intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Rèn kĩ năng Đổi đơn vị đo diện tích cho học sinh lớp 5

Chia sẻ: Chubongungoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:35

22
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm là giúp HS thuộc tên và mối quan hệ giữa các đơn vị đo liền kề. Giúp HS không lẫn lộn giữa đơn vị đo độ dài và đơn vị đo diện tích. Giúp HS không nhầm lẫn cách đổi giữa các dạng bài. Hướng dẫn học sinh các kĩ năng đổi đơn vị đo diện tích ứng với từng dạng bài cụ thể.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Rèn kĩ năng Đổi đơn vị đo diện tích cho học sinh lớp 5

  1. 1 BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN: - Điều 2 của luật phổ cập giáo dục tiểu học đã xác định: Bậc tiểu học là bậc học đầu tiên, bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Bậc tiểu học đã tạo ra những cơ sở ban đầu rất cơ bản và bền vững cho các em tiếp tục học các bậc học trên. Nội dung giảng dạy của tiểu học luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc sống, không chỉ thế mà mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Học tập phải được gắn liền với thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc sống.Trong các môn học ở bậc tiểu học, môn Toán là một trong những môn có vị trí rất quan trọng. Nó góp phần quan trọng trong việc rèn luyện tư duy, phương pháp giải quyết vấn đề. Kiến thức Toán được ứng dụng nhiều trong cuộc sống, giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Nó giúp gắn liền việc học tập với cuộc sống xung quanh và hỗ trợ học sinh học tập tốt các môn học khác như Mĩ thuật, Kĩ thuật,… Một trong nội dung toán học đáp ứng được mục đích trên đó là đơn vị đo lường.Trong chương trình toán học ở Tiểu học, các kiến thức về Đổi đơn vị đo diện tích gắn bó chặt chẽ với các kiến thức số học và hình học. Việc củng cố này có tác dụng trở lại giúp nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa các đơn vị đo của đại lượng làm cơ sở cho việc dạy học các phép tính trên số đo đại lượng. Việc chuyển đổi các đơn vị đo đại lượng cũng góp phần củng cố nhận thức về số tự nhiên, phân số, số thập phân theo chương trình toán Tiểu học. Toán 5 có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình toán Tiểu học. Nếu coi Toán 4 là sự mở đầu thì Toán 5 là sự phát triển tiếp theo và ở mức cao hơn, hoàn thiện hơn cả giai đoạn dạy học các nội dung cơ bản nhưng ở mức sâu hơn, trừu tượng và khái quát hơn, tường minh hơn so với giai đoạn các lớp 1, 2, 3. - Chính vì thế việc “ Rèn kĩ năng Đổi đơn vị đo diện tích cho học sinh lớp 5” trong chương trình toán Tiểu học nói chung và Toán 5 nói riêng rất quan trọng bởi: “Đổi đơn vị đo diện tích cho học sinh lớp 5” được triển khai theo định hướng tăng cường thực hành vận dụng, gắn liền với thực tiễn đời sống. Đó chính là cầu nối giữa các kiến thức toán học với thực tế đời sống, giúp học sinh thấy được ứng dụng thực tiễn của toán học. Như vậy, Toán 5 sẽ giúp các em đạt được những mục tiêu dạy học toán không chỉ ở Toán 5 mà toàn cấp Tiểu học.
  2. 2 Tuy nhiên, đại lượng là một khái niệm trừu tượng. Để nhận thức được khái niệm đại lượng đòi hỏi học sinh phải có khả năng trừu tượng hoá, khái quát hoá cao. Mà ở lứa tuổi tiểu học, hoạt động nhận thức chủ yếu dựa vào hình dạng bên ngoài, chưa nhận thức rõ thuộc tính đặc trưng của sự vật. Do đó học sinh rất khó khăn trong việc nhận thức đại lượng. Thực tế trong quá trình giảng dạy nhiều năm ở lớp 5, tôi nhận thấy: loại bài tập Đổi các đơn vị đo diện tích có đầy đủ các dạng: Đổi từ đơn vị nhỏ sang đơn vị lớn và ngược lại, rồi đổi từ danh số đơn sang danh số phức và ngược lại v.v…Trong từng dạng đó lại có nhiều dạng nhỏ nên học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp thu và vận dụng thực hành. Đặc biệt, học sinh lớp 5 đã là học sinh cuối cấp nên nội dung về đo lường trong chương trình của các em khá nhiều, học sinh dễ bị rối, bị lúng túng nên kết quả học tập chưa cao, dẫn đến các em mất tự tin, nhiều em có tâm lí sợ học nội dung này. Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy học và giúp học sinh hứng thú khi học về Đổi các đơn vị đo diện tích, tôi chọn đề tài: “ Rèn kĩ năng Đổi đơn vị đo diện tích cho học sinh lớp 5” để nghiên cứu. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP: 1. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN: 1.1- Về dạy học “ Đổi đơn vị đo đại lượng trong Toán 5 ”: * Thuận lợi: - Giáo viên được tập huấn chương trình thay sách giáo khoa đầy đủ. - Nội dung, PPDH có tính khả thi- phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. - Kiến thức, kỹ năng cơ bản thiết thực, phù hợp với trình độ và điều kiện học tập của học sinh; thuận lợi cho việc giảng dạy của giáo viên, học sinh dễ tiếp thu bài. - Điều kiện phục vụ cho việc dạy- học ngày càng được nâng cao; các trang thiết bị, đồ dùng dạy học ngày càng hiện đại có tác dụng phát huy được tính tích cực, gây được hứng thú học tập cho học sinh. - Trong mấy năm học gần đây, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm, áp dụng phương pháp Bàn tay nặn Bột, tăng cường hoạt động trải nghiệm sáng tạo, ứng dụng… Đây là cơ sở, là tiền đề giúp giáo viên thiết kế các hình thức tổ chức dạy học khác nhau nhằm tạo cho học sinh cơ hội được tự mình trải nghiệm, tự mình thao tác với các đồ dùng trực quan, tự mình kiểm nghiệm được kiến thức đã học bằng thực tế. Từ đó, kích
  3. 3 thích sự hứng thú học tập của học sinh, giúp các em tự tin, say mê hơn trong học tập. * Khó khăn: • Về phía giáo viên: - Trong dạy học một số giáo viên chưa chú ý, tập trung vào rèn kỹ năng cho học sinh. Việc truyền đạt kiến thức của giáo viên đến học sinh vẫn còn theo một khuôn mẫu nên học sinh tiếp nhận kiến thức còn thụ động. • Về phía học sinh: - Học sinh tiếp thu bài còn chưa nhanh, hiệu quả học tập chưa cao. Thể hiện: Với các bài tập có nội dung về đổi đơn vị đo diện tích trong sách giáo khoa cũng như trong các đề kiểm tra định kì thường có một đến hai câu thuộc tuyến kiến thức này, vẫn còn nhiều học sinh làm chưa đúng. Do các em không hiểu bản chất của bài tập nên trong quá trình làm bài thường hay đổi nhầm, đổi sai. 1.2.Về việc dạy- học đổi đơn vị đo diện tích ở đơn vị cơ sở: Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 5, qua dự giờ và trao đổi chuyên môn với đồng nghiệp, trò chuyện, phỏng vấn học sinh, tôi nhận thấy rằng: - Khả năng ghi nhớ của nhiều học sinh ở mức độ yếu, trong khi đó các em phải học về tất cả các đơn vị đo lường của chương trình cuối cấp, trong quá trình lên lớp, cho dù giáo viên đã cố gắng giúp học sinh nắm các kiến thức có liên quan như tên gọi, thứ tự vị trí của từng đơn vị đo và mối quan hệ giữa chúng, song chỉ sang những tiết học sau là học sinh lại quên ngay. - Không những thế các bài tập về chuyển đổi đơn vị đo lường lại rất phong phú và đa dạng như: Đổi đơn vị đo dộ dài, đổi đơn vị đo diện tích, đổi đơn vị đo thể tích, đổi đơn vị đo khối lượng…Trong đó lại có đổi từ đơn vị lớn sang đơn vị nhỏ, đơn vị nhỏ sang đơn vị lớn, từ danh số đơn sang danh số đơn, từ dang số đơn sang danh số phức; có liên qua cả số tự nhiên, phân số và số thập phân. Vì thế nên học sinh có nhớ thì cũng lẫn lộn giữa đơn vị này với đơn vị kia, giữa dạng này với dạng khác. - Một hạn chế nữa cũng gây không ít khó khăn trong việc rèn kĩ năng chuyển đổi đơn vị đo lường cho học sinh, đó là: các em thường không xác định được dạng bài tập cần làm( từ lớn ra nhỏ hay từ nhỏ ra lớn,..); hoặc không nghĩ đến việc sử dụng cách giải chung của dạng đó để chuyển đổi. Đặc biệt hơn nữa là các em thường tách rời phần lí thuyết với thực hành. Chẳng hạn như: các em
