Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Sáu giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới VNEN để nâng cao chất lượng dạy học ở Trường Tiểu học Vạn Thọ 1
lượt xem 2
download
Mục đích của đề tài này là xây dựng cơ sở khoa học về các giải pháp, biện pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN). Thay đổi cách làm, cách nghĩ của giáo viên, thay đổi cách học của học sinh, thay đổi cách nhìn nhận của cha mẹ học sinh. Phải thực sự đổi mới trong tổ chức dạy và học để người học thật sự là học, thật sự tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức một cách chủ động nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong trường tiểu học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Sáu giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới VNEN để nâng cao chất lượng dạy học ở Trường Tiểu học Vạn Thọ 1
- PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN VẠN NINH TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN THỌ 1 SÁNG KIẾN SÁU GIẢI PHÁP CHỈ ĐẠO TỔ CHỨC CÔNG TÁC DẠY HỌC THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI VNEN ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN THỌ 1 Tác giả: Võ Thị Hằng Năm học 2018-2019
- MỤC LỤC Nội dung Trang MỤC LỤC 1 I. ĐẶT VẤN ĐỀ 2 1. Lý do chọn đề tài 2 2. Lịch sử của đề tài 2 3. Mục đích nghiên cứu 3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 3 5. Giới hạn ( phạm vi) nghiên cứu 4 6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu 4 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 4 1. Cơ sở lý luận 4 2.Thực trạng 5 3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 6 4. Hiệu quả của đề tài 11 III. KẾT LUẬN 13 1. Đúc kết lại nội dung chính đã trình bày 14 2. Biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn 14 3. Kiến nghị 15 4. Hướng phát triển của đề tài 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
- I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Môi trường giáo dục luôn có tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người thông qua các mối quan hệ xã hội đa dạng. Trong nhà trường, học sinh được tiếp thu những tri thức khoa học, những kĩ năng cần thiết để hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp ban đầu của con người mới. Cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật của thế giới đang biến động từng giờ, từng phút đòi hỏi công tác giáo dục phải tích cực biến đổi, trong đó việc đổi mới phương pháp quản lý, phương pháp dạy học là tất yếu. Yêu cầu cần có những phương pháp góp phần tích cực để hoạt động quản lý giáo dục giảm được công sức, nâng cao hiệu quả quản lý và giảng dạy, tiết kiệm được nhiều thời gian, bảo đảm sự chính xác cao trong mọi hoạt động. Phương pháp giảng dạy và giáo dục ở các trường tiểu học của nước ta đã quan tâm đến việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên còn mang tính hình thức, đôi khi còn áp đặt, gò bó, chưa quan tâm lắng nghe tâm tư nguyện vọng của học sinh. Việc đánh giá, sửa sai cho học sinh còn có biểu hiện khắt khe, thiếu dân chủ, chủ yếu là giáo viên nhận xét, đánh giá. Bởi vậy học sinh còn có những khiếm khuyết về nhân cách như: rụt rè, thụ động, thiếu tự tin vào bản thân, không dám đề đạt ý kiến, không mạnh dạn thể hiện khả năng,... Quản lý hoạt động dạy học được xem là hoạt động trọng tâm trong quản lý trường học, vì dạy và học thực hiện theo chương trình, kế hoạch đã được xác định và diễn ra trong suốt năm học. Từ đó cho thấy vai trò của Ban giám hiệu trong việc quản lý hoạt động dạy học theo mục tiêu đào tạo là rất quan trọng. Quản lý hoạt động dạy học nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học để thực hiện chiến lược con người - nhân tố quyết định sự phát triển xã hội là bức thiết, là quan trọng. Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 là một trong những trường được nằm trong dự án của chương trình "Dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN)", điều đó cho thấy, cơ hội cho trường cũng cao nhưng thách thức cũng không phải là nhỏ. Bản thân với trách nhiệm là một người giáo viên phụ trách chuyên môn, tôi rất trăn trở, phải làm sao hoàn thành nhiệm vụ khi ngành giao phó thực hiện dạy học mô trình trường học mới (VNEN). Phải thực hiện mô hình này thành công và được xã hội chấp nhận là mô hình dạy học tiên tiến. Thay đổi cách làm, cách nghĩ của giáo viên, thay đổi cách học của học sinh, thay đổi cách nhìn nhận của cha mẹ học sinh. Phải thực sự đổi mới để người học thật sự là học, thật sự tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức một cách chủ động. Qua hơn 6 năm tham gia giảng dạy theo mô hình trường học mới (VNEN), bản thân đã có một số kinh nghiệm vì vậy khi được giao nhiệm vụ phụ trách chuyên môn tôi đã đúc rút kinh nghiệm thực tiễn và chọn đề tài nghiên cứu “Sáu giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới VNEN để nâng cao chất lượng dạy học ở Trường Tiểu học Vạn Thọ 1”. 2. Lịch sử của đề tài
- Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam (Dự án GPE-VNEN, Global Partnership for Education – VNEN viết tắt của từ Viet Nam Escuela Nueva) là một Dự án về sư phạm nhằm xây dựng và nhân rộng một kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục Việt Nam. Mô hình trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia từ những năm 1995-2000 để dạy học trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn, theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm. Mô hình này vừa kế thừa những mặt tích cực của mô hình trường học truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình, tài liệu học tập, phương pháp dạy – học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lí lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy – học… Từ năm học 2011-2012, dự án được triển khai tại Việt Nam, một số trường áp dụng dạy theo mô hình này và cũng có nhiều nghiên cứu về giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học theo mô hình VNEN trước đó như: - “Chỉ đạo tổ chức công tác dạy và học mô hình trường học mới (VNEN) ở trường tiểu học” của thầy Lê Công Khôi, Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, huyện Krông Ana. - “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN)”, tác giả Trương Thị Bích, Đại học Sư phạm Hà Nội. Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 tôi đang công tác cũng nằm trong số những trường áp dụng dạy theo mô hình trường học mới (VNEN) từ năm học 2012- 2013, cho nên nhiệm vụ đặt ra cho Ban giám hiệu nhà trường là phải chỉ đạo giáo viên toàn trường tổ chức dạy học đúng với tinh thần của mô hình này đặt ra. Với những kiến thức lĩnh hội được thông qua các lần tập huấn về mô hình này cùng với những kinh nghiệm tích lũy qua mấy năm giảng dạy và bản thân cũng tham khảo nhiều sáng kiến, đề tài nghiên cứu của các đồng nghiệp ở các trường dạy theo mô hình VNEN, từ đó đưa ra những giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình VNEN phù hợp với đơn vị mình. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài này là xây dựng cơ sở khoa học về các giải pháp, biện pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN). Thay đổi cách làm, cách nghĩ của giáo viên, thay đổi cách học của học sinh, thay đổi cách nhìn nhận của cha mẹ học sinh. Phải thực sự đổi mới trong tổ chức dạy và học để người học thật sự là học, thật sự tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức một cách chủ động nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong trường tiểu học. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới VNEN để nâng cao chất lượng dạy học ở Trường Tiểu học Vạn Thọ 1.
