intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Tự nhiên xã hội lớp 3

Chia sẻ: Huynh Thi Thuy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:9

257
lượt xem
54
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc sử dụng ông nghệ thông tin làm phương tiện dạy học các môn học, giúp cho việc học tập của học sinh như là một công cụ hỗ trợ cho việc dạy và học nhằm góp phần rèn luyện kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng giao tiếp, độc lập giải quyết các vấn đề, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin nhằm góp phần củng cố tư tưởng học suốt đời cho tất cả mọi người. Tham khảo sáng kiến kinh nghiệm "Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Tự nhiên xã hội lớp 3" để nắm bắt thông tin chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Tự nhiên xã hội lớp 3

  1. Trong số  báo này chúng tôi giới thiệu tiếp một sáng kiến kinh nghiệm xếp   loại B cấp thành phố năm học 2010­2011 trong lĩnh tự nhiên xã hội lớp 3 của cô giáo   Bùi Nguyệt Thu – Giáo viên trường tiểu học Đền Lừ  Quận Hoàng Mai với đề  tài:   “ứng dụng Công nghệ  thông tin vào giảng dạy môn tự  nhiên Xã Hội lớp 3 ” Thông  qua đề tài này chúng tôi huy vọng giáo viên tiểu học vận dụng CNTT vào giảng dạy   môn tự nhiện Xã Hội một cách có hiệu quả. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu tóm tắt   sáng kiến: Sang thế kỉ 21, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin (CNTT) có   tác động to lớn tới hệ thống Giáo dục ­ Đào tạo của mỗi quốc gia.  Chiến lược phát  triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2001 ­ 2010 đã nhấn mạnh: "Các ứng dụng CNTT   sẽ trở thành thiết bị dạy học chủ đạo trong giảng dạy”. Một trong những  ứng dụng  CNTT quan trọng đó là phần mềm dạy học. Trong thời đại xã hội phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện nay, việc dạy   học không chỉ  hạn chế trong các giờ  học tại nhà trường mà có thể  học tập dưới sự  hướng dẫn trực tiếp của giáo viên (GV) hoặc tự  học tập tại nhà qua hệ  thống   Internet. Như  vậy, việc sử  dụng PMDH làm phương tiện dạy học các môn học, giúp  cho việc học tập của HS như là một công cụ  hỗ  trợ cho việc dạy và học nhằm góp   phần rèn luyện kỹ  năng tư  duy sáng tạo, kỹ  năng giao tiếp, độc lập giải quyết các   vấn đề, kỹ  năng tìm kiếm và xử  lý thông tin nhằm góp phần củng cố tư  tưởng học   suốt đời cho tất cả mọi người. Phát triển rộng rãi việc ứng dụng CNTT trong nhiều   môn học, mọi trường học, mọi cấp học và mọi ngành học thông qua các loại PM   khác nhau ( PMDH, tự học, PM kiểm tra đánh giá...) dẫn đến việc xây dựng nội dung   và phương pháp đào tạo thích hợp, phát triển việc kiểm tra đánh giá trong một môi   trường giàu thông tin. Là một giáo viên tốt nghiệp chuyên ngành Tiểu học, với nhiều năm gắn bó   với môi trường sư  phạm. Tác giả  đã không ngừng học tập, nghiên cứu để  theo kịp   thời đại CNTT và nâng