  4. 4 vẫn biết 2 đơn vị đo độ dài liền kề hơn kém nhau 10 lần còn 2 đơn vị đo diện tích liền kề hơn kém nhau 100 lần nhưng khi thực hành đổi các em lại thường hay nhẫm lẫn. Kinh nghiệm còn cho tôi thấy: nếu rèn học sinh đơn thuần bằng thuật ngữ toán học (dạng quy tắc, định nghĩa) thì rất khó. Phải rèn học sinh thông qua các “mẹo vặt” và ngôn ngữ đời thường thì sẽ mang lại hiệu quả rất cao. Đặc biệt phải kích thích được hứng thú học tập của các em, tạo cơ hội cho các em được tự làm, tự trải nghiệm sáng tạo để tìm ra kiến thức và được kiểm nghiệm kiến thức đó bằng thực tế. Điều này sẽ được tôi minh hoạ ở nội dung của phần tiếp theo. *Khảo sát thực tế: Rút kinh nghiệm qua nhiều năm giảng dạy lớp 5, ngay từ đầu năm học 2013-2014, qua 1 tháng theo dõi, tôi tiến hành ra đề khảo sát có nội dung liên quan đến đổi đơn vị đo diện tích . Tiến hành cho HS làm các bài kiểm tra theo từng dạng bài cụ thể. Sau khi kiểm tra 1 cách ngẫu nhiên, khách quan rồi chấm bài, tổng hợp và phân loại , tôi đã thu được kết quả khảo sát như sau: Không nắm Lẫn lộn đơn Nhầm lẫn chắc mối vị đo diện cách đổi Tổng Đổi thành Đổi khá quan hệ giữa tích với đơn giữa các số Dạng bài đổi đơn vị đo thạo thành thạo các đơn vị vị đo độ dài dạng bài bài diện tích đo kiểm Số Số Số Số Số Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ tra bài bài bài bài bài 25 Đổi từ đơn vị lớn sang 6 24% 10 40% 1 4% 3 12% 5 20% đơn vị nhỏ 25 Đổi từ đơn vị nhỏ sang 5 20% 8 32% 2 8% 5 20% 5 20% đơn vị lớn 25 Đổi từ 2 đơn vị đo sang 1 4 16% 10 40% 2 8% 6 24% 3 12% đơn vị đo 25 Đổi từ 1 đơn vị đo sang 2 3 12% 8 32% 3 12% 6 24% 5 20% đơn vị đo Với kết quả khảo sát như trên, tôi hết sức lo lắng, vì tỉ lệ học sinh đổi đơn vị đo diện tích chưa thành thạo, còn nhầm lẫm cách đổi của các dạng bài còn rất cao. Tuy nhiên với kinh nghiệm tích luỹ được qua giảng dạy của mình, tôi quyết tâm đi tìm các nguyên nhân, phân tích để đưa ra các biện pháp rèn kĩ năng đổi đơn vị đo diện tích cho học sinh một cách hiệu quả nhất. Bằng khảo sát thông qua các đề kiểm tra tự luận, trắc nghiệm, trao đổi với các giáo viên dạy giỏi và đặc biệt là trò chuyện với học sinh về hứng thú và khó khăn gặp phải khi học về đổi đơn vị đo diện tích, qua phân tích tôi thấy: việc học sinh chưa có kĩ năng đổi đơn vị đo diện tích là do 1 số nguyên nhân sau:
  5. 5 * Nguyên nhân: • Về giáo viên: - Mặc dù đã được tiếp cận với việc đổi mới phương pháp nhưng việc nắm bắt, vận dụng phương pháp dạy học mới của một số giáo viên vẫn còn gặp khó khăn. - Giáo viên chưa đầu tư thực sự vào việc nghiên cứu sâu bài giảng, lập kế hoạch bài dạy chi tiết, còn phụ thuộc khá nhiều vào tài liệu hướng dẫn. Nhiều giáo viên vẫn lúng túng trong việc thiết kế các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, ứng dụng cho học sinh để tạo cơ hội cho học sinh tự làm việc, tự trải nghiệm kiến thức; GV chưa dự kiến được những sai lầm học sinh thường gặp. - Là tuyến kiến thức khó dạy nên chưa được một số giáo viên chú trọng và quan tâm. - Ngại sử dụng đồ dùng trực quan trong các tiết dạy, ít sử dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho giờ dạy đạt hiệu quả cao nhất. • Về học sinh: - Do vốn hiểu biết, khả năng tư duy liên hệ thực tiễn còn hạn chế. Chú ý của học sinh chủ yếu là chú ý không có chủ định nên hay để ý đến cái mới lạ, cái trước mắt hơn cái cần quan sát. Tư duy chủ yếu là tư duy cụ thể còn tư duy trừu tượng mới đang dần dần hình thành nên học sinh rất khó hiểu được bản chất của phép đo đại lượng. - Một số đại lượng khó mô tả bằng trực quan nên học sinh khó nhận thức được. - Nắm bắt kiến thức, hình thành kỹ năng chậm. Trong thực hành còn hay nhầm lẫn do không nắm vững kiến thức: nhầm lẫn giữa đơn vị đo diện tích với đơn vị đo độ dài và đơn vị đo thể tích; chưa nắm chắc mối quan hệ giữa các đơn vị đo trong bảng đơn vị đo diện tích; do kĩ năng tính toán chưa thành thạo hoặc thiếu cẩn thận khi viết số nên dẫn đến sai kết quả đổi. - Nhiều học sinh chưa thực sự thích học tuyến kiến thức này, không ít em sợ học Toán, coi việc Đổi đơn vị đo là một công việc vất vả, căng thẳng. Sở dĩ như vậy là vì hứng thú học tập của học sinh còn hạn chế, các em chưa thấy được tính ứng dụng của tuyến kiến thức này vào thực tế cuộc sống hàng ngày. - Một số em học sinh có khả năng nhận thức từ trung bình trở xuống: chưa nắm vững kiến thức hình học ở lớp 1, 2, 3 nên khi lên lớp 5 sẽ càng khó khăn hơn trong việc tiếp thu Toán có nội dung hình học và đo lường.
