intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Tạo hứng thú học Toán cho học sinh lớp Một

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

62
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này nghiên cứu để hiểu rõ hơn về hứng thú học Toán của học sinh lớp Một, từ đó tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao niềm say mê, tạo hứng thú học tập môn Toán cho học sinh để thực hiện tốt mục tiêu dạy học đã xác định.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Tạo hứng thú học Toán cho học sinh lớp Một

  1. 1. PHẦN MỞ ĐẦU: 1.1. Lí do chọn đề tài : Từng bước hình thành cho các em mọi hoạt động  ở  lớp, từ  thói quen học  tập, ý thức kỉ luật, thái độ giao tiếp với thầy cô, bạn bè, trong gia đình và ngoài  xã hội... rất nhiều điều cần quan tâm, trong đó mảng học tập là một mảng quyết   định hiệu quả giáo dục khi các em đang ngồi trên ghế nhà trường. Muốn các em  có thói quen hứng thú trong học tập cũng như trong sinh hoạt, biết ngăn nắp, gọn  gàng, khoa học trong từng hoạt động, người giáo viên phải uốn nắn, rèn giũa cho  các em ngay từ khi bước chân vào ngưỡng cửa nhà trường. Nếu ngay từ lớp Một   được rèn thói quen học tập một cách nghiêm túc và có hiệu quả thì ở các lớp sau   các em cũng sẽ  là những học sinh có thói quen học tập tốt, tạo bước đi vững   chắc cho các em trong việc học tập  ở các lớp trên và tạo tiền đề  cho việc rèn   luyện, phấn đầu thành người công dân có ích cho đất nước sau này. Hoạt động học là hoạt động cơ  bản, đầu tiên của học sinh Tiểu học, do   vậy cần đòi hỏi phương pháp tổ chức khéo léo của người giáo viên để cuốn hút   các em vào học tập. Đối với các lớp đầu cấp Tiểu học, nhất là lớp một, do đặc  điểm tâm lý lứa tuổi nên các em rất dễ  chán học tập. Đặc biệt nhiều học sinh  lớp Một rất ngại môn Toán vì môn Toán khô khan, không có những câu văn, câu  thơ  bay bổng, không có những ngôn từ  hoa mỹ  mà chỉ  có những con số, những  phép tính và một số bài phải tính toán rất phức tạp. Theo chương trình Toán hiện  hành thì môn Toán lớp Một, các em đã phải làm tính cộng trừ trong phạm vi 100   (thay vì trước đây, theo chương trình cải cách giáo dục thì chỉ  cộng trừ  trong   phạm vi 10) mà kĩ năng tính toán của các em lại chưa có. Hơn nữa, một bộ phận   học sinh chưa thích ứng với môi trường học tập và các em chưa thoát khỏi hoạt  động vui chơi là chính của các bậc học Mầm non. Do vậy mà người giáo viên   phải biết tổ  chức để  khơi dậy  ở  các em niềm hứng thú học tập, nhất là học   Toán. Vì những lẽ  đó mà tôi chọn đề  tài: “Tạo hứng thú học Toán cho học  sinh  lớp Một”. 1
  2.  1. 2. Điểm mới của đề tài: ­ Đề tài này nghiên cứu  để hiểu rõ hơn về hứng thú học Toán của học sinh  lớp Một, từ  đó tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao niềm say mê,   tạo hứng thú học tập môn Toán cho học sinh để thực hiện tốt mục tiêu dạy học  đã xác định. ­ Nghiên cứu các vấn đề lý luận có liên quan đến phương pháp tạo hứng thú  học tập cho học sinh. ­ Tìm hiểu hứng thú học Toán của học sinh lớp Một ở đơn vị mình. ­ Tìm ra các biện pháp khắc phục. 2
  3. 2.PHẦN NỘI DUNG:   2.1. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:     a. Thuận lợi – khó khăn:        * Thuận lợi: Được sự  quan tâm của PGD­ĐT và Ban Giám  hiệu cùng các đồng nghiệp  nhiệt tình giúp đỡ tôi về chuyên môn cũng như tinh thần. Giáo viên có tâm huyết, yêu nghề, chịu khó học hỏi. Sự  quan tâm của các cấp chính quyền địa phương; Ban đại diện cha mẹ  học sinh và phụ huynh của lớp. *Khó khăn:       Trong năm học 2019­2020 tôi được nhà trường phân công dạy lớp 1 với   sĩ số 28 học sinh, trong đó nữ 16 em.      Trình độ tiếp thu không đồng đều một số em thì tiếp thu nhanh còn một   số  em thì tiếp thu chậm,thậm chí có một số  em phát âm chưa chuẩn (nói chớt,   nói ngoọng,…)  dẫn đến chưa hứng thú học toán.         Một số  học sinh còn nhút nhát, sợ  sệt, chưa tự  tin trong học tập cũng   như giao tiếp . Ngoài ra, một khó khăn mà tôi gặp phải nữa là do điều kiện kinh tế    gia   đình khó khăn, nên đa số phụ huynh là những người làm việc nương rẫy, đi làm   thuê xa nhà,… nên sự quan tâm đến việc học của con em mình còn hạn chế. Hầu  như  phụ  huynh giao phó tất cả  việc học tập của con mình cho giáo viên. Có  những lúc tôi đã mời phụ huynh lên để trao đổi nhưng cứ vì lí do bận đi làm. 3
  4. “Thương trò như thể thương con”. Để giúp các em có thể theo kịp các bạn  và rồi “những biện pháp, hình thức dạy học nhằm giúp các em dễ dàng tiếp   thu, tạo hứng thú để các em khắc sâu kiến thức”  đã dần hình thành trong tâm  trí của tôi và tôi đã đưa vào dạy thử nghiệm trong các giờ học toán và sau đây là  nội dung của các biện pháp, hình thức dạy mà tôi đã áp dụng trong các giờ  học  toán ở lớp 1 các em tiếp thu bài, vận dụng thực hành vào bài đạt hiệu quả cao. b. Thành công – hạn chế: *Thành công:  Xuyên suốt quá trình nghiên cứu và công tác thực tiễn thành công lớn nhất   của đề tài là tiết dạy và học toán ở lớp 1 hằng ngày trở nên sôi nổi hơn, quan hệ  giữa cô và trò thêm phần gần gũi thân thiện hơn. Phần lớn các em cá biệt, thụ  động đã phần nào sôi nổi hẳn lên, không còn cảm giác lo sợ khi đến giờ học toán  nữa. Từ  đó đã khích lệ  sự  ham học phát triển trí tuệ, khả  năng tư  duy, giữ  gìn  được tâm hồn ngây thơ trong sáng của học sinh lứa tuổi Tiểu học. Góp phần làm  cho vốn hiểu biết của các em học sinh trở nên phong phú hơn, đam mê học toán  hơn, giúp các em tích cực hóa bộ môn này. Nhờ vậy mà chất lượng môn toán qua  các kì kiểm tra được nâng lên rõ rệt.  *Hạn chế: Một số  học sinh còn nhút nhát, sợ  sệt, chưa tự  tin trong học tập cũng như  giao tiếp nhất là đối với học sinh kỹ năng phát âm chưa chuẩn. Vấn đề tạo hứng  thú học toán cho học sinh lớp 1 vừa đơn giản lại vừa phức tạp. Đơn giản bởi  tâm lí lứa tuổi của các em vẫn còn ngây thơ, rất thích thú tham gia vào các hoạt  động trò chơi, nghe kể  chuyện hay đố  vui để  học một cách sôi nổi. Nhưng để  tiết dạy ­ học thành công đạt hiệu quả như mong đợi như mục tiêu đề ra thì đòi  hỏi người giáo viên phải làm sao kết hợp được hài hòa giữa hai hoạt động học  mà chơi ­ chơi mà học là một việc làm không hề đơn giản.  c. Mặt mạnh ­ mặt yếu : *Mặt mạnh: 4
  5.  Đề tài nghiên cứu “Kinh nghiệm về tạo hứng thú học toán cho học sinh lớp  Một” là một việc làm cần thiết, dựa trên cơ sở khoa học và lí luận thực tiễn, góp   phần vào việc tích cực hóa việc đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm   trung tâm và phong trào Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực trong  dạy ­ học hiện nay. Đề  tài đã đưa ra được một số  giải pháp, biện pháp cụ  thể  để tạo bầu không khí nhẹ nhàng trong các giờ học toán, góp phần cải thiện mối   quan hệ giữa thầy và trò, giữa trò và trò trở nên gần gũi thân thiện hơn. Học sinh   tự mình rút ra cách học, cách làm của mình, tự điều chỉnh sửa chữa những thiếu  sót của bản thân. Tập cho các em thói quen tự  đánh giá kết quá học tập thực  hành và giúp các em ôn tập tổng hợp hệ thống hóa, chuẩn bị  vốn kiến thức để  học lên các lớp trên. *Mặt yếu:   Hiện nay trong các tiết dạy ­ học toán phần lớn giáo viên có đầu tư  đổi   mới phương pháp nhưng vẫn còn dành nhiều thời gian vào việc cung cấp kiến  thức, lo truyền tải cho hết nội dung bài học trong sách giáo khoa mà ít chú ý đến  việc tạo các hứng thú học tập, hứng thú tham gia giải toán cho học sinh, điều đó   đã dẫn đến các tiết học toán vẫn thường trở nên khô khan, nặng nề. Một số học   sinh còn thụ  đông, thiếu kiên trì trong quá trình thực hành, chưa chủ  động tích   cực trong việc tìm tòi, khám phá các kiến thức toán học và hợp tác cùng bạn bè   để  cùng nhau tiến bộ  nên chất lượng học tập của các em không được cao và   đồng đều. Để phục vụ tốt cho vấn đề nghiên cứu, tôi đã tiến hành theo dõi hoạt  động học của học sinh, trong tiết dạy bài mới tôi không đưa ra thêm các câu hỏi  để tạo hứng thú, giúp học sinh tích cực tư duy khám phá kiến thực bài, bên cạnh  đó tôi quan sát để thu thập số liệu, kết quả như sau: *Thống kê kết quả khảo sát, tôi đã thu được kết quả như sau: Số   học   sinh   được Số học sinh đam mê Số học sinh chưa Thời gian khảo sát học Toán thích môn Toán Đầu năm học 28 10 18       5
  6.  Qua kết quả khảo sát ở 28 em học sinh lớp 1 cho thấy chất lượng môn toán  không đồng đều số  học sinh ham học toán còn ít, học sinh chưa đạt chuẩn còn  tương đối nhiều. Chủ  yếu tập trung vào các em có hoàn cảnh gia đình kinh tế  khó khăn, những em trầm tính, ít sôi nổi, luôn thụ động trong mọi công việc, đặc   biệt là gia đình ít quan tâm, động viên khích lệ các em học tập. d. Các nguyên nhân và các yếu tố tác động:  *Nguyên nhân từ phía giáo viên: ­ Tâm lí chung của giáo viên khi lên lớp là “gồng mình” truyền tải cho hết   nội dung, yêu cầu của mỗi tiết Toán, vừa dạy vừa lo hết giờ, ít tổ chức trò chơi  trong tiết học cho học sinh. Do đó quên để ý xem học sinh của mình có hứng thú  hay không? Có đam mê,  thích thú  khi tiếp thu những kiến thức mà mình đang  giảng không ? ­ Một tồn tại nữa là mỗi khi có người dự  giờ, người dạy thường tạo ra   những động tác, việc làm mang tính hình thức, chăm gọi những học sinh đạt  chuẩn kiến thức trả lời cho lưu loát nhanh gọn để rồi quên đi đối tượng học sinh   chưa đạt chuẩn kiến thức. Nhưng chính các em này mới cần được quan tâm giúp  đỡ nhiều nhất.  ­ Chưa phát huy hết vài trò trung tâm của học sinh, ngại đổi mới phương  pháp dạy học, chưa là người bạn, người thầy  ở bên trò khi chúng gặp khó khăn  hay có những niềm vui nho nhỏ, chưa tạo được môi trường học tập hứng thú.  ­ Chưa thực sự đầu tư  và nghiên cứu để  tổ  chức được nhiều trò chơi khác  nhau để cho tất cả mọi đối tượng học sinh đều được tham gia. ­ Việc đánh giá thường xuyên chưa kịp thời  *Nguyên nhân từ phía phụ huynh và học sinh: ­ Một nguyên nhân khá quan trọng cần nhắc đến là hầu hết gia đình các em  làm nông, suốt ngày ba mẹ  “ Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, “ Một nắng  hai sương” lo công việc làm ăn nên việc quan tâm kèm cặp cho con cái đôi lúc   còn hời hợt. 6
  7. ­ Mặt khác, do khả năng tư duy học Toán ở một số bộ phận học sinh còn có  phần hạn chế, hạn chế này cũng xuất phát từ chỗ các em  ngại giao tiếp, tính sợ  sệt chưa thực sự mạnh dạn bởi các em vừa ở độ tuổi mẫu giáo mới lên (Độ tuổi   mà chỉ có hoạt động vui chơi là chính) chưa quen với hoạt động học tập. Để  khắc phục tình trạng đó, tôi đã trăn trở  rất nhiều, suy nghĩ, nghiên cứu  và tìm ra biện pháp giảng dạy nhằm tạo sự hứng thú học Toán cho học sinh. Sau   đây tôi sẽ trình bày các biện pháp đã thực hiện nhằm “ TẠO HỨNG THÚ HỌC  TOÁN CHO HỌC SINH LỚP MỘT”. 2.2. Nội dung và hình thức của giải pháp: a Mục tiêu của giải pháp: ­ Với phương hướng đổi mới phương pháp dạy học của chúng ta hiện nay  là “Lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học   sinh”.  “ Thầy thiết kế, trò thi công” có tác dụng rất lớn đối với học sinh, tạo điều   kiện tối đa để phát huy vai trò chủ thể của người học. Vì thế mà việc xây dựng  một số biện pháp tổ chức dạy học nhằm kích thích hứng thú học Toán cho học   sinh lớp 1 là một công việc cần thiết nhất hiện nay của người giáo viên, với  những dẫn dắt nhằm mục đích để học trò chủ động tìm ra trí thức và chiếm lĩnh  trí thức, nhằm góp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học, nâng   cao chất lượng giáo dục, giúp cho học sinh chủ động tìm hiểu phương pháp giải  các bài toán chính xác, khoa học, hiểu nội dung kiến thức một cách sâu sắc hơn.   Trong các tiết dạy – học ở lớp 1 nói riêng, đặc biệt là các biện pháp tổ chức, khi   giáo viên dạy bình thường không chú trọng vào việc xây dựng các biện pháp kích   thích hứng thú cho học sinh thì tiết dạy luôn bị  gò bó, khô khan, ít sôi nổi, hào  7
  8. hứng, học sinh thiếu tích cực trong việc tham gia lĩnh hội kiến thức, từ đó chất   lượng học tập đạt hiệu quả  thấp và không đồng đều. Ngược lại trong các tiết   dạy khi giáo viên có chú trọng xây dựng biện pháp kích thích hứng thú học Toán   cho học sinh thì nội dung của bài học được giáo viên truyền tải tới học sinh sẽ  nhẹ nhàng, tiết dạy không còn rời rạc, học sinh tích cực hơn, hứng thú hơn, hiệu   quả tiết dạy đạt cao hơn. b. Nội dung và cách thực hiện giải pháp:  Phải sáng tạo trong cách tổ chức hoạt động dạy học, không hoàn toàn phụ  thuộc sự hướng dẫn ở sách giáo viên (SGV) và tổ chức cho  học sinh hoạt động  với bộ đồ dùng học toán để tìm ra kiến thức: ­  Tuy nhiên SGV được Bộ  giáo dục ban hành với mục tiêu là người bạn,  người cố  vấn   để  giáo viên tham khảo trong quá trình soạn bài, lập kế  hoạch   dạy học nhưng theo tôi thì phần một của sách giáo viên (phần viết về mục tiêu   cần đạt của từng bài) thì đảm bảo còn phần hai (Phần các hoạt động dạy học ) thì nhiều tiết chưa phù hợp. Do vậy, người giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ nội  dung bài dạy  ở  sách giáo khoa, phải căn cứ  vào tình hình cụ  thể  của lớp mình  phụ trách để đề ra cách tổ chức các hoạt động dạy học cho phù hợp, không hoàn   toàn lệ thuộc vào sự hướng dẫn của sách giáo viên để tránh sự nhàm chán ở học  sinh. Chẳng hạn, với các bài học về  các bảng tính cộng, trừ  thì sách giáo viên  xây dựng theo quy trình sau: ­ Giáo viên biểu diễn trực quan đồng thời yêu cầu học sinh thực hành để  tìm ra phép tính đầu tiên. ­ Tiếp theo là giáo viên yêu cầu học sinh đặt đề  Toán dựa vào kênh hình ở  sách giáo khoa và tìm ra kết quả.  ­ Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh nêu phép tính.  ­ Giáo viên viết phép tính lên bảng.  ­ Các phép tính tiếp theo cũng được thực hiện tương tự  như  thế  cho đến   hết bài và những bài dạy về các bảng cộng trừ đều được SGV xây dựng tương  tự. Ta thấy rằng đa số các phép tính cộng trừ được hình thành thông qua các câu   8
  9. hỏi và câu trả lời lặp đi lặp lại của giáo viên và học sinh, như vậy sẽ gây nên sự  nhàm chán, căng thẳng trong lớp học nên không có bất cứ  sự  hứng thú nào từ  phía học sinh. Rõ ràng, với cách tổ chức như SGV đã nêu ở một số bài dạy như  trên thì sẽ hạn chế  lòng yêu thích học Toán của học sinh vì các em không được  tự mình tìm tòi ra kiến thức bài học, không rèn luyện được kĩ năng tính toán. Đặc  biệt là: Chưa phát huy hết tác dụng của bộ đồ dùng học Toán đã có ở  học  sinh.  Để  tạo hứng thú học toán cho học sinh lớp Một thì người giáo viên phải   đầu tư tìm tòi nghiên cứu nội dung, phương pháp và các hình thức dạy học,  biết  tổ  chức cho học sinh các trò chơi để  lôi cuốn tạo hứng thú cho tất cả  các học  sinh trong lớp đều được tham gia. Nhất là đối với học sinh còn sợ  sệt, chưa   mạnh dạn và tự tin. Thường xuyên tuyên dương, động viên kịp thời. Ví dụ: Khi   dạy các bài : Phép cộng, phép trừ trong phạm vi 10 ..... Tổ chức cho các em thao tác với bộ đồ dùng học Toán để các em tự tìm   ra kiến thức cho chính mình. Chẳng hạn, với các bài học về  bảng cộng (trừ)   đã nêu trên thì giáo viên nên tổ chức cho học sinh hoạt động với bộ đồ dùng  học toán như sau: ­  Bước 1:  Tổ  chức cho các em lấy ra một số  lượng hình tam giác (hoặc   hình tròn...) trong bộ đồ dùng học Toán. ­ Bước 2: Cho học sinh lấy thêm (hoặc bớt) một số hình tam giác (hay hình  tròn...) rồi nêu kết quả tìm được. ­  Bước 3:  Cho học sinh nêu đề  toán dựa vào số  lượng và các thao tác  ở  bước 2 rồi cài phép tính vào bảng cài. ­ Bước 4: Cho học sinh nhắc lại các phép tính vừa tìm được. Đến các phép tính tiếp theo, giáo viên cho học sinh lấy ra số lượng hình nào  đó (tùy vào bài cụ thể) nhưng không yêu cầu các em lấy loại hình nào cả. Nghĩa  là các em thích hình gì thì lấy hình đó, có thể là có em thích hình tam giác nhưng  có em lại thích hình tròn hoặc hình vuông.v.v.,. 9
  10.  Cách tổ chức cho học sinh tự thao tác trên đồ dùng để tìm ra kết quả sẽ tạo   cho các em thích thú hơn vì các em tự mình tìm ra được kiến thức bài học, được  rèn luyện kĩ năng tính toán. Rõ ràng, với cách tổ  chức cho học sinh tự  thao tác  trên bộ đồ dùng học tập để tìm ra tri thức là phù hợp hơn cách tổ chức như SGV  đã nêu (cứ mỗi phép tính là học sinh phải xem tranh để đặt ra bài toán rồi trả lời   câu hỏi của bài toán). Đó là một ví dụ về một kiểu bài được xây dựng ở SGV Toán 1 mà ta thấy   là chưa phù hợp, chưa phát huy được tính tích cực học tập ở học sinh.   Do vậy, khi lập kế  hoạch dạy học Toán, giáo viên không nên hoàn toàn  phụ thuộc sự hướng dẫn của SGV mà phải chủ động sáng tạo cách tổ chức hoạt  động dạy học cho hợp lý nhằm kích thích hứng thú học Toán ở học sinh. * Coi trọng việc tổ chức cho học sinh học tập thông qua các trò chơi:  Đối với trẻ lớp Một, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi nên giáo viên cần chú ý   tổ chức cho  học sinh học mà chơi, chơi mà học để kích thích  sự hứng thú, niềm  say mê học tập của các em. Thực ra, nhiều giáo viên rất ngại tổ  chức trò chơi   trong khi vẫn biết nhiều trò chơi học tập. Bởi lẽ, tổ chức trò chơi thì phải quản   lý học sinh để  trò chơi mang lại hiệu quả  mà như  thế  thì sẽ  mệt, sẽ  cảm thấy   phiền hà. Như  vậy là một sai lầm lớn của giáo viên. Chúng ta phải hiểu rằng,   đối với trẻ lớp Một, hoạt động học tập là rất gò bó nên dễ chán nản. Để thu hút  sự chú ý học tập của các em thì giáo viên phải biết đưa các trò chơi học tập vào  10
  11. trong quá trình giảng dạy để phù hợp với tâm lý lứa tuổi, phù hợp với quan điểm  dạy học “ nhẹ  nhàmg mà hiệu quả  ” do Bộ  giáo dục đề  ra. Một số  trò chơi   thường dùng trong dạy Toán như là: gà về chuồng, chim về tổ, ai đúng ai nhanh,  đoán số...Tùy vào nội dung bài dạy để  tổ  chức trò chơi cho các em và các tiết   học liền nhau, không nên tổ  chức trò chơi giống nhau để  tránh nhàm chán. Để  tăng hiệu quả  cho giờ  học thì giáo viên phải biết tổ  chức quản lý học sinh khi   chơi, tránh lạm dụng sa đà, phản giáo dục. Một điều cần chú ý nữa là phải cho  học sinh nắm rõ luật chơi trước khi tiến hành trò chơi. *Sau đây tôi xin nêu một ví dụ cụ thể:                                               Trò chơi:“Đoán số”: Trò chơi này được sử dụng ở tiết củng cố bài của tiết 27: “Phép cộng trong  phạm vi 4”.  Sau khi dạy xong bài, giáo viên củng cố  bài bằng cách hỏi học sinh: Hôm  nay ta học bài gì? ( học sinh : phép cộng trong phạm vi 4).  Tiếp theo giáo viên nêu: Bây giờ ta chơi trò chơi “ Đoán số”.Cô có các tấm   bìa đã ghi sẵn phép tính ở mặt trước còn kết quả ở mặt sau tầm bìa. Khi cô giơ  phép tính lên, các em quan sát và đoán xem kết quả sau tấm bìa là số mấy. Nêu cách chơi xong thì cho học sinh đoán, nếu học sinh đoán đúng thì tuyên   dương... Các phép tính giáo viên ghi mặt trước các tấm bìa là 1+3; 2+2; 3+1 và kết   quả ghi mặt sau tấm bìa lần lượt là 4; 4; 4. Trò chơi này giúp học sinh tái hiện, khắc sâu về  các phép tính trong bảng  cộng 4.                                     Ví dụ : Trò chơi : Đôi tai thính. *Mục đích: Rèn kĩ năng nhận biết các số từ 1 đến 10; kỹ năng nghe. * Chuẩn bị: Mỗi em một bộ số từ 1 đến 10 (trong bộ đồ dùng học toán 1). * Tổ chức chơi : Chơi theo hình thức cá nhân. Giáo viên dùng thước gõ xuống bàn tạo âm thanh cộc, cộc... học sinh lắng  nghe và đếm số lần cô giáo gõ xuống bàn để nhặt ra một số tương ứng có trong   11
  12. bộ số của mình và giơ lên cao. Ai giơ lên nhanh và đúng số sẽ là người có đôi tai   thính, ai giơ  sai sẽ bị đứng ra ngoài. Giáo viên tiếp tục gõ và cho học sinh chơi   các lượt tiếp theo với cách chơi tương tự trong thời gian 2 phút. Kết thúc trò chơi   người vẫn ngồi ở chỗ cũ thì được tặng danh hiệu là người có “Đôi tai thính”, ai   bị đứng ra ngoài sẽ bị nhảy lò cò. Cả lớp cùng vui. *Phát triền trò chơi : Có thể  dùng 2 loại âm thanh : Âm thanh gõ vào kim  loại ( gõ vào thanh sắt, mảnh đồng, ...) và âm thanh gõ vào gỗ  (gõ vào bàn, vào  ghế, ...)  ứng với số tiếng gõ vào kim loại ta được số  chục, ứng với số  tiếng gõ  vào gỗ ta được số đơn vị. Trò chơi này dùng ở học kì 2 lớp Một.                      Ví dụ : Trò chơi : Con súc sắc với các phép tính đúng. *Mục đích : Củng cố các phép tính cộng trừ trong phạm vi 10. *Chuẩn bị : Hai con súc sắc có đánh số các mặt từ 0 đến 5; bút, giấy ( cho   mỗi nhóm ). *Tổ chức chơi : Trò chơi được tổ chức theo nhóm 4 người, một người gieo   súc sắc còn 3 người làm trọng tài. Người chơi trong nhóm oẳn tù tì để chọn thứ  tự  chơi. Lần lượt từng người chơi gieo 2 quân súc sắc và sử  dụng 2 số  xuất  hiện ở mặt trên 2 quân súc sắc vừa gieo được để viết thành 4 phép tính ( 2 phép  tính cộng và 2 phép tính trừ ) vào tờ giấy của nhóm đã chuẩn bị.          Ví dụ : Người chơi gieo được số 1 và số 4 thì 4 phép tính được ghi lại  là:          1 + 4 = 5 ;      4 + 1 = 5 ;      4 – 1 = 3;      4 – 3 = 1      Nếu 2 số xuất hiện ở 2 con súc sắc giống nhau ( chẳng hạn hai số 2, hai   số  3,... ) thì không thể  ghi lại bằng 4 phép tính, người chơi sẽ  mất lượt và  nhường lượt cho người chơi tiếp theo. Sau 4 lượt chơi trong nhóm, nhóm nào tạo đủ  16 phép tính sẽ  thắng cuộc.   Nhóm nào không tạo đủ 16 phép tính sẽ bị thua cuộc. Cùng một lúc có thể sẽ có   nhiều nhóm thắng cuộc. *Phát triền trò chơi : Với 2 quân súc sắc có viết các số thích hợp ở các mặt,  giáo viên có thể tổ chức tương tự khi dạy phép nhân trong bảng nhân ở lớp 2. 12
  13.                                   Ví dụ : Trò chơi : Thiếu hình nào. *Mục đích : Học sinh nhận biết, gọi tên các loại hình hình học; rèn kĩ năng  quan sát.   *Chuẩn bị : Hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác ( mỗi loại  2 hình có kích thước bằng nhau ); bảng gài ( bảng từ ).  *Tổ chức chơi : Giáo viên gắn các hình lên bảng ( không theo thứ tự ), yêu  cầu cả lớp quan sát và gọi tên các hình một lượt. Giáo viên gọi một học sinh bất kì lên bảng, cho học sinh đó quay mặt về  phía dưới lớp, rồi lấy đi một trong các hình có trên bảng, sau đó cho học sinh  quay lại và xác định xem hình nào đã bị lấy đi trong vòng 30 giây. Nếu xác định  đúng tên hình bị lấy đi sẽ được tiếp tục chơi lượt 2, nếu xác định sai thì chỗ của  bạn đó được thay thế bằng một bạn khác. Lượt 2 giáo viên sẽ lấy đi 2 hình với   cách làm tương tự. Người thắng cuộc là người có cả  2 lượt chơi đều xác định   đúng. Giáo viên cho các bạn khác lên chơi tiếp tục với cách làm tương tự. *Phát triển trò chơi : Giáo viên có thể  tăng loại hình và số  lượng hình của  mỗi loại để tăng độ khó của trò chơi.   Một điều cần lưu ý nữa là có tiết dạy thì tổ  chức trò chơi để  củng cố  nhưng có tiết  học  thì tổ  chức trò chơi để  luyện tập thực hành ... Để  mang lại  hiệu quả của bài học là tùy nội dung bài dạy để tổ  chức trò chơi cho hợp lý và   có hiệu quả. 13
  14.  Bởi vậy, trong quá trình thực hiện nội dung các giải pháp kích thích hứng  thú học toán cho học sinh lớp 1 thì người giáo viên phải phát huy năng lực sáng  tạo chủ  động trong mọi cá nhân học sinh mà kết hợp các hình thức dạy học   phong phú đa dạng. Một điều kiện không thể thiếu đó là: Thầy phải tận tụy, trò chăm ngoan. ­ Phải nắm vững các nội dung bài học và hình thức tổ chức dạy học nhằm   kích thích hứng thú học toán để biết cách vận dụng vào các bài học cụ thể. ­ Tạo bầu không khí học tập nhẹ nhàng, thoải mái, thân thiện.  ­ Nắm bắt và hiểu  được từng đối tượng của học sinh.  ­ Vận dụng được sự  quan tâm của nhà trường, của phu huynh và các đồng   nghiệp kết hợp với tinh thần tận tụy của bản thân.  c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp: Để công tác giảng dạy nói chung và dạy ­ học môn toán nói riêng đạt hiệu   quả như mong muốn, giáo viên phải biết tổ chức các hoạt động th ực hành luyện  tập đạt kết quả như mong đợi, mỗi giáo viên phải biết lựa chọn từng hình thức  phù hợp và áp dụng linh hoạt giữa các hình thức với đối tượng học sinh và phù  hợp với nội dung từng bài tập nhằm tạo hứng thú tự giác, độc lập suy nghĩ trong  học sinh.  Mối quan hệ giữa các biện pháp thực hiện phải chặt chẽ và khoa học. d. Kết quả  khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn  đề  nghiên cứu,  phạm vi và hiệu quả ứng dụng:  Để khẳng định kết quả nghiên cứu của mình, khi dạy các bài có liên quan  đến các hình thức dạy học trên tôi có đưa ra thêm hệ thống các câu hỏi liên quan  đến việc hình thành kiến thức, tạo hứng thú cho học sinh tư  duy học tập, đồng  thời tôi quan sát và ghi chép cụ  thể  khả  năng tích cực tư  duy để  lĩnh hội kiến  thức của học sinh qua các thời gian kết quả cụ thể như sau: Thời gian bắt đầu nghiên cứu: 14
  15. Số   học   sinh  Số học sinh đam mê Số học sinh chưa Thời gian được khảo sát học Toán thích môn Toán Đầu năm học 28 10 18    Số   học   sinh   được Số   học   sinh   đam   mê  Số học sinh chưa Thời gian khảo sát học Toán thích môn Toán Giữa học kì 1 28 25 3 Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện các biện pháp “Kích thích hứng thú  học toán cho học sinh lớp 1” tôi nhận thấy vốn kiến thức toán học của trẻ phong  phú hơn, tư duy sâu sắc hơn, các em từng bước đam mê học toán hơn và đã giúp  các em tích cực hóa bộ  môn này. Nhờ  vậy mà chất lượng môn toán được nâng   lên rõ rệt. Điều này đã được thể hiện rõ qua kiểm tra định kỳ  môn toán ở  lớp 1   học kì 1 như sau : Tổng   số  Hoàn thành  tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Thời gian học sinh SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % Cuối học kì 1 28 16 57,1 12 42,9 0 0 Do hiểu sâu sắc về  vai trò của sự  hứng thú học toán  ở  lớp Một và sự  tìm  tòi, nghiên cứu và áp dụng các biện pháp tạo hứng thú học toán cho học sinh lớp  Một mà chất lượng học toán  ở  lớp tôi đã thực sự  nâng cao. Kết quả  đạt được   trong năm học  như sau:  Qua thời gian thử nghiệm, áp dụng nhiều hình thức dạy học vào môn Toán  ở lớp 1, tôi thấy sự tận tâm của giáo viên đã mang đến cho học sinh niềm tin vào  học tập, bởi khi đã hứng thú vào học toán học sinh ngày càng tin tưởng vào khả  năng học tập và rèn luyện của mình. 15
  16. Nhìn vào bảng tổng kết thu được qua khảo nghiệm ta có thể  thấy được  chất lượng dạy và học môn Toán  ở  lớp 1 đã được nâng cao hơn qua lần kiểm  tra, số học sinh cuối học kì 1 xếp loại: hoàn thành tốt đạt 57,1 %, hoàn thành đạt  42,9 % và chưa hoàn thành là 0 %. Điều này đã minh chứng cho tính hiệu quả  việc tạo hứng thú học toán cho học sinh là việc làm đúng đắn và cần thiết trong   công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay. Tôi đem kinh nghiệm này trao đổi với các anh chị  em trong khối, họ  thấy   thuyết phục, thử  áp dụng và kết quả  cũng khả  quan hơn, khiến tôi cũng thấy  vui.  16
  17. 3. PHẦN KẾT LUẬN: 3.1. Kết luận: Từ thực tế nghiên cứu, qua việc áp dụng các biện pháp nhằm tạo hứng thú   học Toán cho học sinh lớp Một  ở lớp tôi phụ  trách, tôi nhận thấy rằng: thái độ  tích cực học tập của học sinh sẽ  ảnh hưởng trực tiếp đến việc lĩnh hội tri thức   của học sinh vì nó liên quan đến sự  chú ý và hứng thú của học sinh trong quá   trình học tập. Nếu không có hứng thú thì không có được kết quả học tập cao.Vì   thế mà trong quá trình dạy học, người giáo viên cần phải kích thích thái độ  tích  cực của học sinh để tạo ra động lực cho hoạt động,  đặc biệt là học sinh lớp Một  vì các em chưa có thói quen và kĩ năng. Để tạo được hứng thú học tập nói chung  và học Toán nói riêng cho học sinh lớp một thì giáo viên cần: ­ Có phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phong phú và hấp dẫn, không   hoàn toàn phụ thuộc vào sự  hướng dẫn ở sách giáo viên. ­ Tổ chức cho học sinh hoạt động với đồ dùng học toán để tìm ra kiến thức. ­ Tổ chức tiết học nhẹ nhàng, học mà chơi ­ chơi mà học bằng các trò chơi. ­ Biết đặt vấn đề một cách dễ hiểu, lô­gíc. ­ Biết tạo ra một môi trường thân thiện, có thái độ, tác phong chan hòa, cởi  mở, có ngôn ngữ trong sáng, dễ  hiểu, biết giải quyết các tình huống có vấn đề  một cách khéo léo. 3.2. Kiến nghị: Để  nâng cao hiệu quả  dạy học nói chung và dạy toán nói riêng  ở  lớp Một   thì người giáo viên phải có kĩ năng tạo cho học sinh niềm say mê, hứng thú học   tập vì nó là động lực giúp học sinh tham gia hoạt động học tập có hiệu quả  nhất. Tất cả  mọi giáo viên đều chú trọng hứng thú học tập cho học sinh,  chắc  chắn chất lượng dạy học sẽ ngày một nâng cao. Nhưng để làm tốt hơn điều đó  thì tôi xin đề xuất một số vấn đề như sau: 17
  18. ­ Về phía giáo viên: Phải thực sự nhiệt tình, yêu nghề, có sự tìm tòi sáng tạo  trong cách tổ chức dạy học.   ­ Về phía các nhà quản lý giáo dục:  * Cần quan tâm chỉ đạo việc dạy và học sát thực tế địa phương mình và coi  trọng về chất lượng, hiệu quả, tránh hình thức.   * Không đánh giá tiết dạy của giáo viên một cách máy móc, tôn trọng sự  sáng tạo có hiệu quả trong cách tổ chức dạy học của giáo viên để khuyến khích   sự tìm tòi, sáng tạo của giáo viên.  * Coi trọng và phổ biến rộng rãi phong trào thi đua “Xây dựng trường học   thân thiện, học sinh tích cực” trong giáo viên và học sinh. ­ Về phía phụ huynh: Cần quan tâm, chú trọng đến việc học của con em mình. Thường xuyên   quan tâm nhắc nhở  các em đi học đều, đúng giờ, học và chuẩn bị  bài  đầy đủ  trước khi đến lớp.  18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2