intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Những biện pháp nâng cao chất lượng phân môn Tập viết lớp 1

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

13
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm hệ thống các biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 1 trong sáng kiến là sự đúc kết kinh nghiệm trong công tác rèn luyện chữ viết lớp 1 tại trường Trường Tiểu học. Từ những kết quả đạt được cho thấy việc vận dụng các biện pháp đó đem lại chất lượng khả quan. Điều đó chứng tỏ các biện pháp mà bản thân tôi đã áp dụng có tính khả thi cao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Những biện pháp nâng cao chất lượng phân môn Tập viết lớp 1

  1. 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Chữ viết là một công cụ dùng để giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương   tiện để  ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hóa, khoa học và đời sống...   Bởi vậy,  ở trường tiểu học việc dạy học biết chữ và từng bước làm chủ  được   công cụ  chữ  viết để  phục vụ  cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng  hàng đầu của môn Tiếng Việt. Tập viết là một trong những phân môn quan trọng đặc biệt ở tiểu học, nhất   là đối với lớp 1. Phân môn tập viết không những có quan hệ  mật thiết tới chất  lượng học tập các môn khác mà còn góp phần rèn luyện một trong những kĩ năng   hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường ­ kĩ năng viết chữ. Ngoài ra, tập viết còn góp phần quan trọng vào việc rèn cho học sinh   những phẩm chất đạo đức tốt như: tính cẩn thận, tính kỉ  luật và tính thẩm mĩ.  Cố  thủ  tướng Phạm Văn Đồng đã dạy chúng ta rằng: " Chữ  viết cũng là một   biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là   góp phần rèn cho các em tính cẩn thận, tính kỉ  luật, lòng tự  trọng đối với mình   cũng như đối với thầy và bạn khi đọc bài  xem vở của  mình". Chương trình Tập viết  ở  Tiểu học được phân bố  từ  lớp 1 đến lớp 3, bên  cạnh thực hiện nhiệm vụ chung của phân môn, nội dung chương trình của mỗi   lớp phải thực hiện nhiệm vụ riêng của mình. Phải xác định rằng phân môn Tập  viết ở lớp 1 là cực kì quan trọng, nó làm tiền đề vững chắc để các em học tốt ở  các lớp trên. Nếu các em không có những hiểu biết về đừng kẻ, độ cao, cỡ chữ,   hình dáng, các nét chữ, cấu tạo chữ  cái, chữ  ghi tiếng, dấu thanh và chữ  số,  không có kĩ năng chữ  viết đúng quy trình; không có tư  thế  ngồi viết, cầm bút  đúng quy cách... thì dù ở các lớp trên có dạy tốt bao nhiêu đi nữa thì chất lượng  Trang 1
  2. chữ viết sẽ có nhiều hạn chế. Trong khi đó, việc dạy và rèn kĩ năng viết chữ cho  học sinh lớp 1 bên cạnh những  thành công vẫn còn nhiều hạn chế. Học sinh vẫn chưa viết được như  ta mong   muốn. Một bộ  phận không nhỏ  các em chữ  viết chưa đúng mẫu, quy trình nét  nối giữa các con chữ  thường bị  gãy hoặc rời nét. Một số  học sinh đánh dấu   thanh, dấu phụ  sai vị  trí và phần lớn học sinh viết chữ  chưa đẹp...   Nhiệm vụ  của người giáo viên trong quá trình dạy học cần phải có sự tìm tòi sáng tạo và   tích cực tìm ra những biện pháp thích hợp giúp học sinh rèn luyện chữ  viết  một cách có ý thức, tự  chủ  và năng động góp phần học tốt những môn học   khác.  Xuất phát từ những lí do trên,với những kinh nghiệm được rút ra trong quá  trình dạy học  ở lớp 1 trong ba năm ở  trường Tiểu học, tôi chọn đề  tài:" Những   biện pháp nâng cao chât l ́ ượng phân môn Tập viết lớp 1"  .1.2. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU: ­ Trong bất cứ  thời đại nào giáo dục đào tạo vẫn luôn là quốc sách hàng  đầu và điều đó càng có ý nghĩa hơn trong giai đoạn hiện nay.  Chữ  đẹp là một biểu hiện của nết người. Rèn luyện chữ  viết đẹp là một   trong những hoạt động học tập giúp các em phát triển toàn diện và hoàn thiện  nhân cách con người. ­ Hệ thống các biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 1   trong sáng kiến là sự đúc kết kinh nghiệm trong công tác rèn luyện chữ viết lớp  1 tại trường Trường Tiểu học. Từ những kết quả đạt được cho thấy việc vận   dụng các biện pháp đó đem lại chất lượng khả quan. Điều đó chứng tỏ các biện  pháp mà bản thân tôi đã áp dụng có tính khả thi cao. 1.3. PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA ĐỀ TÀI Trang 2
  3. ­ Thời gian áp dụng: Từ năm học: 2012­ 2013 đến năm học: 2014­ 2015 ­ Đề  tài đề  cập đến những biện pháp giúp nâng cao chât l ́ ượng phân môn  Tập viết lớp 1. Trang 3
  4. 2. PHẦN NỘI  DUNG 2.1.  THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TẬP VIẾT LỚP 1  2.1.1. Vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu của dạy học tập viết lớp 1: Tập viết ở lớp 1 là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt   ở Tiểu học nói chung và các môn học lớp 1 nói riêng. Tập viết không những có   quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở tất cả các môn học mà còn góp phần  rèn luyện trau dồi vốn giao tiếp bằng chữ viết. Nếu viết chữ không đúng mẫu,  xấu, tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập. Tập viết giúp học sinh rèn năng lực viết thạo. Để  làm chủ  một tiếng nói   về mặt văn tự, người học phải rèn luyện cho mình năng lực đọc thông viết thạo  văn tự đó. Học sinh học Tiếng Việt phải đọc thông viết thạo chữ quốc ngữ. Tập  viết góp phần quan trọng trong rèn luyện phát triển nhân cách học sinh: "  Nét   chữ, nết người". Nhiệm vụ  dạy tập viết  ở  lớp 1: Việc dạy tập viết được phối hợp nhịp   nhàng với dạy học vần. Học sinh luyện viết chữ  dưới hai hình thức chủ  yếu:   luyện tập viết chữ  cái trong các tiết học âm ­ chữ  ghi âm, vần và tập viết theo  các yêu cầu  kĩ thuật trong các tiết tập viết chữ  cái và liên kết chữ  cái để  ghi   tiếng. Yêu cầu cơ bản của việc dạy tập viết lớp 1: Về  tri thức: Giúp học sinh có được những hiểu biết về  đường kẻ, dòng  kẻ, độ  cao cỡ  chữ, hình dáng và tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ  cái, chữ  ghi  tiếng, cách viết chữ viết thường, dấu thanh và chữ số. Về kĩ năng: Rèn viết đúng quy  trình viết nét, viết chữ cái và liên kết chữ  cái tạo chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên dòng   Trang 4
  5. kẻ. Ngoài ra, học sinh còn   được rèn luyện các kĩ năng như: tư  thế  ngồi viết,  cách cầm bút, để vở...  2.1.2 Những yêu cầu cơ bản về kĩ năng cần đạt của tập viết ở lớp 1: Tô đúng chữ cái và chữ cái viết hoa cỡ lớn và vừa; viết đúng chữ cái kiểu  chữ thường cỡ vừa và nhỏ; Viết đúng chữ số cỡ to và vừa. Học sinh có thể  đạt  tốc độ  viết qua 4 giai đoạn: Giữa học kì I: khoảng 15 chữ  /15 phút, cuối kì I:   khoảng 20 chữ/15 phút; Giữa kì II: khoảng 25/15 phút; Cuối kì II: tập chép một   trong các bài tập đọc có độ dài từ 30 chữ/ 15 phút. 2.1.3. Vài nét về  tình hình đặc điểm địa phương và trường tiểu học   nơi tôi đang công tác: Địa phương nơi tôi đang công tác là vùng nui c ́ ủa huyện Lệ  Thủy. Nguồn   thu nhập của nhân dân chủ yếu bằng nghề nông va trông va khai thac r ̀ ̀ ̀ ́ ưng, m ̀ ức  thu nhập bình quân khá thấp. Một số  khu vực dân cư  nghề  nghiệp không  ổn  định, đời sống còn nhiêu thi ̀ ếu thốn. Tuy vậy, nhờ có truyền thống hiếu học và   phong trào xã hội hóa giáo dục vào loại tốt của huyện. Trong nhiều năm qua,  lãnh đạo địa phương, nhà trường đã tạo mọi điều kiện để nhà trường đẩy mạnh  phong trào thi đua nhằm nâng cao chất lượng các mặt hoạt động. Năm học 2014­ 2015, trường tôi gân 30 cán b ̀ ộ  giáo viên và hơn 400 học  sinh. 100% giáo viên nhà trường đạt và vượt chuẩn trình độ đào tạo. Trong đó có   93,3% trên chuẩn. 100% học sinh được học 2 buổi/ngày. 100% học sinh được  học  Anh văn và 67%  học sinh  toàn trường  được học Tin học.   Đội ngũ  nhà   trường đoàn kết, thống nhất cao trong ý chí và hành động, luôn nỗ  lực thi đua   trong phong trào “Dạy tốt­ học tốt”.  Trang 5
  6. 2.1.4. Thực trạng về chữ viết của học sinh lớp 1 trường tiểu học nơi   tôi đang công tác: *Ưu điểm:  ­ Nhìn chung học sinh toàn trường (ngay cả  lớp 1) đã nắm được quy trình   chữ viết, biết cách viết chữ ghi âm Tiếng Việt. ­ Về cơ bản các em đã viết đúng qui trình, đúng mẫu chữ cái để ghi âm, vần,  tiếng, biết cách nối nét giữa các con chữ  và đảm bảo đúng cỡ  chữ  quy định. Khi  viết từ ứng dụng, học sinh biết ghép các phụ âm đầu với vần đúng khoảng cách.   Biết nhìn bài trên bảng để chép lại bài theo cỡ nhỏ. ­ Phần lớn học sinh đã nắm khá chắc luật chính tả  và viết đúng chính tả.  Trình bày bài viết rõ ràng, sạch sẽ. ­ Đa số  các em đã viết đạt tốc độ  quy định theo yêu cầu  ở  từng giai đoạn  của từng giai đoạn của khối lớp. * Một số tồn tại: ­ Một bộ phận không nhỏ học sinh viết chữ chưa đúng mẫu, qui trình nối nét   giữa các con chữ thường bị gãy hoặc rời nét. Các chữ cái ghi âm, vần, tiếng, viết   không đúng cỡ chữ (độ cao, khoảng cách giữa các con chữ và giữa các chữ thường  quá rộng hoặc quá hẹp); ghi dấu thanh chưa đúng vị trí qui định. Trang 6
  7. ­ Một số  học sinh chưa nắm chắc luật chính tả  nên còn viết sai chính tả  đặc biệt là các lỗi như: gi/ d;  g/ gh; vần anh/ ân / ênh/ anh; ông/ ong; ?/ ~ ... ­ Phần lớn học sinh viết chữ chưa đẹp. Các nét chữ  chưa đều, sự  kết hợp  giữa các con chữ chưa thật hài hoà, mềm mại, thế chữ không ổn định.  Điều tra thực trạng chữ viết lớp 1A, 1C, 1B tôi phụ trách trong ba năm học   liền kề tôi thống kê như sau:  1.Bảng tổng hợp điều tra theo dõi hệ thống lỗi sau 7 tuần nhận lớp: Hệ thống lỗi học sinh thường mắc Độ cao, cỡ  Quy trình  Lớ TS Đặt dấu  Năm học chữ, khoảng  viết nét, hình  Liên kết chữ p HS thanh, chữ số cách dáng chữ cái SL % SL % SL % SL % 2012­2013 1A 23 9 39,0 13 57,0 10 43,0 8 35,0 2013­2014 1C 29 11 37,9 15 51,7 13 44,8 10 34,5 2014­2015 1B 23 10 43,5 11 47,8 9 39,2 7 30,5 2. Khảo sát chất lượng khảo sát 7 tuân đâu vê  k ̀ ̀ ̀ ỹ năng  viết lớp 1A, 1C ,1B   do bản thân tôi phụ trách: 2014­2015 (1B) 23 3 13,0 5 21,9 12 52,1 3 13,0 2.1.5­ Nguyên nhân: Trước hết là do nhận thức của người dạy và người học, nhận thức của cha   mẹ  học sinh.  Họ  chưa thấy hết vị trí, tầm quan trọng và sự  tác động của chữ  viết đối với việc hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức và sự ảnh hưởng rất   lớn trong việc nâng cao chất lượng của các môn học khác đối với học sinh tiểu  học. Vì thế, trong quá trình dạy học chưa tạo được  hứng thú  và phong trào thi   đua rèn chữ viết của học sinh. Trang 7
  8.   Một số  phụ  huynh cho rằng: Trình độ  khoa học kỹ  thuật ngày càng phát   triển thì không cần thiết phải rèn chữ  viết nên không quan tâm, động viên con   em rèn luyện chữ viết.   Nhiều giáo viên chưa thấy hết tầm quan trọng của phân môn Tập viết,  Chính tả với việc luyện chữ cho học sinh, do vậy chưa hướng dẫn một cách chu   đáo, tỉ mỉ về việc viết chữ đúng mẫu. Chưa tuân thủ đúng quy trình chữ  viết (từ  điểm đặt bút để  viết nét đầu tiên đến các thao tác lia bút, rê bút để  viết đến khi  kết thúc chữ ghi tiếng), chưa kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc dạy nghĩa của từ  với việc dạy chữ; hướng dẫn chưa kĩ cho học sinh cách trình bày bài viết theo  từng loại văn bản...  Một số  giáo viên do nóng vội trong việc hoàn thành khối lượng kiến thức  bài học, bài tập ngày càng nhiều, muốn học sinh phải nắm hết các phần mở  rộng nâng cao so với yêu cầu nên các em phải tăng tốc độ  viết trong giờ  học,   dẫn đến học sinh không có thời gian để  viết cẩn thận, chữ  viết thường không  được nắn nót, không đúng quy cách, kích cỡ  và khoảng cách viết giữa các con  chữ, các chữ không đều.    Giáo viên thiếu quan tâm đến tư  thế  ngồi, cách cầm bút, để  vở  của học  sinh khi viết nên các em ngồi viết chưa đúng tư  thế, cách để  vở, cách cầm bút,   để tay khi viết chưa khoa học, chưa hợp lý dẫn đến việc học sinh viết chữ cẩu   thả, tuỳ tiện.   Khi chấm bài một số giáo viên bắt lỗi quy trình, kĩ thuật viết chưa thật   nghiêm khắc, chưa quan tâm đến việc nhận xét, đánh giá một cách kĩ lưỡ ng  bài viết của học sinh nên các em chưa phát hiện và biết đượ c lỗi sai của mình  để sửa chữa.   Chữ viết của một số giáo viên chưa mẫu mực nên đã ảnh hưởng đến việc   rèn chữ viết của học sinh. Trang 8
  9.  Học sinh thường mắc nhiều lỗi chính tả  khi viết do các em phát âm không  chuẩn, không phân biệt được các tiếng có phụ  âm đầu, vần đọc lên nghe na ná  giống nhau.  Mặt khác một số em do trí nhớ chậm, quên mặt chữ ghi âm, ghi tiếng  từ; không nắm chắc được nghĩa của từ, luật chính tả, luật viết chữ  hoa và cách   viết hoa nên dẫn đến viết sai.  Từ thực trạng chữ viết của học sinh đã nêu ở  trên, trong những năm được   phân công quản lý, chỉ đạo  ở  trường (đặc biệt là năm học này) chúng tôi đã tập   trung thực hiện một số biện pháp để chỉ đạo việc rèn chữ  viết cho học sinh góp  phần nâng cao chất lượng phong trào " Vở sạch ­ chữ đẹp" trong nhà trường. Xuất phát từ  tình hình đó, bản thân tôi luôn luôn trăn trở  tìm biện pháp để  giải đáp những yêu cầu: Làm thế  nào để  giáo viên say mê với công tác rèn chữ  viết cho học sinh? Làm thế nào để chính quyền địa phương, phụ huynh tích cực  ủng hộ  giáo viên trong công tác rèn chữ? Làm thế  nào để  học sinh có hứng thú   luyện viết?.. Những kinh nghiệm về thực tế về tổ chức công tác rèn chữ, nâng  cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 1 tại Trường Tiểu học nơi đang công   tác tôi muốn chia sẻ cùng đồng nghiệp. Đó là: 2.2. NHỮNG BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG TẬP VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 1 2.2.1. Biện pháp nâng cao nhận thức cho học sinh và  phụ huynh   Đầu năm học, tôi đã tổ chức họp phụ huynh phổ biến kế hoạch hoạt động  của nhà trường trong năm học mới, đồng thời kết hợp tuyên truyền trong phụ  huynh về  vai trò của chữ  viết, vị  trí, tầm quan trọng của việc rèn chữ  viết đối  với việc hình thành nhân cách, tính kiên trì, tính kỉ luật, chịu khó của các em trong  quá trình học tập. Chữ viết đẹp sẽ tạo hứng thú cho học sinh trong việc học các   môn học khác, giúp phụ huynh xoá bỏ quan điểm không cần rèn chữ viết khi nền  khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại. Trang 9
  10.     Yêu cầu phụ huynh mua sắm đủ các loại học cụ có chất lượng cho học  sinh trong quá trình học tập như: bút, vở, mực, thước kẻ  ... Hướng dẫn phụ  huynh dựa vào mẫu chữ   ở  vở  tập viết để  kiểm tra và thường xuyên quan tâm  sửa chữa các sai sót cho con em mình.    Thông qua các hoạt động Đội, Sao nhi đồng... tuyên truyền trong học sinh   tác dụng của việc rèn chữ viết đẹp đối với các môn học khác và việc hình thành  nhân cách của các em sau này.  Trong các buổi sinh hoạt, các hoạt động tập thể, tôi thường kể cho học sinh  nghe về những tấm gương vượt khó trong việc rèn luyện chữ viết như nhà giáo  Nguyễn Ngọc Ký và phát động phong trào học tập gương rèn chữ  viết của các  danh nhân nước ta như: Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu... để  từ  đó khơi dậy  trong các em lòng say mê và ý thức luyện chữ. 2.2.2 Đổi mới phương pháp dạy học: Muốn cải tiến quy trình dạy tập viết, điều không thể  thiếu được là phải   đổi mới phương pháp dạy học, tiết tập viết càng cần phải tạo điều kiện để học  sinh chủ động tiếp nhận kiến thức (tự quan sát, nhận xét, ghi nhớ), tự giác luyện  tập và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự  hướng dẫn của giáo   viên. vào thực tế giảng dạy, để giúp học sinh có được chữ viết đẹp,đòi hỏi yêu  cầu cao đối với người giáo viên la ph ̀ ải có phương pháp rèn luyện chữ phù hợp   với điều kiện thực tiễn, trình độ  , khả  năng tâm lí lữa tuổi  tưng h ̀ ọc sinh tiểu   học , phát huy được tính tích cực, tự giác, tự rèn của học sinh và đặc biệt là  giaó   ̣ duc cac em ph ́ ương phap t ́ ự hoc, t ̣ ự ren luyên chú ý đên chí kiên trì  cua t ̀ ́ ̉ ưng hoc ̀ ̣   ̣ ̣ sinh nhăm khich lê kip th ̀ ́ ơi đê cac em co h ̀ ̉ ́ ́ ứng thu h ́ ơn trong viêc ren ch ̣ ̀ ữ viêt. ́ 2.2.3 Thực hiện tốt việc dạy học phân môn Tập viết lớp Trang 10
  11. *Lựa chọn và sử  dụng các phương pháp dạy học phù hợp, linh hoạt   nhằm giúp các em hiểu và ghi nhớ hình dáng, kích thước, quy trình viết từng   chữ cái. Chữ viết Tiếng Việt có thể chia thành các nhóm sau: Nhóm 1: Nhóm các chữ có nét cơ bản là nét cong: c, o, ô, ơ, e, x.  Nhóm 2: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc ( hoặc nét sổ thẳng): a, ,ă, â, d, đ, q. Nhóm 3: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc: i, t, u, ư, p, n, m. Nhóm 4: Nhóm các chữ  cái có nét cơ  bản là nét khuyết ( hoặc nét cong   phối hợp với nét móc): b, y, g, l. Nhóm 5: Nhóm chữ cái có nét móc phối hợp với nét cong: r, v, s. Mỗi nhóm chữ  cái đều có những đặc điểm riêng nên quy trình thực hiện  các thao tác  ở  từng nhóm không giống nhau. Do đó, khi rèn viết chữ, học sinh   phải nắm chắc hình dáng, đặc điểm từng chữ cái, các thao tác viết các nhóm chữ  cái và từng nét chữ. Để giúp các em nắm được các kiến thức trên, giáo viên cần phải khắc sâu  biểu tượng về chữ cho học sinh bằng nhiều con đường như: Kết hợp mắt nhìn,   tai nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các em chủ động phân tích hình dáng, kích  thước và cấu tạo mẫu chữ, tìm sự giống nhau và khác nhau của chữ cái đang học  và chữ cái đã học trước đó trong cùng một nhóm bằng các so sánh tương đồng. Tuỳ theo mục tiêu yêu cầu trong từng giai đoạn của bài học mà giáo viên   có thể sử dụng các trực quan về các mẫu chữ  trong từng cung đoạn bài học cho  phù hợp. Cụ thể: Trang 11
  12. ­ Để  học sinh nắm chắc hình dáng, kích thước và các nét chữ  cơ  bản cấu  tạo chữ cái cần viết trong bài thì giáo viên cần dùng chữ mẫu phóng to trên bảng   để hướng dẫn học sinh phân tích. ­ Để giúp học sinh nắm chắc thứ tự viết các nét từng chữ cái, cách nối các  con chữ  trong một chữ   nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh thì  nên dùng mẫu chữ của giáo viên viết trên bảng lớp cho học sinh quan sát, phân   tích. ­ Để giúp các em có những thao tác phối hợp đồng bộ khi viết giáo viên nên   dùng chữ mẫu trong hộp chữ làm trực quan cho các em. Ví dụ:     Khi dạy chữ cái e. a. Để giúp học sinh nắm chắc hình dáng, kích thước và các nét chữ cơ bản   cấu tạo nên chữ  cái e, giáo viên cho học sinh quan sát chữ  mẫu e phóng to trên  bảng kết hợp hướng dẫn học sinh phân tích bằng hệ thống câu hỏi dẫn dắt như  sau: Chữ cái e được cấu tạo bằng những nét nào? Các nét đó như thế nào? Nét nào viết trước, nét nào viết sau? Chữ e có độ cao mấy ô? Độ rộng của chữ bao nhiêu? Sự liên kết phối hợp các nét ra sao? Điểm đặt bút, dừng bút của chữ e ở vị  trí nào trên dòng kẻ? b. Để  giúp học sinh nắm chắc quy trình viết chữ  thì nên dùng trực quan   mẫu chữ viết của học sinh trên bảng lớp cho học sinh phân tích: Giáo viên kết hợp giảng giải và minh hoạ cách viết: điểm đặt bút, cách đưa  ngòi bút như thế nào, thứ tự viết các nét ra sao, điểm dừng bút của chữ cái, cách  viết liền mạch, kĩ thuật "rê bút" trên dòng kẻ... Giáo viên cũng cần phân tích  Trang 12
  13. cách viết kể cả viết dấu thanh và dấu phụ của chữ. Đặc biệt khi viết mẫu một   chữ  (ghi vần, ghi tiếng) gồm hai chữ cái trở  lên nối lại với nhau, giáo viên cần   phải phối hợp giảng giải về cách viết hoặc có thể  phân tích và viết mẫu trích  đoạn ra phần bảng phụ những trường hợp viết nối  không thuận lợi để khắc sâu  quy trình viết cho học sinh. Ở lớp 1 thường có những trường hợp nối nét không thuận lợi như sau:  ­ Nối các chữ  cái mà vị  trí liên kết không thể  viết các nét nối từ  nét cuối   của chữ cái đứng trước với điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau: + Nếu chữ cái đứng trước có liên kết, chữ cái thứ hai không có liên kết thì  giáo viên hướng dẫn học sinh nắm được điểm liên kết sẽ  là điểm kết thúc của  chữ cái thứ nhất trong vần hoặc trong tiếng. Ví dụ: l ghép với o: lo         Khi viết đến điểm dừng bút của chữ l, cần lia bút đến điểm bắt đầu   của chữ o, rồi viết sao cho nét cong trái của chữ o chạm vào điểm dừng bút của  chữ l. + Nếu chữ cái đứng trước không có nét liên kết, chữ cái đứng sau có nét liên   kết thì viết đến điểm dừng bút của chữ cái đứng trước rồi lia bút đến điểm bắt   đầu của chữ cái đứng sau và viết tiếp theo quy trình viết liền mạch. Ví dụ: q ghép với uy: quy Khi viết đến điểm dừng bút của chữ q thì lia bút đến điểm bắt đầu của chữ  cái u và viết tiếp chữ cái y theo quy trình viết liền mạch.  + Nếu cả hai chữ đứng cạnh nhau đều không có nét liên kết, khi viết phải   tạo nên nét liên kết phụ. Điểm đặc biệt  ở  đây là khó viết nét liên kết phụ  sao   cho phù hợp. Do đó, cần xác định điểm nối  ở  chữ  cái đứng sau sao cho nét liên   Trang 13
  14. kết phụ nối từ điểm dừng bút của chữ cái đứng trước chạm vào đúng điểm bắt  đầu của chữ cái đứng sau. Ví dụ: s ghép với a Khi viết điểm dừng bút của chữ  s, lia bút đến trên đường kẻ  ngang một  chút, thẳng hàng dọc vị  trí ngoài cùng của nét nối chữ  s. Sau đó viết nét thẳng   hất lên, lia bút về điểm đặt bút của chữ cái a và viết. Việc hướng dẫn học sinh nắm chắc nguyên tắc và cách viết đúng dấu  thanh và dấu phụ cũng rất quan trọng: Về  nguyên tắc: Dấu thanh đặt đúng âm chính của vần, dấu thanh đặt ở  vị  trí cân đối. Cách viết: ­ Viết dấu phụ: Dấu các chữ  cái: a, ă, â, ê, ô đặt  ở  vị  trí trên đầu các chữ  cái. Điểm cao nhất của dấu không quá 1/3 đơn vị chữ, điểm thấp nhất của dấu   không chạm vào đầu các chữ  cái (cách đầu chữ  cái một khe hở), chiều ngang   của dấu bằng 1/3 đơn vị chữ. ­ Viết dấu thanh:  + Dấu sắc là một nét thẳng xiên ngược được viết từ  trên xuống hơi chéo  sang trái, độ dài bằng 1/3 ô. + Dấu huyền: Cho học sinh so sánh với dấu sắc để  rút ra điểm khác nhau  ( chéo sang phải). + Dấu hỏi: Gồm một nét hở  trái, biến dạng  ở  phần cuối nét. Khi viết kéo  dài được nét cong về trái, độ cao bằng 1/3 ô. Trang 14
  15. + Dấu ngã: là nét cong hở liền nhau xếp  ngược nhau theo  mẫu ngang.Khi   viết điểm đặt bút và điểm dừng bút cùng nằm trên một đường kẻ  ngang chiều   rộng bằng 1/3 ô. + Dấu nặng: là một dấu chấm đặt phía dưới các âm chính của vần. Viết mẫu là thao tác trực quan của giáo viên trong bảng lớp giúp học sinh   nắm bắt được quy trình viết  từng nét chữ, từng chữ. Do vậy, giáo viên phải viết  chậm, đúng theo nguyên tắc viết chữ. Khi viết mẫu trên bảng giáo viên tạo điều  kiện để học sinh nhìn thấy tay giáo viên viết từng nét chữ. * Giúp các em cũng cố biểu tượng về chữ viết thông qua các hình thức   luyện tập: Tập viết là phân môn có tính chất thực hành. Việc quan sát, phân tích hình   thành biểu tượng về  chữ  viết, mới chỉ  giúp các em có những hiểu biết và ghi   nhớ  về  chữ  cái. Học sinh muốn viết đúng các chữ  cái, liên kết các chữ  cái để  luyện viết từ, cao hơn là viết câu ứng dụng cần phải thực hành luyện tập. Việc hướng dẫn học sinh luyện tập phải tiến hành từ thấp đến cao để cho   các em dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước các  cỡ  chữ, sau đó là viết đúng dòng và đúng tốc độ  quy định. Các hình thức luyện  tập ở tập viết lớp 1 được biểu hiện như sau: ­ Học tập viết chữ trên bảng con: Học sinh luyện tập viết chữ bằng phấn trên bảng con tước khi tập viết vào   vở. Học sinh có thể tập viết chữ cái, viết các vần, các chữ hoặc từ (có 2 hoặc 3  chữ) vào bảng con. Giáo viên căn cứ vào nội dung và đối tượng học sinh mà đề  ra yêu cầu cần luyện tập cho phù hợp, tránh tình trạng dàn trãi làm mất thời   gian, kém hiệu quả. Giáo viên có thể    yêu cầu học sinh luyện viết những âm,  Trang 15
  16. vần mới, những chỗ viết khó mà học sinh hay viết sai.Học sinh không cần viết   hết toàn bộ  dòng chữ   ứng dụng mà chỉ  chọn những chữ  khó viết hoặc những   chữ có chỗ nối không thuận lợi khi liên kết chữ. Ví dụ: Bài viÕt có dòng chữ ứng dụng Mẹ có củ từ Giáo viên chỉ cần hướng dẫn học sinh cách viết nối M với e, cách điều tiết   giữa c và o ; c với u ( M với e diều tiết hẹp vào; c với u điều tiết rộng ra) Khi viết học sinh viết bảng giáo viên theo dõi, uốn nắn giúp đỡ  các em,   nhất là những học sinh yếu. Sau khi học sinh viết xong, giáo viên yêu cầu học sinh đưa bảng lên giáo   viên kiểm tra và chọn một số bảng viết tốt, chưa tốt cho học sinh tham gia nhận   xét, tuyên dương, sửa chữa những chỗ sai. Giáo viên khẳng định lại kiến thức cho học sinh cần nắm vững, chữa nét  chữ  hoặc chữ cái sai. Khi chữa lỗi, giáo viên không nên viết đè lên mà nên viết  chữ đứng bên cạnh. ­ Luyện tập viết trong vở tập viết: + Giáo viên nêu yêu cầu và nội dung cần viết trong bài tập viết (Điểm đặt  bút, khung chữ, dòng kẻ, số dòng viết của từng nội dung) + Giáo viên nhắc nhở học sinh tư thế ngồi viết đúng, cách cầm bút, kỉ thuật  "rê bút" viết liền nét, cách đặt vở, trình bày bài viết trong vở...Học sinh thực   hành viết, giáo viên theo dõi, uốn nắn giúp các em viết tốt. 2.2.4. Rèn cho học sinh biết phối hợp đồng bộ của các bộ phận cơ thể   tham gia vào việc viết chữ. Quá trình tập viết có mối quan hệ  đến nhiều bộ  phận trong cơ  thể  của  học sinh. Tư  thế  ngồi viết có mối quan hệ  đến cột sống, đến phổi, đến lưng.   Trang 16
  17. Cách cầm bút có quan hệ đến ngón tay. Hình dáng, kích thước chữ trong vở tập  viết có quan hệ đến mắt các em. Việc tập viết không đảm bảo đúng quy định không những chất lượng học   tập đạt thấp mà còn đem lại nhiều di hại suốt đời cho học sinh: mắc cận thị do   ngồi viết thiếu ánh sáng, hoặc cúi đầu sát vở, hay bảng lớp không đủ tiêu chuẩn   trực quan. Cột sống bị  vẹo, lưng gù, phổi  ảnh hưởng...do ngồi không đúng tư  thế hoặc bàn ghế không đúng quy cách. Chính vì vậy, khi giáo viên hướng dẫn học sinh tập viết cần coi việc phối   hợp đồng bộ các bộ phận cơ thể là một nguyên tắc đặc thù. 2.2.5. Tham mưu với nhà trường và phụ  huynh học sinh đảm bảo các  điều kiện CSVC ­ TBDH và đồ dùng phục vụ tốt cho giảng dạy­ học tập. Để  kết quả  tập viết của học sinh đạt kết quả, ngoài những biện pháp nói  trên, học sinh cần có những điều kiện khác hỗ trợ. Đó là: Phòng học có đủ ánh sáng cho mọi học sinh ngồi học theo quy định của vệ  sinh học đường. Bàn ghế  đúng quy cách, vừa tầm học sinh, mỗi bàn chỉ  có hai chỗ  ngồi.  Bảng lớp đạt tiêu chuẩn chống loá, treo ở độ cao vừa phải, cạnh dưới của bảng  ngang tầm đầu của học sinh ngồi trong lớp.  Các em phải có đầy đủ, chất lượng, đồ  dùng học tập như: giấy, vở, bút,   bảng con, phấn, thước...đạt tiêu chuẩn quy định. Mỗi học sinh có một bảng chữ  mẫu để tô được lòng trong giấy bóng theo quy định cụ thể cho từng khối lớp. Vì vậy, ngay từ đầu năm học, giáo viên cần tham mưu tích cực với lãnh dạo   nhà trường đảm bảo đầy đủ  CSVC theo quy định, tổ  chức phụ  huynh phổ  biến   kế  hoạch chuẩn bị  đồ  dùng học tập cho các em để  học sinh có đủ  điều kiện  thuận lợi khi học tập viết. Trang 17
  18. 2.2.6.Tổ chức tốt phong trào thi đua "Giữ vở sạch ­ Viết chữ đẹp" và  tham gia hội thi “Ngay hôi vi ̀ ̣ ết chữ đẹp” Kinh nghiệm cho thấy, muốn cho học sinh có chữ viết đẹp, giáo viên cần   phải sử  dụng thêm thời gian ngoài giờ  lên lớp để  tổ  chức cho học sinh tự  rèn  luyện chữ viết của mình. Đồng thời phải xây dựng được phong trào thi đua viết  chữ  đẹp. Chính vì thế  nên ngay từ  đầu năm học tôi đã phát động phong trào thi   đua "Giữ vở sạch ­ Viết chữ đẹp" trong toàn lớp. Phong trào được duy trì trong   suốt năm học. Hàng tuần, hàng tháng, thông qua các  buổi sinh hoạt tôi có những nhận xét  đánh giá cụ thể về phong trào luyện  viết chữ của của học sinh trong lớp. Tổ chức cuộc thi "Viết chữ đẹp" hàng tháng và tham gia tích cực các cuộc  thi viết chữ  đẹp do nhà trường tổ  chức. Qua đó đã tìm ra được những gương   viết chữ  đẹp, nhân điển hình, kết hợp với Chi hội phụ  huynh tặng quà nhằm  thúc đẩy phong trào"Giữ vở sạch ­ Viết chữ đẹp" của lớp. Chọn những bài viết đẹp trưng bày trong lớp học để  học sinh tham khảo  và khích lệ  ý chí phấn đấu của các em. Qua việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên bản thân tôi đã gặt hái được   những kết quả  vượt bậc về  mọi mặt, trong đó có chữ  viết và phong trào "Vở  sạch chữ đẹp. Chữ viết học sinh lớp tôi ngày càng tiến bộ. Các em có ý thức giữ  gìn vở sạch, tính cẩn thận khi làm bài. Nhiều em có chữ  viết đẹp, trình bày vở  khoa học và thẩm mĩ. Tỉ  lệ  học sinh viết chữ  đẹp và tham gia vào “Ngay Hôi ̀ ̣  viết chữ đẹp” cấp trường đạt kết quả ngày càng cao. Cụ thể:  BẢNG   TỔNG   HỢP   CHẤT   LƯỢNG   CHỮ   VIẾT   LỚP   ĐƯỢC   PHỤ  TRÁCH: Trang 18
  19. Trung  Đợt Giỏi Khá Yếu Bình Năm học KSĐK SLHS SL % SL % SL % SL % 1 23 3 13,0 5 21,4 13 56,5 2 8,7 2012­ 2013 2 23 9 39,1 10 43,5 4 17,4 / / (Lớp 1A) 3 23 11 47,8 10 43,5 2 8,7 / / 4 23 12 52,2 11 47,8 / 1 29 4 13,8 6 20,7 14 48,3 5 17,2 2013­ 2014 2 29 10 34,5 11 37,9 6 20,6 2 6,8 (Lớp 1C) 3 29 14 48,3 12 41,4 2 6,8 1 3.5 4 29 14 48,3 12 41,4 3 10,3 / / BẢNG   TỔNG   HỢP   CHẤT   LƯỢNG   MÔN   TIÊNG ̣   LỚP   ĐƯỢC  ́   VIÊT PHỤ TRÁCH: Hoc ki I ̣ ̀ 23 8 34,8 9 39,2 5 21,7 1 3,3 Cuôi năm ́ 23 13 56,5 10 43,5 Năm học: 2012­2013: Lớp 1B có 5/523/23 em tham gia dự thi Ngay hôi hoc ̀ ̣ ̣   ̉ ̣ ̀ ́ ữ đep đa  đ sinh tiêu hoc vê viêt ch ̣ ̃ ạt cac gi ́ ải 1 giải Nhất, 2 giải Nhì, 1giải Ba) Năm học: 2013­2014: Lớp 1C có 29/29 em tham gia dự Ngay hôi viêt ch ̀ ̣ ́ ư ̃ ̣ ́ ường đa  đ đep câp tr ̃ ạt giải (1 giải Nhất, 2giai Nhi, 3 giai KK) ̉ ̀ ̉ Năm học: 2014­2015: Lớp 1B có 23/23 em tham gia dự  Ngay hôi viêt ch ̀ ̣ ́ ư ̃ ̣ ́ ương đa  đ đep câp tr ̀ ̃ ạt giải (1 giải Nhất, 2 giai Nhi  va 2 giai KK).100% h ̉ ̀ ̀ ̉ ọc sinh   đạt chuẩn "Vở sạch chữ đẹp" đứng tốp dẫn đầu trong khối 1 và toàn trường. 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa thiết thực của sáng kiến Trong bất cứ thời đại nào giáo dục đào tạo vẫn luôn là quốc sách hàng đầu  và điều đó càng có ý nghĩa hơn trong giai đoạn hiện nay.  Trang 19
  20. Chữ  đẹp là một biểu hiện của nết người. Rèn luyện chữ  viết đẹp là một   trong những hoạt động học tập giúp các em phát triển toàn diện và hoàn thiện  nhân cách con người. Đó cũng là một trong những hoạt động chủ yếu của người   giáo viên trong quá trình dạy học. Bồi dưỡng, rèn luyện cho học sinh có chữ viết   đẹp, viết đúng là một trong các hoạt động góp phần giáo dục toàn diện cho   người học sinh trong sự nghiệp đổi mới, bồi dưỡng nhân tài cho nhà trường, cho  ngành góp phần vào sự  nghiệp công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá đất nước trong   giai đoạn hiện nay Rèn luyện học sinh viết đúng, viết đẹp là cả  một quá trình lâu dài, đòi hỏi  công phu và sự kiên nhẫn, không thể một sớm một chiều mà đạt được kết quả  mong muốn. Vì vậy người giáo viên phải thường xuyên quan tâm nhắc nhở, uốn  nắn cho các em. Đồng thời giáo viên phải luôn luôn rèn chữ  viết của bản thân  mình thực sự  đẹp, là mẫu cho các em noi theo. Trong quá trình dạy học, luyện   tập phải hướng dẫn các em một cách tỉ mỉ, cẩn thận, uốn nắn kịp thời giúp các  em mau tiến bộ, rèn cho các em có ý thức tự  giác, chủ  động, kiên trì chịu khó  trong việc rèn chữ viết. Cho nên  tôi đa đ ̃ ưa ra cac giai phap co hiêu qua nh ́ ̉ ́ ́ ̣ ̉ ư sau : ­Lựa chọn và sử  dụng các phương pháp dạy học phù hợp, linh hoạt nhằm   giúp các em hiểu và ghi nhớ hình dáng, kích thước, quy trình viết từng chữ cái. ­ Giúp các em cũng cố  biểu tượng về  chữ  viết thông qua các hình thức   luyện tập: + Học tập viết chữ trên bảng con: + Luyện tập viết trong vở tập viết: ­ Rèn cho học sinh biết phối hợp đồng bộ của các bộ phận cơ thể tham gia  vào việc viết chữ. Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2