  6. 6 Từ thực trạng trên, để nâng cao hiệu quả đổi đơn vị đo diện tích và tăng cường hứng thú học tập Toán cho học sinh, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “ Rèn kĩ năng Đổi đơn vị đo diện tích cho học sinh lớp 5”. 2. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN: A .BIỆN PHÁP CHUNG: Như chúng ta đã biết, các dạng bài tập về đơn vị đo lường ở lớp 5 được sắp xếp từ đơn giản đến phức tạp. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng đổi đơn vị đo diện tích cho học sinh trước hết giáo viên phải làm được những việc sau: 1- Tạo bước đà chuẩn bị để HS sẵn sàng và dễ dàng nắm bắt các kĩ năng đổi đơn vị đo diện tích: i. Khơi gợi được ngọn lửa đam mê học tập ở học sinh để các em không còn tâm lí sợ học về Đổi đơn vị đo diện tích nữa. Giáo viên giúp HS thay đổi tâm thế học tập từ lắng nghe thụ động sang chủ động. Muốn vậy, người giáo viên cần cần đồng cảm với những khó khăn, vướng mắc hoặc sai lầm của các em; không chê trách mà giúp đỡ, động viên, khích lệ. Bởi vì học trò cần 1 người thầy biết cách truyền cảm hứng. Nếu người thầy không tạo được cho học sinh ham muốn học tập thì việc dạy học cũng chỉ như việc đập búa trên sặt nguội mà thôi. Mà muốn kích thích được hứng thú học tập của học sinh thì người thầy phải biết cách tổ chức cho các em tự trải nghiệm thực tế thông qua hoạt động cá nhân( hoặc theo nhóm); hoạt động trên mô hình hình học và thực hành… Đồng thời, chú trọng tới việc tổ chức các trò chơi học tập mang tính trí tuệ, trò chơi xử lý tình huống trong học tập và trong cuộc sống tạo cho các em niềm say mê, tự tin, hứng thú trong học tập. Điều này phù hợp với quy luật nhận thức của con người: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng lại trở về thực tiễn. Qua đó, học sinh thấy được sự hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực của môn Toán đối với bản thân.
  7. 7 HS đang cắt ghép 2 hình tam giác bằng nhau thành hình chữ nhật để xây dựng công thức tính Diện tích hình tam giác. HS thực hành đo chiều cao của cây cảnh trong góc Môi trường.
  8. 8 HS thực hành đo chiều dài, chiều rộng, chiều cao của cái bàn học ở lớp HS thực hành đo đạc để tính chu vi, diện tích của các bồn cây.
  9. 9 HS thực hành về đo diện tích, thể tích khi làm các sản phẩm tái chế. Tổ chức cho HS tiếp cận với công nghệ giáo dục STEM. ii. Giúp học sinh củng cố lại những kiến thức có liên quan mà bị hổng: Tổ chức cho học sinh ôn lại lại những kiến thức có liên quan mà bị hổng từ lớp dưới như khái niệm, biểu tượng, cách tính: độ dài, chu vi, diện tích...để tạo nền móng cho việc rèn kĩ năng đổi đơn vị đo diện tích ở lớp 5 được thực sự vững chắc. Bởi vì nếu các em còn lơ mơ về các khái niệm có liên quan thì cho dù có hướng dẫn cho HS các kĩ năng đổi thì cũng chỉ như việc xây lâu đài trên cát. Có thể HS đổi đúng nhưng cũng chỉ là theo lối học vẹt mà không hiểu được
  10. 10 bản chất và cũng không biết tại sao lại đổi như thế. * Giúp học sinh củng cố biểu tượng về diện tích để biết so sánh diện tích và đổi đơn vị đo diện tích: - Chẳng hạn, giúp HS biết so sánh diện tích hai hình khác nhau: HS cắt 1 hình tròn màu vàng, 1 hình chữ nhật màu xanh rồi đặt hình chữ nhật lên hình tròn( như hình vẽ sau). HS quan sát được hình chữ nhật nằm hoàn toàn trong hình tròn và rút ra kết luận: Diện tích hình chữ nhật bé hơn diện tích hình tròn. - Dùng đồ dùng trực quan sinh động để học sinh có biểu tượng về 1cm2, 1 dm2, 1m2: + Cho học sinh dùng 2 tờ giấy thủ công có màu khác nhau để tự cắt: • 1 hình vuông có cạnh 1 cm để được 1 hình vuông có diện tích 1cm2 (ứng 1 ô vuông trong tờ giấy thủ công), • 1 hình vuông có cạnh 1dm ( tức 10 cm) để được 1 hình vuông có diện tích 1dm2 (ứng với 100 ô vuông trong tờ giấy thủ công), để có biểu tượng về 1cm2, 1dm2 , dễ dàng so sánh được: 1dm2 = 100cm2 1cm2 1dm2
