Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1
lượt xem 2
download
Mục đích của đề tài này là tìm ra những nguyên nhân mà công tác chủ nhiệm chưa đạt hiệu quả. Qua đó đề ra một số biện pháp hữu hiệu để giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm nhằm khắc phục tình trạng nề nếp lớp, hạn chế học sinh bỏ học một cách tốt hơn. Giúp học sinh lớp một có những nề nếp và thói quen tốt trong học tập, từ đó làm nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện năng lực, phẩm chất của học sinh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1
- PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN VẠN NINH TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN THỌ 1 SÁNG KIẾN MƯỜI HAI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT Ở LỚP 1B TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN THỌ 1 Tác giả: Vũ Thị Khánh Linh NĂM HỌC : 2018 – 2019
- TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN THỌ 1 HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN NHẬN XÉT- ĐÁNH GIÁ – XẾP LOẠI 1. Nhận xét : …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. 2/ Đánh giá - xếp loại : …… Vạn Thọ, ngày … tháng … năm 2018 CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
- MỤC LỤC I. ĐẶT VẤN ĐỀ ..................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1 2. Lịch sử của đề tài ................................................................................................ 2 3. Mục đích nghiên cứu đề tài ................................................................................. 2 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................................ 2 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................... 2 4.2. Các phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 3 5. Giới hạn (phạm vi) nghiên cứu ............................................................................ 3 6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu .................................................................... 3 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ..................................................................................... 3 1. Cơ sở lý luận vấn đề ............................................................................................ 3 1.1. Thế nào là học sinh cá biệt? .............................................................................. 4 1.2. Một số đặc điểm về tâm sinh lí lứa tuổi học sinh tiểu học ................................. 4 2. Thực trạng vấn đề ................................................................................................ 5 3. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề ...................................................... 6 3.1. Xác định mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học ........ 6 3.2. Tìm hiểu sự tác động giữa gia đình và xã hội đối với lứa tuổi bậc tiểu học ....... 7 3.3. Xác định cụ thể từng đối tượng học sinh cá biệt và nguyên nhân dẫn đến tình trạng cá biệt của từng học sinh ................................................................................ 8
- 3.4. Xây dựng biện pháp giáo dục phù hợp cho từng học sinh cá biệt ...................... 9 3.5. Dùng tình cảm để cảm hóa học sinh ............................................................... 11 3.6. Kiên trì tạo niềm tin cho học sinh ................................................................... 12 3.7. Giáo viên phải biết làm mới tiết dạy của mình ................................................ 13 3.8. Phải biết động viên kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng .................. 13 3.9. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục trong xã hội ................................... 13 3.10. Nhà trường tích cực đổi mới phương thức quản lý, hoạt động ...................... 14 3.11. Giáo dục học sinh thông qua giờ sinh hoạt trường, sinh hoạt lớp .................. 14 3.12. Phối hợp chặt chẽ với gia đình ...................................................................... 15 4. Hiệu quả của đề tài ............................................................................................ 16 4.1. Sự thay đổi trong nhận thức của học sinh. ...................................................... 16 4.2. Kết quả về các mặt trước và sau khi áp dụng đề tài ........................................ 16 III. KẾT LUẬN ..................................................................................................... 17 1. Đúc kết lại những nội dung chính đã trình bày .................................................. 17 2. Đề ra biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn..................................... 17 3. Kiến nghị, đề xuất ............................................................................................. 19 4. Hướng phát triển của đề tài................................................................................ 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 21
- I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực được quan tâm hàng đầu trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu của đất nước ta trong việc tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển mang tính bền vững của quốc gia. Tại điều 2 chương I, Luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 cũng đã xác định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Giáo dục đạo đức là một trong những mặt giáo dục quan trọng trong mục tiêu giáo dục của nhà trường ở nước ta hiện nay. Nó có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con người - nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển của đất nước. Đối với dân tộc Việt Nam: Đạo đức là vốn quý của con người, cái “đức” là nền tảng, là căn bản của con người. Vì vậy, trong bất kì xã hội nào, nghề giáo cũng luôn được đề cao và quý trọng. Đặc biệt là trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nghề giáo lại càng được tôn vinh và được xem là một nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Cái nghề “truyền chữ”, “trồng người” này lại không đơn giản, nhất là ở lứa tuổi của các em học sinh mới chập chững làm quen với mái trường, thầy cô, bạn bè… đó là học sinh bậc tiểu học. Đây là lứa tuổi rất nhạy cảm và rất quan trọng để các em định hướng trưởng thành sau này. Chính vì thế Bác Hồ đã nói “...Một năm bắt đầu từ mùa xuân, một đời bắt đầu từ tuổi trẻ …”. Vì vậy nếu không giáo dục, không uốn nắn các em ngay từ đầu thì rất khó để cho các em nắm vững kiến thức, không làm chủ được bản thân và cũng sẽ khó trở thành người có tài, có đức phục vụ cho đất nước sau này. Đối tượng học sinh cấp tiểu học ở những độ tuổi khác nhau cũng có nhiều dạng khác nhau: Có nhiều em rất ngoan, hiền và biết vâng lời thầy cô giáo. Nhưng bên cạnh đó cũng có một số em thì ngang bướng, ngỗ nghịch, nói tục chửi thề khá phổ biến, tóc được nhuộm đủ màu … Trong đối tượng học sinh này có một dạng gọi là “học sinh cá biệt”. Đó là những học sinh luôn tạo ra nhiều sự phiền hà và bận rộn hơn cho giáo viên cũng như gây nhiều phiền toái đến các bạn, ảnh hưởng không tốt đến lớp. Để đưa các em học sinh cá biệt này vào khuôn khổ không phải dễ và không phải giáo viên nào cũng thành công. Vì vậy, để góp phần vào công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt trong giai đoạn hiện nay, tôi nhận thấy việc nắm rõ thực trạng và đề ra biện pháp về công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của người giáo viên. 1
- Chính vì lẽ đó, tôi đã chọn đề tài “Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1” này để làm sáng kiến kinh nghiệm cho bản thân cũng như làm tư liệu tham khảo cho các đồng nghiệp. 2. Lịch sử của đề tài Biện pháp giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm, cũng đã được nhiều anh chị em khác trong ngành tìm hiểu, nghiên cứu và bản thân cũng là một giáo viên chủ nhiệm lớp, nên từ đó cũng đúc kết được một số kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm lớp để gây hứng thú trong việc học cho các em và đưa chất lượng của lớp ngày càng cao, đồng thời tình cảm thầy - trò, bạn bè ngày càng gắn bó và thân thiện hơn. * Việc nêu ra biện pháp để nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm lớp cũng đã được một số sáng kiến nhắc đến như : Sáng kiến: Biện pháp giáo dục học sinh cá biệt về hạnh kiểm. (Sáng kiến của Nguyễn Xuân Lâm trường Tiểu học Bù Nho, Xã Phước Long, Tỉnh Bình Phước). Sáng kiến: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp Một ở trường Tiểu học Cẩm Phong, Huyện Cẩm Thủy. (Sáng kiến của cô Trịnh Thị Thu Hương trường Tiểu học Cẩm Phong Tỉnh, Huyện Cẩm Thủy, Tỉnh Thanh Hóa). Sáng kiến: Một số biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. (Sáng kiến của thầy Nguyễn Chí Nam trường Tiểu học Võ Thị Sáu, Xã Quảng Sơn, Tỉnh Đắk Nông). 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Với đề tài sáng kiến này, mục đích nghiên cứu của bản thân tôi là: - Tìm ra những nguyên nhân mà công tác chủ nhiệm chưa đạt hiệu quả. Qua đó đề ra một số biện pháp hữu hiệu để giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm nhằm khắc phục tình trạng nề nếp lớp, hạn chế học sinh bỏ học một cách tốt hơn. - Giúp học sinh lớp một có những nề nếp và thói quen tốt trong học tập, từ đó làm nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện năng lực, phẩm chất của học sinh. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Nắm được thực trạng của một số học sinh cá biệt lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1, từ đó có phương pháp giáo dục, rèn luyện để tạo cơ hội cho các học sinh ấy tiến bộ hơn, học tập tốt hơn và trở thành học sinh có ý thức, có phẩm chất đạo đức tốt. 2
- 4.2. Các phương pháp nghiên cứu - Phương pháp đọc sách và tài liệu tham khảo: Tôi đã tìm hiểu một số tài liệu viết sự hình thành nhân cách của trẻ, tâm sinh lí học sinh lứa tuổi tiểu học,… - Phương pháp quan sát: Theo dõi quá trình học tập và hoạt động của các em học sinh cá biệt trong lớp. (Trước, trong và sau khi áp dụng các biện pháp giáo dục) - Phương pháp đàm thoại: Tiến hành trò chuyện trực tiếp với các em nhằm tìm hiểu nguyên nhân và gần gũi với các em hơn. Trao đổi trực tiếp với gia đình các em để cùng tìm biện pháp giúp đỡ các em. - Phương pháp điều tra thực tế: Tìm hiểu hoàn cảnh sống gia đình các em để có biện pháp phù hợp. - Phương pháp đối chiếu, so sánh: Đối chiếu kết quả trước và sau khi thực hiện đề tài. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích và tổng hợp nguyên nhân cũng như kết quả đạt được. 5. Giới hạn (phạm vi) nghiên cứu - Nội dung nghiên cứu: “Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1”. - Thời gian: Trong năm học 2017 – 2018. - Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 1B, Trường Tiểu học Vạn Thọ 1. 6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu Qua kết quả nghiên cứu cho thấy: - Học sinh đi học chuyên cần, hăng say học tập hơn. - Biết lễ phép với người lớn, ông bà, cha mẹ và thầy cô giáo. Biết hòa đồng với bạn bè,… - Kết quả học tập nâng cao rõ rệt theo từng tháng, từng học kì. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận vấn đề Bất cứ một ai khi đã chọn ngành nghề cho mình thì đều xác định cái đích mình cần đạt đến. Cái đích đó tưởng như rất gần, rất dễ thực hiện, nhưng trong thực tiễn không phải như vậy, mà nhiều khi để đạt được phải đổ nhiều mồ hôi, nước mắt và thậm chí cả tính mạng để đạt được nó. Cũng như mọi ngành nghề khác, nghề dạy học (hay thường gọi là ngành giáo) nhất là giáo viên dạy bậc tiểu học cũng không tránh khỏi những vấn đề nan 3
