intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy - học nhằm tăng cường hứng thú học tập cho học sinh lớp 4

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:31

20
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của sáng kiến "Ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy - học nhằm tăng cường hứng thú học tập cho học sinh lớp 4" nhằm khai thác hết tiềm năng sáng tạo của mỗi học sinh, vừa tạo hứng thú học tập cho trẻ. Từ đó, đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cho học sinh lớp 4.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy - học nhằm tăng cường hứng thú học tập cho học sinh lớp 4

  1. I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Ở bất cứ một chế độ nào, xã hội nào cũng phải đặt nền tảng giáo dục lên vị trí hàng đầu. Vì giáo dục có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của một dân tộc cũng như toàn thể nhân loại. Giáo dục có tương quan chặt chẽ với đời sống xã hội, tác động đến cấu trúc xã hội, đến các bộ phận xã hội. Vì thế từ trước đến nay Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu để xây dựng và phát triển đất nước. Đất nước ta đang bước vào thời kì đổi mới với quyết tâm công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Để đạt được mục tiêu trên thì yếu tố con người đóng vai trò then chốt. Vì vậy, Đại hội IX đã khẳng định nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hóa. Nghị quyết Đại hội X cũng nhấn mạnh giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đáp ứng yêu cầu to lớn, cấp bách đó, cần tạo sự chuyển biến cơ sơ toàn diện về giáo dục và đào tạo, đặc biệt là nâng cao chất lượng dạy và học. Những năm gần đây, giáo dục Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, đưa ra thử nghiệm, chọn ra những giải pháp tối ưu nhất và đã tiến những bước tiến vượt bậc, thu dần khoảng cách với các nước bạn trong khu vực. Trọng tâm là đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực nhằm đào tạo ra những con người có thể đáp ứng được những đổi mới của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Trong hệ thống Giáo dục quốc dân, Tiểu học là giai đoạn thứ nhất của “giáo dục bắt buộc”. Đây là bậc học quan trọng đối với sự phát triển của trẻ em cả về nhân cách và năng lực. Nó đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông, cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân, chính vì vậy việc nâng cao chất lượng giáo dục ở cấp học này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì vậy, việc đổi mới trong phương pháp dạy học đã được triển khai đến từng vùng miền, đến từng quận huyện, đến từng trường Tiểu học. Một trong nhiều nội dung đổi mới mà tôi rất tâm đắc là phương pháp dạy học để người học tích cực, chủ động, sáng tạo - sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy - học. Sơ đồ tư duy (hay còn gọi là bản đồ tư duy, lược đồ tư duy) là một kỹ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp tương thích với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não giúp con người khai thác
  2. 2 tiềm năng vô tận của bộ não. Nó là một công cụ tư duy nền tảng, là một trong những phương pháp dễ để chuyển tải thông tin vào não rồi đưa ra ngoài. Do đó, việc lập sơ đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của con người, là một công cụ hữu ích để dạy – học, giúp cho việc học của học sinh trở nên tích cực hơn. Nhận thấy các ưu điểm trên cũng như đặc điểm nhận thức, tư duy của học sinh giai đoạn tiểu học, tôi lựa chọn viết về đề tài “Ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy - học nhằm tăng cường hứng thú học tập cho học sinh lớp 4”. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng dạy và học tại trường mình, trong khuôn khổ nhất định, tôi không có tham vọng nhiều, chỉ tập trung chủ yếu đi sâu, làm rõ việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sao cho hiệu quả. Đối với bậc Tiểu học, đối tượng học sinh còn nhỏ nên việc sử dụng sơ đồ tư duy xuyên suốt từ đầu đến cuối tiết học là không hợp lý, không phù hợp với tâm sinh lý của học sinh. Thế nên với đặc trưng của bậc học, sơ đồ tư duy chỉ nên sử dụng như một công cụ, như một phương tiện phối kết hợp với các phương pháp khác nhằm tạo các hiệu ứng tích cực đạt hiệu quả học tập. Vậy sử dụng sơ đồ tư duy như thế nào? Sử dụng ở những môn học nào? vào dạng bài nào? vào phần nào của bài học? để phát huy được tối ưu tác dụng của sơ đồ tư duy đến với người học, để có thể khai thác hết tiềm năng sáng tạo của mỗi học sinh, vừa tạo hứng thú học tập cho trẻ, đó chính là mục đích nghiên cứu của tôi trong đề tài này. Từ đó, đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cho học sinh lớp 4. 3. Đối tượng nghiên cứu - Ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, nhằm tạo hứng thú cho học sinh lớp 4. 4. Đối tượng khảo sát - Giáo viên khối 4 và việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học của giáo viên. - Học sinh khối 4; Khả năng nhận thức và sự hứng thú trong học tập. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điều tra. - Phương pháp quan sát. - Pháp pháp phỏng vấn. - Phương pháp phân tích sản phẩm. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. - Phương pháp thực nghiệm. - Phương pháp thống kê.
  3. 3 - Phương pháp trò chuyện - Một số phương pháp khác. 6. Phạm vi và thời gian nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu: Ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học nhằm tăng cường hứng thú học tập cho học sinh lớp 4. - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2022 đến tháng 4/2023. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận 1.1. Cơ sở lý luận về dạy học a. Khái niệm Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức, có định hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được các bài toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người học. b. Bản chất của quá trình dạy học Bản chất của quá trình dạy học là hoạt động nhận thức độc đáo của học sinh. c. Động lực của quá trình dạy học Quá trình dạy học tồn tại như một hệ thống toàn vẹn, nó luôn phát triển để đạt đến chất lượng mới. Có điều đó là do trong lòng nó luôn chứa đựng các mâu thuẫn và các mâu thuẫn này luôn được giải quyết. Vậy động lực của quá trình dạy học là kết quả giải quyết tốt các mâu thuẫn bên trong và bên ngoài của quá trình đó. 1.2. Cơ sở lý luận về chất lượng Về bản chất, khái niệm chất lượng là một khái niệm mang tính tương đối, với mỗi người lại có một quan niệm về chất lượng khác nhau và vì thế chúng ta thường đặt ra câu hỏi”chất lượng của ai?”,”chất lượng của cái gì?”. Ở mỗi một vị trí, người ta nhìn nhận về chất lượng ở những khía cạnh khác nhau. Các nhà tuyển dụng, đội ngũ tham gia giảng dạy hoặc không giảng dạy, chính phủ và các cơ quan tài trợ,... các nhà chuyên môn đánh giá đều có định nghĩa riêng của họ cho khái niệm chất lượng. Trong thực tế, có rất nhiều cách định nghĩa chất lượng nhưng nó được tập hợp thành năm nhóm quan niệm về chất lượng: chất lượng là sự vượt trội, chất lượng là sự hoàn hảo, chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu, là sự đánh giá về đồng tiền và là giá trị chuyển đổi. Tóm lại, chất lượng là một khái niệm triết học có nhiều cách định nghĩa khác nhau và ở mỗi cách nó phản ánh quan
  4. 4 niệm cá nhân và xã hội khác nhau, không có một định nghĩa nào hoàn hảo đúng về chất lượng. 1.3. Cơ sở lý luận về Giáo dục a. Khái niệm Giáo dục là quá trình trang bị và nâng cao kiến thức, hiểu biết về thế giới khách quan, khoa học, kĩ thuật, kĩ năng, kĩ xảo trong hoạt động nghề nghiệp cũng như hình thành nhân cách của con người. Giáo dục diễn ra thường xuyên, liên tục ở nhiều môi trường hoạt động của con người (trong gia đình, nơi làm việc, trong nhà trường, trong quan hệ xã hội,...), trong đó môi trường nhà trường có vai trò quyết định. b. Vai trò của Giáo dục và Đào tạo Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển ngày càng nhanh. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Các nước trên thế giới kể cả những nước đang phát triển đều coi giáo dục là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia. Giáo dục và Đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Vì vậy, ngay từ khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ”một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó, xác định Giáo dục và Đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam. 1.4. Cơ sở lý luận về sơ đồ tư duy a. Khái niệm Sơ đồ tư duy là phương pháp được đưa ra như là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Sơ đồ tư duy còn gọi là bản đồ tư duy, lược đồ tư duy.... là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết. b. Đặc điểm của sơ đồ tư duy Sơ đồ tư duy được thể hiện rất rõ nét và rõ trọng tâm : - Đối tượng được quan tâm được tóm lược trong một hình ảnh trung tâm. - Từ hình ảnh trung tâm, chủ đề chính được tỏa thành các nhánh. - Mỗi nhánh được cấu thành từ một hình ảnh hay từ khóa. - Các nhánh liên kết nhau.
  5. 5 c. Vai trò của sơ đồ tư duy Sơ đồ tư duy được hiểu là một hình thức ghi chép theo mạch tư duy của mỗi người bằng việc kết hợp nét vẽ, màu sắc và chữ viết. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế sơ đồ tư duy theo mạch tư duy của mỗi người, không yêu cầu tỷ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ địa lý, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một nội dung nhưng mỗi người có thể “thể hiện”nó dưới dạng sơ đồ tư duy theo một cách riêng do đó việc lập sơ đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi con người. Sơ đồ tư duy một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kỹ thuật hình họa với sự kết hợp với từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Cơ chế hoạt động của sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). Sơ đồ tư duy là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng sơ đồ tư duy vào giảng dạy và học tập. Để có được kiến thức và phương pháp giảng dạy tạo hứng thú cho trẻ lớp 4 nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, nhất thiết phải hiểu được sơ chất của các khái niệm, nhận thức được vai trò của từng lĩnh vực, thấy được tầm quan trọng của vấn đề để từ đó có đánh giá chính xác, khách quan thực trạng cần nghiên cứu. Những tri thức lý luận cơ sơ trên là cơ sở, là nền tảng để tôi tiếp tục nghiên cứu thực trạng vấn đề và đề xuất các biện pháp ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. 2. Thực trạng 2.1 Thực trạng về chất lượng dạy và học Hiện nay, giáo viên Tiểu học trong huyện nói chung và giáo viên trường tôi nói riêng đang áp dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực để từng bước chuyển dần cách dạy học từ chỗ trang bị kiến thức cho học sinh sang dạy cho học sinh cách tiếp cận và tìm tòi kiến thức. Từ đó, vận dụng kiến thức vào thực tế và biến đổi thành kỹ năng. Thực tế đã có rất nhiều tiết dạy hay, rất nhiều các chuyên đề chúng tôi cảm thấy tâm đắc. Để minh chứng điều đó chính là kết quả của giáo dục huyện nhà: nhiều năm liền đạt giải cao cuộc thi giáo viên giỏi cấp Thành phố; số lượng học sinh tham dự và đạt giải rất nhiều trong các cuộc thi. Song, tôi vẫn thấy vắng bóng đâu đây, trong mỗi tiết dạy, sự nhập cuộc thực sự hào hứng của học sinh. Đã có phương pháp “Bàn tay nặn bột” rất hay, rất hấp dẫn trẻ. Với phương pháp này, trẻ được tận tay “nặn bột” thật sự, hiệu quả giờ dạy rất cao, mang lại nhiều cảm xúc cho trẻ. Nhưng không phải tiết học nào cũng áp dụng được phương
  6. 6 pháp này và khâu chuẩn bị cho phương pháp này rất công phu, tốn nhiều thời gian cho cả giáo viên và học sinh. 2.2. Sơ đồ tư duy - những ưu việt của nó Qua tiếp cận và thật sự thấy được những ưu việt từ sơ đồ tư duy: - Sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở, được kết hợp các nét vẽ, màu sắc, chữ viết và được thiết kế, sắp xếp theo mạch tư duy của mỗi người, bố cục tốt hơn theo suy nghĩ của bộ não nên nó phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân người sử dụng nó. - Vẽ sơ đồ tư duy nhanh, ngắn gọn, dễ làm. Chỉ cần giấy, bút màu (hoặc bảng, phấn màu) và thêm ý tưởng là có thể vẽ được sơ đồ tư duy ở bất cứ đâu, ở bất cứ lúc nào. - Nhìn vào sơ đồ tư duy thấy một bức tranh tổng thể, dễ nhìn, dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ kiểm tra, dễ bổ sung. Với những ưu điểm trên, dưới góc độ một giáo viên, tôi nhận thấy ngoài việc sử dụng sơ đồ tư duy trong công tác quản lý thì ở bậc Tiểu học sẽ vô cùng hiệu quả nếu có thể sử dụng nó như một công cụ giảng dạy trong các tiết học. 2.3. Thực trạng về việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Qua dự chuyên đề các cấp, qua các tiết thi giáo viên giỏi, các tiết hội giảng, tôi thấy các tiết dạy có ứng dụng sơ đồ tư duy vào giảng dạy còn ít. Qua phỏng vấn đối với giáo viên tôi được biết trong các tiết dạy giáo viên cũng ít sử dụng sơ đồ tư duy. Số lượng Tỉ lệ Mức độ đạt được (51 giáo viên) (%) Giáo viên biết đến sơ đồ tư duy 51 100 Giáo viên đã sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học 45 88,2 Giáo viên thường xuyên sử dụng sơ đồ tư duy 3 5,9 trong dạy học (2-3 bài /tuần) Việc giáo viên Tiểu học ít sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học là một điều tất nhiên, vì sao? Vì theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, việc sử dụng sơ đồ tư duy vào quản lý và giảng dạy trong các trường Trung học cơ sở đã được tập huấn trên một quy mô rộng và yêu cầu cơ sở phải được triển khai trong công tác quản lý và trong thực tế giảng dạy. Còn ở Tiểu học thì không. Ở bậc Tiểu học, Bộ chỉ tập huấn cho một số đối tượng như: cán bộ quản lý; khối trưởng chuyên môn; đội ngũ cốt cán, được làm quen với sơ đồ tư duy, bước đầu biết cách sử dụng sơ đồ tư duy nhằm nâng cao chất lượng quản lý và các hoạt động chuyên môn chứ
  7. 7 không nhằm mục đích áp dụng sơ đồ tư duy vào giảng dạy. Bởi vậy, phương pháp này hiện chưa được sử dụng phổ biến đối với các tiết dạy của giáo viên Tiểu học. Thực tế dạy học, giáo viên không sử dụng hay hướng dẫn học sinh dùng sơ đồ tư duy để học tập vì lo lắng học sinh không làm được, tốn nhiều thời gian, hoặc có dùng thì cũng rất ít. Ở lớp 4, khối lượng kiến thức khá nhiều và mang tính tổng hợp. Môn Tiếng Việt bắt đầu hình thành các khái niệm ngữ pháp về từ và câu, viết bài văn hoàn chỉnh theo bố cục ba phần. Môn Lịch sử- Địa lý bắt đầu cung cấp cho học sinh một số kiến thức về nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, mối quan hệ giữa nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử trong quá khứ, hiện tại; mối quan hệ địa lý giữa các vùng miền, giữa thiên nhiên và con người,… Ngoài ra còn lượng kiến thức rất rộng của môn Toán, Khoa học,… Kiến thức cần ghi nhớ còn mang tính tổng hợp và trừu tượng, không dễ tiếp nhận và ghi nhớ. Đối với trường Tiểu học A Thị Trấn Văn Điển nói chung và lớp 4A của tôi nói riêng số học sinh tự giác, tích cực học tập chưa nhiều. Mặc dù chương trình mới chú trọng tới việc “cá thể hoá hoạt động học tập của học sinh” để bản thân mỗi học sinh sẽ nỗ lực suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, tự tìm ra cách giải quyết vấn đề. Song do lứa tuổi các em còn bé nên sự tư duy, sáng tạo còn hạn chế. Nhiều học sinh lớp tôi chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được ý nổi bật trong tài liệu đó hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau. Sử dụng sơ đồ tư duy sẽ giúp học sinh dần dần hình thành cách ghi chép hiệu quả. Đây là một kĩ năng không kém phần quan trọng. 2.4. Kết quả điều tra Đầu năm học 2022-2023, qua việc khảo sát 45 học sinh lớp 4A về kĩ năng hệ thống hóa kiến thức bằng sơ đồ tư duy về kiến thức môn Toán lớp 3, tôi thu được kết quả như sau: Số lượng Tỉ lệ Mức độ đạt được (45 học sinh) (%) Học sinh vẽ được sơ đồ tư duy đúng kiến thức 2 4,4 (nội dung), khoa học, có thẩm mỹ. Học sinh vẽ được sơ đồ tư duy đúng kiến thức 9 20 (nội dung) nhưng đơn giản. Học sinh chưa vẽ được sơ đồ tư duy. 34 75,6 Qua số liệu điều tra được ở bảng trên cho thấy học sinh vẽ được sơ đồ tư duy đúng kiến thức (nội dung), khoa học, có thẩm mỹ ở lớp 4A còn ít. Hầu hết,
  8. 8 học sinh mới chỉ vẽ được sơ đồ tư duy đơn giản, chưa có hệ thống, chưa tương đồng về mạch kiến thức; vẽ được sơ đồ tư duy nhưng chưa đầy đủ, chưa khoa học vẫn còn chiếm tỉ lệ cao. Bên cạnh đó là số học sinh chưa vẽ được sơ đồ tư duy còn khá nhiều. Học sinh mới liệt kê được một số kiến thức nhưng lộn xộn, không đầy đủ, không lô gic... Cùng với đó, qua thực tế giảng dạy tại trường, tôi thấy kĩ năng ghi chép chắt lọc kiến thức của học sinh còn hạn chế nên hiệu quả tiết dạy chưa cao, chưa đạt được mong muốn của giáo viên. Qua kết quả thu được từ thực trạng trên, nhiệm vụ đặt ra là đề xuất ý tưởng ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học với mong muốn sơ đồ tư duy được sử dụng thường xuyên, thông dụng như một công cụ, một phương pháp dạy học như bao công cụ và phương pháp khác nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành trong giai đoạn hiện nay. 3. Một số giải pháp ứng dụng sơ đồ tư duy nhằm tăng cường hứng thú trong học tập cho học sinh lớp 4 Trên cơ sở lý luận và căn cứ vào tình hình thực tế về công tác giáo dục, kết quả khảo sát việc sử dụng sơ đồ tư duy của lớp tôi chủ nhiệm, tôi đề xuất một số giải pháp trong việc ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học nhằm tạo hứng thú cho trẻ, phát huy tính sáng tạo của mỗi học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. 3.1. Giới thiệu sơ đồ tư duy đến học sinh Muốn ứng dụng sơ đồ tư duy vào giảng dạy thì trước hết phải giúp học sinh hiểu về sơ đồ tư duy, từ đó học sinh mới biết sử dụng và làm việc với nó. Để đạt được điều đó, tôi đã xây dựng kế hoạch triển khai từng bước vào giờ hướng dẫn học, giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ sở về sơ đồ tư duy như sau : a. Khái niệm về sơ đồ tư duy Để học sinh có khái niệm ban đầu về sơ đồ tư duy, giáo viên cho học sinh quan sát một số sơ đồ tư duy thể hiện cùng một nội dung nhưng cách vẽ khác nhau, sử dụng màu sắc khác nhau. Sau đó đưa ra câu hỏi thảo luận : - Các hình vẽ này giống nhau ở điểm nào? Khác nhau ở điểm nào? - Theo các con, đây là sơ đồ, lược đồ hay bản đồ? Sau đó giáo viên đưa ra một bản đồ tự nhiên Việt Nam và yêu cầu học sinh so sánh xem chúng khác nhau ở điểm nào về cách vẽ? Dưới sự dẫn dắt của giáo viên, học sinh rút ra được khái niệm ban đầu về Sơ đồ tư duy như sau : - Sơ đồ tư duy là một bản đồ tư duy hay lược đồ tư duy được kết hợp nét vẽ, màu sắc, chữ viết. - Cùng một nội dung nhưng mỗi người vẽ một kiểu, theo một cách riêng.
  9. 9 b. Giúp học sinh làm quen với các thuật ngữ liên quan đến Sơ đồ tư duy và từ đó tìm ra cách “đọc, hiểu” sơ đồ tư duy. Cho học sinh quan sát các sơ đồ tư duy và yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi sau: - Đối tượng quan tâm được tóm lược bằng một từ khóa và đặt trong một hình ảnh trung tâm. Hãy chỉ cho cô, đâu là hình ảnh trung tâm? Từ khóa của nó là gì? - Không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe. - Có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh. - Từ hình ảnh trung tâm, chủ đề chính được tỏa ra nhiều nhánh, các nhánh có độ to, nhỏ, đậm, nhạt khác nhau. Nhánh nào to, dài, màu đậm là các nhánh cấp I. Hãy chỉ cho cô các nhánh cấp I trên các Sơ đồ tư duy đó. - Tương tự như vậy, hãy tìm cho cô các nhánh cấp II ; cấp III. - Theo các con các nhánh này có liên quan đến nhau không? Hãy chỉ ra các mối liên quan giữa các nhánh? - Với cách hiểu như vậy, hãy lên chỉ vào Sơ đồ tư duy trên và nêu những kiến thức được ghi lại trên sơ đồ đó. Với cách dẫn dắt như vậy, học sinh dễ dàng hiểu nội dung của sơ đồ và dễ dàng trình bày nội dung đó theo mạch lôgic của kiến thức. Tôi cho học sinh làm quen với sơ đồ tư duy bằng cách giới thiệu cho các em một số sơ đồ tư duy trên máy tính, bản vẽ giấy, tôi trực tiếp vẽ nhanh một sơ đồ tư duy trên bảng lớp về sơ đồ lớp học. Các sơ đồ tư duy này cơ bản giới thiệu về bản thân học sinh hoặc những kiến thức mà học sinh đã học ở lớp dưới. Ví dụ: Khi muốn học sinh vẽ được sơ đồ tư duy về kiến thức “Hàng, lớp” môn Toán, tôi đưa ra các câu hỏi như sau: - Chúng ta muốn hệ thống kiến thức về “hàng và lớp” thì đối tượng quan tâm được tóm lược bằng một từ khóa, các con sẽ chọn từ nào? (HÀNG, LỚP) Vậy hình ảnh trung tâm của cô chứa từ “HÀNG, LỚP”. Đồng thời, giáo viên chiếu hình ảnh trung tâm. - Từ hình ảnh trung tâm ta sẽ vẽ ra mấy nhánh? Nội dung của mỗi nhánh là gì? (3 nhánh: Lớp Đơn vị - Lớp Nghìn – Lớp Triệu) Nếu học sinh không nêu được giáo viên sẽ đưa ra câu hỏi gợi ý giúp học sinh nêu được các từ nội dung của nhánh I. (Số 9 803 456 được chia thành mấy lớp? Đó là những lớp nào?). Khi nói đến lớp nào, giáo viên sẽ đồng thời chiếu lần lượt các nhánh I. Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh nhìn vào sơ đồ đọc lại các nhánh I mình vừa vẽ. - Giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp tục vẽ tới các nhánh II: Ở lớp Đơn vị có mấy hàng? Là những hàng nào? (Có 3 hàng: Hàng đơn vị, Hàng chục, Hàng trăm) Vậy từ lớp đơn vị ta sẽ chia làm 3 nhánh II tương ứng với 3 hàng. (Giáo
  10. 10 viên đưa lần lượt từng hàng). Tương tự với các lớp còn lại – hoàn thành nhánh cấp II. - Khi hoàn thiện được sơ đồ tư duy, giáo viên gọi học sinh lên chỉ vào sơ đồ tư duy trên và nêu những kiến thức được ghi lại trên sơ đồ đó. Để học sinh từ hiểu đến biết, vẽ một sơ đồ tư duy hoàn chỉnh thì rất cần sự hướng dẫn tỉ mỉ cũng như hỗ trợ tận tình từ thầy cô. Nói đi đôi với làm - đây là suy nghĩ cũng như phương châm mà tôi đặt ra cho mình khi nghĩ tới việc giúp học sinh học tập bằng sơ đồ tư duy. Tôi sử dụng sơ đồ tư duy từ mức độ đơn giản đến khó. Ban đầu chỉ là những hình vẽ, kí hiệu,….kiểu như chúng ta quen gọi là sơ đồ cây. Hoặc khi dạy Toán về phần hình học có nội dung liên quan tới hình học lớp 4, tôi cũng thường dùng các sơ đồ đơn giản. Ví dụ kiến thức về hình chữ nhật: Bằng cách sử dụng sơ đồ tư duy khi dạy bài mới hay củng cố kiến thức, tôi thấy học sinh hứng thú học hơn, ghi nhớ bài hơn. Các em rất tò mò muốn được vẽ sơ đồ tư duy như của cô giáo. Điều này tôi nhận thấy khi giờ ra chơi, tôi quan sát
  11. 11 có em ngồi lại lớp hí hoáy tập vẽ kiểu bắt chước cô giáo. Những nét vẽ của các em còn cứng, sơ đồ tuy chưa được rõ ràng,… nhưng tôi thấy mình đã gieo vào các em niềm đam mê tiếp cận với một phương pháp học tập mới. 3.2. Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy và các quy tắc vẽ Giáo viên đưa ra một số gợi ý nhằm hướng dẫn học sinh cách vẽ sơ đồ tư duy theo một chủ đề nhất định. Vừa hướng dẫn, giáo viên vừa thực vẽ trên bảng lớn, sử dụng phấn màu để thể hiện. a. Một số gợi ý khi lập sơ đồ tư duy - Bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Từ một hình ảnh có thể diễn đạt được rất nhiều từ và giúp ta sử dụng và phát huy tối đa khả năng tưởng tượng của mình. - Luôn sử dụng màu sắc. Bởi vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh. - Nối các nhánh chính (cấp I) đến hình ảnh trung tâm; nối các nhánh cấp II đến các nhánh cấp I ;..... bằng các đường thẳng, đường cong với nhiều màu sắc khác nhau. - Mỗi từ / ảnh / ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường thẳng hay đường cong, (nên dùng các đường cong thay vì các đường thẳng vì các đường cong sẽ thu hút được sự chú ý của mắt hơn rất nhiều so với đường thẳng). - Bố trí các thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm. Tạo ra một kiểu sơ đồ tư duy cho riêng mình (kiểu đường kẻ, màu sắc, hình ảnh, ...). b. Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy Để vẽ sơ đồ tư duy, tôi hướng dẫn học sinh thực hiện theo 4 bước sau: Bước 1: Chuẩn bị - Giấy (ô li, A4), Bảng con,… - Bút với các màu mực khác nhau (ít nhất là 3 cây bút) - Ý tưởng hay chọn chủ đề cho sơ đồ tư duy. Chủ đề của sơ đồ tư duy có thể là tên bài học (vì tên bài học chứa nội dung trọng tâm của bài học) hoặc chủ đề có thể là một mạch kiến thức trọng tâm, một chủ điểm,… Bước 2: Vẽ chủ đề trung tâm - Đặt tờ giấy nằm ngang, vẽ chủ đề ở trung tâm của tờ giấy hoặc vị trí nào đó tiện cho việc phân nhánh. * Quy tắc vẽ chủ đề: Chủ đề luôn được vẽ ở trung tâm để từ đó phát triển ra các ý khác. Chủ đề nên được vẽ to nhất, không nên đóng khung hay tô màu tối che mất hình ảnh chủ đề. Học sinh có thể tự do chọn màu sắc, hình vẽ để làm nổi bật chủ đề. Màu sắc sẽ giúp hình ảnh chủ đề sống động và dễ dàng in sâu trong trí nhớ học sinh.
  12. 12 Bước 3: Vẽ các nhánh chính Các nhánh chính là các ý chính của chủ đề. Tôi lưu ý học sinh nên vẽ thứ tự các ý cần nhớ theo chiều kim đồng hồ, mỗi nhánh chính một màu sắc riêng biệt. Trên các nhánh chính lựa chọn các từ khóa ngắn gọn có tính gợi ý. Học sinh cũng có thể thêm hình ảnh gì đó mang tính chất minh họa. VD: Vẽ đại lượng thời gian có thể vẽ thêm chiếc đồng hồ nhỏ. Độ dài thì vẽ hình ảnh thước kẻ,… Bước 4: Vẽ thêm các nhánh phụ Sau khi vẽ xong các nhánh chính, tôi hướng dẫn học sinh vẽ các nhánh phụ. Các nhánh này được vẽ ra từ nhánh chính nên sẽ nhỏ hơn nhánh chính. Tương tự như ở nhánh chính, các chữ trên nhánh phụ cũng là từ khóa mang tính gợi nhớ, minh họa cụ thể. Tất cả các nhánh của một ý nên tỏa ra từ một điểm, biểu thị cùng một màu sắc, chỉ thay đổi màu khi có thêm các ý phụ minh họa cụ thể hơn. Nếu đủ không gian cũng có thể thêm hình vẽ cho sinh động. Có thể dùng các biểu tượng, cách viết tắt, kí hiệu để tiết kiệm thời gian, không gian. VD: Một số kí hiệu có thể dùng SĐTD: Sơ đồ tư duy Chu vi: P Diện tích: S….. Như vậy, thực hiện xong 4 thao tác trên, học sinh đã hoàn thiện một sơ đồ tư duy. Các em đã hoàn chỉnh bức tranh về những ý tưởng và sản phẩm các em có được là bản tóm tắt nội dung kiến thức cần ghi nhớ theo chủ đề các em đã xác định ở trung tâm. Ví dụ: Khi dạy bài Cấu tạo của tiếng (Luyện từ và câu-TV4, tập 1, trang 6). Để học sinh ghi nhớ kiến thức về tiếng, tôi hướng dẫn học sinh hệ thống nội dung ghi nhớ bằng cách vẽ sơ đồ đơn giản như sau:
  13. 13 Bước 1: Chuẩn bị - Giấy ô li hoặc A4 - Bút với các màu mực khác nhau (ít nhất là 3 cây bút) - Chủ đề của sơ đồ tư duy: TIẾNG Bước 2: Vẽ chủ đề trung tâm - TIẾNG Đặt tờ giấy nằm ngang, vẽ chủ đề ở trung tâm của tờ giấy. Lưu ý tên chủ đề viết in hoa, nên được vẽ to nhất, không nên đóng khung hay tô màu tối che mất hình ảnh chủ đề. Học sinh có thể tự do chọn màu sắc, hình vẽ để làm nổi bật chủ đề. Màu sắc sẽ giúp hình ảnh chủ đề sống động và dễ dàng in sâu trong trí nhớ học sinh. Bước 3: Vẽ các nhánh chính Để vẽ các nhánh chính, giáo viên đưa câu hỏi học sinh: + Tiếng là gì? (Tiếng cấu tạo nên từ) + Tiếng thường có mấy bộ phận? (3 bộ phận) -> Học sinh chia làm 3 nhánh chính cấp I. + Đó là những bộ phận nào? (Âm đầu – Vần – Thanh)-> Học sinh ghi nội dung nhánh chính. Bước 4: Vẽ thêm các nhánh phụ Sau khi vẽ xong các nhánh chính cấp I, tôi hướng dẫn học sinh vẽ các nhánh cấp II. + Ở nhánh “Âm đầu”, giáo viên hỏi: Ta thấy có những tiếng có âm đầu và những tiếng không có âm đầu. Vậy ở nhánh này ta chia làm mấy nội dung? Đó là những nội dung nào? Các con chọn từ khóa là gì? Yêu cầu học sinh lấy ví dụ (2 nội dung Âm đầu – Không âm đầu) + Ở nhánh “Vần”, không có nội dung nhỏ hơn nên không vẽ thêm nhánh nhỏ hơn, giáo viên gọi học sinh cho ví dụ. + Ở nhánh “Thanh”, giáo viên yêu cầu học sinh kể tên các thanh. Có bao nhiêu thanh chúng ta sẽ vẽ bấy nhiêu nhánh tương ứng với tên thanh. - Giáo viên lưu ý học sinh : Tiếng nào cũng phải có vần và thanh, vậy con sẽ thể hiện lưu ý đó như thế nào trên sơ đồ của mình? (Học sinh nêu: con ghi từ “bắt buộc” giữa 2 nhánh vần và thanh để thể hiện điều lưu ý. 3.3. Tổ chức dạy học bằng sơ đồ tư duy Hàng ngày, mỗi chúng ta đều sử dụng tám loại hình thông minh nhưng cách thể hiện hoàn toàn khác nhau, học sinh cũng vậy, rất đa dạng về trí tuệ. Giáo viên cần coi trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi học sinh, cần giúp đỡ, khơi gợi, tạo điều kiện học tập theo các hướng khác nhau để học sinh có thể thể hiện hết khả năng tư duy, sáng tạo của mình. Để đạt được điều đó, giáo viên cần phải linh hoạt thay
  14. 14 đổi phương pháp và khéo léo chuyển từ lối dạy ngôn ngữ sang lối dạy không gian, rồi lối dạy âm nhạc hay vận động, giao tiếp.... Qua nghiên cứu và thực nghiệm, việc tổ chức dạy học bằng nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực, trong đó dạy học bằng sơ đồ tư duy huy động nhiều trí thông minh ở học sinh, góp phần phát triển toàn diện cho trẻ. Giáo viên có thể tổ chức dạy học bằng sơ đồ tư duy ở phần lớn các môn học trong chương trình Tiểu học hoặc trong các chương trình ngoại khóa ; có thể sử dụng sơ đồ tư duy vào các bước như hình thành kiến thức mới hoặc trong phần hệ thống hóa kiến thức của một bài hay một chủ đề, một chương. Tuy nhiên, cũng giống như phương pháp “ Bàn tay nặn bột ”, sơ đồ tư duy không phải bài nào cũng ứng dụng được và cũng không sử dụng nó từ đầu cho đến cuối tiết dạy. Ý tưởng của tôi là sử dụng sơ đồ tư duy như một công cụ giúp học sinh thực sự nhập cuộc, sử dụng nó để thay đổi hình thức học tập. Còn về phía giáo viên sử dụng nó như một phương pháp nhằm phối hợp với những phương pháp khác để đạt được hiệu quả cao nhất. Nhưng cho dù sử dụng sơ đồ tư duy trong bất cứ môn học nào hay bất cứ bước dạy nào thì cũng tiến hành thông qua các hoạt động sau : - Hoạt động 1 : Học sinh nghiên cứu tài liệu, tìm hiểu SGK, tìm từ khóa. (Hoạt động này phát huy trí thông minh nội tâm, ngôn ngữ của trẻ) - Hoạt động 2 : Học sinh thảo luận nhóm về nội dung dưới sự dẫn dắt gợi ý của giáo viên (Hoạt động này phát huy trí thông minh giao tiếp cho trẻ). - Hoạt động 3 : Học sinh thiết lập sơ đồ tư duy về bài học (Hoạt động này phát huy trí thông minh ngôn ngữ, lôgic, không gian cho trẻ) - Hoạt động 4 : Học sinh thuyết trình về sơ đồ tư duy trước lớp. Cần kết hợp cả ngữ điệu, âm điệu, ngôn ngữ cơ thể trong quá trình thuyết trình (Hoạt động này phát huy trí thông minh giao tiếp, hình thể, động năng, âm nhạc). 3.4. Một số tiết minh họa cho một vài giờ học có sử dụng sơ đồ tư duy 3.4.1. Sử dụng sơ đồ tư duy vào bước hình thành kiến thức mới. Ứng dụng sơ đồ tư duy vào bước hình thành kiến thức mới thì không phải bài nào cũng áp dụng được. Để sử dụng được thì bài đó phải đảm bảo các điều kiện áp dụng sau : - Kiến thức mới phải có liên quan với một số kiến thức mà học sinh đã học trước đó. - Kiến thức mới học sinh đã được biết qua thực tế cuộc sống. - Kiến thức mới có mạch kiến thức tương tự với một số bài hay một số nội dung kiến thức đã học trước đó. Với những điều kiện trên thì những bài có thể sử dụng sơ đồ tư duy vào bước hình thành kiến thức mới sẽ thích hợp với các phân môn như : Đạo đức ; Khoa học ; Lịch sử ; Địa lý ; Luyện từ và câu. Sau đây tôi sẽ
  15. 15 minh họa cho bước hình thành kiến thức mới (có sử dụng sơ đồ tư duy ) trong một tiết dạy cụ thể: Phân môn : Luyện từ và câu. Bài : Danh từ - Tuần 5 - Tiết 2 * Mục tiêu : Sau bài học, học sinh nắm được : - Hiểu danh từ là những từ chỉ sự vật (người, vật, hiện tượng). * Minh họa hoạt động 1: Nhận xét : Ở chương trình lớp 2, học sinh đã được học về các từ chỉ sự vật : là những từ chỉ người, chỉ vật và hiện tượng này tiếp tục được củng cố ở lớp 3. Vậy ở lớp 4, nhiệm vụ là phải kế thừa những kiến thức mà học sinh đã được trang bị ở các lớp dưới, hình thành kiến thức mới về danh từ. Vậy nhiệm vụ cụ thể của hoạt động 1 gồm: - Khơi gợi để học sinh nhớ lại kiến thức cũ: các từ chỉ sự vật là những từ chỉ người, chỉ vật, hiện tượng. - Trên cơ sở những kiến thức học sinh đã có, hình thành cho học sinh hiểu khái niệm về danh từ là những từ chỉ sự vật. Trước đây, để đạt được những nhiệm vụ trên, phương pháp chủ yếu mà giáo viên thường sử dụng là vấn đáp : Giáo viên gợi mở bằng những câu hỏi ; học sinh nhớ lại kiến thức cũ để trả lời. Hình thức tổ chức là làm việc cá nhân hoặc thảo luận nhóm bàn. Với cách làm này, giờ dạy diễn ra xuôi chiều, không có điểm nhấn nên học sinh nhanh quên. Để hiệu quả giờ dạy đạt chất lượng tốt hơn, tôi ứng dụng sơ đồ tư duy vào phần hình thành kiến thức như sau : + Bài 1 : Tìm các từ chỉ sự vật trong đoạn thơ sau : - Đọc và xác định cho cô yêu cầu bài 1? - Các “ từ chỉ sự vật ” chúng ta đã được học chưa ? - Hãy thảo luận nhóm bàn, cùng nhau nhớ lại kiến thức đã học về từ chỉ sự vật và thể hiện những kiến thức của các con trên sơ đồ tư duy với từ khóa là TỪ CHỈ SỰ VẬT. - Cô mời một nhóm vẽ lên bảng lớn. Cả lớp vẽ cho cô vào giấy A4 nhé.
  16. 16 - Cô mời một nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình ? (Học sinh nêu: Từ chỉ sự vật là những từ chỉ người, vật, hiện tượng. Hoặc có nhóm trình bày kỹ hơn là từ chỉ vật có thể là đồ vật, con vật, cây cối. Học sinh vừa nêu, vừa chỉ vào sơ đồ đã vẽ). - Các nhóm khác nhận xét bổ sung nếu chưa đầy đủ. Có nhóm vẽ thêm nhánh cấp hai (như sơ đồ tư duy minh họa ở dưới) thì giáo viên cần khẳng định là đúng. Giáo viên chỉ vào bản đồ khẳng định : Vậy các từ chỉ sự vật là những từ chỉ người, vật, hiện tượng. - Tìm trong bài những từ chỉ người ? (Từ chỉ vật, chỉ hiện tượng) - Giáo viên ghi nhanh lên bảng. - Các học sinh khác nhận xét, bổ sung nếu bạn tìm chưa hết từ yêu cầu. - Giáo viên nhấn mạnh : Những từ chỉ sự vật mà chúng ta vừa xác định (giáo viên chỉ vào sơ đồ tư duy) được gọi chung là DANH TỪ. Vậy bạn nào có thể cho cô biết : DANH TỪ là những từ dùng để chỉ gì ? (học sinh dễ dàng nếu được: DANH TỪ là những từ chỉ người, sự vật, hiện tượng). - Đó chính là kiến thức cần ghi nhớ – Giáo viên rút ra ghi nhớ. - Giáo viên nhấn mạnh: Để cập nhật kiến thức lớp 4 chúng ta vừa được học, các con hãy tìm cho cô từ khóa thích hợp cho sơ đồ tư duy của chúng ta ngày hôm
  17. 17 nay? (Học sinh dễ dàng tìm ngay ra từ khóa là DANH TỪ ) – Giáo viên thay từ khóa, hoàn thiện sơ đồ tư duy. * Giờ học diễn ra trong không khí thoải mái, cô, trò - tất cả các đối tượng học sinh trong lớp cùng làm việc với tinh thần hứng khởi bởi các em không phải chỉ học tập với những từ ngữ khô khan cùng với hình thức hoạt động quá quen thuộc như các tiết học trước mà các em được cùng nhau làm việc, cùng nhau chiếm lĩnh kiến thức và thể hiện nó bằng sơ đồ mang đầy màu sắc của hội họa. Qua tiết dạy các em khắc sâu được khái niệm về DANH TỪ. Phải chăng đó chính là thành công của giờ dạy mà một phần không nhỏ chính là từ sơ đồ tư duy đem lại. 3.4.2. Sử dụng sơ đồ tư duy vào các tiết ôn tập hoặc tổng kết Các dạng bài ôn tập, tổng kết trong chương trình chiếm số lượng không nhiều song nó lại có vai trò quan trọng trong việc hệ thống hóa và củng cố lại những kiến thức đã học; rèn cho học sinh tư duy tổng hợp và kỹ năng hệ thống kiến thức. Trong thực tế, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn khi dạy các dạng bài ôn tập, tổng kết. Vì sao? + Lượng kiến thức nhiều mà thời gian thì chỉ có 40 phút, làm thế nào mà đề cập hết được các kiến thức ấy. + Dùng phương pháp nào, hình thức tổ chức nào để giờ dạy mang đúng đặc trưng của một tiết Ôn tập, không bị lặp lại những câu hỏi hoặc tiến trình như dạy kiến thức mới.
  18. 18 + Bằng phương pháp nào để có thể khơi gợi khiến học sinh nhớ lại kiến thức và hệ thống nó thành mạch kiến thức một cách khoa học, lôgic? Còn học sinh càng không thích các tiết Ôn tập, tổng kết vì phải nói nhiều, trả lời câu hỏi nhiều. Nếu có hoạt động nhóm thì cũng phải ghi chép nhiều. Tất cả những khó khăn trên, khi ứng dụng sơ đồ tư duy vào thì nó giải quyết rất hiệu quả các khó khăn vừa nêu. Bởi vì sơ đồ tư duy, bản thân nó có thể chuyển tải lượng thông tin lớn, có tính hệ thống, lôgic cao và vì thế, nó có thể ứng dụng phù hợp với tất cả các phân môn trong chương trình khi cần ôn tập, tổng kết. Sau đây tôi sẽ minh họa bằng (một phần) tiết Ôn tập – Bài 6 phân môn Lịch sử – Lớp 4. Bài 6: Ôn tập – Lịch sử - Lớp 4 ( Tuần 8 ) * Minh họa Sách giáo khoa BÀI 6: ÔN TẬP 1. Em hãy kẻ sơg thời gian dưới đây vào vở và ghi vào chỗ chấm (... ) tên hai giai đoạn lịch sử mà các em đã được học từ bài 1 đến bài 5. Khoảng Năm 179 CN Năm 938 năm 700 2. Em hãy kẻ trục thời gian dưới đây vào vở và ghi các sự kiện tiêu biểu đã học tương ứng với các mốc thời gian cho trước: Khoảng 700 năm Năm 179 CN Năm 938 3. Em hãy kể lại bằng lời hoặc bằng bài viết ngắn hay sơg hình vẽ về mội trong ba nội dung sau a) Đời sống người Lạc Việt dưới thời Văn Lang (sản xuất, ăn, mặc, ở, ca hát, lễ hội ). b) Khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra trong hoàn cảnh nào? Nêu diễn biến và kết quả của cuộc khởi nghĩa. c) Trình bày diễn biến và nêu ý nghĩa của chiến thắng Bạch Đằng. * Mục tiêu bài học: - Học sinh nắm được hai giai đoạn lịch sử: Buổi đầu dựng nước và giữ nước; Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập. ( Ứng với bài 1 – SGK ) - Kể tên những sự kiện lịch sử tiêu biểu trong hai thời kỳ này rồi thể hiện nó trên trục thời gian. ( Ứng với bài 2,3 – SGK ) * Cách tiến hành: Tôi sẽ minh họa phần ứng dụng sơ đồ tư duy ở Bài 3. Đây là một bài tập thực hành với nhiều hình thức phong phú như: kể, vẽ, viết về ba nội dung lớn nhằm đạt mục đích thứ hai: Học sinh nhớ lại các sự kiện
  19. 19 lịch sử tiêu biểu trong hai giai đoạn này. Trong thực tế, giáo viên rất sợ dạy bài này vì kiến thức quá nhiều, không mấy giáo viên thực hiện được đầy đủ các yêu cầu mà bài tập đề ra. * Ở bài tập này, trước đây phần nhiều giáo viên tổ chức cho học sinh theo tiến trình sau: Giáo viên đặt câu hỏi: - Ở giai đoạn 1: Buổi đầu dựng nước và giữ nước, có những sự kiện tiêu biểu nào mà em nhớ? - Ở giai đoạn 2: Hơn một nghìn năm giành lại độc lập, tiêu biểu có những sự kiện nào mà? - Hãy kể những hiểu biết của em về sự kiện mà em thích? (Thường câu hỏi này dành cho những học sinh giỏi mới hoàn thành được ) + Với cách tiến hành như trên: Giáo viên hỏi, học sinh trả lời thì tiết học diễn ra một cách buồn chán, tẻ nhạt vô cùng. Học sinh chậm, nhút nhát sẽ chỉ ngồi nghe một cách thụ động, không có môi trường giao lưu, thực hành để học tập. * Để lớp học được hoạt động sôi nổi và tất cả các thành viên đều được tham gia tôi chia lớp thành nhóm tổ để thực hiện yêu cầu bài 3. Rồi tôi yêu cầu học sinh như sau: + Mỗi tổ hãy chọn một trong ba yêu cầu ở bài 3. + Sau đó hãy cùng nhau nhớ lại những kiến thức đã học, thảo luận trong nhóm, rồi trình bày những hiểu biết của nhóm mình trên sơ đồ tư duy. + Trước khi tiến hành vẽ, hãy cho cô và các bạn biết: tổ con chọn nội dung nào trong ba nội dung ở bài 3? + Nếu tổ con chọn nội dung a thì từ khóa của nội dung đó là gì? (VĂN LANG). + Tổ nào chọn nội dung b? Vậy từ khóa của nội dung b là gì? (HAI BÀ TRƯNG ). + Còn nội dung c có tổ nào chọn không? Từ khóa cho nội dung này là gì, theo con? (CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG). Sau khi các tổ chọn được từ khóa chính xác rồi, giáo viên cho các tổ tiến hành vẽ trên giấy khổ lớn. Mỗi thành viên trong tổ đều tham gia góp ý kiến: về bố cục, về màu, về từ... với những hình ảnh rất ngộ nghĩnh, trẻ thơ. + Sau đó mời các nhóm tổ lên thuyết trình trên chính sơ đồ tư duy của nhóm mình. Phần trình bày có thể gồm nhiều bạn, mỗi bạn kể về một nhánh lớn, có sử dụng ngữ điệu, ngôn ngữ hình thể.... + Các nhóm khác lắng nghe, nhận xét, bổ sung nếu thấy cần thiết bằng cách vẽ thêm nhánh cho sơ đồ.
  20. 20 + Sau phần trình bày của các nhóm, giáo viên cho cả lớp bình chọn xem tổ nào trình bày hay nhất? Sơ đồ của tổ nào đầy đủ, chi tiết, đẹp nhất? + Giáo viên khen ngợi, khích lệ, động viên tổ, nhóm, cá nhân. Với cách tiến hành như trên, giờ học không những đạt mục tiêu của bài mà còn đọng lại trong học sinh rất nhiều cảm xúc. Tiết học diễn ra sôi nổi, tất cả các đối tượng học sinh đều được tham gia. Đặc biệt, học sinh nhớ lâu, nhớ sâu kiến thức vì nó không những được tác động vào não trẻ bằng hình ảnh, màu sắc, các nét cong, nét thẳng mà học sinh còn phải tư duy để tìm các từ ngắn gọn xúc tích và được trực tiếp thực làm. Sơ đồ tư duy quả là một công cụ hữu hiệu đem lại thành công cho giờ học. Dưới đây là sơ đồ tư duy minh họa cho phần bài trên:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2