intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả dạy học biện pháp tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và câu nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 3

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:41

47
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là ngay từ các lớp đầu cấp, các bài học của sách giáo khoa đã đưa vào khá nhiều hình ảnh so sánh. Tuy nhiên phải đến lớp 3, học sinh mới chính thức được học về biện pháp tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và câu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả dạy học biện pháp tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và câu nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 3

  1. PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỒNG TĨNH A =====***===== BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến:  Nâng cao hiệu quả  dạy học biện pháp tu từ  so sánh  trong phân môn Luyện từ và câu nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho   học sinh lớp 3. Tác giả sáng kiến: Trần Thị Loan                                          
  2. BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu  Trong cuộc sống hàng ngày, khi trò chuyện, giao tiếp với những người  xung quanh ta vẫn hay sử dụng hình thức so sánh để câu nói thêm phần thuyết   phục như: Hoa cao hơn mẹ, Mưa như trút nước, Đường trơn như  bôi mỡ…  Trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ  Việt Nam từ  lâu đã tồn tại nhiều thành   ngữ, tục ngữ dưới dạng so sánh như: Xấu như ma, Đen như cột nhà cháy, …   Chắc hẳn không ai trong chúng ta lại chưa một lần sử  dụng biện pháp so   sánh. So sánh là “cách nói” rất quen thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng như  trong sáng tạo văn chương. Nhờ phép so sánh, người nói, người viết có thể gợi   ra những hình  ảnh cụ  thể, những cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh, đẹp đẽ  cho  người nghe, người đọc. So sánh được coi là một trong những phương thức tạo   hình gợi cảm hiệu quả nhất, có tác dụng lớn trong việc tái hiện đời sống, hình   thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá   của con người. Mặt khác nó còn làm cho tâm hồn và trí tuệ của con người thêm   phong phú, giúp con người cảm nhận văn học và cuộc sống một cách tinh tế, sâu  sắc hơn. Xuất phát từ vai trò và tác dụng của biện pháp tu từ so sánh, từ mục tiêu của  môn Tiếng Việt ở tiểu học, ngay từ các lớp đầu cấp, các bài học của sách giáo   khoa đã đưa vào khá nhiều hình ảnh so sánh. Tuy nhiên phải đến lớp 3, học sinh  mới chính thức được học về biện pháp tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và  câu. Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 đã giới thiệu sơ  bộ  về  biện pháp tu từ  so   sánh, hình thành những hiểu biết và kĩ năng ban đầu về so sánh cho học sinh   thông qua các bài tập thực hành. Từ đó giúp học sinh cảm nhận được cái hay  của một số  câu văn, câu thơ  và vận dụng biện pháp so sánh vào quan sát sự  vật, hiện tượng xung quanh và thể  hiện vào bài tập làm văn được tốt hơn.   Mặt khác, việc dạy biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3 còn là một cách   chuẩn bị dần để các em sử dụng thành thạo hơn biện pháp tu từ này khi làm   các bài văn kể chuyện, miêu tả ở lớp 4, lớp 5. 2
  3. Thế  kỉ XXI, thế giới đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ  trong  lĩnh vực giáo dục, tốc độ  phát triển tri thức nhân loại ngày càng tăng với tốc   độ chóng mặt. Vì vậy, mô hình giáo dục ở nhà trường phổ thông theo hướng   tiếp cận nội dung không còn phù hợp nữa. Giáo viên và học sinh trong thời đại hội nhập và toàn cầu hoá đang chịu  nhiều sức ép và thách thức lớn mang tính thời đại; theo đó, giáo dục buộc  phải thay đổi cách tiếp cận từ nội dung sang tiếp cận năng lực để sản phẩm   của đào tạo là học sinh phải “biết làm”, nghĩa là mang tính ứng dụng cao. Thế  kỉ  XXI, tri thức đến với học sinh từ  nhiều nguồn đa dạng, phong  phú; học sinh có thể  tự  học nếu biết được cách học. Giáo viên ở  thế  kỉ  này  phải có năng lực hướng dẫn học sinh, để học sinh tự tìm tòi lấy nội dung cần  học và áp dụng vào thực tiễn không ngừng thay đổi. Vì vậy, đào tạo năng lực  cho người học là mục tiêu cao nhất và cần thiết để  người học có thể  khẳng  định được mình trong cộng đồng phức tạp, đa dạng và đổi thay, tạo ra thích  ứng cao với mọi hoàn cảnh. Quay trở lại với vấn đề giảng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 3 phần   biện pháp tu từ  so sánh. Trong thực tế, giáo viên và học sinh lớp 3 còn gặp  nhiều khó khăn khi dạy học về biện pháp tu từ  so sánh, hiệu quả  giảng dạy  về biện pháp tu từ so sánh chưa cao. Học sinh lớp 3 nhận biết được các hình  ảnh so sánh nhưng việc vận dụng kiến thức về  biện pháp so sánh vào nói,   viết còn nhiều hạn chế. Đặc biệt việc dạy về biện pháp tu từ so sánh làm sao   để học sinh phát triển được năng lực sáng tạo là vấn đề  còn chưa được chú   trọng đúng mức. Giáo viên còn lúng túng khi lựa chọn các biện pháp hướng  dẫn học sinh tìm hiểu cách so sánh và tác dụng của so sánh. Việc đánh giá kĩ  năng sử  dụng biện pháp tu từ  so sánh của học sinh cũng chưa có những tiêu  chí cụ thể, nhiều khi sự đánh giá của giáo viên còn mang tính chủ quan, cảm  tính.  Xuất phát từ  những lí do trên, qua kinh nghiệm thực tế  giảng dạy của  mình, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và  ứng dụng sáng kiến: “Nâng cao hiệu   quả  dạy học biện pháp tu từ  so sánh trong phân môn Luyện từ  và câu   nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 3.” 2. Tên sáng kiến: Nâng cao hiệu quả dạy học biện pháp tu từ  so sánh  trong phân môn Luyện từ  và câu nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học  sinh lớp 3. 3. Tác giả sáng kiến ­ Họ và tên: Trần Thị Loan 3
  4. ­  Địa chỉ  tác giả  sáng kiến: Trường Tiểu học  Đồng Tĩnh B – Tam   Dương – Vĩnh Phúc ­ Số điện thoại: 0976733413;  ­ E­ mail: tranloan.c1dongtinha@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trần Thị Loan 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Lĩnh vực áp dụng sáng kiến của tôi là phương pháp dạy học biện pháp  tu từ  so sánh cho học sinh lớp 3. Sáng kiến giúp hình thành những hiểu biết   ban đầu và rèn luyện kĩ năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp   3. Đồng thời giải quyết những khó khăn của giáo viên tiểu học về  nâng cao   hiệu quả  dạy học biện pháp tu từ  so sánh trong phân môn Luyện từ  và câu  nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 3. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Tháng 9/2017 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Về nội dung của sáng kiến 7.1.1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn 7.1.1.1. Cơ sở lí luận a) Biện pháp tu từ so sánh So sánh tu từ (còn gọi là so sánh hình ảnh) là một biện pháp tu từ trong   đó người ta đối chiếu hai hay nhiều sự  vật, sự việc với nhau mà giữa chúng  có những nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời văn. Ví dụ 1: Bà như quả ngọt chín rồi Càng thêm tuổi tác, càng tươi lòng vàng. Cần phân biệt so sánh tu từ và so sánh logic. So sánh logic là một biện  pháp nhận thức trong tư duy của con người, là việc đặt hai hay nhiều sự vật,   hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra các sự giống nhau và   khác biệt giữa chúng. Ví dụ 2: Hồ này rộng hơn cái đầm ở làng. Ở ví dụ thứ nhất, “bà” được ví như “quả ngọt” đã chín, bà càng có tuổi   thì tình cảm của bà càng sâu sắc, càng ngọt ngào như  quả  chín trên cây. Với   sự so sánh này, người cháu đã thể hiện được tình cảm yêu thương, quý trọng  của mình đối với bà. Còn ở ví dụ thứ hai, cách so sánh lại dựa trên tính đồng   4
  5. nhất, đồng loại của sự vật, hiện tượng và mục đích của sự so sánh là xác lập  sự tương đương giữa hai đối tượng.  Như  vậy, so sánh tu từ  khác so sánh logic  ở  tính hình tượng, tính biểu   cảm và tính dị loại của sự vật. Nếu như giá trị của so sánh logic là xác lập sự  tương đương giữa hai đối tượng thì giá trị  của so sánh tu từ  là  ở  sự  liên  tưởng, sự  phát hiện và gợi cảm xúc thẩm mĩ  ở  người đọc, người nghe.  Ở  tiểu học, ta đang dạy học sinh so sánh tu từ này (sau đây gọi là biện pháp tu từ  so sánh). b) Việc dạy học biện pháp tu từ so sánh ở lớp 3 Mục tiêu của việc dạy biện pháp tu từ  so sánh  ở  lớp 3 là rèn luyện kĩ  năng. Thông qua việc giải bài tập, học sinh chỉ  ra được hình  ảnh, nhân vật   hoặc chi tiết được sử  dụng trong bài đồng thời hiểu được tác dụng của biện   pháp tu từ so sánh. Ngoài việc nắm được dấu hiệu và hiểu được giá trị biểu cảm của biện  pháp tu từ so sánh, chương trình còn yêu cầu học sinh biết vận dụng so sánh tu  từ vào việc nói, viết, như biết dùng những hình ảnh so sánh sinh động trong giao   tiếp, trong làm văn hay khi kể lại một câu chuyện mà các em được nghe, được   đọc. Mặc dù những kiến thức về so sánh được dạy cho học sinh lớp 3 còn ở  mức độ sơ giản song thông qua đó chương trình còn muốn bước đầu trang bị  cho học sinh những cách nói, cách nhìn giản dị  mà sâu sắc, tinh tế  về  đời  sống, văn hoá, văn học của con người Việt Nam. Từ đó góp phần hình thành  và phát triển tư tưởng, tình cảm và nhân cách của học sinh. Nội dung dạy biện pháp tu từ so sánh ở lớp 3 có những loại bài tập sau: Loại 1: Bài tập nhận biết biện pháp tu từ so sánh: Trong loại bài tập này, có các dạng sau: Dạng 1: Tìm những sự vật được so sánh với nhau Dạng 2: Tìm những hình ảnh so sánh Dạng 3: Tìm các từ so sánh Dạng 4: Tìm các đặc điểm so sánh Loại 2: Bài tập vận dụng biện pháp tu từ so sánh Ở loại bài tập này có hai dạng nhỏ: 5
  6. Dạng 1: Bài tập nhận biết tác dụng của biện pháp tu từ so sánh Dạng 2: Bài tập đặt câu có hình ảnh so sánh. Như vậy, qua nghiên cứu nội dung chương trình dạy biện pháp tu từ so  sánh  ở  lớp 3, tôi thấy 3 điểm như  sau: Thứ nhất, nội dung dạy học phù hợp  với  trình  độ  nhận thức của học sinh.  Thứ  hai, chương trình  đã cung cấp  những kiến thức cơ bản về biện pháp tu từ so sánh. Thứ ba, nội dung về biện  pháp tu từ so sánh được xây dựng theo quan điểm tích hợp. 7.1.1.2. Cơ sở thực tiễn Nội dung về  dạy học biện pháp tu từ  so sánh trong Tiếng Việt là một  nội dung phong phú và khá phức tạp. Có nhiều phương pháp dạy học tiếng việt có thể áp dụng để dạy biện  pháp tu từ  so sánh như  phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp làm  mẫu, phương pháp thực hành giao tiếp, phương pháp trò chơi tiếng Việt,…  Tuy nhiên, mỗi phương pháp lại có những đặc trưng riêng nên đòi hỏi sự vận   dụng linh hoạt và sáng tạo của giáo viên tiểu học. Để tìm hiểu thực trạng việc dạy học biện pháp tu từ so sánh, tôi đã xây  dựng phiếu điều tra 225 giáo viên tiểu học ở huyện Tam Dương. Sau khi xử lí  số liệu, tôi đã thu được kết quả như sau: Mức độ TT Nội dung điều tra Chưa  Rất thành  Thành  thành  thạo thạo thạo Xác   định   mục   đích   của   việc   dạy  81 93 51 1 biện pháp tu từ so sánh cho học sinh  lớp 3 (36%) (41,33%) (22,67%) Nắm mức độ, nội dung chương trình  39 116 70 2 của từng bài (17,33%) (51,56%) (31,11%) Xác định phương pháp, phương tiện  dạy học và các hình thức tổ chức dạy  45 89 91 3 học phù  hợp với  nội  dung từng bài  (20%) (39,56%) (40,44%) dạy 4 Xây dựng quy trình dạy học của một  53 90 82 6
  7. tiết dạy biện pháp tu từ  so sánh cho  (23,56%) (40%) (36,44%) học sinh lớp 3 Thiết kế  hệ  thống bài tập giúp học  31 66 128 5 sinh chiếm lĩnh kiến thức (13,78%) (29,33%) (56,89%) Kiểm   tra   đánh   giá   khả   năng   nhận  48 97 80 6 diện và vận dụng biện pháp tu từ  so  sánh (21,33%) (43,11%) (35,56%) Qua điều tra, tôi nhận thấy nhìn chung giáo viên đã nắm được mục đích  của việc dạy biện pháp tu từ so sánh cho học sinh, biết sử dụng linh hoạt các   phương pháp dạy học mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ  động của học  sinh, biết phối hợp nhiều hình thức dạy học để  tổ  chức các hoạt động học   tập giúp học sinh tự tin và bộc lộ được năng lực của mình. Một số  giáo viên  biết sử  dụng linh hoạt các phương tiện dạy học giúp các em tiếp cận với   biện pháp tu từ so sánh một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên, một số  giáo viên còn lúng túng khi xác định phương pháp  dạy học vì đặc trưng phân môn Luyện từ  và câu nói chung và phần dạy về  biện pháp tu từ so sánh nói riêng ở lớp 3 không có những bài học, những phần  của bài học dạy riêng kiến thức về  tu từ. Phương pháp dạy học các bài về  phép tu từ so sánh tập trung vào việc tổ chức các hoạt động hoc tập mang tính  thực hành là chính. Đặc biệt việc phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh  còn chưa được chú trọng. Nhìn chung, việc dạy biện pháp tu từ  so sánh  ở  lớp 3 hiện nay còn   nhiều hạn chế. Điều đó đã ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Qua tìm hiểu, tôi nhận thấy kết quả dạy học biện pháp tu từ so sánh ở  lớp 3 hiện nay chưa đạt yêu cầu do những nguyên nhân sau đây : ­ Vốn kiến thức của giáo viên còn hạn chế, ­  Tài liệu tham khảo, mở  rộng kiến thức cho giáo viên và học sinh chưa   nhiều. ­ Biện pháp tu từ so sánh là một nội dung mới đưa vào chương trình nên  giáo viên chưa có kinh nghiệm trong việc lựa chọn phương pháp và hình thức dạy   học. 7
  8. Tóm lại, hiện nay, thực trạng dạy học về biện pháp tu từ so sánh ở lớp   3 đang có nhiều vấn đề cần quan tâm và giải quyết như: Về phía giáo viên: Kiến thức về phong cách học của giáo viên còn hạn   chế. Giáo viên chưa biết vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức   dạy học nên kết quả học tập của học sinh chưa cao. Bên cạnh đó, giáo viên   phần lớn chỉ chú trọng đến việc dạy cho học sinh cách nhận diện biện pháp   so sánh mà chưa quan tâm nhiều đến việc dạy học sinh cách cảm nhận và  vận dụng các kiến thức về so sánh vào việc nói và viết. Giáo viên chưa biết   tích hợp lồng ghép trong quá trình dạy các phân môn Tiếng Việt với nhau.  Giáo viên chưa chú trọng nâng cao năng lực sáng tạo cho học sinh thông qua   việc dạy học biện pháp tu từ so sánh. Về phía học sinh: Do khả năng tư duy của các em còn dừng lại  ở mức   độ tư duy đơn giản, trực quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn  hạn chế. Vốn kiến thức văn học của học sinh còn nghèo. Bên cạnh đó, năng   lực nhận thức của một số em còn yếu nên các em còn mắc một số lỗi như về  nhận diện biện pháp so sánh, lỗi về cách cảm thụ và vận dụng các hình ảnh  so sánh vào bài làm của mình.  7.1.2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy biện pháp tu từ  so sánh nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 3 Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh nắm được cấu trúc của một hình ảnh  so sánh bằng thao tác phân tích ­ tổng hợp. (Áp dụng với dạng bài tập   nhận biết) Ví dụ:  Tìm hình  ảnh so sánh trong câu sau:  Mặt biển sáng trong như   tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch. Tôi đã cho học sinh phân tích hình ảnh so sánh trong câu trên qua bảng sau: Yếu tố 1 Yếu tố 2 Yếu tố 3 Yếu tố 4 Sự vật 1 Đặc điểm so sánh Từ so sánh Sự vật 2 Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ Sau khi học sinh phân tích đề và nắm chắc yêu cầu của đề bài, tôi hướng  dẫn học sinh nắm cấu trúc của một hình ảnh so sánh đầy đủ qua hệ thống câu   hỏi sau: 8
  9. Câu hỏi 1: Trong câu trên, các sự  vật nào được so sánh với nhau? (Mặt biển  và tấm thảm) Giáo viên cho học sinh dùng bút chì gạch chân dưới các sự  vật được so sánh với nhau và điền vào bảng  ở  cột sự  vật 1 và cột sự  vật 2  (yếu tố 1 và yếu tố 4) Câu hỏi 2: Tại sao mặt biển và tấm thảm lại được đem ra so sánh với nhau?   (Vì hai sự vật này có điểm giống nhau) Câu hỏi 3: Các sự vật đó giống nhau về đặc điểm gì? (đặc điểm sáng trong)  Như  vậy, giữa hai sự  vật khác loại, khi muốn so sánh chúng với nhau ta  cần tìm ra điểm tương đồng (điểm giống nhau, dấu hiệu chung) giữa chúng.  Đây chính là đặc điểm so sánh –yếu tố 2. Câu hỏi 4: Từ ngữ nào thể hiện sự so sánh? (Như) Đây là yếu tố 3.  Sau khi học sinh phân tích được 4 yếu tố  của một hình  ảnh so sánh, tôi cho  học sinh tổng hợp lại thành hình  ảnh so sánh: Mặt biển sáng trong như  tấm   thảm khổng lồ bằng ngọc thạch. Như  vậy, bằng thao tác phân tích­tổng hợp, học sinh đã nắm được cấu trúc   của một hình ảnh so sánh hoàn chỉnh gồm 4 yếu tố: Yếu tố 1: yếu tố được (hoặc bị) so sánh. Yếu tố 2: yếu tố chỉ tính chất của sự vật hay trạng thái của hành động, có vai   trò nêu rõ phương diện so sánh (ở  tiểu học, ta gọi đơn giản là đặc điểm so   sánh) Yếu tố 3: yếu tố thể hiện quan hệ so sánh. Yếu tố 4: yếu tố được đưa ra làm chuẩn để so sánh. Qua đó, học sinh dễ dàng làm được các dạng bài tập sau: Dạng 1: Tìm những sự vật được so sánh với nhau Dạng 2: Tìm những hình ảnh so sánh Dạng 3: Tìm các từ so sánh Dạng 4: Tìm các đặc điểm so sánh Các dạng bài tập này chiếm đa số  trong chương trình. Các yếu tố  1 và   yếu tố 2 có thể là 1 trong 4 mô hình sau: A) Mô hình 1: So sánh: Sự vật ­ Sự vật. B) Mô hình 2: So sánh: Sự vật ­ Con người. 9
  10. C) Mô hình 3: So sánh: Hoạt động ­ Hoạt động. D) Mô hình 4: So sánh: Âm thanh ­ Âm thanh.          Muốn học sinh của mình có một kĩ năng nhận biết biện pháp tu từ  so  sánh vững vàng đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật khi hướng dẫn bài  mới. Dựa vào các mô hình như ta vừa phân tích. A. Mô hình 1: So sánh Sự vật ­ Sự vật          Mô hình này cách nhận dạng rất dễ vì trong câu thường xuất hiện các từ  so sánh (như, là, giống, tựa, chẳng bằng...) Mô hình này có các dạng sau: A như B; A là B; A chẳng bằng B. a) Tìm hiểu dạng: A như B             Dạng này đã xuất hiện   ở  các bài tập đầu tiên của chương trình và   xuyên suốt đến cuối chương trình Tiếng Việt 3. * Ví dụ: Bài 2 (SGK trang 8): Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ,   câu văn dưới đây: "Hai bàn tay em Như hoa đầu cành" (Huy Cận) "Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch" (Vũ Tú Nam) "Cánh diều như dấu á Ai vừa tung lên trời"                                           (Phạm Như Hà)         Để làm tốt bài tập này, học sinh phải phát hiện các từ chỉ sự vật được so   sánh. Từ đó học sinh sẽ tìm được sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu  văn trên. Có 2 phương án  Phương án 1: Gạch chân các từ chỉ sự vật so sánh trong các câu trên bằng bút  chì vào SGK. Phương án 2: Giáo viên phát phiếu học tập nhóm đôi. Các nhóm điền vào  phiếu  10
  11. Câu   Sự vật 1 Từ so sánh Sự vật 2 a) Hai bàn tay em như hoa đầu cành b) Mặt biển như tấm thảm khổng lồ c) Cánh diều như dấu “ á”    Học sinh trình bày :         + "Hai bàn tay em" được so sánh với "hoa đầu cành"        + "Mặt biển" được so sánh với "tấm thảm khổng lồ".        + "Cánh diều" được so sánh với "dấu á"       Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao "Hai bàn tay em" được so sánh với   "Hoa đầu cành" hay vì sao nói "Mặt biển" như "tấm thảm khổng lồ"? Lúc đó  giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự  vật so sánh này đều có điểm  nào giống nhau, chẳng hạn: + Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa. + Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp. + Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á. (Giáo viên có thể vẽ lên bảng "Cánh diều" và "Dấu á") b)Tìm hiểu dạng: A là B:  Dạng này học sinh rất dễ  nhầm lẫn giữa câu so  sánh với  câu giới thiệu. Bởi lẽ, cả 2 kiểu câu này đều có từ “là”  Ví dụ :(Bài 1c, d trang 24,25): Tìm các hình ảnh so sánh trong câu :                         c/  Mùa đông                            Trời là cái tủ ướp lạnh.                           Mùa hè                            Trời là cái bếp lò nung. d/ Những đêm trăng sáng, dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng.         Trong trường hợp này, cần phải cho học sinh xác định từ chỉ sự vật trong   câu thơ: (trời mùa đông – tủ ướp lạnh), (trời mùa hè – bếp lò nung) Giáo viên giải thích cho học sinh điểm tương đồng giữa các từ  chỉ  sự  vật  được so sánh.   11
  12. ­ Trời mùa đông lạnh như cái tủ ướp lạnh.  ­ Trời mùa hè nóng như bếp lò nung.     Trong câu: Mẹ tôi  là  giáo viên (từ là có tác dụng giới thiệu. Trong trường   hợp này, học sinh phải hiểu nghĩa của từ và của câu ) B. Mô hình 2: So sánh: Sự vật ­ Con người Dạng của mô hình so sánh này là: a) Dạng A như B:  + A có thể là con người. + B sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh. Ví dụ: Bài tập 1/trang 58: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu dưới đây: "Trẻ em như búp trên cành Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan" (Hồ Chí Minh) "Bà như quả ngọt chín rồi Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng". (Võ Thanh An)         Với dạng bài tập này học sinh sẽ dễ dàng tìm được sự  vật so sánh với   con người nhưng các em chưa giải thích được"Vì sao?". Chính vì điều đó giáo  viên cần giúp học sinh tìm được đặc điểm chung của sự  vật và con người,  chẳng hạn: "Trẻ  em" giống như  "búp trên cành". Vì đều là những sự  vật còn tươi non  đang phát triển đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hi vọng. "Bà" sống đã lâu, tuổi đã cao giống như  "quả  ngọt chín rồi" đều phát triển  đến độ  già dặn có giá trị  cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu và trân  trọng. b) Dạng A là B:  Ví dụ: Bài tập 1/trang 42,43 (phương pháp dạy như mô hình 1)                                                "Ông          là     buổi trời chiều Sự vật 1 (người) Sự vật 2 (Sự vật)                                         Cháu           là        ngày rạng sáng" Sự vật 1 (người) Sự vật 2 (Sự vật)                                                      12
  13. c) Dạng A chẳng bằng  B:  Ví dụ: Bài tập 1c/trang 43 : Tìm các hình ảnh so sánh trong câu : Những ngôi sao thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con Đêm nay con ngủ giấc tròn Mẹ là ngọn gió của con suốt đời                                                    Trần Quốc Minh  Dạng bài tập này chỉ cần học sinh thực hiện được hai yêu cầu :  ­ Xác định sự vật so sánh (ngôi sao ­  mẹ), (mẹ ­ ngọn gió)   ­ Xác định từ so sánh (Chẳng bằng, là) Xác định được hai yêu cầu trên là học sinh đã xác định được hình ảnh so sánh. C. Mô hình 3: So sánh: Hoạt động ­ Hoạt động Mô hình này có dạng như sau: + A x B. + A như B. * Ví dụ: Bài tập 2 /trang 98:   Trong các đoạn trích sau, nh ững ho ạt động  nào đượ c so sánh với nhau: +           "Con trâu đen lông mượt Cái sừng nó vênh vênh Nó cao lớn lênh khênh Chân đi như đạp đất". (Trần Đăng Khoa) +          "Cau cao, cao mãi Tàu vươn giữa trời Như tay ai vẫy Hứng làn mưa rơi". (Ngô Viết Dinh) 13
  14.       Dạng bài này giáo viên giúp học sinh nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ  đó học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn: + Hoạt động "đi" so sánh với hoạt động "đập đất" qua từ "như". + Hoạt động “vươn” của tàu lá dừa giống hoạt động “vẫy” tay của con người  D. Mô hình 4: So sánh: Âm thanh ­ Âm thanh Mô hình này có dạng sau: A như B: + A là âm thanh thứ 1. + B là âm thanh thứ 2. Ví dụ:(Bài tập 2 trang 117): Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong  mỗi câu thơ, câu văn dưới đây:         Với dạng bài tập này giáo viên giúp học sinh nhận biết được âm thanh   thứ nhất và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ "như". Chẳng hạn: +  "Côn Sơn suối chảy rì rầm  Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai" (Nguyễn Trãi)          Âm thanh của "tiếng suối" được so sánh với âm thanh của "tiếng đàn   cầm" qua từ "như". Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh phân biệt dấu hiệu so sánh Đây là biện pháp rất quan trọng khi dạy về biện pháp tu từ so sánh cho   học sinh lớp 3. Nếu như biện pháp 1 ở trên là nền tảng, là cái cơ bản, thì biện  pháp này là biện pháp giúp học sinh củng cố vững chắc kiến thức, kĩ năng về  biện pháp tu từ so sánh vừa học.  Giáo viên phân biệt cho học sinh thông qua các bài tập thực hành. Trường hợp 1: Vắng khuyết yếu tố 2 – đặc điểm so sánh Ví dụ 1: Trẻ em như búp trên cành. Ví dụ 2: Hai bàn tay em/ Như hoa đầu cành Trong hai hình  ảnh so sánh trên, yếu tố  2 ­ đặc điểm so sánh không  được nêu ra. Kiểu so sánh vắng khuyết yếu tố 2 này tạo điều kiện cho sự liên   tưởng rộng rãi hơn. Nó kích thích sự  làm việc của trí tuệ  và tình cảm nhiều   hơn để xác định được những nét giống nhau giữa hai đối tượng ở hai vế và từ  14
  15. đó nhận ra đặc điểm của đối tượng miêu tả. Sự  suy nghĩ, liên tưởng có thể  diễn ra như sau: ­ Trẻ  em  tươi non  như  búp trên cành./ Trẻ  em  đầy sức sống  như  búp trên  cành./ Trẻ em chứa chan hi vọng như búp trên cành./ … ­ Hai bàn tay em đẹp như  hoa đầu cành./ Hai bàn tay em xinh xắn như  hoa  đầu cành./ Hai bàn tay em nhỏ xinh như hoa đầu cành./ … Trường hợp 2: Vắng khuyết cả yếu tố 2 – đặc điểm so sánh và yếu tố 3 – từ  so sánh, giữa yếu tố 1 và 4 có dấu gạch hai chấm hoặc dấu gạch ngang. Ví dụ 1: Trường Sơn: chí lớn ông cha     Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào. Ví dụ 2:  Thân dừa bạc phếch tháng năm Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao Đêm hè hoa nở cùng sao Tàu dừa – chiếc lược chải vào mây xanh. Trong ví dụ 1 có hai hình ảnh so sánh: So sánh Trường Sơn với chí lớn   ông cha và so sánh Cửu Long với lòng mẹ  bao la. Trong ví dụ  2 có hai hình   ảnh so sánh: so sánh quả  dừa với đàn lợn con và so sánh tàu dừa với chiếc   lược. Tất cả các hình ảnh so sánh này đều vắng khuyết cả hai yếu tố: yếu tố  2 – đặc điểm so sánh và yếu tố 3 – từ so sánh, giữa yếu tố 1 và 4 có dấu gạch   hai chấm hoặc dấu gạch ngang. Khi đọc cần ngắt giọng chỗ có dấu hai chấm  hoặc dấu gạch ngang. Trường hợp 3: Vắng khuyết cả yếu tố 2 – đặc điểm so sánh và yếu tố 3 – từ  so sánh, giữa yếu tố 1 và 4 không có sự ngăn cách nào. Ví dụ: Tay em đánh răng/ Răng trắng hoa nhài Ở đây, tác giả  đã so sánh răng với hoa nhài. Nhưng cái khó là giữa hai  yếu tố 1 và 4 không có bất cứ dấu hiệu nào. Dạng này thường dành cho học   sinh nhận thức tốt. Ở cả 3 trường hợp này, giáo viên cần cho học sinh đọc kĩ nội dung câu  thơ  hoặc câu văn, gợi mở  cho học sinh suy nghĩ tại sao lại đặt hai sự  vật,   hiện tượng này cạnh nhau mà không có từ  ngữ nào ở giữa. Cho học sinh thử  thêm vào những từ ngữ thể hiện sự so sánh (thêm yếu tố 3), hoặc thêm cả từ  15
  16. chỉ đặc điểm và từ so sánh (yếu tố 2 + yếu tố 3) mà không làm nội dung câu   văn, câu thơ thay đổi. Ví dụ: Tàu dừa  như/ tựa như/ như  thể/ giống như/ …  chiếc lược chải vào  mây xanh Quả dừa chi chít/ nằm chen chúc/ … như đàn lợn con nằm trên cao. Trường hợp 4: Các từ so sánh không phải lúc nào cũng thể hiện sự so sánh. Trong hình  ảnh so sánh  Trăm cô gái đẹp tựa tiên sa, giáo viên có thể  cho học sinh thay thế từ “tựa” bằng các từ ngữ khác cũng thể hiện sự so sánh   như: là, giống, hệt, như, như thể, chẳng khác gì,… mà ý nghĩa của câu không  thay đổi. Nhưng điều quan trọng là giáo viên phải phân biệt cho học sinh   không phải lúc nào các từ là, giống, hệt, như, như thể, chẳng khác gì,… cũng   là các từ dùng để chỉ sự so sánh. Giáo viên giúp học sinh khắc phục điều này   bằng cách giúp học sinh hiểu ý nghĩa của các từ  ngữ  này trong văn cảnh.  Nhấn mạnh và nhắc lại cho học sinh là các sự  vật, sự  việc, hiện tượng, …   được đem ra so sánh bao giờ cũng phải có một dấu hiệu chung nào đó. Ví dụ 1: Con búp bê của Lan làm bằng vải. Từ “bằng” chỉ mối quan hệ  giữa một bên là sự  vật, một bên là chất liệu của sự  vật đó. Hai sự  vật: con   búp bê và vải không có dấu hiệu chung. Vậy đây không phải là hình  ảnh so   sánh. Ví dụ  2: Quả  táo này nhỏ  bằng ngón tay. Từ  “bằng” dùng để  chỉ  sự  so  sánh ngang bằng giữa hai sự vật có hình dáng nhỏ bé. Hai sự vật: quả táo này và   ngón tay có dấu hiệu chung là nhỏ. Vậy câu trên là hình  ảnh so sánh. Đây là  trường hợp học sinh khó phát hiện ra hình ảnh so sánh. Giáo viên cần giúp học  sinh phân tích theo cấu trúc so sánh và tìm ra dấu hiệu chung của các yếu tố so  sánh. Tóm lại, khi dạy biện pháp tu từ  so sánh cho học sinh lớp 3, cần giúp  học sinh nắm được cấu trúc hoàn chỉnh thường gặp của so sánh tu từ. Trong  đó yếu tố 1 và yếu tố 4 là quan trọng nhất, không thể vắng khuyết. Học sinh   dần được làm quen với các dạng khuyết thiếu 1 trong các yếu tố  như  trên.  Khi gặp dạng nào giáo viên cũng nên đưa vào mô hình cấu tạo để  học sinh   nhận biết. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh làm dạng bài tập sáng tạo 16
  17. Dạng bài tập sáng tạo giúp học sinh biết cách sử dụng biện pháp tu từ  so sánh. Dạng bài tập này có tính tư  duy, sáng tạo cao hơn. Tuy nhiên, dạng  bài tập này trong SGK rất ít. Nó tập trung ở cuối chương trình học kì I gồm 2  bài tập. Để  làm được dạng bài tập này bắt buộc giáo viên phải hướng dẫn  cho học sinh nắm được một cách chắc chắn về  so sánh tu từ  như  hai biện   pháp trên.  Bài tập 1: Nhìn tranh đặt câu  Tương tự Bài tập 3/SGK trang126: Ta có thể đưa ra bài tập sau :  Ví dụ: Quan sát từng cặp tranh ở hình 1 rồi viết các câu có hình ảnh so sánh  Hình 1 Bài tập 2: Dạng bài tập điền khuyết   Ví dụ: Bài tập 4/trang 126: Tìm những từ  ngữ  thích hợp để  điền vào chỗ  trống:  a) Công cha nghĩa mẹ được so sánh như..., như... b) Trời mưa, đường đất sét trơn như...  c) Ở thành phố có nhiều toà nhà cao như....        Khi hướng dẫn học sinh làm các bài tập dạng này, giáo viên cần thao tác   theo các bước sau: Bước 1: Giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu đề bài. 17
  18. Bước 2: Phân tích các yếu tố của bài cho và đưa vào mô hình cấu trúc so sánh   xem còn thiếu yếu tố nào để hoàn chỉnh hình ảnh so sánh. Bước 3: Suy nghĩ dựa trên các dấu hiệu chung để tìm các từ ngữ thích hợp. Bước 4: Thử các từ ngữ khác, đọc và lựa chọn từ ngữ em cho là hay nhất. Ta phân tích bài tập 1: Ở tranh 1: Có 2 sự vật là xe ô tô và cung tên/ tên bắn Ta đưa vào mô hình cấu trúc so sánh : Yếu tố 1 Yếu tố 2 Yếu tố 3 Yếu tố 4 Xe ô tô tên bắn Như vậy đã có yếu tố 1 và yếu tố 4, còn thiếu yếu tố 2 và yếu tố 3: Yếu tố  2 (phương diện so sánh): dựa vào đặc điểm của hai sự  vật này, học  sinh dễ dàng nhận thấy hai sự vật này có dấu hiệu chung về hoạt động: lao,  đi, chạy, phi, … các hoạt động này có đặc điểm chung là nhanh. Yếu tố 3 : Nếu học sinh so sánh ngang bằng thì có thể sử dụng: như, như thể, … Nếu học sinh so sánh hơn kém thì có thể sử dụng: hơn, hơn cả, … Vậy tổng hợp lại ta được câu hoàn chỉnh: Xe ô tô lao nhanh như tên bắn./ Xe  ô tô chạy nhanh hơn tên bắn/ … Nếu không sử dụng yếu tố 2 thì ý nghĩa của  câu thông báo sẽ  không rõ ràng: Xe ô tô như  tên bắn. Khi nhắc đến ô tô ta  thường nghĩ đến hình dáng, màu sắc của nó. Vậy xe ô tô và tên bắn có gì  giống nhau về hình dáng và màu sắc? Rõ ràng là không. Vậy ta phải nói rõ ta   đang so sánh ô tô và tên bắn về đặc điểm gì, cho nên phải có yếu tố 2 ở đây. Các trường hợp còn lại tương tự, giáo viên sử  dụng phương pháp  phân tích ­ rèn luyện theo mẫu như trong các nghiên cứu về phương pháp dạy  học biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3 đã đưa ra. Ví dụ các trường hợp còn lại : ­ Bóng đèn điện toả sáng như mặt trăng. ­ Cây thông cao như ngọn tháp. ­ Nụ cười của cô ấy xinh như hoa hồng. ­ Thỏ thì hiền hơn hùm. 18
  19. Ta phân tích bài tập 2: Ta cũng cho học sinh đưa các yếu tố  đã có vào mô hình cấu trúc so  sánh Yếu tố 1 Yếu tố 2 Yếu tố 3 Yếu tố 4 Công cha như Nghĩa mẹ như Như vậy đã có yếu tố 1 và yếu tố 3, còn thiếu yếu tố 2 và yếu tố 4: Ở  đây yếu tố  4 là quan trọng, không thể  thiếu. Để  tìm yếu tố  4 ta cho học  sinh suy nghĩ xem công cha giống với gì? (núi Thái Sơn/ núi cao/ trời/…),  nghĩa mẹ giống với gì? (nước biển Đông/ nước trong nguồn/ biển/ …) Còn yếu tố 3, học sinh có thể tìm là to lớn, bao la, ngời ngời, … Vậy sắp xếp lại ta được các câu hoàn chỉnh : Công cha nghĩa mẹ  được so sánh như  núi Thái Sơn, như  nước biển Đông.  (không có yếu tố 3) Nếu tách rời, ta được hai câu: Công cha to lớn như  núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ  bao la như nước biển Đông. (Có đầy đủ 4 yếu tố) Ở đây, ta lưu ý cho học sinh yếu tố  3 có thể  không có. Trong những câu mà   sắc thái tình cảm thể  hiện rất rõ như  thế này thì người ta thường che lấp đi  phương diện so sánh để người đọc, người nghe có những suy nghĩ, liên tưởng  của riêng mình. Các đáp án có thể là: a) như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn chảy ra, như sông như biển,…  b) như bôi mỡ, xà phòng, đổ dầu... c) núi, những ngọn tháp... Các bài tập mang tính sáng tạo này rất ít nên trong quá trình dạy, nhất là  các tiết Tiếng Việt luyện tập, giáo viên nên đưa thêm những bài tập tương tự  hai dạng trên để học sinh khắc sâu kiến thức.  Trong khi học về  biện pháp so sánh, học sinh còn được làm quen với   kiểu so sánh: Ngang bằng và hơn kém.  Kiểu so sánh ngang bằng thường gặp các từ  so sánh như: tựa, giống,   giống như, không thua, không khác…  19
  20. Kiểu so sánh hơn kém thường gặp các từ  so sánh như: hơn, kém, thua,   chẳng bằng, … Biện pháp 4: Kết hợp sử dụng trò chơi học tập :  Đây là hình thức hấp dẫn nhất trong đó  chơi  là phương tiện,  học  là  mục đích. Thông qua hình thức chơi mà học, học sinh sẽ được hoạt động, tự  củng cố kiến thức và rèn luyện phản xạ. Tuy nhiên, muốn tổ chức trò chơi có   hiệu quả, cần xác định mục đích của trò chơi, hình thức chơi cũng phải đa  dạng, cách chơi cần phải đơn giản, dễ hiểu.  Ví dụ: Trò chơi “Thử tài so sánh” Mục đích: ­ Rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ bằng cách tạo nhanh các cụm từ có  hình ảnh so sánh đúng. ­ Luyện phản ứng nhanh, trau dồi trí tưởng tượng, liên tưởng về hoạt  động hay đặc điểm, tính chất ... của sự vật. Chuẩn bị :  ­  Làm các bộ phiếu bằng giấy (Kích thước: 3 x 4 cm)    ­   Mỗi   bộ   phiếu   gồm   3­5   từ   chỉ   hoạt   động,   trạng   thái,   đặc   điểm,   màu  sắc... của sự vật (Tuỳ thời gian chơi, nội dung bài học).  Lớp 3 chủ yếu là từ chỉ hoạt động, trạng thái, đặc điểm, tính chất.  Ví dụ  : + Bộ  phiếu A (5 từ  chỉ  hoạt động, trạng thái): Đọc, viết, cười, nói,  khóc (Dành cho Tiết 7: Ôn tập từ chỉ trạng thái, tính chất)  + Bộ phiếu B (5 từ chỉ màu sắc) Trắng, xanh, đỏ, vàng, đen (Dành cho tiết 15: Luyện đặt câu có hình ảnh so sánh) + Bộ  phiếu C (5 từ  chỉ   đặc điểm, tính chất): đẹp, cao, khoẻ, nhanh,  chậm (Dành cho tiết 14, 17: Ôn tập từ chỉ đặc điểm) ­  Phiếu được gấp tư để “bốc thăm” ­  Cử trọng tài, thư kí theo dõi cuộc thi. Tiến hành  :  ­ Trọng tài để một bộ phiếu lên bàn cho học sinh xung phong lên thử  tài so sánh (1 bộ phiếu 5 từ thì dành cho 5 người “thử tài”). 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2