- giải ấy. Khi đã chọn cho mình cái nghề này, nó sẽ gắn bó với mình suốt cả cuộc đời, người giáo viên sẽ sẵn sàng đón nhận bất cứ đối tượng học sinh nào để dạy dỗ cho các em trở thành người có đức, có tài. Có một đối tượng học sinh mà hầu hết ở cấp học nào cũng có, luôn mang lại nhiều bận tâm, khiến cho người giáo viên phải trăn trở, suy nghĩ để tìm ra biện pháp giáo dục, để lại nhiều ấn tượng sắc nhất mỗi khi gặp phải đó là đối tượng học sinh cá biệt. 1.1. Thế nào là học sinh cá biệt? Học sinh cá biệt là những học sinh chưa ngoan, có những hành vi không mong đợi được lặp lại thường xuyên và trở thành hệ thống, thể hiện bởi thái độ, hành vi không phù hợp với giá trị, nội quy, truyền thống của tập thể, không thực hiện tròn bổn phận và trách nhiệm của người học sinh, hoặc thiếu kỹ năng sống trong quan hệ ứng xử với mọi người, mặc dù đã được giáo viên, gia đình quan tâm chỉ dẫn, giáo dục. Học sinh cá biệt thường có những biểu hiện phổ biến sau: - Học sinh có những thay đổi khác lạ trong thái độ, cách cư xử: trở nên lãnh đạm, không chan hòa, không muốn hòa đồng, cáu kỉnh, xúc phạm người khác thậm chí gây gổ. - Không quan tâm, hứng thú với trường học và việc học, học sa sút, thậm chí là bỏ học. - Thiếu tự tin vào bản thân. Không tin cậy người khác. - Thường xuyên vi phạm nội quy của lớp, trường. - Cố thu hút sự chú ý của người khác bằng những hành vi phá phách, vô lễ, ăn cắp, nói dối,… - Hay đánh đập bạn, hay ồn trong lớp học, bỏ học, trốn học để chơi game. - Có những hành vi chống đối vô lối với giáo viên. - Có những hành động kì quặc, khiến cho lớp học luôn trong trạng thái bất ổn. - Có thái độ xem thường bạn bè, thầy cô,… - Thường xuyên nói tục,… - Thường xuyên không tham gia vào các hoạt động học tập của lớp. 1.2. Một số đặc điểm về tâm sinh lí lứa tuổi học sinh tiểu học Học sinh ở lứa tuổi tiểu học các em rất nghịch, hiếu động, chưa làm chủ được bản thân, chưa nhận thức được điều gì là đúng và điều gì là sai, hay bắt chước và chịu tác động của mọi việc xảy ra xung quanh mình. Chính vì thế, nếu môi 4
- trường tác động tốt thì các em sẽ có những hành vi và đạo đức tốt, còn ngược lại thì sẽ rất tồi tệ, có thể các em sẽ hư hỏng, dối trá, suy giảm đạo đức…. Tuy nhiên ở lứa tuổi này, các em cũng rất thích được tuyên dương, khen ngợi. Vì vậy chúng ta cần những giải pháp thích hợp để giáo dục và định hướng đúng đắn cho các em học sinh trong các hoạt động giáo dục, học tập và vui chơi lành mạnh, phù hợp với lứa tuổi của các em. Chúng ta không thể áp dụng cách thức giáo dục cho lớp mẫu giáo vào bậc tiểu học, cũng không thể áp dụng cách thức giáo dục cho bậc trung học vào học sinh tiểu học. Có như vậy, chúng ta mới giáo dục học sinh ở bậc tiểu học phát triển một cách đúng nhất về nhân cách cũng như nhận thức của lứa tuổi mình, đặc biệt là các học sinh dạng cá biệt. Với học sinh dạng cá biệt, cần có những biện pháp riêng, phù hợp với hoàn cảnh của từng em, mà từ đó mới hướng các em đi vào nề nếp. Muốn làm điều đó giáo viên cần phải có những hiểu biết nhất định về từng hoàn cảnh, từng nguyên nhân tạo nên những học sinh cá biệt đó và từ đó xây dựng các biện pháp riêng cụ thể áp dụng cho từng em học sinh cá biệt. - Các nguyên nhân: + Nguyên nhân do yếu tố sinh học. + Nguyên nhân do yếu tố tâm lí. + Nguyên nhân do môi trường xã hội. - Mục đích: + Thu hút sự chú ý. + Thể hiện quyền lực. + Trả đũa. + Thể hiện sự không thích hợp. + Suy nghĩ không hợp lí. 2. Thực trạng vấn đề Hiện nay, hầu như ở lớp học nào trong trường cũng xuất hiện tình trạng học sinh cá biệt. Nếu không uốn nắn, giáo dục các em kịp thời sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến các học sinh khác trong lớp cũng như ảnh hưởng đến việc giảng dạy của giáo viên, kết quả học tập của các em, kết quả thi đua của lớp. * Thuận lợi Được sự quan tâm, giúp đỡ của lãnh đạo nhà trường cũng như chính quyền địa phương thường xuyên quan tâm, chăm lo đến công tác giáo dục. Sự giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm của các đồng nghiệp trong trường, trong tổ khối cũng như sự phối hợp nhiệt tình của các giáo viên bộ môn giảng dạy ở lớp. 5
- * Khó khăn Là vùng nông thôn, các em ít có điều kiện tiếp xúc với môi trường bên ngoài, nhiều học sinh trong lớp nhà ở vùng trũng, thấp và một số xa trường nên ảnh hưởng đến việc đi lại học hành của các em. Kinh tế của gia đình các em trong lớp đa phần còn khó khăn, một số em bố mẹ đi làm xa cả ngày nên ít có điều kiện quan tâm đến việc học hành cũng như sinh hoạt hàng ngày của con cái. Các em đang ở trong giai đoạn hình thành nhân cách nên rất dễ bị ảnh hưởng từ những tác động xấu ở môi trường sống xung quanh. 3. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề 3.1. Xác định mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học Phải xem học sinh là trung tâm của vấn đề, trong hoạt động dạy và học, bao giờ cũng nên xem việc giảng dạy và giáo dục chỉ là tác nhân, còn học sinh xuất hiện với tư cách là chủ thể được giáo dục. Chúng hoàn toàn chủ động trong mọi công việc từ nhận thức tư duy, đến thái độ và hành vi ứng xử của chúng. Giáo viên chỉ là người cố vấn, định hướng, dẫn dắt, chỉ bảo, nhắc nhở, động viên cho các em có được những nhận tức, tư duy và hành vi ứng xử một cách đúng đắn, lễ phép. + Về phía giáo viên: Trước hết phải có cái “Tâm”. Xuất phát từ chữ tâm ấy sẽ dễ dàng tiếp cận được các em học sinh, sự bao dung và sự chịu khó sẽ giúp cho giáo viên dễ dàng thuyết phục, giáo dục được các học sinh cá biệt. Cũng từ chữ tâm ấy, sẽ thúc đẩy trách nhiệm, nghĩa vụ của giáo viên chủ nhiệm lên tầm cao hơn, từ đó trăn trở, suy nghĩ đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng. Giáo viên phải tôn trọng học sinh dạng cá biệt này, dù các hành vi của các em có thể gây xúc phạm đến danh dự của mình. Đồng thời phải có lòng tin với các em, tin tưởng các em để giao một số công việc phù hợp của lớp cho các em phụ trách. Giáo viên tuyệt đối không được xúc phạm đến danh dự các em học sinh trước tập thể lớp. Giáo viên phải chịu khó lắng nghe tâm sự của các em, thường xuyên quan tâm và hỏi thăm, chăm sóc các em trong các điều kiện có thể. Từ đó mới tìm hiểu được nguyên nhân chính dẫn đến sự cá biệt của các em mà tìm giải pháp cho phù hợp, an ủi và động viên kịp thời các em khi phát hiện những bi kịch, chuyện buồn mà gia đình cũng như xã hội mang lại. Giáo viên phải giữ được chữ tín đối với học sinh cả chuyên môn lẫn nhân cách sống. Đã hứa làm việc gì thì phải làm đến nơi đến chốn. 6
- Với những vấn đề trên, nếu giáo viên áp dụng được sẽ rất dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu mọi vấn đề phát sinh khi cần thiết. Thực tế trong những năm qua, với những vấn đề ấy, bản thân tôi đã được các em học sinh cá biệt tôn trọng. Ban đầu các học sinh cá biệt sống rất tách rời tập thể, thấy thầy giáo, cô giáo thì khó chịu, tránh xa, ngại tiếp xúc. Song dần dần, tôi đã giúp cho các em hiểu được vấn đề và hiện nay đa số các em sống rất gần gũi với lớp. Đặc biệt khi có bất kỳ chuyện gì xảy ra, dù lớn hay nhỏ các em này cũng đều tâm sự và chia sẻ với tôi từ niềm vui đến nỗi buồn. Chính điều đó, dần dần tôi đã giúp các em tránh được sự tự ti và mặc cảm ban đầu. + Về phía học sinh: Giáo viên chủ nhiệm phải nắm được đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình học sinh cá biệt. Để từ đó cảm thông, tránh sự xúc phạm vô tình đến các em và đồng thời tạo nhiều điều kiện hơn để các em phát huy học tập và rèn luyện Giáo viên phải tìm hiểu, khai thác những điểm tốt và điểm chưa tốt cơ bản nhất của học sinh để tác động làm thay đổi tính cách của học sinh cá biệt. Giáo viên phải hiểu những suy nghĩ và những điều học sinh muốn làm. Có như vậy mới giúp các em tháo gỡ được những khó khăn để giúp các em đạt được những mong muốn chính đáng. Giáo viên phải để ý quan tâm hằng ngày đến các em, động viên, khen thưởng kịp thời thông qua các hoạt động của lớp, hoặc qua các tiết học để các em thấy được những việc làm tốt của mình được công nhận và cần phải phát huy. 3.2. Tìm hiểu sự tác động giữa gia đình và xã hội đối với lứa tuổi bậc tiểu học Tục ngữ có câu “Cha nào con nấy”, đó là dấu ấn của tuổi thơ với hành vi ứng xử của cha mẹ, nề nếp và gia phong của từng gia đình, đã tác động và ảnh hưởng đến nhân cách của học sinh ở lứa tuổi này. Vì vậy tác động của người xung quanh, nhất là những người thường xuyên gần gũi các em rất là quan trọng. Hầu hết những học sinh cá biệt đều có những hoàn cảnh gia đình khá phức tạp ví dụ như: gia đình lục đục, bố mẹ thường xuyên cãi nhau, không còn chung sống với nhau, hay đi làm xa phải gởi con cái cho ông bà hoặc những người thân khác trong gia đình. Hoặc cha mẹ ở gần con nhưng không quan tâm, chăm sóc con cái làm cho chúng có cảm giác bị bỏ rơi, không nhận được sự yêu thương từ phía gia đình, các em trở nên trầm cảm, có thái độ bất cần, không thích thú với việc học tập trên lớp cũng như ở nhà. Ngoài ra, nhân cách của học sinh bậc tiểu học cũng chịu sự tác động rất lớn của xã hội. Nếu như các em bị lôi kéo bởi nhóm thanh niên hư hỏng khác, hoặc các em có những sai lệch trong nhìn nhận sự việc, nhận thức chưa đủ để phân biệt được đúng sai thì nhất định nhân cách của các em cũng sẽ bị ảnh hưởng. Nếu như các em có môi trường vui chơi, giải trí lành mạnh, được giáo dục, tiếp cận với những thông 7
- tin hữu ích thì các em sẽ trở thành người có nhân cách, phẩm chất tốt, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. 3.3. Xác định cụ thể từng đối tượng học sinh cá biệt và nguyên nhân dẫn đến tình trạng cá biệt của từng học sinh Qua thống kê và theo dõi trong lớp có 5 em học sinh thuộc dạng cá biệt như sau: Em Cao Thị Bích Ngọc: Em hay nói tục, thường xuyên đi lại tự do trong lớp, chọc phá, đánh các bạn trong và ngoài lớp nên nhiều lúc dẫn đến cãi nhau thậm chí dẫn đến đánh nhau với các bạn, ít nghe lời thầy cô giáo. Nguyên nhân chính là do gia đình, bố mẹ ly hôn để em sống với bà ngoại già cả, ít được sự quan tâm chăm sóc tận tình từ cha mẹ. Mẹ lo làm ăn xa nên không quan tâm đến việc học tập, sinh hoạt hằng ngày của con. Ngoài ra, em sống trong môi trường phức tạp, làng xóm có nhiều thanh niên hư hỏng, quậy phá, nói tục, chửi thề nên ảnh hưởng không ít đến việc học tập cũng như hành vi, thái độ của em. Em Trần Anh Thư: Viết chữ chưa thành thạo, chữ viết xấu, sai chính tả nhiều, đọc bài còn rất chậm; tính toán rất chậm, không biết trình bày các bài toán giải. Nguyên nhân khách quan là do bố mẹ hay cãi nhau nên ảnh hưởng đến việc học hành, cũng như tâm lí của em. Nguyên nhân chủ quan là do bản thân em lười học tập, khả năng tiếp thu bài rất hạn chế nhưng không có tinh thần tự học, em còn ham chơi, ít chú ý lắng nghe giáo viên giảng bài cũng như không muốn bạn giúp đỡ, lười học hỏi. Em Đinh Nguyễn Mai Phương: Gặp khó khăn trong giao tiếp, thường mặc cảm với người lạ, ít tiếp xúc trò chuyện với các bạn. Kĩ năng tính toán còn hạn chế, trí nhớ kém, hay quên. Nguyên nhân là do em có bản tính nhút nhát, không muốn nói chuyện với ai kể cả những người thân trong gia đình. Bố mẹ lo làm ăn ít quan tâm nên em càng mặc cảm hơn. Ngoài ra, do khả năng ghi nhớ còn hạn chế, em hay quên, lười học hỏi dẫn đến mất căn bản nên em việc học tập, tính toán với em là rất khó khăn. Em Võ Thị Kiều Ngoan: Gặp khó khăn trong giao tiếp, em phản ứng trước các câu hỏi của người khác rất chậm, ngại nói chuyện với mọi người, đọc bài chậm, làm bài rất chậm, viết bài sai nhiều lỗi. Nguyên nhân là do em lười học, mất căn bản từ nhỏ nên em rất ít khi nói chuyện với mọi người. Ở nhà, em ít được quan tâm nên việc học tập ngày càng sa sút. Ngoài ra, việc đọc, viết đối với em là rất khó khăn, lâu dần em sợ đọc và học bài. Bên cạnh đó, bố mẹ lo làm ăn nên không có thời gian chỉ dạy; bị ảnh hưởng tâm lí từ gia đình nên em tự ti, mặc cảm với xã hội. 8
- Em Nguyễn Tuấn Kiệt: Thường xuyên lơ là trong giờ học, ít làm bài tập, kĩ năng tính toán còn hạn chế, trí nhớ kém, hay quên; đầu tóc thì bù xù, quần áo thì xộc xệch. Nguyên nhân là do bố mẹ lo làm ăn, không có người nhắc nhở em học tập và em chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc học nên dẫn đến lười học, không chú ý nghe giáo viên giảng bài. Ngoài ra, về phía gia đình với ý nghĩ việc dạy các em học tập là của nhà trường, về nhà thì lo làm việc nhà để phụ giúp gia đình nên làm cho em càng lơ là việc học hơn nữa. Từ những nguyên nhân dẫn đến tình trạng cá biệt của từng em, tôi rút ra một số nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng học sinh cá biệt ở trong lớp tôi chủ nhiệm như sau: - Gia đình lo việc làm ăn, ít dành thời gian lo cho con cái, khoán trắng sự giáo dục cho nhà trường. - Đa số các em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đông anh chị em, neo đơn. Nhiều em là con đầu lòng phải phụ giúp cho cha mẹ công việc gia đình, lo cho em còn nhỏ,… - Bản thân bố mẹ không làm gương cho con cái noi theo. - Gia đình không hòa thuận, bố mẹ ly dị, đi làm ăn xa nên để con cái cho ông bà, người thân nuôi dưỡng nên ít chú ý đến các em, để các em tự học là chính. - Các em không ý thức được tầm quan trọng của việc học, ham chơi, không nghe lời người khác khuyên răn, không lắng nghe giáo viên giảng bài nên dẫn đến mất căn bản, sợ việc học và sa sút dần trong học tập. 3.4. Xây dựng biện pháp giáo dục phù hợp cho từng học sinh cá biệt Em Cao Thị Bích Ngọc: Với tính cách hiếu động và sự ảnh hưởng không tốt từ môi trường xã hội nên việc sửa đổi giúp em tiến bộ là rất khó khăn. Em còn hay đánh bạn, chọc bạn trong và ngoài lớp. Với em phải kiên trì và khéo léo; tôi thường xuyên nhắc nhở, sửa sai cho em bằng cách phân tích cho em thấy những lỗi sai của mình, giải thích cho em hiểu những hành vi không tốt sẽ gây ảnh hưởng xấu cho bản thân em cũng như các bạn trong lớp, từ đó tôi yêu cầu em phải xin lỗi các bạn nếu như em làm sai. Đồng thời với những học sinh còn lại trong lớp, tôi yêu cầu các em phải bình tĩnh nếu như bạn trêu chọc thì phải báo cho hội đồng tự quản của lớp hoặc là giáo viên giảng dạy tại lớp giờ học đó chứ không được gây gổ lại dẫn đến mất đoàn kết trong lớp. Về việc học tập, tôi luôn cố gắng rèn chữ cho em mỗi khi có thời gian, và cho em tập chép những vần, tiếng đã học, làm những bài toán đơn giản dưới sự hướng dẫn của giáo viên hoặc bạn bè. Ngoài ra, tôi còn gặp riêng phụ huynh em để thông báo tình hình của em nhằm mục đích cùng nhau phối hợp để giáo dục em tốt hơn. 9
- Khuyên gia đình nên dành nhiều thời gian quan tâm đến em để em có tiến bộ hơn. Bên cạnh đó, tôi còn giao cho em nhiệm vụ trong giờ học phải ngồi yên không được ra khỏi chỗ, không được chọc bạn đánh bạn, phải biết dọn vệ sinh khu vực mình ngồi. Nhằm giúp em phát huy sự nhanh nhẹn và nâng cao tinh thần trách nhiệm, từ đó hạn chế chọc phá bạn, dần đưa em vào nề nếp nghiêm túc hơn trong giờ học. Em Trần Anh Thư: Đối với em, tôi luôn quan tâm đến em mỗi khi đến lớp, bằng cách tôi thường xuyên kiểm tra vở của em, xem em trình bày bài như thế nào. Ngoài ra, vào giờ truy bài, tôi luôn rèn khả năng viết câu cho em; thường xuyên gọi em đọc đề bài tập, lắng nghe em tập đọc để ít nhiều rèn khả năng đọc cho em, sửa lỗi sai khi đọc nhằm khắc phục những lỗi sai khi viết chính tả do cách đọc tiếng địa phương. Bên cạnh đó, tôi còn ra những bài toán tính để em rèn khả năng tính toán cũng như trình bày bài làm của em cũng được cải thiện. Hằng ngày, phân công những bạn có năng lực kèm cặp, hỗ trợ em trong giờ truy bài mỗi khi em đến trường. Về phía gia đình, tôi cũng đã trao đổi với mẹ của em để giúp em có được sự quan tâm nhiều hơn từ gia đình cũng như nền tảng tâm lí tốt hơn khi ở nhà. Em Đinh Nguyễn Mai Phương: Đây là trường hợp rất đặc biệt, em vừa ngại giao tiếp, rất ít nói, tính toán chậm, trí nhớ kém kết hợp với sự tiếp thu chậm vì sức khỏe em không được tốt, thể trạng thì nhỏ bé. Với em, tôi đã phải cực kì kiên nhẫn.Trong mỗi giờ học, mỗi khi ra câu hỏi gợi mở vấn đáp cho một vấn đề nào đó tôi thường gọi em trả lời mặc dù em không thích thú nhằm rèn khả năng giao tiếp cho em. Động viên các bạn trong lớp chơi cùng em để em quen bạn, học hỏi ở bạn những điều hay nhằm mạnh dạn hơn; đồng thời tôi cũng giao cho em việc phát vở cho các bạn sau khi tôi chấm bài để giúp em cảm thấy được xem trọng và tự tin hơn, hòa đồng hơn. Sau đó, tôi tiếp tục rèn khả năng ghi nhớ cho em bằng cách hay gọi em nhắc lại một số kiến thức mới hay một nội dung bài mới để em chú ý bài hơn. Khi em đã bắt đầu cởi mở hơn, tôi bắt đầu củng cố một số kiến thức mà em bị mất căn bản rồi tôi cho em làm đi làm lại nhiều lần các dạng toán đã học trong các tiết rèn để giúp em nhớ cách làm. Đồng thời, tôi còn nhờ một học sinh có năng lực trong lớp gần nhà em giúp đỡ em ở lớp cũng như ở nhà. Về phía gia đình, tôi đã gặp và trao đổi với bố em trong cuộc họp phụ huynh đầu năm để tìm kiếm thêm sự quan tâm từ phía gia đình đối với em, nên trò chuyện với em nhiều hơn nhằm giúp em học tập tốt hơn và tự tin hơn. Em Võ Thị Kiều Ngoan: Đối với em này, tôi luôn kiên nhẫn theo sát em trong giờ học và thường xuyên thay đổi biện pháp giáo dục cho phù hợp với em, một phần vì em học rất kém và khó khăn trong việc nói chuyện, giao tiếp với mọi người. Tôi thường đặt ra những câu hỏi tương đối dễ và kiên trì gợi mở, động viên để giúp em tìm ra câu trả 10
- lời nhằm củng cố kĩ năng trả lời câu hỏi cũng như tăng khả năng trao đổi thông qua giao tiếp cho em. Vì em đọc viết còn chậm nên mỗi khi viết chính tả hay làm bài tập tôi thường đứng bên cạnh em để nhắc nhở, kèm cặp em. Ngoài ra, tôi còn phân công một học sinh có năng lực trong lớp gần nhà em giúp đỡ em ở trường cũng như ở nhà để em mau tiến bộ hơn. Tôi còn tìm gặp những giáo viên bộ môn để trao đổi về tình hình của em, nhờ giáo viên bộ môn quan tâm đến em nhiều hơn để em tiến bộ hơn trong học tập cũng như trong giao tiếp. Bên cạnh đó tôi cũng phân công em phát vở cho các bạn sau khi tôi chấm bài. Về phía gia đình, tôi cũng đã trao đổi với mẹ em nên quan tâm trò chuyện với em nhiều hơn Em Nguyễn Tuấn Kiệt: Với em, biện pháp giáo dục của tôi là thường quan sát em trong mọi hoạt động. Trong giờ học, tôi thường xuyên nhắc nhở cả lớp tập trung vào bài học. Mỗi khi tôi thấy em không chú ý lắng nghe giảng bài tôi thường nhắc khéo hoặc là tôi đưa ra câu hỏi liên quan đến nội dung tôi vừa giảng và gọi em trả lời câu hỏi, trả lời không được tôi cho em đứng tại chỗ lắng nghe bạn khác trả lời sau đó nhắc lại, lâu dần rèn cho em khả năng tập trung nghe giảng bài để trả lời được những câu hỏi mà tôi nêu ra. Ngoài ra, tôi còn thường xuyên ra các dạng bài toán nhằm củng cố kĩ năng tính toán cho em làm vào các tiết rèn và giờ truy bài ví dụ như các bài toán về tính cộng, trừ, so sánh các số...Thỉnh thoảng, tôi gặp riêng hỏi han, khuyên răn em để em ý thức được tầm quan trọng của việc học, có khả năng tự học và học tập tốt hơn. Về phía gia đình, tôi đã gặp và trao đổi một cách tế nhị với bà ngoại em nên quan tâm nhiều hơn đến em đặc biệt là vấn đề ăn mặc và vệ sinh cá nhân. 3.5. Dùng tình cảm để cảm hóa học sinh Tránh đối xử thô bạo, trách móc các em. Hãy tôn trọng nhân cách của các em. Hãy đem đến cho các em hơi ấm của tình người, để các em biết người tốt chung quanh ta, nhiều lắm! các em cần được đối xử tử tế, cần được yêu thương và tôn trọng. Không ai được ngược đãi các em vì các em học chậm. Các em có quyền được đặt câu hỏi và yêu cầu thầy cô giáo giải thích cho em hiểu. Chính vì vậy mới cần có trường học. Và đó là lý do tại sao cần có thầy cô giáo...” Để hiểu học sinh “cá biệt”, trước hết phải biết chấp nhận các em vô điều kiện. Luôn đứng về phía các em, quan tâm điều các em nghĩ, bàn về những đề tài các em thích. Thỉnh thoảng, sử dụng “thuật ngữ” của các em. Đó là cách mang các em đến gần mình hơn. Khi mối quan hệ đủ thân thiện, khi niềm tin đủ lớn, người thầy sẽ thuận lợi trong việc uốn nắn hành vi, khai sáng tư duy, định hướng nhận thức... Nên xử lý mềm mỏng, thậm chí dịu ngọt đối với học sinh cá biệt này, nếu không sẽ không có hiệu quả, có khi gặp phản ứng không tốt ngược trở lại về phía 11
- học sinh. Tuy nhiên cũng có đôi lúc ta cũng phải cứng rắn: chẳng hạn trong vấn đề xử phạt “mềm nắn, rắn buông”. Nếu học sinh có thói hư tật xấu phạm lỗi trầm trọng cũng có thể tùy trường hợp hay tùy đối tượng mà xử lí, tôi không xử lí một cách cứng nhắc. Dù lỗi lầm lớn nhưng nếu em đó biết nhận lỗi và sửa lỗi thì tôi luôn tạo cho học sinh đó cơ hội tự làm chủ bản thân, có niềm tin nghị lực để vươn lên. Thế nhưng đối với những học sinh lỗi vi phạm không đáng kể nhưng lại vi phạm thường xuyên thì tôi không thể bỏ qua mà xử lí một cách linh động tùy theo từng đối tượng. Dù các em vi phạm ở mức độ lỗi lớn hay nhỏ giáo viên cũng xử lí trên cơ sở giáo dục các em, cụ thể cho em đó biết chuộc lỗi, làm một việc tốt, giao cho em đó thời gian thử thách. 3.6. Kiên trì tạo niềm tin cho học sinh Chúng ta hãy thử hòa mình vào phong cách sống của các em xem sao? Để điều hành được học sinh “cá biệt”, người thầy phải sắm đủ các vai. Khi thì nhà mô phạm nghiêm khắc, lúc lại là cái vai cho các em gục đầu vào. Khi thì nhà tâm lý, lúc lại là bác sĩ trị liệu, khi thì ông trọng tài, lúc khác lại là người cố vấn... Cứ như thế, kiên trì cho đến khi các em tự nhận ra tại sao mình phải thay đổi. Từ cảm giác cô đã không chối bỏ mình, không chê mình, luôn khen ngợi, động viên và tặng trái tim ghi điểm thưởng..., các em dần phát hiện ra giá trị của bản thân, cảm thấy mình hữu ích và được việc... Thế là tinh thần học tập được nhân lên, tạo ra sự tương tác và cộng hưởng. Giáo viên nên thường xuyên trò chuyện, quan tâm, gần gũi, nhắc nhở, động viên học sinh học tập, có thái độ thân thiện với học sinh. Tạo cho học sinh nhìn mình là cảm thấy gần gũi, chứ không phải gặp mình là sợ la, sợ bị mắng. Như vậy học sinh sẽ có tâm lý bất cần “Thầy cô kệ thầy cô, ta là ta”. Ta phải làm sao tạo cho học sinh có cảm giác là giáo viên như là một người bạn thân, bạn tâm tình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của mình, khi mình vui, buồn đều có thể chia sẻ với thầy cô, khích lệ mình khi mình khó khăn trong gia đình, bế tắc trong học tập. Giáo dục từng bước, chậm rãi từ những công việc nhỏ. Chẳng hạn phải thức sớm một chút để không phải đi trễ, mình học yếu thì nên chịu khó, siêng làm bài tập hơn các bạn, khi nào làm bài tập, học sinh mệt thì nên giải lao để tinh thần thoải mái rồi làm tiếp, không nên cố gắng quá sức. Giáo viên không nên giáo dục ào ạt chưa hỏi han lý do gì hết mà đã la mắng học sinh cho dù học sinh đó vi phạm nhẹ, như vậy sẽ mất hiệu quả giáo dục. Bởi vì đấy là những học sinh cá biệt, tính tình ương ngạnh, tâm lý bất cần, học hay không đối với bản thân học sinh không quan trọng mà học sinh vào lớp là chỉ được "lãnh lương" hàng ngày, không phải làm những việc nặng nhọc bằng tay chân ở nhà. 12