cao chất lượng dạy học. Việc sử  dụng các phần mềm để  thiết kế  bài giảng đã giúp tác giả  có những kết quả  khả  quan trong giảng dạy của   giáo viên và học tập của học sinh, đặc biệt là việc soạn giáo án điện tử  cho những   tiết dạy TNXH  ở  lớp 3. Đó chính là lý do tác giả  chọn và nghiên cứu đề  tài  “Ứng   dụng CNTT trong việc giảng dạy môn TNXH lớp 3”. CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ 1. Một số khái niệm cơ bản . b) Môn Tự nhiên xã hội: ­ TNXH là môn học nhằm giúp các en có  được những kiến thức cơ bản ban   đầu về.: +Con người và sức   +Một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội.  ­ Bước đầu hình thành và phát triển những kĩ năng: + Tự  chăm sóc sức khỏe bản thân;  ứng xử  hợp lí trong đời sống để  phòng  chống một số bệnh tật và tai nạn. + Quan sát, nhận xét, nêu thắc mắc, đặt câu hỏi, biết cách diễn đạt những   hiểu biết của mình về các sự vật và hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội. ­  Hình thành và phát triển những thái độ và hành vi:
  2. + Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình   và cộng đồng. + Yêu thiên nhiên, gia đình, trường học, quê hương. b) MicroSoft  PowerPoint: ­  Là công cụ tạo bài trình chiếu giúp học sinh quan sát và dễ dàng nhận biết, tiếp  thu bài học nhanh hơn, hiểu được những điều mà giáo viên truyền đạt. c)Phần mềm Violet:  ­ VIOLET là phần mềm công cụ giúp cho giáo viên có thể tự xây dựng được  các bài giảng điện tử theo ý tưởng của mình một cách nhanh chóng. So với các phần  mềm khác, Violet chú trọng hơn trong việc tạo ra các bài giảng có âm thanh, hình  ảnh, chuyển động và tương tác... rất phù hợp với học sinh cấp phổ thông các cấp.            ­ Bài tập trắc nghiệm, ghép đôi, bài tập ô chữ, bài tập kéo thả chữ, điền  khuyết, vẽ đồ thị hàm số bất kỳ v.v... •Nhiều giao diện khác nhau  2. Mục tiêu của đề tài. ­ Mục tiêu chính nhất của đề  tài là hỗ  trợ  trực tiếp cho các nhà trường Tiểu  học   trong   việc   giảng   dạy   môn   TNXH   theo   sách   giáo   khoa   có   được   những   kinh  nghiệm trong việc thiết kế và ứng dụng CNTT vào giảng dạy.  ­ Tất cả các bài soạn trên giáo án điện tử thiết kế để  được sử dụng thay thế  cho sách TNXH và được sử  dụng trên lớp như  những bài giảng điện tử  hoàn chỉnh  dành cho giáo viên giảng dạy trên lớp cũng như cha mẹ học sinh dùng tại gia đình. a)Yêu cầu của một bài giảng điện tử ­ Giáo án điện tử: phải đảm bảo chuẩn kiến thức của môn TNXH lớp 3. Giáo  án điện tử dễ sử dụng và có giao diện đẹp mắt, hình ảnh minh hoạ chính xác và sinh  động. PM có thể hiển thị thông tin dưới dạng văn bản, ký hiệu, đồ  thị, bản đồ, hình  vẽ, ảnh chụp, đoạn phim,.... Với các hình thức hoạt động đơn giản như bấm phím, di  chuyển và kích chuột... để lựa chọn và ra các lệnh theo chủ định, HS sẽ rất hứng thú   khi thấy yêu cầu của mình đề ra được thực hiện liền ngay tức thời, điều này có tác   dụng kích thích hứng thú rất mạnh mẽ trong hoạt động tự học. Những hình ảnh đẹp,  rõ ràng, nhiều màu sắc sinh động, kèm theo các đoạn văn bản, giọng nói nhạc đệm...  tác động đồng thời hoặc kế  tiếp nhau lên các giác quan giúp cho HS tự  thao tác tay   làm, mắt thấy, tai nghe, trí óc suy nghĩ... trong khi học và luyện tập, nhờ đó dễ  dàng  hiểu rõ, nắm vững kiến thức . PM cho phép giáo viên lựa chọn các tài liệu trực quan  cần cho từng phần của bài học và sử dụng chúng rất thuận tiện trong giảng dạy. b) đối tượng vận dụng. Giáo viên: Giáo viên phải chuẩn bị  kỹ  bài giảng, thiết kế  giờ  dạy, lường   trước các tình huống để chủ  động tổ  chức giờ dạy có sự  phối hợp nhịp nhàng giữa   hoạt động của thầy và hoạt động của trò. Đội ngũ giáo viên cần được chuẩn hoá,   bản thân người giáo viên phải năng động, học hỏi, tích cực đổi mới ­ Học sinh: học sinh cần chăm đều, chuẩn bị bài kỹ  ở  nhà trước khi đến lớp   và phải mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm trong giờ học. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ 1. Đặc điểm chung của trường, lớp. Giáo viên: biết sử dụng máy vi tính và có thể thiết kế, chỉnh sửa giáo án trên   Powerpoint và Violet. GV tích cực đổi mới, không ngừng học tập phương pháp hiệu  
  3. quả, tự rèn luyện nâng cao trình độ tin học, sử dụng các trang thiết bị hiện đại. Đặc   biệt GV luôn chuẩn bị kĩ bài giảng trước khi đến lớp. Tuy nhiên cơ sở vật chất của   nhà trường còn chưa được hoàn thiện: Trường có máy projecter, máy tính nhưng   chưa có phòng chức năng riêng nên việc sử  dụng các phương tiện dạy học còn hạn   chế. Khi giáo viên muốn sử  dụng thì phải tháo và lắp đặt tại lớp học của mình..   Việc thiết kế 1 bài giáo án trên Powerpoint hay Violet cũng mất rất nhiều thời gian (ít   nhất là 2 giờ) nên việc đưa giáo án điện tử vào giảng dạy các tiết học nói chung cũng   như tiết học TNXH nói riêng còn nhiều hạn chế và bất cập. Học sinh: HS còn học tập  ở nhiều mức độ  khác nhau. Tuy nhiên các em đều  ham thích một giờ học với nhiều âm thanh, hình ảnh minh hoạ, được làm chủ những  kiến thức của bài học. 2. Những ưu điểm và bất cập khi ứng dụng CNTT vào giảng dạy. a) Những ưu điểm khi ứng dụng CNTT: ­ Tôi đã từng tham gia lớp học CNTT tại trung tâm Tin học nên có sẵn trong   mình những hiểu biết về  Powerpoint và Violet. Đồng thời tôi cũng là một giáo viên   Tiểu học có nhiều năm công tác và kinh nghiệm trong giảng dạy nên nắm chắc các   bước lên lớp và kĩ năng, phương pháp sư phạm cần thiết.   ­ Trong thời gian qua nhà trường đã tạo điều kiện cho tôi đi tập huấn lớp học về  CNTT do phòng Giáo dục và Đào tạo quận Hoàng Mai tổ  chức. Đồng thời tôi cũng   không ngừng học tập, tìm hiểu về  những phần mềm đồ  họa khác để  lấy kiến thức   cũng như sưu tầm hình ảnh đẹp phục vụ cho việc thiết kế. ­ Bên cạnh đó, tôi cũng rất may mắn được sự  đồng tình và giúp đỡ, động viên   nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường và của bạn bè đồng nghiệp. ­ Thời gian sống và làm việc trong môi trường giáo dục, gắn bó với đồng nghiệp,  thương yêu học sinh, thực sự đã mang lại cho tôi cảm hứng và nhiệt huyết để  nâng  cao chất lượng giảng dạy trong từng tiết học nói chung và giời học môn TNXH nói  riêng. b) Những bất cập khi thiết kế: ­ Không phải là người học chuyên Tin nên trong khi áp dụng những bài giảng  điện tử  vào giảng dạy tôi không thể  tránh được những điều bất cập, có ý tưởng   nhưng không thiết kế được theo ý mình. ­ Nắm được tình cảm, thái độ  của học sinh trong việc học tập môn TNXH   cũng hết sức khó khăn. Tôi phải tiếp xúc, trao đổi với học sinh sau nhiều thời gian   mới thấy được. ­ Việc tìm kiếm những tư  liệu phục vụ  cho việc soạn giáo án điện tử  cũng  mất nhiều thời gian, tôi phải tìm tòi trên sách báo, mạng Internet… CHƯƠNG 3:BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẦN ĐỀ ­  Ứng dụng CNTT vào giảng dạy nhằm  đổi mới phương pháp dạy học môn  TNXH, tạo điều kiện thuận lợi cho GV trong các giờ giảng dạy ở trên lớp cũng như  chuẩn bị bài ở nhà. Với những hình ảnh, âm thanh sinh động, HS là chủ thể  của giờ  học.Các hình thức hoạt động đơn giản như bấm phím, di chuyển và kích chuột... để  lựa chọn và ra các lệnh theo chủ định, HS sẽ rất hứng thú khi thấy yêu cầu của mình 
  4. đề ra được thực hiện liền ngay tức thời, điều này có tác dụng kích thích hứng thú rất   mạnh mẽ trong hoạt động tự học Tôi ứng dụng CNTT vào giảng dạy TNXH ở một số mảng như sau: 1. Ứng dụng minh họa. ­ Theo kinh nghiệm học tập của các nước  ở  Châu Âu trẻ  chỉ  phải học  hai môn  học: Tiếng Mẹ  đẻ  và Toán.  Nhưng thời lượng ngoại khoá là 60%. Tại các buổi  ngoại khoá, trẻ học cách tìm hiểu về cuộc sống các loài hoa, các con vật. Vẽ hình và  mô tả sự hiểu biết đó.  ­ Hiểu biết về cuộc sống, mối quan hệ giữa các thành viên gia đình, các vấn đề  xã hội. Các nghề nghiệp có trong xã hội. Cách thức sản xuất.v..v.. ­ Bé học làm các vật dụng thủ công khó như đóng bàn ghế, mối hàn, làm bánh… ­ Bé tập làm quen với vịêc lao động nhóm, lao động cá nhân, theo tập thể. ­ Các bé được tham gia ngoại khoá vài ngày hoặc vài tuần tại nước ngoài. Đi cá   nhân hoặc theo tập thể lớp. Ở Thái Lan: chương trình phân theo 3 chủ đề: Kinh nghiệm sống: Sinh học, Vật lý, Hoá học, Địa lý, Lịch sử. Phát triển tính cách: Đạo đức, Âm nhạc, Thể dục. Định hướng lao động: Nữ công, Kỹ thuật nông nghiệp, Mỹ thuật. Tại Malayxia, các môn học cuộc sống được phân theo 2 giai đoạn như sau: Giai đoạn 1: hiểu biết môi trường TN – XH gần gũi, bao quanh thông qua môn  tiếng Malai. Giai đoạn 2: Tích hợp các kiến thức môn Sinh học, Vật lý, Hoá học, Địa lý, Lịch  sử, Đạo đức, Sức khoẻ thành môn Con người và Môi trường. Khác hẳn với điều kiện học tập  ở nước ta, thời gian chủ yếu của trẻ là học tại   nhà trường và thông qua sách vở. Môn Toán, Tiếng Việt được chú trọng hơn nên  những hiểu biết về thực tế của học sinh còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy tôi thiết   nghĩ để  học tập bộ  môn TNXH được tốt và cho phù hợp với điều kiện học tập  ở  nước ta,  ứng dụng CNTT vào giảng dạy là vô cùng quan trọng. Hình  ảnh và âm  thanh minh họa giúp trẻ gần với thực tế và thêm những kinh nghiệm trong vốn sống. Để làm được việc này, trong quá trình soạn giáo án điện tử giáo viên ngoài việc  nghiên cứu sách giáo khoa, sách tham khảo để đảm bảo nội dung và kiến thức trong  bài dạy, GV cần tìm hiểu những phần mềm liên quan đến việc thiết kế.  Sách giáo khoa TNXH 3 có 3 chủ đề gồm 70 bài ứng với 70 tiết của 35 tuần thực   học. Trong đó có 63 bài học mới và 7 bài ôn tập, được phân phối như sau:  + Con người và sức khỏe: HS được nhận biết một số cơ quan trên sơ đồ, cách  giữ vệ sinh và phòng bệnh cho những cơ quan này. + Xã hội: Thể hiện mối quan hệ gia đình, nhà trường, vốn hiểu biết và ý thức  về tỉnh, thành phố nơi đang sống. + Tự nhiên: Nói về Thực vật và động vật – Mặt trời và trái đất. Trong năm học này, tôi đã không ngừng học tập và phấn đấu để  nâng cao chất  lượng dạy và học. Tôi đã mạnh dạn tham gia một tiết dạy môn TNXH cấp thành   phố. Nội dung bài dạy được thiết kế trên nền Powerpoint sinh động và đẹp mắt, hình   ảnh minh họa phù hợp, phong phú kết hợp với những âm thanh, bài hát. Giờ học của  tôi đã thực sự  trở  lên hiệu quả  và được xếp loại xuất sắc cấp Thành phố  năm học  2010­2011. Tôi cũng xin đưa vào SKKN này để minh trứng cho việc ứng dụng CNTT   vào giảng dạy bộ môn TNXH lớp 3 của tôi. 2. Ứng dụng vào phần bài tập.
  5. Theo M.A.Đanilov “Kiến thức sẽ  được nắm vững thật sự, nếu học sinh có thể  vận dụng thành thạo chúng hoàn thành vào những bài tập lí thuyết hay thực hành” .  Bài tập nhằm  ôn tập những kiến thức đã học, củng cố  kiến thức cơ  bản của bài  giảng. Một đơn vị  kiến thức mới, học sinh chỉ  có thể  ghi nhớ  khi được luyện tập  nhiều lần.  Một điểm mạnh đáng kể của Violet so với các phần mềm thiết kế bài giảng  khác là khả  năng tạo ra các bài tập rất phong phú, sinh động và đặc biệt là rất đơn  giản. Ví dụ  trong Powerpoint ta phải mất cả  buổi mới có thể  tạo ra 1 bài tập trắc   nghiệm   hoặc   bài   tập   ô   chữ   thì   đối   với   Violet   chỉ   cần   vài   phút   là   đã   làm   xong. Những bài tập này cũng đặc biệt rất thích hợp trong việc củng cố  kiến thức  trong môn học TNXH. Chính vì vậy tôi thường sử  dụng phần mềm Violet để  thiết   kế phần bài tập cho bài giảng TNXH của mình. Một số ví dụ Bài tập trắc nghiệm được tạo bằng Violet a) dạng nhiều lựa chọn trong đó có một đáp án đúng: HS sẽ có cơ hội giao tiếp trực tiếp với máy tính để chọn ra đáp án đúng và kiểm  tra kết quả. Thay vì việc GV và HS nhận xét thì các em sẽ nhìn thấy kết quả bài làm  của mình ngay trên máy. Máy tính sẽ có những lời động viên khuyến khích hoặc  nhắc nhở.
  6. Dạng 2 Bài tập kéo thả chữ: Với giao diện này sẽ có trường hợp HS trả lời đúng ngay. Nhưng nếu trường hợp HS   trả lời sai thì HS khác có thể lên bảng thao tác lai để chọn ra đáp án đúng. Như vậy sẽ  thu hút HS hướng lên màn hình theo dõi kết quả bài làm của bạn và cung không quên  suy nghĩ đáp án cho riêng mình vì các bạn vẫn còn lượt trả lời. C). Ứng dụng vào phần trò chơi.   Bài tập dạng ô chữ cũng được thiết kế trên nền của Violet rất nhanh chóng và  tiện lợi. Tuy nhiên về giao diện thì Powerpoint lại chiếm ưu thế hơn ở tính thẩm mỹ  và độ tương tác. Do đó tôi thường thiết kế bài tập ô chữ trên nền Powerpoint. Đây là  một dạng bài tập thú vị. Nó không những tổng hợp được những kiến thức trong giờ  học mà còn gây hứng thú cho HS rất nhiều. Tôi không ngần ngại trong việc biến đổi  dạng bài tập này sang hình thức của một trò chơi ô chữ để giờ học thêm sôi nổi, hào  hứng. Trò chơi “Đoán tên môn học” được thể hiện dưới dạng các ô chữ
  7. HS có thể chọn ngẫu nhiên 1 trong 9 câu hỏi ­ Thời gian suy nghĩ cho mỗi câu hỏi là 30 giây. HS đưa ra đáp án. ­ Kích chọn vào phần ô chữ đáp án sẽ xuất hiện và đồng thời ngôi sao lựa chọn  câu hỏi cũng biến mất ­ Các chữ cái của từ khóa được xắp xếp không theo trật tự. Khi đã trả lời hết  từ hàng ngang hoặc bạn nào tìm ra từ khóa trước thì đưa ra đáp án và phần  đáp án sẽ hiển thị ở phía dưới
  8. ­ Đây là một trong những là một trò chơi lý thú mà còn đưa ra được cho các em  những kiến thức tổng hợp mà tôi thường xuyên áp dụng trong giờ học TNXH  CHƯƠNG 4: THỰC NGHIỆM KHOA HỌC VÀ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM 1.  Thực nghiệm khoa học: ­ Một đề tài sẽ chỉ là lí thuyết nếu như nó không được thực nghiệm. Là GV  chủ nhiệm lớp 3 tôi đã thực nghiệm PM của mình trên chính đối tượng là HS của  mình ­ Quá trình thực nghiệm được diễn ra vào thời điểm bắt đầu năm học 2010­ 2011 đến cuối học kì I. Tôi đã tiến hành giảng dạy nhiều bài TNXH trên nền giáo án  điện tử mà phần mềm hỗ trợ là violet và powerpoint. ­ Chuẩn bị về cơ sở vật chất: Một máy tính có cài đặt phần mềm Violet và  Powerpoint, máy projecter, màn chiếu, bài soạn điện tử của tiết dạy. ­ Do điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường và trình độ Tin học có hạn nên  tôi không thiết kế được hết các bài giảng môn TNXH để đưa vào giảng dạy. Tuy  nhiên tôi đã cố gắng sử dụng thật hiệu quả những bài soạn do mình đã thiết kế để  đưa vào giảng dạy 2. Kết quả thực nghiệm: ­ Sau quá trình thực nghiệm đối với HS lớp 3, tôi thu được kết quả thực  nghiệm như sau: a) Đối với giáo viên:  Trình độ và phương pháp sư phạm giảng dạy nói chung và bộ môn TNXH  nói chung ngày càng nâng cao. Tôi đã lên nhiều chuyên đề cấp trường và cấp Quận  phân môn TNXH để chia sẻ những kinh nghiệm trong giảng dạy. Tiết dạy thành công nhất là bài “Thực vật”. Qua tiết dạy này tôi đã đạt giải xuất sắc  và dành  danh hiệu “ Giáo viên dạy giỏi Tiểu học cấp Thành phố năm học 2010­ 2011”. b) Đối với học sinh: ­ So với vốn hiểu biết về TNXH của các em khi mới vào lớp 3 thì các em giờ  đây đã có một vốn hiểu biết mới phong phú hơn và đặc biệt là vốn hiểu biết đó sát  thực. HS biết áp dụng vào trong thực tế cuộc sống hàng ngày của minh (giữ vệ sinh  cá nhân để tranh mắc bệnh, có ý thức tham gia giao thông đúng luật…) ­ Kết quả học tập môn TNXH cuối kì I như sau:
  9. Xếp loại A A+ Cuối kì I 61% 39% KẾT LUẬN Việc  ứng dụng CNTT vào giảng dạy TNXH lớp 3 đã mang lại thành công  bước đầu trong công tác đổi mới phương pháp giảng dạy. Với phương pháp mới  này, người thầy không còn giữ  vai trò trung tâm mà chuyển sang vai trò là người  hướng dẫn học sinh khám phá và tiếp nhận kiến thức…  Dùng phần mềm, giáo viên có sẵn những bài giảng điện tử  nên tiết kiệm  được thời gian chuẩn bị  bài  ở  nhà cũng như  chuẩn bị  những đồ  dùng dạy học cho  một tiết TNXH nên khắc phục được tình trạng thiếu đồ  dung.  Hiệu quả  bài giảng  vẫn đạt tiêu chuẩn cao vì giáo viên có thể  chỉnh sửa giáo án cho phù hợp với đối   tượng học sinh của mình. Giáo viên có nhiều thời gian để giảng bài, đồng thời có thể  linh hoạt tổ chức cho học sinh học nhóm, kết hợp học tập hay tổ chức trò chơi.  Về phía học sinh, qua việc được xem nhiều hình ảnh minh họa sống động, kể  cả xem các đoạn phim hoặc nghe nhạc, sẽ hiểu bài kỹ và nhớ lâu hơn. Các hình thức  trắc nghiệm kiến thức, đố  vui để  học hay trò chơi giúp học sinh phát huy tính tích   cực, chủ động trong học tập.  Đổi mới phương pháp dạy học hiện đang là vấn đề  để  nâng cao chất lượng  dạy học. Đó là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong cải cách giáo dục ở  nước ta hiện nay. Tuy nhiên, việc kết hợp  ứng dụng công nghệ  thông tin và truyền   thông nhằm đổi mới nội dung, phương pháp dạy học là một công việc lâu dài, khó  khăn đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ   giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong   dạy học trong thời gian tới có hiệu quả, không có gì khác hơn là được đầu tư  để  không ngừng nâng cao, hoàn thiện và hiện đại hoá thiết bị, công nghệ dạy học; đồng  thời hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông để mọi trường học đều  có thể kết nối vào mạng Internet. Bên cạnh đó, có sự chỉ đạo đầy đủ, đồng bộ, thống   nhất bằng các văn bản mang tính pháp quy để  các trường có cơ  sở  lập đề  án, huy  động nguồn vốn đầu tư cho hoạt động này, góp phần làm thay đổi nội dung, phương   pháp, hình thức dạy học và quản lý giáo dục, tạo nên được sự  kết hợp giữa nhà   trường, gia đình, xã hội thông qua mạng, làm cơ sở tiến tới một xã hội học tập. Trên đây là những điều mà tôi đã nghĩ và đã làm về  một vấn đề  mà tôi tâm   đắc: “Ứng dụng CNTT vào giảng dạy môn Tin học lớp 3”. Vì thời gian và năng lực còn có hạn, nên không thể  tránh khỏi những sai sót  trong khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm. Rất mong được sự góp ý bổ sung của các  đồng chí và các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi ngày càng hoàn thiện hơn. Trên đây chúng tôi giới thiệu một số  kinh nghiệm của tác giả  đã áp dụng   thành công trong quá trình giảng dạy năm học 2010 ­ 2011. Chúng tôi huy vọng sáng   kiến này sẽ giúp một phần nào trong dạy học đối với cấp tiểu học nói chung và bộ   môn tự nhiên xã hội nói chung. Trong quá trình áp dụng các bạn có thể trao đổi thêm   kinh nghiệm với tác giả  Bùi Nguyệt Thu giáo viên trường Tiểu học Đề  Lừ  để  có   phương pháp áp dụng tốt hơn góp phần thành công trong nền giáo dục của thủ đô.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2