- - Nghiên cứu thực tiễn – thực trạng của giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới VNEN, chú ý đến những nguyên nhân dẫn đến chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới VNEN chưa hiệu quả. - Đề xuất những giải pháp khả thi qua việc tổng kết kinh nghiệm và nghiên cứu tư liệu. 4.2. Phương pháp quan sát Quan sát thái độ, sự tích cực, tiến bộ của giáo viên trong công tác giảng dạy; quan sát thái độ học tập của học sinh trong suốt quá trình nghiên cứu qua từng giai đoạn học của học sinh. 4.3. Phương pháp nghiên cứu tài liệu Tham khảo các tài liệu tập huấn về mô hình VNEN; tham khảo các đề tài, sáng kiến nghiên cứu về dạy học theo mô hình VNEN; tham khảo, nghiên cứu các tài liệu Hướng dẫn học, sách giáo khoa hiện hành, qua đó đối chiếu so sánh sự giống và khác nhau về kiến thức, kĩ năng, hình thức trình bày để có cách chỉ đạo giáo viên thực hiện giảng dạy có hiệu quả. 4.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu Căn cứ vào kết quả giảng dạy của giáo viên thông qua các tiết dự giờ, đánh giá xếp loại; kết quả học tập của học sinh qua các học kì trước và sau khi áp dụng các giải pháp chỉ đạo để đối chiếu, so sánh, từ đó đánh giá được mức độ hiệu quả của các giải pháp đã áp dụng. 5. Giới hạn (phạm vi) nghiên cứu - Nội dung nghiên cứu: Sáu giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới VNEN. - Đối tượng áp dụng: Giáo viên giảng dạy theo mô hình VNEN ở Trường Tiểu học Vạn Thọ 1. - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09/2017 đến tháng 11/2018. 6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu - Nghiên cứu nhiều về giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học có hiệu quả giúp cán bộ quản lý nhà trường quản lý tốt hoạt động dạy học trong nhà trường. - Giáo viên nâng cao được trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kĩ năng sư phạm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy cá nhân giáo viên, của nhà trường. - Nâng cao hiệu quả việc thử nghiệm mô hình trường học mới VNEN tại đơn vị. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận
- Từ trước đến nay, ai ai cũng nghĩ đi học là đến trường được thầy cô truyền thụ kiến thức mà thầy cô đã chuẩn bị sẵn, học sinh chỉ có việc lắng nghe, quan sát, ghi chép lại, thực hành theo khuôn mẫu mà thầy cô đã đưa ra. Để đổi mới cái nếp giáo dục vẫn tiến hành như một thói quen, thì điều trước tiên là phải có ý thức rõ ràng: Học là gì? Học là làm những việc gì? Học để đạt tới những sản phẩm gì? Khi đó, nhà sư phạm sẽ xác định được nhiệm vụ giáo dục là tổ chức sự phát triển tâm lý trẻ em, đưa các em đến trình độ cao nhất có thể đạt tới, thực nghiệm giáo dục là tìm tòi cách thức đúng nhất thực thi nhiệm vụ đổi mới giáo dục. Thực nghiệm giáo dục theo mô hình mới (VNEN) ở Việt Nam là tìm ra lối thoát cũ để tìm đến cái mới nhằm cải tiến nền giáo dục Việt Nam. Làm sao cho nền giáo dục nước nhà dần dần đuổi kịp với nền giáo dục các nước trong khu vực và thế giới. Thực nghiệm giáo dục theo mô hình trường học mới (VNEN) là nhường cho người học tự nghiên cứu, thực hành để chiếm lĩnh tri thức. Giáo dục theo mô hình mới (VNEN) là đưa giáo viên thoát khỏi cách làm cũ. Nhưng bằng cách nào? Bằng cách tìm ra hệ thống làm việc cho học sinh hoạt động và để các em tự làm ra sản phẩm giáo dục, là cái được kết đọng lại trong đầu óc mỗi em. Để nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường nói chung và trong trường tiểu học nói riêng, nhà trường phải có những kế hoạch, biện pháp tổ chức quản lý tốt nhất là kế hoạch quản lý việc dạy học. Với xu hướng “Dạy thật - học thật - chất lượng thật”, “dạy theo hướng phân hóa đối tượng” trong nhà trường hiện nay thì việc giảng dạy theo hướng chuyên sâu là vấn đề cần được khuyến khích và thực hiện tốt. Việc dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN) sẽ giúp cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh, đồng thời giúp cho người giáo viên nhẹ nhàng hơn trong khâu soạn giảng, có nhiều thời gian đầu tư nghiên cứu bài dạy. Thầy phải bắt đầu bằng những việc làm là tổ chức giờ học sao cho hiệu quả. 2. Thực trạng 2.1. Thuận lợi Việc tổ chức dạy học theo mô hình trường học mới cơ bản đã đi vào nề nếp. Ban chỉ đạo cấp trường đã bám sát các văn bản hướng dẫn của Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo để tổ chức thực hiện có hiệu quả. Giáo viên đã biết tổ chức tiết dạy theo đúng tinh thần VNEN để phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, tự tìm tòi, khám phá kiến thức của học sinh. Đã xây dựng được các hội đồng tự quản làm việc khá tích cực. Biết huy động sự tham gia của cha mẹ học sinh, của cộng đồng để trang trí lớp học và xây dựng các công cụ hỗ trợ lớp học. Học sinh đã quen dần với cách học mới, các em đã biết tự đọc tài liệu, tự tìm tòi, nghiên cứu và hợp tác, chia sẻ với các bạn trong nhóm để chiếm lĩnh kiến thức. Học sinh ngày càng mạnh dạn, tự tin và phát triển tốt các kỹ năng sống. Cha mẹ học
- sinh và chính quyền địa phương, các ban ngành đoàn thể đã tích cực hỗ trợ nhà trường. Giáo viên được tham dự tập huấn nhiều lần từ sở Giáo dục, phòng Giáo dục và cụm chuyên môn, được sự tư vấn thường xuyên các cộng tác viên của dự án. Môi trường giáo dục nhà trường đảm bảo, dân chủ, thân thiện, đổi mới các hoạt động giáo dục, đủ các điều kiện cho việc triển khai chủ trương thực hiện việc làm đổi mới của nhà trường. Đội ngũ giáo viên đa số còn trẻ, hăng say nhiệt tình trong công tác giảng dạy, hầu hết đều được đào tạo qua trường lớp, có tay nghề tương đối vững vàng. Đa số giáo viên có ý thức tổ chức kỷ luật trong lao động, có tinh thần trách nhiệm cao. Tập thể nhà trường đã xác định mục tiêu và hướng phấn đấu, ham học hỏi để nâng cao tay nghề và nghiệp vụ chuyên môn. Trường có 01 điểm nên rất thuận lợi cho việc giảng dạy và làm công tác quản lý. 2.2. Khó khăn Một số giáo viên chưa thật sự đổi mới về phương pháp dạy học theo mô hình mà đơn vị đã chọn. Vẫn còn đầu đó đan xen cách dạy truyền thống. Giáo viên mới ra trường còn bỡ ngỡ với mô hình dạy học mới, vì ở trường sư phạm giáo viên chưa được tiếp cận với mô hình dạy học này. Sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn chưa thật sự nhịp nhàng trong cách tổ chức lớp học. Học sinh chưa thật sự chủ động trong quá trình tự nghiên cứu tài liệu, phó thác trách nhiệm cho một số thành viên trong nhóm. Phụ huynh học sinh còn nhiều lo lắng, họ chưa tin tưởng về mô hình dạy học này. Một số phòng học diện tích chưa đủ rộng so với số lượng học sinh trên lớp nên việc sắp xếp bàn ghế theo nhóm còn chật chội, khó bố trí. Để giải quyết những vấn đề được đặt ra như trên, người quản lý phải có kế hoạch và những giải pháp cụ thể trong công tác quản lý nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ năm học cũng như trong nhiệm vụ quản lý việc dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN). 3. Các giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề 3.1. Chỉ đạo các tổ khối xây dựng kế hoạch chuyên môn của tổ bám sát kế hoạch chuyên môn nhà trường Trước hết, kế hoạch của chuyên môn nhà trường phải thật sự chặt chẽ phù hợp với thực tế của đơn vị, có lộ trình rõ ràng, mang tính cụ thể và tính chiến lược cao. Có tính dự báo được những thành công và những nguy cơ thách thức. Trong kế hoạch cần nêu lên việc củng cố lại bộ máy nhà trường ngay từ đầu
- năm học để giáo viên thấy được trách nhiệm của mình thực hiện nhiệm vụ tốt hơn. Công tác chuyên môn cần phải làm gì và đổi mới điểm nào, xây dựng phát triển cơ sở vật chất những phần nào để phù hợp với mô hình dạy học đang thực hiện. Sau đó đưa ra bàn bạc, thống nhất, trình kế hoạch lên Hiệu trưởng nhà trường duyệt sau đó thông qua Hội phụ huynh học sinh để cùng phối hợp thực hiện. Tiếp theo, chỉ đạo các tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch năm, tháng, tuần. Công việc chỉ đạo chuyên môn bắt đầu từ lập kế hoạch. Để lập được kế hoạch cần trải qua các hoạt động sau: - Ban giám hiệu nhà trường cụ thể hóa nội dung công việc cần thực hiện bằng kế hoạch năm, tháng, tuần theo trình tự thời gian nhất định. Công khai, bàn bạc dân chủ trong tập thể sư phạm, tập trung xây dựng hệ thống chỉ tiêu và các biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học (thông qua hội nghị cán bộ công chức viên chức, họp hội đồng sư phạm đầu tháng, sinh hoạt chuyên môn định kỳ...). - Kế hoạch hoạt động được thể hiện cả định tính và định lượng, phân công rõ ràng trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân. Quy định rõ về thời gian thực hiện, thời gian tổng hợp báo cáo kết quả. - Trong hội nghị hay các cuộc họp, Hiệu trưởng dự kiến nội dung công việc cần làm, thời gian và các giải pháp tổ chức thực hiện. Tiếp đến tập thể thảo luận, đưa ra những sáng kiến cá nhân, bổ sung thêm bớt một số nội dung, giải pháp phù hợp với thực tiễn hoạt động. - Bộ phận chuyên môn chỉ đạo các tổ chuyên môn, cá nhân xây dựng kế hoạch hoạt động (dài hạn, ngắn hạn) trên cơ sở nội dung, nhiệm vụ, hệ thống chỉ tiêu đã được hoạch định. - Đề ra phương hướng công tác và tính cụ thể của các vấn đề cần giải quyết. - Phân công trách nhiệm rõ ràng đối với từng người và sự phối hợp chặt chẽ sáng tạo giữa các giáo viên trong tổ khối. Việc lập kế hoạch năm, tháng, tuần bám sát vào kế hoạch chuyên môn nhà trường ở các tổ khối sẽ giúp cho giáo viên các tổ khối dễ dàng thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục được dễ dàng; bộ phận chuyên môn dễ theo dõi đôn đốc, nắm bắt tình hình giảng dạy và các hoạt động khác của giáo viên. 3.2. Chỉ đạo các tổ khối nghiên cứu bài học có hiệu quả, xây dựng ý thức tự học, tự rèn Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học giúp cán bộ quản lý, giáo viên trong công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ dạy học; xây dựng và rèn kỹ năng thiết kế kế hoạch dạy học phù hợp chuẩn kiến thức kĩ năng, đối tượng, điều kiện; kỹ năng tổ chức lớp học linh hoạt, áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực và dạy học nhằm phát triển tốt năng lực, phẩm chất học sinh… góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Ngoài ra còn giúp một số giáo viên thường lúng túng, mất bình bĩnh trước tập thể, đám đông, rèn kỹ năng kiềm
- chế, bình tĩnh, sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp tự tin hơn trong cuộc sống. Quan hệ giữa các đồng nghiệp trở nên gần gũi, có sự thông cảm, gắn bó, chia sẻ khó khăn, sẵn sàng giúp đỡ, lắng nghe, tôn trọng sự khác biệt, khiêm tốn học hỏi lẫn nhau và sống chân tình, cởi mở. Là giáo viên phụ trách chuyên môn nhà trường, bản thân thường xuyên theo dõi, đôn đốc các tổ khối thực hiện nghiên cứu bài học nghiêm túc, đầu tư có hiệu quả, không làm qua loa hay làm cho có. Để thực hiện có hiệu quả, trước hết phải giúp giáo viên hiểu rằng sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học cũng là hoạt động sinh hoạt chuyên môn nhưng ở đó giáo viên tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến người học như: Học sinh học thế nào? Học sinh đang gặp khó khăn gì trong học tập? Nội dung và phương pháp dạy học có phù hợp, có gây hứng thú cho học sinh không, kết quả học tập của học sinh có được cải thiện không? Cần điều chỉnh gì và điều chỉnh như thế nào? Yêu cầu đặt ra khi tổ chức nghiên cứu bài học là phải đảm bảo tiến hành đủ 4 bước: - Bước 1: Chuẩn bị bài dạy - Bước 2: Tiến hành dạy và dự giờ - Bước 3: Suy ngẫm, thảo luận về bài dạy - Bước 4: Áp dụng Bên cạnh đó, chuyên môn nhà trường đã làm tốt công tác bồi dưỡng cho giáo viên thông qua dự giờ thăm lớp và qua các buổi sinh hoạt chuyên đề. Chỉ đạo các tổ trưởng chuyên môn và những giáo viên có năng lực trong khối tăng cường dự giờ, giúp đỡ những giáo viên có năng lực giảng dạy còn hạn chế, những giáo viên mới vào hợp đồng chưa nắm bắt quy trình dạy theo mô hình VNEN. Đồng thời động viên, khuyến khích họ tích cực hơn trong công tác tự học, tự rèn. Trong các buổi sinh hoạt chuyên đề ở trường, ở tổ chuyên môn, người chủ trì tạo điều kiện để giáo viên được bày tỏ ý kiến và những băn khoăn, trăn trở của mình để được giải đáp. Với cách làm trên, nhà trường đã bồi dưỡng được một đội ngũ giáo viên có năng lực giảng dạy vững vàng. 3.3. Chỉ đạo giáo viên vận dụng một cách linh hoạt các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức lớp học theo đúng đặc trưng mô hình VNEN Để thực hiện thành công mô hình VNEN, hơn ai hết bản thân người giáo viên phải thực sự có mong muốn tạo ra những thay đổi, tập trung chú ý vào những thay đổi về chiến lược giảng dạy, yêu thương học sinh và tin tưởng rằng tất cả học sinh đều có tiềm năng thành công nếu được trang bị những kĩ thuật học tập đa dạng. Đổi mới phương pháp dạy học hiện hành đã phần nào phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên một số giáo viên đôi khi vẫn còn nặng về vai trò truyền thụ kiến thức. Một số bộ phận học sinh chưa mạnh dạn, tự tin tham gia vào quá trình học tập và các hoạt động giáo dục; kỹ năng sống hạn chế. Bởi vậy, khi thực hiện mô hình trường học mới, hơn ai hết bản thân người giáo viên phải tích cực đổi mới hoạt động sư phạm của mình với
- phương châm “Chuyển đổi từ dạy học truyền thụ của giáo viên sang tổ chức hoạt động tự học của học sinh, quá trình tự học, tự giáo dục là trung tâm của hoạt động giáo dục”. Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng tài liệu hướng dẫn học để tự học, tự khám phá; tổ chức cho học sinh hoạt động khám phá, phát hiện kiến thức, kỹ năng mới thông qua quá trình học tập mang tính hợp tác. Giáo viên chỉ hỗ trợ và hướng dẫn học sinh khi cần thiết. Giáo viên phải biết khuyến khích mọi cố gắng, nỗ lực và những tiến bộ dù là nhỏ nhất của học sinh để những học sinh vốn rụt rè, nhút nhát dần trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Chỉ đạo giáo viên tổ chức linh hoạt các hoạt động học tập của học sinh, không nhất thiết phải thực hiện theo logo trong tài liệu hướng dẫn học mà có thể điều chỉnh logo thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn có sự thống nhất của tổ chuyên môn, Ban giám hiệu nhà trường. Giáo viên phải dựa vào đối tượng học sinh và thực tế của lớp học để lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp. Ở mô hình trường học mới, học sinh không tiếp thu kiến thức một cách thụ động mà ngược lại các em chủ động làm việc độc lập với tài liệu, thao tác với các đồ vật, quan sát trực tiếp, phân tích so sánh và tương tác với các bạn cùng nhóm, tương tác với giáo viên và cộng đồng. Quá trình chiếm lĩnh kiến thức được khởi đầu bằng việc học sinh đọc và viết tên bài học, tiếp đến là việc đọc mục tiêu bài học - đây là việc đầu tiên của học sinh phải biết mình làm cái gì trong bài học này. Hoạt động cơ bản là quá trình tự trải nghiệm nghiên cứu tài liệu, bắt đầu từ cá nhân và trao đổi trong nhóm. Trình tự bài học đến báo cáo kết quả học tập của cá nhân và nhóm thể hiện tính độc lập tương đối của cá nhân và nhóm. Trong giờ học, giáo viên tổ chức cho các nhóm trưởng điều hành các nhóm hoạt động. Dưới sự điều hành của nhóm trưởng, các nhóm nghiêm túc học bài và hăng hái thảo luận mỗi khi có chủ đề đưa ra. Chính vì vậy, người giáo viên phải “tập huấn” cho nhóm trưởng về cách điều khiển hoạt động của nhóm. Nhóm trưởng phải biết phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong nhóm sao cho các bạn đều được tham gia, đều được bày tỏ ý kiến, đều được thể hiện. Tránh hiện tượng học sinh ngồi nói chuyện riêng hoặc không chịu khó suy nghĩ mà chỉ trông chờ vào giáo viên và các bạn. Đặc biệt, giáo viên phải biết huy động những học sinh có năng khiếu, học sinh hoàn thành tốt trong lớp để giúp mình hướng dẫn, hỗ trợ và kiểm tra, đánh giá các bạn khác. Với cách làm đó, chúng ta không còn bắt gặp hình ảnh cả lớp ngồi im lặng nghe thầy, cô giáo giảng bài nữa, mà thay vào đó là những nhóm học sinh ngồi thảo luận và làm các bài tập trong tài liệu theo yêu cầu. Qua đó, phát huy tính tích cực, chủ động, ý thức tự học, tự giải quyết vấn đề và tinh thần hợp tác, chia sẻ của học sinh. Học sinh ngày càng mạnh dạn, tự tin hơn rất nhiều. Không khí học tập của học sinh rất sôi nổi và thoải mái. 3.4. Chỉ đạo giáo viên dạy phân hóa đối tượng học sinh Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, bản thân luôn đôn đốc, chỉ đạo giáo viên dạy phân hóa đối tượng học sinh. Trong tiết học, nếu học sinh làm
- xong bài trước, giáo viên cần chuẩn bị những bài tập tăng cường, nâng cao để các em được nhận thêm bài tập nhằm phát huy năng lực học tập của học sinh. Nếu học sinh làm tốt giáo viên khen ngợi và tuyên dương trước lớp. Nếu học sinh không làm được giáo viên giúp học sinh giải quyết và không quên động viên, khích lệ học sinh. Có thể cho thêm bài tập tương tự để học sinh làm được, giúp các em thêm tự tin và hứng thú. Đối với những học sinh chưa hoàn thành các nhiệm vụ học tập, giáo viên có thể hướng dẫn và giáo nhiệm vụ cho học sinh trong nhóm giúp đỡ bạn hoặc chính giáo viên giúp đỡ các em kịp thời bằng cách đưa ra hệ thống câu hỏi gợi mở để học sinh tiếp thu được kiến thức bài học, tuyệt đối không nên làm lơ, bỏ qua hay giảng giải qua loa cho có. Đối với các tiết rèn, chuyên môn chỉ đạo giáo viên đặc biệt chú ý quan tâm từng nhóm đối tượng học sinh trong quá trình soạn giảng. Giáo viên lựa chọn, thiết kế các bài tập sao cho phù hợp với trình độ học sinh của lớp mình. 3.5. Chỉ đạo giáo viên phát huy vai trò của Hội đồng tự quản trong giảng dạy Lớp học là “hạt nhân” trong “Mô hình trường học mới tại Việt Nam”. Bàn ghế không kê theo kiểu truyền thống mà được bố trí lại để học sinh ngồi theo nhóm, phù hợp với sự tương tác giữa các bạn trong nhóm và giáo viên. Khác với trước đây, ban cán sự lớp do giáo viên áp đặt và hoạt động theo các yêu cầu của giáo viên. Trong mô hình VNEN, ban cán sự lớp được đổi mới thành “Hội đồng tự quản”. “Hội đồng tự quản” được thành lập là vì học sinh, do học sinh và các em được chủ động tự quản trong các hoạt động của lớp. Để có một “Hội đồng tự quản” theo đúng ý nghĩa của nó, tôi đã chỉ đạo giáo viên tổ chức học sinh xây dựng kế hoạch một cách rõ ràng. Kế hoạch bầu “Hội đồng tự quản” phải nêu rõ mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng tham gia, thời gian tiến hành, đặc biệt thành phần tham gia không thể thiếu đó là phụ huynh học sinh. Sau đó, giáo viên tổ chức cho các em tiến hành ứng cử, bầu cử. Học sinh được quyền ứng cử, bầu cử một cách dân chủ để chọn ra một “Hội đồng tự quản” chỉ đạo lớp hoạt động. Sau khi thành lập được “Hội đồng tự quản” giáo viên cho các em tự phân công nhiệm vụ. Các thành viên trong lớp được tự do tham gia vào các ban. Các em có thể ghi tên mình vào mảnh giấy hoặc các hình ảnh mà các em thích rồi dán vào ban mình đăng kí. “Hội đồng tự quản” cũng có thể được thay đổi trong năm học. Nếu hội đồng tự quản không làm tốt nhiệm vụ giáo viên có thể cho học sinh bầu lại. Mặt khác nếu hội đồng tự quản làm tốt, hết học kì 1 giáo viên cũng có thể cho bầu lại để cho nhiều học sinh có cơ hội được tập làm “lãnh đạo”. Những học sinh đã làm tốt rồi giáo viên khen ngợi và động viên các em làm cố vấn cho các bạn mới được bầu vào Hội đồng tự quản mới. Như vậy, nhiều học sinh được phát huy năng lực và sở trường của mình. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn Hội đồng tự quản thực hiện các nhiệm vụ của mình, rèn cho Hội đồng tự quản một số kỹ năng như: Kỹ năng giao nhiệm vụ, kỹ năng quan sát, kỹ năng hướng dẫn, nêu vấn đề, giúp đỡ, hỗ
- trợ,… Khi Hội đồng tự quản hoạt động, giáo viên phải là người theo dõi và giám sát, hỗ trợ kịp thời. Sau mỗi tuần làm việc, cuối mỗi tuần cần có tổng kết đánh giá và rút kinh nghiệm để từ đó các ban trong Hội đồng tự quản sẽ hoạt động tốt hơn. Đối với các em học sinh lớp 2, vì mới làm quen nên cách điều hành và làm việc theo Hội đồng tự quản các em sẽ không tránh khỏi bỡ ngỡ chính vì vậy bản thân tôi chỉ đạo cho giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn cho các em đi học tập thêm các anh chị ở lớp trên về cách điều hành hoạt động để từ đó rút ra bài học cho bản thân. 3.6. Chỉ đạo giáo viên thực hiện điều chỉnh tài liệu Hướng dẫn học Chất lượng dạy học phụ thuộc nhiều vào chất lượng tài liệu dạy học. Mặt khác, tài liệu chỉ có thể nêu ra một phương án cụ thể về kế hoạch bài học cho học sinh và giáo viên. Vì thế, nó không thể thích ứng cho mọi vùng miền và mọi đối tượng học sinh. Việc chỉ đạo và tổ chức cho giáo viên điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học vừa làm cho chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục tốt lên, vừa nâng cao năng lực nghiên cứu sư phạm, ý thức chủ động, sáng tạo của mỗi giáo viên. Vì vậy, chuyên môn nhà trường luôn có tinh thần chỉ đạo giáo viên nghiên cứu kỹ tài liệu hướng dẫn học, xem xét điều kiện thực tế của lớp, của trường, của địa phương để điều chỉnh cho từng bài dạy, từng tiết dạy cho phù hợp và hiệu quả. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học cần đảm bảo các nguyên tắc: Bảo đảm yêu cầu về chuẩn kiến thức và kĩ năng; phù hợp với học sinh; phù hợp với năng lực của giáo viên và các điều kiện của địa phương; phù hợp nguyên tắc, cấu trúc tài liệu theo mô hình VNEN. Mỗi giáo viên cần xây dựng bảng tiêu chí cho việc điều chỉnh tài liệu VNEN, phân tích tài liệu theo những tiêu chí này và tạo ra các thay đổi cần thiết trước khi học sinh được đọc tài liệu Hướng dẫn học. Như vậy, các hướng dẫn của giáo viên sẽ phù hợp với môi trường và nhu cầu của học sinh, quá trình giáo dục sẽ cuốn hút học sinh tham gia một cách tích cực hơn. Việc điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học có thể theo nhiều hướng khác nhau. Giáo viên có thể tăng hay giảm thời lượng cho mỗi hoạt động học tập; điều chỉnh yêu cầu (câu lệnh) của hoạt động; thay đổi, điều chỉnh ngữ liệu học; thêm mẫu thực hiện, thêm gợi ý, thêm nội dung phân tích mẫu, thay đổi đồ dùng dạy học, điều chỉnh hình thức lưu giữ kết quả hoạt động, sáng tạo các hoạt động ứng dụng,... Hoặc giáo viên có thể điều chỉnh hình thức tổ chức dạy học như: Điều chỉnh thành viên nhóm, thay đổi vai của từng thành viên trong nhóm; thay đổi tương tác thầy - trò, trò – trò. Nhiệm vụ giao cho mỗi thành viên cần được luân phiên thay đổi để mỗi học sinh có cơ hội trải nghiệm. 4. Hiệu quả của đề tài Trong những năm qua, Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 đã tích cực đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên về các mặt chuyên môn nghiệp vụ. Đến nay, nhận thức về tầm quan trọng của đổi mới công tác dạy học
- trong quản lý giáo dục, trong giảng dạy của cán bộ quản lý, giáo viên đã được nâng lên một bước đáng kể. Giáo viên đặc biệt là những giáo viên mới ra trường, lần đầu tiếp cận với mô hình VNEN đã hiểu rõ bản chất và nắm được quy trình tổ chức tiết dạy theo mô hình VNEN. Qua các tiết dự giờ giáo viên, bản thân nhận thấy giáo viên tổ chức tiết dạy một cách nhẹ nhàng, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực cũng như hình thức tổ chức hợp lí, lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn, giúp đỡ học sinh. Hội đồng tự quản hoạt động hiệu quả. Trong các tiết học, các ban làm rất tốt nhiệm vụ của mình, điều đó đã góp phần không nhỏ đến hiệu quả tiết dạy. Học sinh tích cực tham gia các họat động học tập. Các em được tiếp cận việc tổ chức hoạt động học tập theo nhóm, không bị áp lực “học vẹt” học lấy điểm. Học sinh tương tác với môi trường mà hình thành tri thức mới và hỗ trợ việc củng cố kiến thức, rèn luyện các kĩ năng cơ bản về mặt kiến thức. Sau khi áp dụng các giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới VNEN trong năm học 2017-2018 và ba tháng đầu năm học 2018-2019, chất lượng dạy học của trường cụ thể là ở các lớp học theo mô hình VNEN có những chuyển biến tích cực đáng kể sau: * Năm học 2017-2018: - Thành tích của giáo viên: + Tham gia Hội giảng giáo viên dạy giỏi cấp trường: đạt 05/05 giáo viên. + Tham gia Hội giảng giáo viên dạy giỏi cấp huyện: đạt 01/01 giáo viên. + Tham gia giáo viên chủ nhiệm giỏi cấp trường đạt: 04/04 giáo viên. + Tham gia giáo viên chủ nhiệm giỏi cấp tỉnh đạt: 01/01 giáo viên. + Tham gia Tổng phụ trách giỏi cấp huyện đạt: 01/01 giáo viên. + Đạt lao động tiên tiến : 14/14 giáo viên. + Đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở: 03 giáo viên. - Kết quả học tập từng môn học, hoạt động giáo dục của học sinh học theo mô hình VNEN từ khối 2 đến khối 5: + Hoàn thành chương trình lớp học: 144/144, đạt tỉ lệ 100%. + Hoàn thành chương trình tiểu học: 48/48 HS, đạt tỉ lệ 100%. + Mức độ hình thành và phát triển năng lực: Đạt trở lên: 144/144, đạt tỉ lệ 100%. + Mức độ hình thành và phát triển phẩm chất: Đạt trở lên: 144/144, đạt tỉ lệ 100%. - Học sinh đạt giải cấp huyện: 02 học sinh đạt giải Nhì, 01 học sinh đạt giải Ba Olympic Tiếng Anh cấp huyện.
- * Năm học 2018-2019 (tính đến thời điểm cuối tháng 11/2018): - Thành tích của giáo viên: + Tham gia Hội giảng giáo viên dạy giỏi cấp trường: đạt 07/07 giáo viên. + Tham gia giáo viên chủ nhiệm giỏi cấp trường đạt: 06/06 giáo viên. - Kết quả học tập từng môn học, hoạt động giáo dục của học sinh học theo mô hình VNEN từ khối 2 đến khối 5 đến giữa học kì 1: + Ở khối 2, khối 3 đánh giá thường xuyên không có học sinh chưa hoàn thành. + Ở khối 4, khối 5 kết quả kiểm tra giữa học kì 1 đối với môn Toán và Tiếng Việt như sau: Môn Tiếng Việt: Điểm dưới Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Khối Sĩ số 5 SL % SL % SL % SL % Khối 4 37 14 37,8 19 51,4 4 10,8 Khối 5 35 12 34,3 19 54,3 4 11,4 / / Môn Toán: Điểm dưới Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Khối Sĩ số 5 SL % SL % SL % SL % Khối 4 37 14 37,8 9 24,3 12 32,4 2 5,5 Khối 5 35 12 34,3 7 20 13 37,1 3 8,6 + Mức độ hình thành và phát triển năng lực: Đạt trở lên: 139/139, đạt tỉ lệ 100% + Mức độ hình thành và phát triển phẩm chất: Đạt trở lên: 139/139, đạt tỉ lệ 100% Từ những hiệu quả đạt được nêu trên đã góp phần thực hiện thành công đổi mới công tác quản lý, đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới phương pháp học tập của học sinh; từng bước hình thành ý thức tự học của học sinh dựa trên nguyên tắc “Thầy chủ đạo, trò chủ động” đã nâng cao chất lượng giáo dục một cách toàn diện đúng theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo và của lãnh đạo Ngành Giáo dục huyện Vạn Ninh. III. KẾT LUẬN
- 1. Đúc kết lại nội dung chính đã trình bày Qua hơn một năm áp dụng các giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới VNEN, tôi thấy có những chuyển biến rõ rệt: học sinh mạnh dạn, tự tin, linh hoạt, sáng tạo, tích cực hơn trong học tập và các hoạt động. Không khí học tập trong lớp tự nhiên, nhẹ nhàng, thân thiện. Giáo viên và học sinh tương tác với nhau nhiều hơn. Học sinh hứng thú tiếp nhận kiến thức. Các em được phát huy năng lực tự học, học sinh có nhiều cơ hội độc lập suy nghĩ, bộc lộ ý kiến riêng khi làm việc cá nhân và có nhiều cơ hội phát huy năng lực hợp tác khi học nhóm. Phát huy tốt vai trò của Hội đồng tự quản, nhiều em thể hiện được khả năng của mình khi điều hành các bạn. Khả năng giao tiếp, ứng xử của học sinh tiến bộ hơn nhiều. Học sinh mạnh dạn tham gia đánh giá quá trình học tập, rèn luyện của mình, của bạn. Một số học sinh có tính cách nhút nhát đã dần trút bỏ được sự tự ti và trở nên mạnh dạn, tự tin để thể hiện khả năng của bản thân mình. Cha mẹ học sinh đã hiểu được lợi ích từ mô hình trường học mới đối với con em họ và nhiệt tình hưởng ứng. Giáo viên trau dồi được nhiều kiến thức về chuyên môn, kĩ năng sư phạm, thành thạo và linh hoạt với cách tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh theo mô hình VNEN. Mô hình trường học mới Việt Nam - VNEN được đánh giá là “luồng gió mới” góp phần tích cực làm thay đổi tư duy trong dạy và học ở nước ta. Đây là kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại. Từ thực tế chỉ đạo và giảng dạy, tôi thấy vẫn có những khó khăn, vướng mắc về cơ sở vật chất, về quá trình giảng dạy của giáo viên, về khả năng học tập của học sinh. Tuy nhiên, những vấn đề trên không phải “một sớm, một chiều” là khắc phục được ngay mà đòi hỏi người giáo viên phải thật kiên trì, nhẫn nại, tích cực tự học, tự bồi dưỡng; luôn quan tâm, chia sẻ và động viên học sinh để các em tự tin học tập. Ban giám hiệu nhà trường phải tăng cường theo sát, chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ với phụ huynh và cộng đồng để nhận được sự hỗ trợ. Thực hiện tốt mô hình này là một đóng góp không nhỏ trong công cuộc đào tạo thế hệ trẻ có kỹ năng sống tốt, có đủ cả đức, trí, thể, mỹ cho tương lai đất nước. 2. Biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn Để thực hiện tốt các vấn đề đã được đề cập trong nội dung sáng kiến, bản thân tôi luôn xác định cho mình những biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn như sau : - Xác định rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ của một người phụ trách chuyên môn trong việc quản lý hoạt động dạy học trong nhà trường. - Xác định tầm quan trọng của việc tổ chức lớp học mà trong đó lấy học sinh làm trung tâm, các em tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua các hoạt động cơ bản và hoạt động thực hành. - Quán triệt giáo viên hiểu rằng những nội dung cơ bản của tài liệu “Hướng dẫn học” so với bộ sách giáo khoa hiện hành không có sự thay đổi về mặt nội dung kiến thức.
- - Chỉ đạo giáo viên xây dựng và rèn cho “Hội đồng tự quản” làm việc một cách hiệu quả, tích cực. - Chỉ đạo giáo viên trong quá trình giảng dạy luôn chú ý đến “tiến độ học” của học sinh, để từ đó có những biện pháp tổ chức cụ thể. - Luôn đôn đốc, nhắc nhở giáo viên không ngừng không ngừng học tập, bồi dưỡng, áp dụng các chuyên đề đổi mới phương pháp giảng dạy ở tiểu học, tìm tòi sáng tạo, thay đổi linh hoạt các biện pháp giáo dục, các hình thức tổ chức học tập, nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh. Ngoài ra giáo viên còn phải là người nắm vững cơ sở tâm lí học trong giảng dạy. - Áp dụng các giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới trực tiếp đến giáo viên một cách thường xuyên trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, trong các cuộc họp hay hội nghị của nhà trường và xuyên suốt cả năm học. 3. Kiến nghị Về chuyên môn: Cần tổ chức tập huấn, mở chuyên đề nhiều hơn về phương pháp dạy học các môn chuyên biệt theo mô hình VNEN. Công tác tư vấn về phương pháp dạy học mô hình này cần duy trì và đổi mới. Về cơ sở vật chất: Nhà trường cần tiếp tục đầu tư thêm nhiều thiết bị dạy học, tu sửa và xây dựng cơ sở vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu việc thực hiện dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN). 4. Hướng phát triển của đề tài Kết quả đề tài có thể được sử dụng trong quản lý chuyên môn, cụ thể là quản lý hoạt động dạy học ở các trường áp dụng dạy theo mô hình VNEN. Đồng thời chúng ta có thể tham khảo, vận dụng vào nghiên cứu các giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học ở các lớp, các trường dạy theo chương trình hiện hành. * Qua quá trình phụ trách chuyên môn, tôi đã nghiên cứu, đưa ra “Sáu giải pháp chỉ đạo tổ chức công tác dạy học theo mô hình trường học mới VNEN để nâng cao chất lượng dạy học ở Trường Tiểu học Vạn Thọ 1” và áp dụng vào trường tôi đang công tác. Kết quả cho thấy chất lượng dạy học của nhà trường được nâng lên rõ rệt so với những năm chưa áp dụng sáng kiến. Song vì trình độ có hạn, sáng kiến của tôi còn nhiều thiếu sót so với các đồng nghiệp. Rất mong ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp, sự chỉ đạo giúp đỡ của các cấp lãnh đạo ngành để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn ! Vạn Thọ, ngày 09 tháng 11 năm 2018 HIỆU TRƯỞNG Người viết Võ Thị Hằng
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tổ chức lớp học theo Mô hình trường học mới tại Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 2013. 2. Tài liệu tập huấn: Dạy học theo mô hình trường học mới, tập 1, tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 2013. 3. Hướng dẫn tổ chức sinh hoạt chuyên môn tại các trường thực hiện Mô hình trường học mới Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 2013. 4. Hướng dẫn sự tham gia của cha mẹ học sinh và cộng đồng trong Mô hình trường học mới Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 2013. 5. Sáng kiến “Chỉ đạo tổ chức công tác dạy và học mô hình trường học mới (VNEN) ở trường tiểu học” của thầy Lê Công Khôi, Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, huyện Krông Ana. 6. Đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN)”, tác giả Trương Thị Bích, Đại học Sư phạm Hà Nội.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2235 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 433 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 215 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 100 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 132 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 62 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn