diện tích của hình chữ nhật, hình vuông khi đã biết đầy đủ chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật hoặc biết độ dài cạnh của hình vuông. 1.4. Các bài toán đơn giải bằng phép tính chia Đây là các bài toán thuộc các dạng toán: Bài toán về chia đều; Bài toán về chia thành các nhóm bằng nhau; 9
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Bài toán về giảm đi một số lần; Bài toán về tìm một trong các phần bằng nhau của một số; Bài toán về so sánh hai số gấp, kém nhau một số lần; Bài toán về tìm thừa số trong phép nhân; Bài toán về tìm số chia. Khi dạy học Toán có nội dung chứa bài toán có lời văn mà học sinh đã được học ở các lớp 1, lớp 2, tôi luôn hướng dẫn các em tìm ra mối quan hệ giữa các dữ kiện đã cho và yêu cầu cần tìm để các em nhớ lại xem bài toán đó thuộc dạng toán nào đã học, để giải được bài toán đó thì cần sử dụng phép tính nào, có những cách đặt câu lời giải cho phép tính đó như thế nào,… Ở lớp 3, học sinh được ôn lại một số dạng toán đơn đã học như bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn, bài toán về tìm số hạng trong một tổng, bài toán về gộp hai số; bài toán về so sánh hai số hơn kém nhau bao nhiêu đơn vị. Đặc biệt, ở lớp 3, khi các em được học bảng nhân 6, bảng nhân 7, bảng nhân 8, bảng nhân 9, các bảng chia 6, bảng chia 7, bảng chia 8, bảng chia 9 thì các em đều được giải các bài toán đơn về gộp các nhóm bằng nhau, chia đều, chia thành các nhóm bằng nhau. Các dạng toán này còn được củng cố khi học về nhân số có 2; 3; 4; 5 chữ số với số có 1 chữ số và chia số có 2; 3; 4; 5 chữ số cho số có 1 chữ số. Vì vậy, khi gặp các bài toán này, tôi đã vận dụng những hiểu biết đã có của học sinh để các em tự tìm ra dạng toán và cách giải bài toán. Chính từ việc gợi ý của giáo viên để củng cố, khắc sâu dạng toán mà các em luôn có tâm thế phải suy nghĩ phải tìm tòi, phải đưa ra được cách giải cho bài toán, từ đó các em sẽ nhớ lâu dạng toán đã học. Việc dạy học bằng phương pháp gợi mở như trên, tôi đã giúp học sinh được rèn luyện, củng cố kiến thức đồng thời cũng đã giúp các em lấy việc giải các bài toán có lời văn làm phương tiện để phát triển tư duy. Còn khi dạy các dạng toán đơn mới ở lớp 3 như dạng toán về gấp một số lên nhiều lần, tìm một trong các phần bằng nhau của một số, so sánh hai số gấp hoặc kém nhau bao nhiêu lần, giảm đi một số lần, tôi đều hình thành kiến thức mới cho các em từ những kiến thức đã học. Chẳng hạn như khi dạy bài "Gấp một số lên nhiều lần", tôi đã hình thành quy tắc từ kiến thức đã được học. Học sinh tự vẽ đoạn thẳng AB dài 10
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính 2cm, tìm cách vẽ đoạn thẳng CD dài gấp 3 lần đoạn thẳng AB, tìm cách tính độ dài của đoạn thẳng CD. Từ những việc làm trên của học sinh, chính các em đã tự tìm ra cách gấp 2cm lên 3 lần, tự lấy được ví dụ về gấp một số nào đó lên một số lần rồi tìm ra quy tắc gấp một số lên nhiều lần. Sau mỗi dạng toán mà học sinh mới được học, tôi đều cho học sinh luyện tập củng cố kiến thức qua các bài luyện tập trong sách giáo khoa và trong các tiết dạy ở buổi hai. Ngoài ra, tôi còn cho học sinh củng cố mỗi dạng toán bằng những bài toán ngược để các em tránh bị nhầm lẫn. Ví dụ: Để củng cố dạng toán "Gấp một số lên nhiều lần" ngoài các bài toán để củng cố kiến thức đơn thuần, tôi cho học sinh làm thêm những bài toán như: Mảnh vải hoa dài 15m và dài bằng mảnh vải xanh. Hỏi mảnh vải xanh dài bao nhiêu mét? Bằng phương pháp dạy học gợi mở, phương pháp kiến tạo và luyện tập với nhiều hình thức tổ chức khác nhau như trên, tôi đã giúp học sinh hình thành, khắc sâu các dạng toán đơn đã học, các em biết lấy giải toán làm điểm xuất phát để tạo động cơ hình thành kiến thức mới, làm phương tiện để củng cố kiến thức và phát triển năng lực tư duy. Đây cũng chính là những vấn đề rất cần thiết trong việc dạy học "Bài toán giải bằng hai phép tính" sau này. 2. Hướng dẫn học sinh giải những bài toán có hai lần đáp số Các bài toán có hai lần đáp số thực chất là những bài toán mà có hai câu hỏi, trong đó bao giờ câu hỏi thứ hai cũng có liên quan đến câu hỏi thứ nhất, đó là muốn giải được bài toán theo câu hỏi thứ hai thì phải làm được bài toán theo câu hỏi thứ nhất. Ví dụ: Dạy về cộng, trừ các số có ba chữ số (không nhớ) có bài toán: Khối lớp Một có 245 học sinh, khối lớp Hai có ít hơn khối lớp Một 32 học sinh Hỏi khối lớp Hai có bao nhiêu học sinh? (Bài tập 3 Trang 4 SGK Toán 3). Với yêu cầu trên của đề bài mới chỉ củng cố được cách trừ hai số có ba chữ số trường hợp không nhớ nhưng muốn củng cố được cả cách cộng hai số có ba chữ số, tôi yêu cầu học sinh đặt thêm cho bài toán một câu hỏi nữa, có thể gợi ý rõ hơn là để giải bài toán theo câu hỏi của em thì em phải làm đúng bài toán theo yêu cầu của câu hỏi đã có. Vì vậy, học sinh đã chuyển bài toán trên thành bài toán như sau: 11
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Khối lớp Một có 245 học sinh, khối lớp Hai có ít hơn khối lớp Một 32 học sinh Hỏi: a) Khối lớp Hai có bao nhiêu học sinh? b) Cả hai khối lớp có bao nhiêu học sinh? Hoặc khi củng cố dạng toán về "Tìm một trong các phần bằng nhau của một số", học sinh luyện tập bài toán: Một cửa hàng có 40m vải xanh và đã bán được số vải đó. Hỏi cửa hàng đã bán được mấy mét vải xanh? ( Bài tập 2 Trang 26 SGK Toán 3) Cũng với cách làm như trên, tôi đã hướng dẫn học sinh đặt thêm cho bài toán câu hỏi: Một cửa hàng có 40m vải xanh và đã bán được số vải đó. Hỏi: a) Cửa hàng đã bán được mấy mét vải xanh? b) Cửa hàng còn lại bao nhiêu mét vải xanh? Hoặc khi củng cố dạng toán "Gấp một số lên nhiều lần" có bài tập: Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số cam của con. Hỏi mẹ hái được bao nhiêu quả cam? ( Bài tập 2 Trang 33 SGK Toán 3) Học sinh của tôi đã tự đặt thêm cho bài toán một câu hỏi nữa để bài toán có hai câu hỏi như sau: Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số cam của con. Hỏi: a) Mẹ hái được bao nhiêu quả cam? b) Cả hai mẹ con hái được bao nhiêu quả cam? Bằng cách hướng dẫn học sinh đặt thêm câu hỏi cho bài toán, ngoài việc củng cố kiến thức mới học, tôi đã hướng dẫn các em củng cố thêm được những kiến thức khác, đồng thời đã giúp học sinh phát huy tính sáng tạo, phát triển năng lực tư duy. Biện pháp này tôi thường tiến hành song song, đồng thời với biện pháp thứ nhất, tôi thấy hiệu quả rất rõ rệt, học sinh nắm chắc hơn các dạng toán đơn. Việc cho học sinh làm quen với những bài toán có hai câu hỏi như trên thực tế là tôi đã cho học sinh làm quen với những bài toán giải bằng hai phép tính. Đây chính là những bài toán làm bước chuẩn bị cho học sinh học giải toán bằng hai phép tính sau này. 12
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Nói tóm lại: Cả hai biện pháp tôi đã thực hiện như trên đều là những bước chuẩn bị cần thiết để hình thành và hướng dẫn học sinh tìm hướng giải cho những bài toán giải bằng hai phép tính. 3. Hướng dẫn học sinh hiểu thế nào là bài toán giải bằng hai phép tính Tôi đã tiến hành giúp học sinh hiểu về bài toán giải bằng hai phép tính qua các tiết dạy bài mới về "Bài toán giải bằng hai phép tính" (tiết 50 và tiết 51) 3.1.Bài "Bài toán giải bằng hai phép tính" (Tiết 50 Trang 50SGK Toán 3) Để học sinh hiểu thế nào là một bài toán giải bằng hai phép tính, tôi đã hướng dẫn học sinh tự hình thành bài toán và các bước giải trên cơ sở từ hai bài toán đơn đã học. Tiết dạy được mô tả như sau: * Xác định kiến thức kĩ năng của bài: Học sinh làm quen với bài toán giải bằng hai phép tính; bước đầu biết tìm cách giải và trình bày bài giải cho bài toán; biết tìm lời giải cho mỗi phép tính một cách hợp lí, có thể nêu được câu lời giải cho mỗi phép tính bằng những cách khác nhau. *Tổ chức các hoạt động dạy học: a. Kiểm tra bài cũ Giải bài toán sau: Hàng trên có 3 cái kèn, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 cái kèn. Hỏi hàng dưới có mấy cái kèn? 1 HS lên bảng tóm tắt và trình bày bài giải, HS dưới lớp làm bài vào vở nháp GV hướng dẫn HS nhận xét bài của HS. b. Hướng dẫn học sinh hình thành và tìm hướng giải bài toán bằng hai phép tính Từ bài toán trong phần kiểm tra bài cũ trên, tôi yêu cầu HS đặt thêm một câu hỏi nữa cho bài toán và trình bày cách giải của câu hỏi đó. Chắc chắn HS sẽ đặt câu hỏi như sau: Hỏi cả hai hàng có bao nhiêu cái kèn? (bởi việc làm này tôi đã tiến hành thường xuyên như tôi đã trình bày ở biện pháp thứ hai). Lúc đó bài toán như sau: Hàng trên có 3 cái kèn, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 cái kèn. Hỏi: a) Hàng dưới có mấy cái kèn? 13
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính b) Cả hai hàng có bao nhiêu cái kèn? Từ bài toán có hai câu hỏi này mà HS đã trình bày được cách giải, tôi nêu vấn đề: Bỏ câu hỏi thứ nhất đi, bài toán chỉ còn một câu hỏi 2. HS đọc bài toán như sau: Hàng trên có 3 cái kèn, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 cái kèn. Hỏi cả hai hàng có bao nhiêu cái kèn? Tôi hướng dẫn HS dựa vào bài toán có hai câu hỏi ở trên (chính là bài toán có 2 lần đáp số), nêu cách giải bài toán mới này. Cụ thể, tôi hướng dẫn HS bằng một số câu hỏi: Câu hỏi 1 : Muốn tìm số kèn ở cả hai hàng, các em cần biết thêm số kèn có ở hàng nào? GV kết hợp ghi: Tìm số cái kèn ở hàng dưới : ? cái Tìm số cái kèn ở cả hai hàng: ? cái Câu hỏi 2: Tìm số kèn ở hàng dưới, em đã làm như thế nào? Câu hỏi 3: Tìm số kèn có ở cả hai hàng em đã làm như thế nào? GV kết hợp ghi: Tìm số cái kèn ở hàng dưới : ? cái 3 + 2 = 5 (cái kèn) Tìm số cái ken ở cả hai hàng: ? cái 3 + 5 : g (cái kèn) Như vậy, cùng với việc đặt các câu hỏi của GV, HS nêu ý kiến trả lời, tôi đã thiết lập cho HS việc đi tìm các bước giải của bài toán bằng sơ đồ phân tích đi lên. Từ sơ đồ phân tích đi lên ở trên, HS dựa vào đó có thể nhận ra các bước giải và phép tính giải bài toán. Từ các bước giải của bài toán đã được thiết lập như trên, tôi giới thiệu cho HS biết đây là bài toán giải bằng hai phép tính và đặc điểm của bài toán giải bằng hai phép tính: chỉ có 1 đáp số là kết quả của phép tính thứ hai. Từ sơ đồ phân tích đi lên này, tôi gợi ý để HS nhận ra muốn giải được bài toán, cần đặt cho mình câu hỏi phụ: + Để tìm được đáp số của bài toán cần tìm thêm gì? (hoặc biết thêm gì?). 14
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính + Để trả lời được câu hỏi mà mình vừa đặt ra cần vận dụng kiến thức nào đã học (dạng toán đơn nào đã học). Trả lời được câu hỏi này là bước giải thứ nhất của bài . + Để trả lời được câu hỏi của bài toán cần vận dụng kiến thức nào đã học (dạng toán đơn nào đã học). Đây là bước giải thứ hai của bài toán. Với mỗi phép tính trên, tôi đều yêu cầu HS diễn đạt câu lời giải mỗi phép tính bằng một vài cách khác nhau. c. Hướng dẫn HS vận dụng để giải bài toán tương tự Tôi cho HS vận dụng các bước giải bài toán mới được lập từ các dữ kiện của bài toán 1 trong SGK để từ phân tích, thiết lập để tìm các nước giải của bài toán 2 trong SGK. d. Hướng dẫn HS luyện tập Nội dung luyện tập của tiết học này gồm 3 bài tập. Với bài tập 1 và bài tập 2, tôi đều cho HS phân tích đề bài, tự đặt câu hỏi phụ để tìm bước giải thứ nhất, tìm câu trả lời cho câu hỏi phụ mà mình tự đặt và câu hỏi của bài toán cần vận dụng những dạng toán nào đã học. Riêng bài tập số 3, với những HS chậm, tôi đưa thêm một số bài toán cho HS chọn bài toán thích hợp với tóm tắt đã cho. Bài 1: Bao gạo nặng 27 kg, bao ngô nặng hơn bao gạo 5 kg. Hỏi cả hai bao nặng bao nhiêu kilôgam? Bài 2: Bao gạo nặng 27 kg, bao ngô nặng hơn bao gạo 5 kg. Hỏi bao ngô nặng bao nhiêu kilôgam? Bài 3.: Bao gạo nặng 27 kg, bao ngô nhẹ hơn bao gạo 5 kg. Hỏi cả hai bao nặng bao nhiêu kilôgam? Khi học sinh đưa ra cách chọn bài toán phù hợp với tóm tắt, tôi đều phân tích cho học sinh hiểu cách chọn nào đúng, cách chọn nào sai và tại sao lại đúng, hoặc tại sao lại là sai? Khi đã chọn được đúng bài toán, học sinh sẽ giải được bài toán theo hướng phân tích đi lên để tìm cách giải như tôi đã hướng dẫn ở trên. e. Củng cố Khi học sinh đã nắm được thế nào là bài toán giải bằng hai phép tính, cách đặt câu hỏi phụ để tìm bước giải thứ nhất, xác định dạng toán cho từng 15
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính bước giải, cuối tiết học tôi cho học sinh nhận xét các phép tính dùng để giải những bài toán bằng hai phép tính vừa học ở trên. Khi đó, tôi khắc sâu cho học sinh hiểu đây là những bài toán giải bằng hai phép tính cộng, hoặc phép tính trừ và phép tính cộng. Mục đích của việc làm này là hình thành các dạng toán giải bằng hai phép tính mà các em sẽ được học tiếp trong chương trình môn toán lớp 3. 3.2. Bài "Bài toán giải bằng hai phép tính" (Tiết 51Trang 51SGK Toán 3) Với tiết dạy này, tôi tiến hành như sau: * Xác định kiến thức kĩ năng của bài: HS biết giải và trình bày bài giải của các bài toán giải bằng hai phép tính; rèn kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính. * Tổ chức các hoạt động dạy học: a. Kiểm tra bài cũ Nội dung kiểm tra bài cũ là yêu cầu giải 1 hoặc 2 bài toán giải bằng hai phép tính thuộc dạng toán giải bằng hai phép tính mà học sinh đã được học ở tiết 50. b. Hướng dẫn bài toán mẫu Tôi không đưa ngay bài toán mẫu như SGK mà đưa một số dữ kiện như sau: Một cửa hàng ngày thứ nhất bán được 7 xe đạp, ngày thứ hai bán được số xe đạp gấp đôi ngày thứ nhất. Tôi yêu cầu học sinh tự đặt câu hỏi để các dữ kiện đã cho trên trở thành một bài toán giải bằng hai phép tính. Khi học sinh đã đặt đúng câu hỏi, tôi lại tiến hành hướng dẫn học sinh tìm hướng giải cho bài toán bằng đặt câu hỏi phụ kết hợp với thiết lập sơ đồ phân tích đi lên, đưa bài toán thành hai bài toán đơn đã học để giải bài toán. Số xe đạp bán ngày thứ hai: ? xe 7 x 2 = 14 (xe đạp) Số xe đạp bán trong hai ngày: ? xe 7 + 14 = 21 (xe đạp) Cuối cùng, tôi yêu cầu học sinh xác định xem bài toán trên được giải bằng những phép tính nào, mỗi phép tính để giải bài toán liên quan đến những dạng toán đơn nào. c. Luyện tập 16
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Nội dung luyện tập trong tiết này cũng gồm 3 bài tập. Với các bài tập 1 và bài tập 2, tôi tổ chức cho học sinh tự tìm các bước giải và giải bài toán rồi xác định từng bước giải của mỗi bài toán thuộc dạng toán nào đã học. Còn bài tập số 3 chỉ là bài toán về số học nhằm giúp củng cố học sinh kiến thức về gấp một số lên nhiều lần, thêm một số đơn vị, bớt một số đơn vị, … nhưng để giúp học sinh củng cố kiến thức về giải bài toán bằng hai phép tính, tôi đã đưa ra một số bài toán yêu cầu học sinh chọn bài toán phù hợp với sơ đồ có trong bài, nêu cách giải mỗi bài toán đó. Bài toán 1: Lan gấp được 6 cái thuyền, số thuyền của Nga gấp được gấp đôi số thuyền của Lan, Bình gấp được ít hơn Nga 2 cái thuyền. Hỏi Bình gấp được bao nhiêu cái thuyền? Bài toán 2: An có 56 viên bi. Sau khi chia cho các bạn, số bi của An bị giảm đi 7 lần. Tùng lại cho An thêm 7 viên bi nữa. Hỏi lúc này An có bao nhiêu viên bi? d. Củng cố Cuối tiết học, tôi yêu cầu HS nhắc lại các bài toán giải bằng hai phép tính đã học được giải bằng những phép tính nào, liên quan đến những dạng toán đơn nào đã học để khắc sâu kiến thức cho các em. Như vậy bằng phương pháp dạy học kiến tạo, bằng hệ thống câu hỏi gợi mở, tôi đã hướng dẫn HS vận dụng kiến thức đã học để hình thành bài toán giải bằng hai phép tính từ việc gộp bài toán có 2 lần đáp số, biết cách phân tích để tiện hướng giải của bài toán giải bằng hai phép tính là tìm ra mối quan hệ giữa các dữ kiện đã cho và dữ kiện cần tìm, đưa chúng về hai bài toán đơn đã học và vận dụng kiến thức đã học để giải quyết từng bài toán đơn đó. Nói tóm lại: Nếu học sinh lớp 3 không thấy được mối quan hệ giữa các dữ kiện trong bài toán thì việc tìm câu trả lời cho câu hỏi phụ sẽ rất khó khăn. Nếu học sinh lớp 3 không nắm chắc các dạng toán giải bằng một phép tính thì việc tiến hành các bước giải cho bài toán cũng khó mà thành công. Còn nếu kĩ năng tính toán của học sinh lớp 3 còn hạn chế thì việc giải các bài toán bằng hai phép tính sẽ rất chậm chạp và có thể đáp số của bài toán sẽ không chính xác. 17
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Điều này càng chứng tỏ rằng giải toán bằng hai phép tính là bài toán kiểm tra tổng hợp nhiều kiến thức toán học của học sinh. 4. Hướng dẫn học sinh nắm chắc một số dạng toán giải bằng hai phép tính qua luyện tập Từ sau bài "Bài toán giải bằng hai phép tính", học sinh được luyện tập một số bài toán giải bằng hai phép tính. Nội dung giải toán này được luyện tập rất nhiều trong suốt quá trình học Toán 3 của học sinh. Những bài toán giải bằng hai phép tính này không được sắp xếp thành những dạng cụ thể nào mà chúng chứa một hoặc cả hai phép tính được dùng để củng cố khắc sâu kiến thức của một bài mới nào đó như nhân, chia số có 3, 4, 5 chữ số với số có một chữ số; củng cố các đơn vị đo đại lượng; … Nhiều bài không thuộc một dạng toán điển hình nào mà để khái quát chúng thành dạng nào đó, trong quá trình luyện tập, học sinh phải tìm ra các bước giải mỗi bài toán ấy bằng cách đưa chúng về hai bài toán đơn như tôi đã hướng dẫn học sinh ở trên. Chẳng hạn: Bài tập 1 (trang 52): Tóm tắt Có : 45 ô tô Rời bến: 18 ô tô và 17 ô tô Còn lại : … ô tô? Khi hướng dẫn HS đặt câu hỏi phụ để tìm cách giải bài toán, các em sẽ đưa ra hai cách trả lời khác nhau. Với mỗi cách trả lời trên, tôi hướng dẫn HS tìm ra một cách giải. Từ mỗi cách giải đó, tôi đều hướng dẫn HS nhận xét để rút ra bài toán được giải bằng những phép tính nào, mỗi phép tính đó là dạng toán đơn nào đã học. Vậy chúng ta có thể hệ thống các bài toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 như sau: 4.1. Những bài toán không điển hình 4.1.1. Bài toán giải bằng hai phép tính cộng Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học sau: Bài toán về nhiều hơn, gộp hai số; Bài toán về thêm 2 lần liên tiếp; Bài toán về gộp 3 số hạng. 4.1.2. Bài toán giải bằng hai phép tính trừ 18
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học sau: Bài toán về bớt 2 lần liên tiếp; Bài toán về ít hơn Bài toán về hơn, kém một số đơn vị. 4.1.3. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính trừ Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học sau: Bài toán về gộp một số nhóm bằng nhau, bớt đi một số đơn vị; 4.1.4. Bài toán giải bằng phép tính trừ và phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài toán về bớt một số đơn vị, chia đều. 4.1.5. Bài toán giải bằng phép tính cộng và phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài toán về gộp hai số, chia đều Bài toán về nhiều hơn, so sánh số lớn gấp số bé bao nhiêu lần. 4.1.6. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính cộng Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài toán về gộp một số nhóm bằng nhau, gộp hai số (một số là kết quả của gộp các nhóm đó) 4.1.7. Bài toán giải bằng hai phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài toán về chia đều, chia thành các phần bằng nhau. 4.1.8. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài toán về gộp các nhóm bằng nhau, chia đều 4.1.9.Bài toán giải bằng phép tính chia và phép tính cộng Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Tìm một trong các phần bằng nhau của một số; gộp hai số. 4.2. Những bài toán điển hình Ngoài các dạng toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 được thống kê ở trên thì học sinh còn được học một số dạng toán sau: 4.2.1. Bài toán có phép chia có dư 4.2.2. Các bài toán trên quan đến hình học 4.2.3. Bài toán liên quan đến rút về đơn vị 19
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Khi dạy học sinh giải những bài toán bằng hai phép tính có phép chia có dư, tôi khắc sâu cho học sinh: Trong câu hỏi thường có từ “ít nhất” và khi trình bày bài giải thì phép tính thứ hai là phép cộng mà số hạng thứ nhất là thương của phép chia còn số hạng thứ hai là 1 . Khi dạy các bài toán giải bằng hai phép tính có liên quan đến hình học thì tôi lưu ý học sinh: Phép tính thứ nhất thường đi tìm một trong các yếu tố chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật hoặc cạnh của hình vuông sẽ liên quan đến một trong những dạng toán đơn đã học, phép tính thứ hai thường là áp dụng cách tính chu vi, diện tích của một hình. Tuy nhiên, có một số bài phép tính thứ nhất đi tìm một trong các yếu tố chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật hoặc cạnh của hình vuông lại dựa vào chu vi hoặc diện tích cho trước của hình đó. Khi dạy các bài toán liên quan đến rút về đơn vị, tôi lưu ý học sinh: Các bài toán này chỉ giải bằng phép tính nhân, chia hoặc bằng cả hai phép chia. Khi hướng dẫn học sinh hình thành các bước giải tôi cũng hướng dẫn đưa những bài toán thuộc dạng toán này thành hai bài toán đơn đã học và hướng dẫn các em phân biệt hai kiểu bài trong dạng toán “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị” để các em không bị nhầm lẫn khi giải dạng toán này. Như vậy, bài toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 quả là rất phong phú. Đó là những nội dung hay nhưng đồng thời cũng khó đối với cả giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Song với việc tiến hành luyện tập giải toán như trên, tôi đã khắc sâu cách giải từng bài toán bằng cách thiết lập các bước giải, hướng dẫn học sinh tìm mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài toán, củng cố các dạng toán đơn đã học, đôi khi còn dùng cả những cách củng cố có thể cho là máy móc như dạng bài liên quan đến phép chia có dư, hình học, bài toán liên quan đến rút về đơn vị. Nhưng những việc tôi đã tiến hành như trên tôi thực sự thấy hiệu quả, học sinh của tôi giải toán bằng hai phép tính tốt hơn, biết tìm các bước giải, xác định được các phép tính để giải bài toán. Như vậy, việc học và luyện tập giải các bài toán bằng hai phép tính đã đạt được những mục đích như rèn kĩ năng vận dụng tri thức, củng cố tri thức, phát triển năng lực tư duy. 5. Tổ chức cho học sinh luyện tập giải toán trong các tiết dạy ở buổi hai 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2235 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 215 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 64 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn