intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Rèn kĩ năng nhận biết biện pháp so sánh và nhân hóa cho học sinh lớp 3

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:22

35
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là rèn luyện để nâng cao năng lực cảm thụ văn học là một trong những nhiệm vụ cần thiết đối với học sinh Tiểu học. Có năng lực cảm thụ văn học tốt, các em sẽ cảm nhận được những nét đẹp của văn thơ, được phong phú hơn về tâm hồn, nói - viết Tiếng Việt thêm trong sáng và sinh động.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Rèn kĩ năng nhận biết biện pháp so sánh và nhân hóa cho học sinh lớp 3

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Như chúng ta đã biết, Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống  cộng đồng. Với cộng đồng, đó là công cụ để giao tiếp và tư duy. Đối với trẻ em,  nó càng có vai trò quan trọng. K.A.Usinxki đã chỉ  rõ: “Trẻ  em đi vào trong đời  sống tinh thần của mọi người xung quanh nó duy nhất thông qua phương tiện  tiếng mẹ  đẻ  và ngược lại, thế  giới bao quanh đứa trẻ  được phản ánh trong nó   chỉ thông qua chính công cụ này”… Và Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng  nói dùng trong giao tiếp chính thức của cộng đồng các dân tộc anh em trên đất  nước Việt Nam.  Bởi vậy, chương trình tiếng Việt từ lớp 1 đến lớp 5 ở  Tiểu học không chỉ  coi trọng dạy học tiếng Việt mà luôn coi nhiệm vụ bồi dưỡng năng lực cảm thụ  văn học cho học sinh là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết. Dưới sự hướng   dẫn của các thầy giáo, cô giáo những bài thơ, bài văn trong sách giáo khoa sẽ  đem đến cho các em bao nhiêu điều kì lạ và hấp dẫn. Tuy nhiên, muốn trở thành  một học sinh có năng lực cảm thụ văn học tốt, mỗi em phải tự giác phấn đấu và  rèn luyện về nhiều mặt. Để  có được năng lực cảm thụ văn học sâu sắc và tinh   tế, cần có sự  say mê, hứng thú khi tiếp xúc với thơ  văn, chịu khó tích lũy vốn   hiểu biết về  thực tế  cuộc sống và văn học; nắm vững kiến thức cơ  bản về  Tiếng Việt phục vụ cảm thụ văn học.  Rèn luyện để nâng cao năng lực cảm thụ văn học là một trong những nhiệm  vụ  cần thiết đối với học sinh Tiểu học. Có năng lực cảm thụ  văn học tốt, các  em sẽ cảm nhận được những nét đẹp của văn thơ, được phong phú hơn về tâm   hồn, nói ­ viết Tiếng Việt thêm trong sáng và sinh động. Trong quá trình giảng   dạy, tôi thấy Sách giáo khoa tiếng Việt lớp 3 hiện nay nói chung và phân môn  Luyện từ và câu nói riêng, còn một số điểm chưa hợp lý: mặc dù sách giáo khoa   đã chú trọng phương pháp thực hành nhưng những bài tập sáng tạo vẫn còn ít,   đơn điệu, kiến thức dạy học sinh còn mang tính trừu tượng, thiếu hình ảnh minh   hoạ  nên học sinh còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình lĩnh hội các kiến thức   mới. 1
  2. Cũng như các loại từ, học sinh không cần nắm được các khái niệm so sánh  hay nhân hóa. Tuy nhiên, các em có thể nhận biết được các biện pháp này dưới  dạng cụ thể, đồng thời bước đầu ý thức được hiệu quả của chúng đối với hoạt   động giao tiếp cũng như khi làm văn. Đối với học sinh lớp Ba, bồi dưỡng cho các em cảm thụ văn học thông qua  các biện pháp tu từ (so sánh, nhân hóa) là biện pháp tốt nhất. Vì so sánh có khả năng   khắc họa hình  ảnh và gây  ấn tượng mạnh mẽ  làm nên một hình thức miêu tả  sinh động, so sánh còn có tác dụng làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể, diễn đạt được  mọi sắc thái biểu cảm, bộc lộ tâm tư tình cảm một cách kín đáo tế nhị. So sánh  tu từ còn là phương thức bộc lộ tâm tư tình cảm một cách kín đáo và tế nhị. Như  vậy đối với tác phẩm văn học nói chung so sánh mang chức năng nhận thức và  biểu cảm. Nhờ những hình ảnh bóng bảy, ước lệ, dùng cái này để đối chiếu cái   kia nhằm diễn tả  những ngụ  ý nghệ  thuật mà so sánh tu từ  được sử  dụng phổ  biến trong thơ  ca, đặc biệt là thơ  viết cho thiếu nhi. So sánh tu từ  giúp các em  hiểu và cảm nhận được những bài thơ, bài văn hay, từ đó góp phần mở mang tri  thức làm phong phú về tâm hồn, tạo hứng thú khi viết văn, rèn luyện ý thức, yêu   quý Tiếng Việt giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt cho học sinh. Còn sử dụng   các biện pháp nhân hóa, nó biến sự  vật thành con người bằng cách gán cho nó  những đặc điểm mang tính cách người, làm cho nó trở lên sinh động, gợi cảm và  hấp dẫn hơn. Chúng như có hồn, như biết tâm sự, trò chuyện với chúng ta,và trở  thành những người bạn tuổi thơ  thân thiết của các em nhỏ. Nhân hóa giúp con  người thể hiện tình cảm một cách tế nhị, sâu sắc. Nhân hóa là một phương tiện  giúp con người bộc lộ tình cảm một cách kín đáo. Học sinh Tiểu học dùng nhân  hóa vừa để miêu tả đối tượng vừa để thể hiện tình cảm của mình đó là tình yêu  gia đình, tình yêu quê hương, đất nước,…Nhân hóa làm cho thế giới xung quanh  con người thêm sinh động, hồn nhiên, từ đó chúng trở  thành người bạn tâm tình  của trẻ thơ, giúp trẻ thơ dễ hiểu và nhận biết thế giới xung quanh. Nhân hóa có  tác dụng giáo dục phù hợp với tâm lí trẻ thơ, hoàn thiện nhân cách của các em. Chính vì vậy trong thực tế giảng dạy những năm qua, tôi nhận thấy: do khả  năng tư duy của các em còn dừng lại ở  mức độ  tư  duy đơn giản, trực quan nên  việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh, nhân hóa còn hạn chế, vốn kiến thức văn  2
  3. học của học sinh còn nghèo. Một số  em chưa có khả  năng nhận biết về  nghệ  thuật, học sinh chỉ  mới biết các sự  vật một cách cụ  thể. Nên khi tiếp thu về  nghệ thuật tu từ so sánh và nhân hóa rất khó khăn. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài   nghiên cứu  “Rèn kĩ năng nhận biết biện pháp so sánh và nhân hóa cho học   sinh lớp 3” 2. Tên sáng kiến Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh và nhân hóa cho học sinh lớp Ba 3. Tác giả sáng kiến ­ Họ và tên: Phạm Thị Minh Huệ ­   Địa   chỉ   tác   giả   sáng   kiến:   Trường   Tiểu   học   Hoàng   Lâu,   huyện   Tam   Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Số điện thoại: 0989478220 ­ Email: phamthiminhhue.c1hoanglau@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến Phạm Thị Minh Huệ ­ Giáo viên Trường Tiểu học Hoàng Lâu, huyện Tam     Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng Việt. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu Tháng 9/2018 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Nghiên cứu lý luận để nâng cao nhận thức của giáo viên Chúng ta biết rằng, trong thời đại bùng nổ  thông tin, lượng tri thức mà con  người đúc kết lại ngày càng tăng và tăng rất nhanh. Kết quả không phải tự nhiên  mà có, nó do một quá trình học hỏi tìm tòi tích lũy, gian khó mà ra. Ông bà ta có  câu “Văn ôn võ luyện”. Những kiến thức chúng ta có được mà không được mài  giũa, củng cố, bổ sung thì nó sẽ mai một đi. Chúng ta cũng vậy, giáo viên chứ có   3
  4. phải thánh đâu mà cái gì cũng biết, cũng nhớ. Do vậy, để giảng dạy cho học sinh  được tốt hơn, ngoài việc nghiên cứu  ở  sách giáo khoa tôi còn tìm hiểu thêm  nhiều sách tham khảo, sách nâng cao, cảm thụ văn học, …Tôi còn thường xuyên  lên mạng xem những bài giảng điện tử, tìm hiểu các phương pháp, cách dạy hay   và áp dụng đổi mới phương pháp dạy trên cơ  sở  phát huy tính tích cực của học  sinh. Không những có thêm phương pháp mới mà tôi còn tích lũy ngày càng nhiều   kinh nghiệm dạy học,  ứng xử sư phạm trong các tình huống khác nhau, rất cần  cho việc giảng dạy. Chúng ta đều biết rằng, học sinh Tiểu học rất hiếu động  nếu không sử dụng nhiều biện pháp dạy học thì học sinh sẽ nhàm chán, mất tập   trung. Mà mất tập  trung thì không thể  nắm chắc các kiến thức được. Vậy nên, giáo viên phải làm   sao  để lôi cuốn học sinh? Phương pháp và hình thức tổ  chức dạy ­ học rất đa dạng. Mỗi phương   pháp và hình thức dạy ­ học có mặt mạnh và hạn chế riêng. Do vậy, trong giảng  dạy tôi luôn áp dụng thay đổi các phương pháp, hình thức học tập phù hợp trong   từng bài (trong tất cả các môn) để lôi cuốn các em vui mà học. Ví dụ: ­ Phương pháp thảo luận nhóm Thảo luận là một cách học tập tạo điều kiện cho học sinh luyện tập kĩ năng  giao tiếp, khả  năng hợp tác và khả  năng thích  ứng với hoàn cảnh xung quanh.   Thông qua thảo luận, ngôn ngữ và tư duy của các em trở nên linh hoạt và sinh động hơn. Ví dụ bài: Nhân hóa ­ Ôn tập cách đặt và trả lời câu hỏi Ở đâu? Tuần 21 Khi dạy bài này, tôi cho các em thảo luận nhóm 4, đọc bài thơ, thảo luận  ghi vào bảng nhóm, làm xong dán lên bảng rồi chỉ định một học sinh bất kì lên   báo cáo kết quả thảo luận và cho các nhóm khác nhận xét, bổ sung.                             Cách nhân hóa Tên các sự vật  Các sự vật được  Các sự vật được tả  Tác giả nói với mưa thân  được nhân hóa gọi bằng bằng những từ ngữ mật như thế nào? Mặt trời ông bật lửa Mây chị kéo đến 4
  5. Trăng sao trốn Đất nóng lòng chờ đợi nói với mưa thân mật  như nói với một người  Mưa xuống bạn: Xuống đi nào, mưa ơi! Sấm ông vỗ tay cười Phương pháp này tôi áp dụng vào dạy các bài nhân hóa, so sánh ở các tuần:  4, 5, 7, 10, 12, 14, 18, 23, 25, 27, 33, 35. ­ Phương pháp thực hành Phương pháp thực hành nó rèn luyện kĩ năng và khả  năng giao tiếp tiếng  Việt cho các em. Ví dụ bài Tuần 28: Tìm xem cây cối và sự vật tự xưng là gì? Sau khi cho các em tìm được Cây lục bình tự  xưng là tôi, Chiếc xe lu tự  xưng là tớ. Tôi cho các em thực hành làm bài vào vở  và tìm thêm các câu văn, bài  thơ  hay  một câu em tự nghĩ ra có các sự vật tự xưng như người ở trong bài: + Tôi là Dế mèn, tôi đi chu du khắp thiên hạ… + Tớ là chiếc bút mực, cậu đừng vứt tớ đi. + Mình là sách cậu học, sao cậu làm nhàu nó. Những bài tập thực hành, tôi áp dụng thường xuyên trong tất cả  các tiết   dạy. 7.2. Phân tích phân phối chương trình Tiếng Việt lớp Ba ­ Để  giảng dạy tốt hơn, tôi nghiên cứu, phân tích các biện pháp tu từ  nhân  hóa, so sánh trong phân môn “Luyện từ  và câu” của chương trình lớp Ba. Toàn   bộ kiến thức lý thuyết thực hành về tu từ được đưa vào giảng dạy trong chương   trình lớp Ba ở phân môn “Luyện từ và câu” gồm các bài nói về mô hình sau: 7.2.1 So sánh 5
  6. ­ Mô hình 1: So sánh: Sự vật ­ Sự vật ­  Mô hình 2: So sánh: Sự vật ­ Con người ­  Mô hình 3: So sánh: Hoạt động ­ Hoạt động ­  Mô hình 4: So sánh: Âm thanh ­ Âm thanh + Thể  hiện  ở  các tuần: Tuần 1, tuần 3, tuần 5, tuần 7, tuần 10, tu ần 12,   tuần 15 và tuần ôn tập 18. 7.2.2.  Nhân hóa ­ Mô hình 1: Gọi tên các sự vật đó bằng những từ thường để gọi con người. ­  Mô hình 2: Gọi sự vật một cách gần gũi, thân mật. ­ Mô hình 3: Tả sự vật bằng những từ thường dùng để tả người. + Thể hiện ở các tuần: Tuần 19, tuần 21, tuần 23, tuần 25, tuần 28 và tuần   ôn tập 27. Từ  việc phân tích trên, tôi thấy rằng: Sách tiếng Việt Ba hiện nay mặc dù   đã chú trọng phương pháp thực hành nhưng bài tập sáng tạo còn ít, kiến thức   dạy học còn mang tính chất trừu tượng, thiếu hình  ảnh minh họa nên học sinh  còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình lĩnh hội các kiến thức mới. Từ nhận thức trên, tôi đưa ra các hình thức học tập để hướng dẫn học sinh.   Bất cứ bài tập nào cũng hướng dẫn học sinh theo các yêu cầu sau: Thứ nhất: Học sinh tìm hiểu mục đích của bài tập, rồi xem bài tập đang làm thuộc dạng bài tập nào. Tôi gợi ý hướng dẫn xem bài tập đó yêu cầu các em   nhận diện gì, hoặc tạo ra cái gì, dùng cái gì cho đúng quy tắc. Thứ  hai: Học sinh tìm cách giải bài tập qua việc phân tích các chỉ  dẫn làm   bài nêu trong đầu bài. Tôi hỏi để  các em nhận biết xem đề  bài yêu cầu làm gì,   làm việc gì trước, việc gì sau. Thứ ba: Đối với những bài tập khó, tôi cho học sinh quan sát hoạt động giải  mẫu một phần bài tập để học cách giải và từ đó giải tiếp. 6
  7. Thứ  tư: Học sinh tự nhận xét, đánh giá kết quả  bài làm để  các em nhớ  lại   một lần nữa kiến thức, kĩ năng đã học nêu trong bài tập và rút kinh nghiệm để  làm bài sau tốt hơn. Khi để học sinh tự đánh giá, tôi nêu các tiêu chuẩn yêu cầu   từng học sinh tự  đánh giá bài mình làm hoặc đánh giá bài của bạn theo tiêu  chuẩn. (Tôi giải thích cho học sinh rõ vì sao có đáp án đó). Ví dụ: Tuần 1: Bài tập 2 (trang 8): Tìm sự  vật được so sánh trong khổ  thơ  sau: “Ơ cái dấu hỏi                           Như vành tai nhỏ Trông ngộ ngộ ghê                   Hỏi rồi lắng nghe.” ­ Tôi mời học sinh đọc yêu cầu của đề, giải thích cho học sinh hiểu từ ngữ  chỉ  sự  vật. Học sinh gạch chân bằng bút chì từ  chỉ  sự  vật vào vở  bài tập. Học   sinh trình bày (Tôi hỏi vì sao để học sinh giải thích lí do lại sao em chọn từ đó).  Tôi đưa ra đáp án: Sự vật so sánh Từ so sánh Sự vật so sánh Cái dấu hỏi như vành tai nhỏ 7.3. Hướng dẫn học sinh nhận biết các biện pháp thông qua mô hình vừa   phân tích. Muốn học sinh của mình có một kĩ năng nhận biết biện pháp tu từ  vững  vàng, đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ  thuật khi hướng dẫn bài mới, dựa   vào các mô hình vừa phân tích. 7.3.1. So sánh. ­  Mô hình 1: So sánh Sự vật ­ Sự vật: Mô hình này cách nhận dạng rất dễ vì trong câu thường xuất hiện các từ so   sánh (như, là, giống, tựa, chẳng bằng...) Mô hình này có các dạng sau: A như B. A là B. A chẳng bằng B Dạng này đã xuất hiện  ở  các bài tập đầu tiên của chương trình và xuyên   suốt đến cuối chương. 7
  8. * Ví dụ: Tuần 1: Bài 2 (SGK trang 8): Tìm sự  vật được so sánh với nhau  trong các câu thơ, câu văn dưới đây: "Hai bàn tay em                               "Cánh diều như dấu á Như hoa đầu cành"                           Ai vừa tung lên trời" (Huy Cận)                                         (Phạm Như Hà) "Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch"                                                                                     (Vũ Tú Nam) Để làm tốt bài tập này, tôi cho học sinh phát hiện các từ chỉ sự vật được so   sánh, từ  đó các em sẽ  tìm được sự  vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu  văn trên. Tôi giải thích cho học sinh điểm tương đồng giữa các từ  chỉ  sự  vật  được so sánh. * Tôi sử dụng 2 phương án. Phương án 1: Gạch chân các từ  chỉ  sự  vật so sánh trong các câu trên bằng  bút chì vào VBT. Phương án  2: Tôi cho các em thảo luận nhóm đôi. Các nhóm thảo luận rồi   điền vào vở: Sự vật 1 Từ so sánh Sự vật 2 Hai bàn tay như hoa đầu cành Mặt biển như tấm   thảm   khổng  lồ Cánh diều như dấu “ á” Đại diện nhóm trình bày (Chỉ bất kì 1 em trong nhóm): + "Hai bàn tay em" so sánh với "hoa đầu cành" + "Mặt biển" so sánh với "tấm thảm khổng lồ". + "Cánh diều" so sánh với "dấu á" + "Dấu hỏi" so sánh với "vành tai nhỏ". Nếu tôi hỏi ngược lại là vì sao "Hai bàn tay em" được so sánh với "Hoa đầu 8
  9. cành" hay vì sao nói "Mặt biển" như  "tấm thảm khổng lồ"? Lúc đó, tôi  hướng học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều có điểm nào giống nhau.          Chẳng hạn: + Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa. + Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp. + Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á. ­ Tôi vẽ lên bảng "Cánh diều" và "Dấu á", cho học sinh quan sát tranh biển  và tấm thảm. + Trời mùa đông lạnh như cái tủ ướp lạnh. + Trời mùa hè nóng như bếp lửa lò nung. Tôi còn giới thiệu cho các em biết Câu bố tôi là công nhân (từ là có tác dụng  giới thiệu không phải từ dùng để  so sánh. Trong trường hợp này, học sinh phải   hiểu nghĩa của từ và của câu). ­ Mô hình 2: So sánh: Sự vật ­ Con người. Dạng mô hình so sánh này là: A có thể  là con người. B sự  vật đưa ra làm  chuẩn để so sánh. Ví dụ: Tuần 7: Bài tập 1/ trang 58: Tìm các hình  ảnh so sánh trong các câu  dưới đây:                 "Trẻ em như búp trên cành            Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan"                                         (Hồ Chí Minh)                 "Bà như quả ngọt chín rồi           Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng".                                      (Võ Thanh An) Với dạng bài tập này học sinh sẽ dễ dàng tìm sự vật so sánh với con người   nhưng các em chưa giải thích được "Vì sao?". Chính vì điều đó, tôi giúp học  sinh tìm được đặc điểm chung của sự vật và con người. Chẳng hạn: 9
  10. "Trẻ  em" giống như  "búp trên cành". Vì đều là những sự  vật còn tươi non   đang phát triển đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hy vọng. "Bà" sống đã lâu, tuổi đã cao giống như "quả ngọt chín rồi" đều phát triển   đến độ già có giá trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu và trân trọng. ­ Mô hình 3: So sánh: Hoạt động ­ Hoạt động. Mô hình này có dạng như sau: A x B. A như B. Ví dụ bài tập 2/ trang 98, tuần12: Trong các đoạn trích sau, những hoạt động  nào được so sánh với nhau: + "Con trâu đen lông mượt            Nó cao lớn lênh khênh      Cái sừng nó vênh vênh              Chân đi như đạp đất"                                                                     (Trần Đăng Khoa) + "Cau cao, cao mãi                      Như tay ai vẫy     Tàu vươn giữa trời                    Hứng làn mưa rơi"                                                                     (Ngô Viết Dinh) Dạng bài này, tôi giúp học sinh nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó các  em sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn: + Hoạt động "đi" so sánh với hoạt động "đập đất" qua từ "như". + Hoạt động “Vươn” của tàu lá dừa giống hoạt động “vẫy” tay của con   người. ­ Mô hình 4: So sánh: Âm thanh ­ Âm thanh: A là âm thanh thứ 1. B là âm thanh thứ 2. Ví dụ: (Tuần 14: Bài tập 2, trang 117): Tìm những âm thanh được so sánh   với nhau trong mỗi câu thơ, văn dưới đây: Với dạng bài tập này, tôi giúp học sinh nhận biết được âm thanh thứ  nhất   và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ "như". Chẳng hạn:                          +   "Côn Sơn suối chảy rì rầm                           Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai"                                                             (Nguyễn Trãi) 10
  11. Âm thanh của "Tiếng suối"  được so sánh với âm thanh của "Tiếng  đàn  cầm" qua từ "như". *Trong quá trình thực hiện tôi còn cho học sinh làm hai dạng bài sau: ­ Dạng bài tập sáng tạo. Mục tiêu: Giúp học sinh biết cách sử dụng biện pháp tu từ so sánh Dạng bài tập này có tính tư  duy, sáng tạo cao hơn, tuy nhiên, dạng bài tập  này trong sách giáo khoa rất ít. Nó tập trung ở cuối chương trình học kì I gồm 2   bài tập. Tuần 15: Bài tập 3, sách giáo khoa trang 126:  Nhìn tranh đặt câu Tôi đưa ra bài tập sau: Ví dụ: Quan sát từng cặp tranh rồi viết các câu có hình ảnh so sánh  Bóng đèn điện toả sáng như mặt trăng. Nụ cười của bé xinh như hoa hồng. Bản đồ Tổ quốc cong cong như hình chữ S. ­ Dạng bài tập điền khuyết. Tuần 15: Bài tập 4/ sách giáo khoa trang 126: Tìm những từ  ngữ  thích hợp  để điền vào chỗ trống: Công cha nghĩa mẹ được so sánh như..., như... Trời mưa, đường đất sét trơn như... Ơ thành phố có nhiều toà nhà cao như .... Ở mỗi câu, tôi hướng dẫn học sinh xác định sự vật đã cho để các em có thể  tìm nhiều từ cần điền. Ví dụ:         + như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn chảy, như sông như biển +  như bôi mỡ, xà phòng, đổ dầu... núi, những ngọn tháp... Các bài tập mang tính sáng tạo này rất ít nên trong quá trình dạy, tôi đưa  thêm những ví dụ tương tự hai dạng trên để học sinh khắc sâu kiến thức. 11
  12. Lá cọ tròn xòe ra nhiều phiến nhọn dài, trông xa như……… Những con ngựa lao nhanh trên đường đua tựa như………. Ánh mắt dịu hiền của mẹ là…………….. Đôi mắt bé tròn như…… Trưa hè, tiếng ve như….. Ngoài các mô hình so sánh trên, học sinh còn được làm quen với kiểu so   sánh: Ngang bằng và hơn kém. Kiểu so sánh này thường gặp các từ so sánh như:   Tựa, giống, giống như, không thua, không khác. (So sánh ngang bằng) và các từ  hơn, kém, thua, chẳng bằng (so sánh hơn kém). 7.3.2. Nhân hóa ­ Mô hình 1: Gọi tên các sự vật đó bằng những từ thường để gọi con người: Tuần 19: Bài 1 trang 8 sách giáo khoa: Đọc hai khổ thơ dưới đây và trả lời câu hỏi: Mặt trời gác núi                           Theo làn gió mát Bóng tối lan dần                           Đóm đi rất êm, Anh Đóm chuyên cần                   Đi suốt một đêm Lên đèn đi gác.                             Lo cho người ngủ.                                                                    Võ Quảng Tôi hướng dẫn các em tìm các từ chỉ sự vật, tìm các từ thường dùng để gọi người (anh), con vật nào được gọi như  gọi người (đom đóm). Từ  đó, dẫn   dắt học sinh đến kết luận: Con đom đóm trong bài thơ được gọi bằng “anh” là dùng   để gọi người, tính nết và hoạt động của đom đóm được tả bằng những từ ngữ,   tính nết và hoạt động của con người. Như vậy, con đom đóm đã được nhân hóa.  Tôi còn hướng dẫn cho các em tìm các ví dụ  trong các câu thơ  có các con vật  được gọi như gọi người. ­ Mô hình 2: Gọi sự vật một cách gần gũi, thân mật. Tuần 21: Bài 1, 2 trang 26, 27 sách giáo khoa   Chị mây vừa kéo đến                          Tớ là chiếc xe lu 12
  13.   Trăng sao trốn cả rồi                           Người tớ to lù lù   Đất nóng lòng chờ đợi                         Con đường nào mới đắp   Xuống đi nào mưa ơi !                        Tớ lăn bằng tăm tắp. Trong câu “Xuống đi nào mưa  ơi ! Tác giả  nói với mưa thân mật như  thế  nào? ­ Tôi gợi ý: Nếu là em, em sẽ  nói câu  ấy với ai? (ba, mẹ, ông bà hay bạn   thân) ­ Tương tự: Chiếc xe lu tự xưng là gì? Cách xưng hô ấy có tác dụng gì? Nếu là em, em sẽ xưng tớ với ai? Người bạn đó phải như thế nào? Từ  đó các em trả  lời đúng ý của cây hỏi: Chiếc xe lu tự  xưng là tớ. Cách   xưng hô  ấy có tác dụng làm cho ta cảm thấy chiếc xe lu giống như một người   bạn gần gũi đang trò chuyện thân mật với chúng ta. ­ Mô hình 3: Tả sự vật bằng những từ thường dùng để tả người. Bài:            Em thương Em thương làn gió mồ côi Không tìm thấy bạn, vào ngồi trong cây Em thương sợi nắng đông gầy Run run ngã giữa vườn cây cải ngồng. Từ nào là từ chỉ sự vật ? Từ nào chỉ đặc điểm của người ? Từ nào chỉ hoạt   động của người ? Vậy sự  vật nào đã được nhân hóa. Sau khi đã hoàn chỉnh các  câu hỏi, tôi cho các em làm bài tập vào vở bài tập. Sự  vật được   Từ  chỉ  đặc điểm   Từ   chỉ   hoạt   nhân hóa của con người động   của   con   người Làn gió mồ côi tìm, ngồi Sợi nắng gầy run run, ngã Em thấy làn gió và sợi nắng giống ai? Nối ý thích hợp ở cột B với mỗi sự  vật được nêu ở cột A. 13
  14. Gợi ý: Từ  mồ  côi thường dùng chỉ  ai? Từ  gầy thường dùng để  chỉ  những  người như thế nào ? A                                                              B Gần như 100% học sinh làm tốt các dạng bài tập này. Và từ  gợi ý trên, học sinh đã làm tốt câu hỏi tiếp theo là Tình cảm của tác  giả  bài thơ  dành cho những người này như  thế  nào? (Tác giả  bài thơ  rất yêu  thương, thông cảm với những đứa trẻ  mồ  côi, cô đơn; những người  ốm yếu  không nơi nương tựa.) 7.4. Tích hợp lồng ghép vào các phân môn học khác. Như chúng ta biết, kiến thức thì mênh mông vô tận mà mỗi học kì, các em  chỉ học các biện pháp tu từ này có mấy bài và mỗi bài chỉ có 1 hoặc nhiều nhất   là 2 bài tập. Nếu cứ học như thế này thì bao giờ các em mới có được một số vốn   từ hay để giao tiếp. Chính vì vậy, để các em có thêm một số vốn từ, tôi đã lồng  ghép “Luyện từ  và câu” vào trong các phân môn đã học, vừa sức với các em. 7.4.1. Tích hợp trong  phân môn Tập đọc Khi dạy Tập đọc tôi chú trọng cho các em luyện đọc, đọc và tìm hiểu nội   dung bài. Bên cạnh đó, tôi hướng dẫn các em tìm thêm các biện pháp tu từ  được sử  dụng trong bài Tập đọc. Ví dụ: Bài “Hai bàn tay em” Tìm câu văn có hình  ảnh so sánh: “Hai bàn tay em. Như  hoa đầu cành”.   Ngoài câu trên còn có hình ảnh so sánh nào nữa ? Em thấy sự vật nào, giống sự  vật  nào trong khổ thơ thứ ba “Răng trắng hoa nhài. Tóc ngời ánh mai” (So sánh ngầm không có từ so sánh). 14
  15. Bài “Ông ngoại” Câu có hình ảnh so sánh “Trời xanh ngắt trên cao, xanh như dòng sông trong,  trôi lặng lẽ giữa những ngọn cây hè phố. Bài “Nhớ lại buổi đầu đi học” “Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi   như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.” Bài “Cửa Tùng” Trong câu hỏi “Sắc màu nước biển Cửa Tùng có gì đặc biệt ?” sau khi học   sinh tìm đúng (Cửa Tùng có ba sắc màu nước biển. Bình minh mặt trời như  chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt.  Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều tà thì đổi sang màu xanh lục) tôi hỏi: trong   ý các em vừa tìm, ý nào có hình ảnh so sánh (Bình minh mặt trời như chiếc thau   đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt). Bài “Buổi học thể dục” có tới 7 câu có hình ảnh so sánh khác nhau. Đê ­ rốt ­ xi và Cô ­ rét ­ ti leo như hai con khỉ. Xtác ­ đi thì thở  hồng hộc,   mặt đỏ như chú gà tây. Ga­rô­nê leo dễ như không. Tưởng chừng cậu có thể vác   thêm một người nữa trên vai vì cậu khỏe chẳng khác gì một con bò mộng non.   Mặt cậu đỏ như lửa, mồ hôi ướt đẫm trán… 7.4.2. Tích hợp trong môn Tập làm văn Khi dạy Tập làm văn, tôi yêu cầu các em khi làm bài phải sử dụng các biện pháp so sánh và nhân hóa trong bài thì bài văn mới đạt điểm tối đa. Nếu bài văn   chỉ đầy đủ ý, có ý hay nếu không sử dụng các biện pháp trên thì cũng không đạt  điểm tối đa. Khi hướng dẫn làm bài, tôi hướng dẫn các em phải sử  dụng biện pháp đó   vào thời điểm nào thì thích hợp. Câu có hình  ảnh so sánh thì hơi dễ  nhưng câu có  hình  ảnh nhân hóa thì tương đối khó. Do vậy, tôi hướng dẫn các em tìm các sự  vật có thể  gán cho nó đặc điểm và hoạt động, …giống người để  đặt câu cho  đúng. 15
  16. Ví dụ bài: “Kể một buổi biểu diễn nghệ thuật” nên lồng nhân hóa vào thời  gian (Khi ông mặt trời vừa đi ngủ, em cùng các bạn đến sân trường để đón xem  buổi biểu diễn văn nghệ). Ví dụ bài: “Kể lại buổi đầu đi học” nên gán vào các sự  vật như cây cối, lá   cờ   (Hàng  cây   hai   bên   đường  dang   tay  chào   đón  em   đến  trường);  (Bác  cổng   trường hiền từ mỉm cười với em); (Cờ đỏ sao vàng reo vui trong gió); … Ví dụ bài “Kể về trận thi đầu thể thao” … Vũ Thị  Hương lao về  phía trước như  một mũi tên, bỏ  xa các vận động  viên khác giành tấm huy chương bạc. Cờ  đỏ  sao vàng tung bay trong gió chào  đón chị. Chị đã đem lại vinh quang cho Tổ quốc… 7.4.3. Tích hợp trong môn Tự nhiên và Xã hội Khi dạy các bài thuộc chủ đề xã hội Ví dụ: “ Họ nội, họ ngoại’’ Các em tham gia hoạt động 3:         ­ Đóng vai xử lý cách xưng hô và ứng xử giữa mọi người trong gia đình. ­ Câu hỏi tiếp theo Tại sao chúng ta phải yêu quý những người họ hàng của mình ? Sau khi hoàn thành hai việc trên tôi cho học sinh tìm  những câu tục ngữ, ca   dao, thành ngữ  nói về  tình cảm của những ngưòi thân trong gia đình. Học sinh  đại trà tìm tự  do. Học sinh năng khiếu, tôi yêu cầu cao hơn (có sử  dụng biện   pháp so sánh). Anh em như thể tay chân. Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần.                                            Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.                                            Những ngôi sao thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con. Khi dạy bài “Cây”; “Hoa”; “Quả”; “Chim”; “Thú”… tôi cho các em so sánh chúng có điểm gì khác nhau và giống nhau ở những điểm nào. 7.5. Sử dụng trò chơi học tập 16
  17. Ta biết rằng, trò chơi ai cũng thích. Trò chơi có sức cuốn hút đối với người,  bất kể lứa tuổi. Trong cuộc sống không thể thiếu các tổ chức, các hoạt động vui  chơi, ... Đưa trò chơi vào lớp học tức là biến việc học tập trên lớp thành một  cuộc chơi. Và qua việc tổ chức vui chơi giúp cho học sinh tiếp nhận kiến thức   một cách dễ dàng hơn, hào hứng hơn, giúp cho việc rèn luyện kĩ năng đạt hiệu  quả  cao hơn. Chính vì vậy mà ngoài lựa chọn các phương pháp trên, tôi thường  xuyên áp dụng trò chơi học tập vào trong giảng dạy cuốn hút các em, ... để  các  em không còn làm việc riêng, nghịch ngợm trong giờ học nữa. 7.5.1. Trò chơi: Em học ngôn ngữ Ví dụ bài “So sánh” tuần 1 bài 2 Đề bài: Tìm những sự vật được so sánh với nhau. Xếp các sự  vật được so   sánh với nhau thành từng cặp.               A                                                B Luật chơi: ­ Chơi theo nhóm ­ Phát cho mỗi nhóm một phiếu học tập có in sẵn đề bài. Các nhóm thảo luận, ghi kết quả vào phiếu, dán lên bảng. ­ Mỗi lần sắp xếp chỉ được hoán đổi hai thẻ chữ. ­ Cần đến ít lần hoán đổi mà vẫn sắp xếp đúng là thắng. 7.5.2. Ai tài nhân hóa (trò chơi này có thể áp dụng trong tất cả các tiết dạy) Ví dụ bài: Nhân hóa tuần 23 17
  18. Chia lớp làm hai đội, mỗi đội cử hai em làm trọng tài, khi có lệnh, trọng tài  sẽ nêu một sự  vật rồi chỉ em thứ nhất của nhóm 1. Em này có nhiệm vụ  phải nêu  được vế nhân hóa phù hợp với sự vật trọng tài vừa nêu ra. Nếu trả lời đúng thì em này   lại nêu một sự  vật chỉ  qua em của nhóm hai. Em nhóm hai nêu vế  nhân hóa.  Tương tự  như  vậy cho đến hết giờ  quy định. Nhóm nào có nhiều em trả  lời   đúng, nhóm đó thắng. Hai trọng tài của hai nhóm ghi điểm. Mỗi một bạn trả  lời  đúng được 10 điểm. Ví dụ: Vầng trăng ­ hiền dịu; Mặt trời ­ đạp xe qua núi; bông hoa ­ tươi  cười; chiếc bảng đen ­ buồn bã; cổng trường ­ hiền lành; hàng cây ­ nhảy múa; 7.5.3. Tạo hình ảnh so sánh Bài So sánh tuần 7: Phát cho nhóm 1 thẻ số chẵn, nhóm 2 thẻ số  lẻ, khi có  hiệu lệnh nhóm 1 lên gắn 1 thẻ chữ. Nhóm 2 phải gắn ngay một thẻ chỉ sự vật   được so sánh, rồi đọc câu thơ  đó lên. Cứ  như  vậy cho đến hết thẻ  chữ. Sau đó  ngược lại. ­ Gắn đúng và nhanh 1 thẻ được 5 điểm, sai thứ tự trừ 5 điểm, chậm sau 5   lần đếm trừ 5 điểm. 8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Không 18
  19. 10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác  giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần   đầu:  Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh và nhân hóa cho học sinh lớp Ba   là giúp học sinh nắm vững kiến thức, kỹ  năng về  so sánh và nhân hóa. Từ  đó  giúp các em mở mang tri thức, làm phong phú về tâm hồn, tạo hứng thú khi viết  văn, rèn luyện ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Góp phần giáo dục   học sinh tiểu học phát triển toàn diện.  Từ những việc đã làm, tôi đã thu được những kết quả học tập của các em   như sau:        Kết quả học tập của các em qua từng giai đoạn. Đầu năm Cuối kì 1 Mức đạt (đầu tháng 9) Số lượng % Số lượng % T 9 24,3% 12 32,5% HT 28 75,7% 25 87,5% CHT 0 0 0 0 Tổng số học sinh 37 37 Qua quá trình áp dung một số biện pháp như đã nêu ở trên, tôi thấy kỹ năng   nhận biết biện pháp tu từ  so sánh và nhân hóa của học sinh lớp Ba tôi dạy đã  được nâng lên đáng kể. Học sinh không những nhận biết mà còn sử  dụng tốt  biện pháp so sánh, nhân hóa góp phần đáng kể  vào việc viết văn và diễn đạt   bằng ngôn ngữ của học sinh. ­ Mỗi tiết Luyện từ  và câu gần như  100% các em đều hoàn thành trở  lên.  Các bài đạt hoàn thành tốt chiếm nhiều. ­ 100% các bài văn của các em sử  dụng 1, 2 câu có hình  ảnh so sánh, nhân  hóa. 19
  20. ­ Kết quả khảo sát Tiếng việt của các em tiến bộ qua từng đợt kiểm tra. ­ Qua đợt kiểm tra khảo sát chất lượng của  trường cuối học kì I lớp tôi có   12/ 37 em bài làm tốt. Dạy học biện pháp so sánh và nhân hóa cho học sinh tiểu học là một vấn đề  không mới nhưng nó thực sự  là một hướng đi cần thiết trong việc hướng dẫn   lĩnh hội, phân tích hiệu quả  sử  dụng của biện pháp nhân hóa trong môn Tiếng  Việt ở Tiểu học. Nhân hóa và so sánh được sử dụng nhiều trong các bài tập đọc,  trong các bài tập làm văn, nó luôn là cánh cửa mở ra cho các em bao điều mới lạ  trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Do vậy, dạy học sinh nắm được những  kiến thức về nhân hóa, so sánh, hiểu biết sâu sắc về nhân hóa, so sánh đó chính  là niềm đam mê nghề nghiệp của bản thân tôi. Chính vì vậy, sau khi áp dụng đề  tài này, tôi thấy, các em đã đạt những kỹ năng sau: ­ Chuẩn bị kĩ  bài trước khi đến lớp. ­ Học sinh tự  củng cố  vốn kiến thức của mình bằng cách đọc nhiều sách   báo phù hợp với lứa tuổi, xem băng hình, quan sát tranh... ­ Học sinh tích cực giao lưu trực tiếp với các bạn trong lớp, trong trường để  khắc sâu kiến thức. ­ Khi làm bài tập  học sinh đã đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu của bài,  phân biệt được chúng thuộc kiểu bài dạng nào rồi mới bắt tay vào làm bài. ­ Khi quan sát sự vật, biết quan sát thật tinh tế để tìm ra những điểm giống   nhau, những nét tương đồng. ­ Các em có thể nhận biết được các biện pháp này dưới dạng cụ thể, đồng  thời bước đầu ý thức được hiệu quả  của chúng đối với hoạt động giao tiếp   cũng như khi làm văn. Đúng như nhà văn Goorki đã từng nói: “Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối  với công việc ”.Vì vậy người giáo viên muốn có thành quả lao động tốt cần có  niềm say mê và tình yêu đối với công việc của mình. 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến  lần đầu 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2