  11. 11 1dm2 = 100cm2 + GV tổ chức cho các em tự cắt được 1 miếng bạt có diện tích 1 m2: Cho học sinh đặt hình vuông có diện tích 1dm2 vào góc của miếng bạt rồi dùng bút màu kẻ theo mép hình vuông đó, cứ làm như vậy cho đến khi đo hết diện tích của miếng bạt. Qua đó học sinh có thể nhận ra: 1m2 = 100dm2 - Tổ chức cho học sinh ứng dụng kiến thức về diện tích và đo diện tích vào thực tiễn cuộc sống thông qua hoạt động thực hành trải nghiệm sáng tạo để giúp HS phân biệt được diện tích với chu vi * Giúp học sinh phân biệt được chu vi và diện tích. Ví dụ : Hãy cho biết phát biểu sau đây của một học sinh là đúng hay sai và giải thích tại sao ? Một hình vuông có cạnh dài 4cm, một học sinh phát hiện một điều thú vị: - Chu vi của hình vuông: 4 x 4 =16. - Diện tích của hình vuông: 4 x 4 = 16. - Học sinh đó kết luận: Hình vuông này có chu vi bằng diện tích. - Sau khi tổ chức cho học sinh được tự do trao đổi, tranh luận tôi chỉ rõ cho các em thấy chu vi là đại lượng độ dài, còn diện tích là đại lượng diện tích, hai đại lượng này không thể so sánh được với nhau để giúp các em nhận ra phát biểu đó là sai. - Mặt khác, tôi cũng giúp các em hiểu rõ phép đo mỗi đại lượng. - Để đo chu vi hình vuông này, ta lấy đơn vị đo độ dài 1cm (đoạn thẳng có độ dài 1cm) và đặt dọc theo một cạnh, được 4 đơn vị độ dài ; vì hình vuông có 4 cạnh bằng nhau nên tổng độ dài của 4 cạnh xác định bằng phép
  12. 12 tính: 4 x 4. - Vậy chu vi hình vuông là 16 cm. - Để đo diện tích hình vuông này, ta lấy đơn vị đo diện tích 1 cm2 (hình vuông có cạnh 1cm) và đặt dọc theo 1 cạnh được 4 đơn vị diện tích: Vì hình vuông có 4 cạnh bằng nhau nên đặt được 4 hàng như thế, tổng diện tích của hình vuông được xác định bằng phép tính: 4 x 4 = 16 . - Vậy diện tích của hình vuông là 16cm2. Vì thế không thể nói hình vuông trên đây có chu vi và diện tích bằng nhau. * Giúp học sinh khắc phục những sai lầm trong suy luận: - Tôi đố các em : Trong lập luận sau đây của 2 bạn học sinh, ai nói đúng, ai nói sai và giải thích tại sao ? - Học sinh A nói: Hai hình có diện tích bằng nhau thì bằng nhau. - Học sinh B nói: Hai hình bằng nhau thì có diện tích bằng nhau. - Do nguyên nhân học sinh chưa hiểu bản chất khái niệm đại lượng và phép đo đại lượng, nhận thức còn cảm tính nên sẽ rất khó khăn, lúng túng trong cách nhận ra bạn nào nói đúng, bạn nào nói sai. - Để giúp đỡ các em, tôi đưa ra ví dụ rồi cho học sinh thực hành đo hoặc tính trực tiếp để các em tự đưa ra kết luận. Chẳng hạn, tôi dùng đồ dùng trực quan là các viên gạch men hình vuông có cạnh là 30cm để lần lượt ghép thành các hình a, hình b như các minh họa dưới đây rồi tổ chức cho hoc sinh tự đo, tự tính chu vi và diện tích của các hình sau để giúp các em nhận ra rằng: HS A sai, HS B đúng thông qua kiểm chứng: - 2 hình có diện tích bằng nhau nhưng chu vi lại khác nhau: - 2 hình có chu vi bằng nhau nhưng diện tích lại khác nhau.
  13. 13 - Thậm chí, ngay cả khi 2 hình có cả chu vi và diện tích bằng nhau chưa chắc đã là 2 hình bằng nhau. - Từ đó tôi giúp học sinh nắm chắc khái niệm về 2 hình bằng nhau: + 2 hình bằng nhau phải giống hệt nhau về hình dạng và bằng nhau về các kích thước. + 2 hình bằng nhau thì chắc chắn có chu vi bằng nhau và diện tích bằng nhau. Với cách tiến hành như trên, người GV sẽ giúp HS khắc phục được những sai lầm trong suy luận. Từ đó, học sinh dễ dàng phân biệt được chu vi với diện tích và nắm chắc cách tính dựa vào quy tắc và kết cấu hình chứ không phải bằng cảm quan. * Tập cho HS thói quen ước lượng về độ dài, diện tích : GV có thể gắn việc rèn kĩ năng này vào trong các giờ học trên lớp hoặc trong các giờ ngoại khoá: Ví dụ: HS dùng gang tay, sải tay để ước lượng chiều rộng, chiều dài cái bàn học, cái bảng, chiều cao của cái cây, dùng bước chân để ước lượng chiều dài của căn phòng, dùng diện tích của viên gạch men ước lượng diện tích của mặt bàn học, cái bảng lớp, nền phòng học, bồn hoa…. Sau đó, cho HS đo đạc, tính toán để kiểm tra độ chính xác của ước lượng. Qua đây, HS thấy được việc học Đổi đơn vị đo diện tích chính là để phục vụ việc đo đạc, tính toán về diện tích phục vụ cho cuộc sống của các em. 2- Hướng dẫn HS các kĩ năng đổi Đơn vị đo diện tích trên cơ sở vận dụng dạy học phân hoá để phù hợp với mức độ tiếp thu của từng đối tượng học sinh : Sau khi đã tạo được hứng thú học tập cho HS và giúp các em được củng cố lại các kiến thức nền tảng liên quan, tôi lần lượt hướng dẫn HS các kĩ năng đổi Đơn vị đo diện tích. Trong đó, đặc biệt vận dụng dạy học phân hoá đảm bảo
  14. 14 phù hợp với các nhóm đối tượng học sinh, tránh việc học sinh yếu thấy khó rồi sợ học Toán còn học sinh giỏi lại thấy quá dễ, cảm thấy nhàm chán. Như chúng ta đã biết, các dạng bài tập về đơn vị đo lường ở lớp 5được sắp xếp từ đơn giản đến phức tạp. Vì vậy muốn nâng cao chất lượng đổi Đơn vị đo diện tích học sinh trước hết giáo viên phải giúp trẻ nắm vững được các kiến thức và kĩ năng cơ bản sau : - Nắm vững tên đơn vị đo, thứ tự của các đơn vị đo diện tích trong bảng. - Nắm vững mối quan hệ giữa 2 đơn vị đo liền kề và giữa các đơn vị đo không liền kề nhau. - Luôn nhớ: Mỗi đơn vị đo diện tích ứng với 2 chữ số. - Khi chuyển đổi đơn vị đo cần nhớ: Chữ số hàng đơn vị bao giờ cũng gắn liền với tên đơn vị mà số đó mang. - Xác định được dạng bài và khi đã xác định được dạng thì biết tìm cách làm tương ứng để vận dụng vào làm bài. Muốn vậy, đòi hỏi người giáo viên phải phải căn cứ vào đặc điểm nhận thức của HS tiểu học, dự kiến được những khó khăn, sai lầm của các em để lựa chọn phương pháp hướng dẫn phù hợp với nội dung và từng đối tượng học sinh, giúp các em chủ động lĩnh hội kiến thức, năng động, linh hoạt trong việc luyện tập đổi đơn vị đo. Khi hướng dẫn các kĩ năng đổi đơn vị đo, người giáo viên phải thiết kế được các hình thức dạy-học khác nhau để tạo cho học sinh cơ hội được tự mình trải nghiệm, tự mình thao tác với các đồ dùng trực quan và được tự mình kiểm nghiệm lại tính đúng đắn của kiến thức đó trong thực tế. Việc học thông qua làm đã giúp các em phấn khởi, mạnh dạn, tự tin giải quyết vấn đề và có nhiều sáng tạo mới trong học tập. Các em biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tế, biết chia sẻ kiến thức đó với bạn và với mọi người xung quanh… B - NHỮNG BIỆN PHÁP CỤ THỂ: Qua nhiều năm công tác và tìm hiểu, tôi nhận thấy: với mỗi một loại bài tập đổi đơn vi đo diện tích thì đều có nhiều cách đổi khác nhau, trong đó tôi tìm ra và lựa chọn được những cách đổi hết sức đơn giản mà lại mang lại hiệu quả cao. Trong quá trình dẫn dắt học sinh, bằng các phương pháp và hình thức hợp lí tôi từng bước giúp học sinh tiếp cận và thực hành thành thạo tất cả các cách đổi và đặc biệt tôi vận dụng dạy học phân hoá, quan tâm tới từng đối tượng cụ
  15. 15 thể (học sinh khá giỏi, trung bình, yếu kém). Thông qua các cách làm này học sinh khá giỏi có thể đổi bằng nhiều cách khác nhau, phát huy được khả năng tư duy, các em sẽ có kĩ năng và thậm chí trở thành kĩ xảo; còn học sinh trung bình, yếu kém thì sẽ lựa chọn cho mình cách đổi phù hợp và đơn giản nhất đối với mình và dần dần có kĩ năng làm bài giúp các em thêm tự tin vào bản thân và tiến bộ trong học tập. Để giúp học sinh nhớ lâu và và thực hành tốt các bài tập cơ bản có liên quan đến đổi đơn vi đo diện tích tôi đã làm như sau: 1- Giúp HS thuộc tên và mối quan hệ giữa các đơn vị đo liền kề: Giáo viên giúp học sinh bằng cách yêu cầu các em: - Ghi tên các đơn vị đo độ dài và diện tích trong bảng theo tứ tự từ lớn đến bé vào vở đồ dùng mà tôi quy định: Sổ tổng hợp các công thức và cách giải: - Ghi chỉ số mối quan hệ trên các khoảng cách giữa 2 đơn vị đo độ dài và diện tích liền kề( để tránh nhấm lẫn giữa đơn vị đo diện tích với đơn vị đo độ dài) *Bảng đơn vị đo độ dài: x10 x10 x10 x10 x10 x10 km hm dam m dm cm mm *Bảng đơn vị đo điện tích: x100 x100 x100 x100 x100 x100 km2 hm2 dam2 m2 dm2 cm2 mm2 Có thể coi đây là loại đồ dùng trực quan đắc lực cho HS khi vận dụng vào việc chuyển đổi đơn vi đo diện tích. Đặc biệt là đối với HS có khả năng nhận thức chậm thì đây quả là một thượng sách. Trong tất cả giờ học có nội dung liên quan, tôi đều yêu cầu em nào cũng phải đưa đồ dùng trên ra nháp hoặc sử dụng đồ dụng học Toán tự làm để vận dụng. Trong thời gian đầu, các em coi đây là vật “bất li thân” khi học về đổi đơn vị đo diện tích. Sau đó, vì được nhìn nhiều, áp dụng nhiều nên các em dần thoát li khỏi vở nháp hoặc đồ dùng học tập và từng bước hình thành kĩ năng đổi trong trí não. Có nghĩa là: trong thời gian đầu, khi làm bài tập, học sinh nhận thức chậm luôn
  16. 16 luôn phải mở đồ dùng có ghi những nội dung trên để nhìn trực tiếp và làm bài vào vở. Thậm chí, khi kiểm tra học sinh làm bài, nếu thấy em nào không sử dụng đồ dùng trên, tôi nhắc nhở các em ngay (trừ HS đã đổi thành thạo). Làm như vậy để học sinh dễ nhớ và nhớ lâu. Dần dần, các nội dung ghi nhớ ấy như in sâu vào trong trí nhớ của các em thì không cần nhìn vào bảng đó cũng làm bài đúng. Khi lựa chọn cách này tôi đã dựa trên cơ sở đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học và đặc biệt là với học sinh yếu kém, đây là cách tốt nhất để giúp các em hiểu bài và giải quyết được các khó khăn khi chuyển đổi các đơn vị đo. Học sinh minh hoạ mối quan hệ giữa các đơn vị đo 2- Giúp HS không lẫn lộn giữa đơn vị đo độ dài và đơn vị đo diện tích: Tôi đã vận dụng cách “nói bằng lời lẽ thực tế” dễ hiểu để giúp học sinh ghi nhớ: mỗi đơn vị đo độ dài ứng với 1 chữ số; mỗi đơn vị đo diện tích ứng với 2 chữ số, bằng cách nhìn vào kí hiệu của từng đơn vị đo. Cụ thể là: - Các đơn vị đo độ dài, “trên đầu” không có chữ số nào nên mỗi đơn vị đo chỉ ứng với 1 chữ số (ví dụ: m, cm). - Các đơn vị diện tích, “trên đầu” có chữ số 2 nên mỗi đơn vị đo phải ứng với 2 chữ số (ví dụ: m2, dm2 ). Trong quá trình rèn kĩ năng cho học sinh, tôi hướng dẫn các em dùng cách nói khoảng cách để thay thế cho đơn vị đo (mỗi khoảng cách tương ứng với 1 đơn vị đo). Có nghĩa là: cứ mỗi khoảng cách giữa 2 đơn vị đo độ dài liền kề nhau thì tương ứng với 1 chữ số, còn cứ mỗi khoảng cách giữa 2 đơn vị đo
  17. 17 diện tích liền kề nhau thì tương ứng với 2 chữ số. Mặt khác, để học sinh vận dụng tốt trong từng giờ học có liên quan, nếu học sinh làm sai tôi dùng câu hỏi đàm thoại để khắc sâu cho các em: Kí hiệu của đơn vị đo diện tích có gì khác so với đơn vị đo độ dài? Vậy mỗi đơn vị đo diện tích ứng với mấy chữ số? Sau khi HS phân biệt được kí hiệu của đơn vị đo diện tích có chữ số 2 ở góc trên bên phải (VD: m2) thì học sinh sẽ biết là mỗi đơn vị đo diện tích tương ứng với 2 chữ số. Thường xuyên được củng cố như vậy nên dần dần các em rất ít sai về lỗi này. 3- Giúp HS không nhầm lẫn cách đổi giữa các dạng bài: Trong quá trình dạy tôi gợi ý học sinh nhận dạng của bài và tìm ra cách làm của từng dạng bài này. Tôi giúp các em tổng hợp và ghi nhớ được: - Đổi lớn ra bé: thường có các cách như: nhân, thêm các chữ số 0, điền chữ số vào vị trí tương ứng, dịch chuyển dấu phẩy sang phải (nếu số đã cho là số thập phân)… - Đổi bé ra lớn: thường có các cách như: chia, xoá các chữ số 0, điền chữ số vào các vị trí tương ứng, dịch chuyển dấu phẩy sang trái (nếu số đã cho là số thập phân)… Đối với học sinh tiếp thu chậm thì đây cũng được coi là 1 cách tối ưu nhất mà không thể thiếu trong khi làm các bài tập có liên quan. Một điều quan trọng nữa là, trong các cách làm thì cách làm nào dễ nhất tôi dành riêng cho nhóm học sinh tiếp thu yếu nhất và yêu cầu các em khi làm bài sẽ thực hành theo cách đó để tránh sai sót, sau đó mới khuyến khích các em làm theo các cách khác. Các biện pháp mà tôi vừa trình bày ở trên đã góp phần rất lớn giúp tôi thành công trong việc Rèn kĩ năng đổi đơn vị đo diện tích cho học sinh trong những năm qua. Có thể nói, nó chiếm tới 75% trong việc tạo nên thành công của tôi. 4- Hướng dẫn học sinh các kĩ năng đổi đơn vị đo diện tích ứng với từng dạng bài cụ thể: Khi hướng dẫn học sinh đổi đơn vị đo diện tích, giáo viên chỉ cần lưu ý học sinh về mối quan hệ của các đơn vị đo diện tích : Hai đơn vị đo liền kề thì hơn kém nhau 100 lần và mỗi đơn vị đo diện tích (mỗi khoảng cách giữa 2 đơn vị đo liền kề) ứng với 2 chữ số.
  18. 18 Vì 2 đơn vị liền nhau hơn kém nhau 100 lần nên khi đổi, ứng với mỗi khoảng cách thì viết thêm hay xóa bớt 2 chữ số 0 (đối với số tự nhiên) hoặc dịch chuyển dấu phẩy sang phải hay sang trái 2 hàng ứng với mỗi khoảng cách (đối với số thập phân). Hoặc khi xác định các chữ số tương ứng với từng đơn vị thì nhớ là mỗi đơn vị phải có đủ 2 chữ số. **Sau đây là các bước hướng dẫn chi tiết mà tôi đã áp dụng để hướng dẫn học sinh trong từng dạng bài cụ thể: Dạng 1: Đổi từ đơn vị lớn sang đơn vị nhỏ: Gồm có các tiểu dạng sau: 1 1. 41 m2 = ......... cm2 2. m2 = ......... cm2 2 3. 4,1658 m2 = ......... cm2 4. 4,3 m2 = ......... cm2 Dạng 1.1 : 1. 41 m2 = ......... cm2 Cách 1: Lập bảng: (Nhốt vào chuồng) (Dành cho HS nhận thức chậm) * Viết tên các đơn vị đo có liên quan theo thứ tự từ lớn đến bé vào bảng * Xếp các chữ số đã cho vào dưới tên đơn vị tương ứng. * Đếm từ trái sang phải, mỗi đơn vị với ứng 2 chữ số, nếu đơn vị nào thiếu thì viết thêm các chữ số 0. Ví dụ: Đề bài m2 dm2 cm2 Kết quả 41 m2 = ......... cm2 41 00 00 41m2 = 410000cm2 16m2 8dm2 = ….dm2 16 08 16 m2 8dm2 = 1608dm2 *Kết luận: - Đây là cách nhanh nhất và dễ áp dụng nhất. - Câu hỏi để khắc sâu cho HS nhớ cách làm: Vì sao mỗi khoảng cách phải được thêm 2 chữ số 0? (Vì mỗi đơn vị đo diện tích phải ứng với 2 chữ số). Đối với việc dùng bảng giáo viên cần hướng dẫn học sinh: + Xác định khung các đơn vị đổi của toàn bộ bài tập. + Xác định yêu cầu bài tập cần đổi ra đơn vị nào (mỗi đơn vị diện tích ứng với 2 hàng, cứ 2 chữ số hàng tiếp theo gắn với 1 đơn vị liền sau nó), nếu thiếu chữ số thì tiếp tục viết các chữ số 0 cho đến đơn vị cần.
  19. 19 Học sinh đổi đơn vị đo diện tích bằng cách kẻ bảng Cách 2: (Nhân liên tiếp với 100) (Dành cho HS nhận thức chậm) *Viết tên các đơn vị đo liên quan theo thứ tự từ lớn đến bé có dạng: x100 x100 x100 x100 x100 x100 km2 hm2 dam2 m2 dm2 cm2 mm2 * Xác định số khoảng cách tới đơn vị đã cho tới đơn vị cần đổi. * Xác định mối quan hệ giữa các đơn vị đo liền kề * Viết số đã cho vào dưới tên đơn vị tương ứng. * Dựa vào mối quan hệ trên để lập các phép nhân với 100. (cứ mỗi khoảng cách nhân với một số 100) Ví dụ: 41 m2 = ......... cm2 * Viết tên đơn vị có liên quan: m2 dm2 cm2 * Xác định từ m2 cm2 có 2 khoảng cách. * Viết số 41 vào dưới tên đơn vị tương ứng: x100 x100 41 m2 dm2 cm2 * Dựa vào mối quan hệ giữa các đơn vị đo và lập đơn vị đo như sau: m2 dm2 cm2 41 x 100 x 100 Vậy 41 m = 410000 cm2 2
  20. 20 Cách làm này rất thuận tiện cho những học sinh không nắm vững mối quan hệ giữa các đơn vị đo không liền kề nhau. Học sinh vận dụng đổi các đơn vị đo một cách dễ dàng Cách 3: (Nhân tương ứng với 100, 10000, 1000000) * Xác định mối quan hệ giữa đơn vị đã cho và đơn vị cần đổi. * Dựa vào mối quan hệ trên để lập phép nhân với 100,10000,1000000,.... Ví dụ: 41 m2 = ......... cm2 * m2 và cm2 hơn kém nhau 10000 lần: 1 m2 = 10000 cm2 * Học sinh dựa vào mối quan hệ đó và lập phép nhân tương ứng. 41 x10000 = 410000 Vậy 41 m2 = 410000 cm2  Cách 4: Nhẩm đếm theo đơn vị: Ví dụ : 41m2 = ......... cm2. * Đọc 41 m2, viết 41 chỗ chấm. * Liền sau m2 là dm2 nên viết thêm 2 chữ số 0 vào sau 41. (Vì mỗi đơn vị đo ứng với 2 chữ số). * Liền sau dm2 là cm2, viết thêm tiếp 2 chữ số 0 vào sau 4100. Ta có 41m2 = 410000 cm2 Lưu ý: Câu hỏi khắc sâu kiến thức: Vì sao ta viết 2 chữ số 0 vào mỗi đơn vị dm2 và cm2 ? 1 Dạng 1.2: m2 = ......... cm2. 2
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2