- 3.7. Giáo viên phải biết làm mới tiết dạy của mình Giáo dục học sinh cá biệt còn một yêu cầu quan trọng là thầy, cô phải giỏi nghề. Thầy, cô phải luôn cải tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy. Tiết sau “mới” hơn tiết trước. Sau một tiết học, trò học được nhiều tri thức bổ ích tạo nên sự đam mê học hỏi, khám phá tự tin, khẳng định mình. Thầy, cô biết “cuốn” học sinh vào trò chơi học tập, sẽ “lấp” thời gian “chết”, trò không “nhàn cư…” nghịch, vẽ tranh, chơi đồ chơi… ngay trong tiết học. Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể những việc mà học sinh hỏi, tránh để học sinh cảm thấy mình lạc lõng, cảm giác vì mình học dở nên không ai quan tâm, ai cũng khi dễ mình, không ai thèm chơi, để ý đến mình. Giáo dục học sinh cá biệt là một nghệ thuật, nghệ thuật dạy trẻ. Thầy, cô đứng trên bục giảng phải đóng nhiều vai: Tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên, cả khán giả - tức học sinh ngồi nghe giảng trên lớp. Làm thầy, nhưng phải hiểu trò đang nghĩ gì, làm gì trong giờ học. Bài giảng là một “món ăn”, nếu nhàm chán, học trò sẽ bỏ ăn - bỏ học. 3.8. Phải biết động viên kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng Giáo viên phải biết trân trọng những gì là tốt dù rất nhỏ của học sinh. Một lời động viên khích lệ kịp thời khi các em chỉ có một việc làm tốt rất nhỏ cũng đủ làm cho các em thấy tự tin hơn, thấy mình thực sự có ích. Hãy mạnh dạn giao việc cho chúng, hướng dẫn các em để chúng làm theo định hướng của mình nhưng vẫn phải để “Đất” cho các em thể hiện tính sáng tạo, tuyệt đối không được áp đặt. 3.9. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục trong xã hội Chúng ta cần biết sử dụng và phát huy hợp lí giá trị, tác dụng của dư luận xã hội. Phát huy vai trò của ban đại diện hội cha mẹ học sinh. Tổ chức các buổi ngoại khóa, kết hợp với những người cao tuổi, có uy tín trong làng xã, mời họ đến trường nói chuyện, nhờ họ tuyên truyền giáo dục giúp nhà trường. Thường xuyên thăm gia đình học sinh để tìm hiểu hoàn cảnh, tạo sự gần gũi giữa giáo viên, học sinh và phụ huynh học sinh. Không nên chỉ khi các em có khuyết điểm mới đến thăm gia đình. 13
- 3.10. Nhà trường tích cực đổi mới phương thức quản lý, hoạt động Đẩy mạnh và đổi mới các hoạt động tập thể, xây dựng môi trường thân thiện, xây dựng cơ sở vật chất, khu vui chơi giải trí, thể thao. Tổ chức các buổi hoạt động tham quan dã ngoại để lôi cuốn các em đến trường, làm cho các em thực sự thấy “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Sưu tầm và đưa các trò chơi dân gian, có thể sáng tạo các trò chơi dân gian cho phù hợp với thời đại ngày nay vào trong nhà trường. Tăng cường đưa giáo dục pháp luật, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục sức khỏe, giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường để các em có đủ hành trang bước vào cuộc sống, không bị bỡ ngỡ, bất ngờ. Khi gặp phải những tình huống bất ngờ các em biết bình tĩnh xử lý hiệu quả nhất. 3.11. Giáo dục học sinh thông qua giờ sinh hoạt trường, sinh hoạt lớp Để cho học sinh nắm bắt được việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm tức là những chuẩn mực các em đạt được trong quá trình rèn luyện của mình, nhà trường cần phải thông báo cho các em biết được các mức độ xếp loại. Hiểu được thì các em sẽ tránh được vi phạm mà các em mắc phải, để rồi các em khỏi phải liệt vào danh sách học sinh cá biệt. Tổ chức cho học sinh thảo luận nội quy nhà trường và hướng dẫn cho các em thực hiện nội quy, có chế độ khen chê công bằng, khách quan. Trong buổi chào cờ đầu tuần, cần phải đánh giá nhận xét chu đáo, nêu gương người tốt, việc tốt để các em noi theo, hạn chế những vi phạm nội quy lớp học, trường học . Ngoài việc giáo dục học sinh thông qua giờ sinh hoạt trường, giờ sinh hoạt lớp cũng rất quan trọng trong vấn đề này. Bởi vì thông qua giờ sinh hoạt lớp giáo viên chủ nhiệm có thể kịp thời uốn nắn những sai trái khuyết điểm của học sinh khi bị vi phạm, lấy tình cảm bạn bè, lấy nghĩa thầy trò làm cho các em thấy được khuyết điểm của mình. Đồng thời với sự chân thành của giáo viên chủ nhiệm, học sinh trong lớp, học sinh khi vi phạm sẽ sớm nhận ra lỗi lầm của mình mà sửa chữa. Trong khi giáo dục các em, giáo viên chủ nhiệm không nên nặng về kiểm điểm, phê bình, mà phải tìm ra và xác định đúng nguyên nhân đã tác động đến các em làm cho các em mắc sai lầm, vi phạm, vận dụng những điều khoản trong nội quy, trong quy định xếp loại làm cho các em thấy được việc vi phạm ở mức độ nào và nêu ra hướng cho các em khắc phục. Ngoài ra, giáo dục đạo đức học sinh thông qua chương trình phát thanh măng non hàng tuần nhằm khắc phục việc không có nhiều thời gian giáo dục đạo đức trong tiết học. Hoạt động Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 đã có sáng kiến tuyên truyền giáo dục đạo đức học sinh thông qua 14
- chương trình phát thanh măng non hàng tuần; thông qua các câu chuyện kể về Bác Hồ trong các buổi chào cờ đầu tuần, các câu chuyện hay, các gương người tốt, việc tốt… 3.12. Phối hợp chặt chẽ với gia đình Điều quan trọng trong công tác chủ nhiệm là giáo viên cần phối hợp một cách chặt chẽ với phụ huynh học sinh trong quá trình giáo dục các em. Lưu ý rằng: khi tiếp xúc với phụ huynh học sinh cá biệt cần tránh cho họ sự tổn thương cần thiết. Thường thì những học sinh cá biệt sẽ hoàn cảnh sống đặc biệt, do gia đình mâu thuẫn, cha mẹ hay cãi vã, hoặc là do các em thiếu thốn tình cảm, thiếu sự quan tâm cũng như chăm sóc từ cha mẹ và cũng có thể là do cha mẹ quá nuông chiều… với muôn ngàn lý do khác. Mặt khác, cha mẹ luôn coi con cái của mình là thứ quý giá nhất, cho dù chúng hư hỏng, khó dạy bảo đến đâu… Cho nên khi nghe tin có giáo viên đến nhà thăm, hay điện thoại báo tin là bản thân họ lại không muốn tiếp, không muốn nghe. Và nếu có tiếp hay nghe điện thoại của thầy cô thì cũng với thái độ bực dọc, thậm chí là bất cần, vì mấy ai thích nghe người khác kể tội con mình. Vì vậy, khi tiếp xúc với phụ huynh, giáo viên nên đặt vị trí của mình vào trong suy nghĩ, tình cảm của cha mẹ các em để phân tích, lý giải thiệt hơn. Hãy cố gắng tìm hiểu những khó khăn của các bậc phụ huynh trong việc quản lý, cũng như dạy dỗ con em mình để cùng nhau tìm biện pháp giáo dục tốt nhất. Giáo viên nên lập kế hoạch đi thăm gia đình học sinh trong lớp, đặc biệt là học sinh cá biệt, mỗi tháng thăm được ít nhất 2 gia đình học sinh để trong 2 năm học có thể thăm được hết gia đình học sinh trong lớp. Từ việc trực tiếp đến gia đình, gặp gỡ cha mẹ học sinh, giáo viên sẽ hiểu hơn hoàn cảnh học sinh, từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. Lựa chọn hình thức trao đổi thông tin, có thể bằng sổ liên lạc, bằng điện thoại... Với sổ liên lạc, giáo viên chủ nhiệm nhận xét về kết quả học tập, số buổi nghỉ, số lần đi học trễ và các vi phạm khác, nhận xét về thái độ, chiều hướng tiến bộ của học sinh và đưa học sinh chuyển về cho phụ huynh vào thứ 7 hàng tuần. Phụ huynh nhận xét các hoạt động của con em tại gia đình, ký xác nhận và chuyển lại cho giáo viên chủ nhiệm vào sáng thứ 2 tuần sau (phụ huynh học sinh phải ký mẫu vào sổ liên lạc). Với hình thức liên lạc bằng điện thoại: Giáo viên chủ nhiệm cho phụ huynh đăng ký số điện thoại và thông báo số điện thoại của mình cho phụ huynh học sinh biết ngay từ buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm để chủ động liên lạc trực tiếp với phụ huynh khi cần thiết và ngược lại. 15
- Đặc biệt đối với học sinh hay nghỉ học, đi học trễ, nếu nghỉ học không có lí do, hoặc viết giấy phép nhưng không có chữ ký phụ huynh, có chữ ký phụ huynh nhưng không đúng ..., giáo viên chủ nhiệm điện trực tiếp cho gia đình học sinh ngay trong buổi học hôm đó để xác định thông tin. 4. Hiệu quả của đề tài 4.1. Sự thay đổi trong nhận thức của học sinh. Tính từ đầu năm học cho đến cuối học kỳ II năm học 2017 – 2018, việc áp dụng một số biện pháp nêu trên đã đem lại một số kết quả như sau: Các em đã biết vâng lời thầy cô giáo và người lớn, không còn nói tục, chửi thề tại trường học, không còn tình trạng đánh nhau. Một số em là học sinh có hành vi đạo đức chưa tốt bây giờ trở thành những học sinh phụ trách trật tự của lớp và có hành vi đạo đức tốt, được các em học sinh khác yêu quý như em Cao Thị Bích Ngọc. Bên cạnh đó em Trần Anh Thư và em Nguyễn Hoàng Mai Phương đã tiến bộ rất nhiều trong học tập, các em tham gia phát biểu xây dựng bài, biết giúp đỡ bạn trong lớp, khi giáo viên giao việc thì cố gắng hoàn thành, biết vâng lời thầy cô giáo và tham gia đầy đủ các hoạt động của lớp và của trường tổ chức; đặc biệt vấn đề ăn mặc, đầu tóc và vệ sinh cá nhân của em Nguyễn Tuấn Kiệt đã được cải thiện đáng kể. Em Võ Thị Kiều Ngoan đã tiến bộ hơn trong giao tiếp, mạnh dạn trò chuyện, biết cách kết hợp vui chơi cùng bạn và khả năng đọc viết cũng tiến bộ hơn trước. 4.2. Kết quả về các mặt trước và sau khi áp dụng đề tài Trong suốt thời gian thực hiện đề tài này, tôi nhận thấy hài lòng vì đa số các học sinh cá biệt đã nhận thức đúng đắn về hành vi học tập và rèn luyện đạo đức của mình. Các em có hành vi đạo đức chưa tốt đã ngoan lên hơn nhiều, các em chưa hoàn thành việc học tập giờ cũng đã cải thiện, từ viết sai chính tả, đọc không thông, làm toán không được, bây giờ các em đã tự thực hiện được các vấn đề cơ bản của bộ môn Tiếng Việt và môn Toán. Tất cả các nội dung cần thực hiện hầu như đều có tiến bộ, tuy chưa đạt 100% nhưng bước đầu các em đã biết hòa đồng cùng bạn bè, biết đoàn kết và biết bảo vệ của chung. * Số liệu cụ thể như sau: Về môn học và hoạt động giáo dục: Giữa HKI Cuối HKII Hoàn Hoàn Chưa hoàn Hoàn Hoàn thành Chưa hoàn thành tốt thành thành thành tốt thành 26,1% 65,2% 8,7% 60,9% 39,1% 0% 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 440 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 221 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài tập tìm hình ảnh so sánh trong phân môn luyện từ và câu lớp 3
27 p | 170 | 24
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 192 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 176 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 123 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 168 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp giáo viên lớp 1 dạy tốt Hoạt động trải nghiệm theo chủ đề ở trường Tiểu học Thanh Liệt
39 p | 25 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 164 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 103 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 129 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 148 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp huấn luyện chạy cự ly ngắn cho học sinh
14 p | 96 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục tại Trường Tiểu học Ngọc Lâm đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông
9 p | 60 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh trường Tiểu học Cổ Đô
40 p | 15 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn