intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc – hiểu tác phẩm văn học ở chương trình Ngữ văn 12

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

90
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này tập trung đi sâu vào nghiên cứu một số phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc – hiểu tác phẩm văn học ở chương trình ngữ văn 12. Do thời gian và nguồn tư liệu có hạn, với trình độ của giáo viên THPT, đề tài này tôi chỉ tìm hiểu một số phương pháp dạy học tích cực và giới thiệu các phương pháp dạy học tích cực ở một số các tác phẩm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc – hiểu tác phẩm văn học ở chương trình Ngữ văn 12

  1. SỞ GD&ĐT VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT TRẦN HƯNG ĐẠO =====***===== BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC NHẰM  GIÚP HỌC SINH PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO TRONG GIỜ  ĐỌC – HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC Ở  CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 Tác giả sáng kiến:Từ Thị Kim Tuyến  Mã sáng kiến: 095104
  2. Vĩnh Phúc, năm 2020 SỞ GD&ĐT VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT TRẦN HƯNG ĐẠO =====***===== BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN  Tên sáng kiến ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC NHẰM  GIÚP HỌC SINH PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO TRONG  GIỜ ĐỌC – HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC Ở  CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 Tác giả sáng kiến:Từ Thị Kim Tuyến  Mã sáng kiến: 095104
  3. Vĩnh Phúc, năm 2020 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu         Đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung và đổi mới mới phương pháp  giảng dạy môn Ngữ  văn nói riêng là một vấn đề  không phải là mới. Nhưng   để  thực hiện triệt để  mục tiêu đổi mới phương pháp giảng dạy của ngành  đặt ra không phải là dễ. Vấn đề cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học là  hướng tới hoạt động học tập tích cực, chủ  động, sáng tạo, chống lại thói  quen học tập thụ động. Tức là đổi mới nội dung và hình thức hoạt động của   giáo viên và học sinh, đổi mới hình thức tổ chức dạy học. Bản thân tôi khi lựa  chọn đề tài “Áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học sinh   phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc – hiểu tác phẩm văn học ở chương   trình Ngữ văn 12” đã vấp phải không ít khó khăn trong quá trình nghiên cứu   và thực hiện. Phần vì kinh nghiệm giảng dạy của bản thân chưa nhiều, đối   tượng học sinh, cơ sở vật chất và thiết bị  dạy học còn nhiều hạn chế. Song   bằng nỗ lực của bản thân, qua đề tài này tôi muốn có cái nhìn mới về đổi mới   phương pháp giảng dạy trong giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường phổ  thông. Từ đó đưa ra một số kết luận và khuyến nghị  qua quá trình thực hiện   với hi vọng rằng đề  tài này là một tài liệu tham khảo có ý nghĩa đối với các  đồng nghiệp, đặc biệt là các đồng nghiệp trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn. Tuy nhiên, bản thân kinh nghiệm giảng dạy môn Ngữ văn còn ít, giảng  dạy trong điều kiện cơ sở vật chất và đối tượng học sinh còn nhiều hạn chế  nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự đóng  góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp và Lãnh đạo  nhà trường. 2.  Tên sáng kiến:  Áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp  học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc – hiều tác phẩm văn học ở  chương trình ngữ văn 12
  4. 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Từ Thị Kim Tuyến ­ Địa chỉ : Trường THPT Trần Hưng Đạo –Tam Dương ­ Vĩnh Phúc. ­ Số điện thoại: 0978311604           ­ Email: tukimtuyen.gvtranhungdao@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Từ Thị Kim Tuyến 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:        Đề tài này, tôi tâp trung đi sâu vao nghiên c ̣ ̀ ưu môt sô  ́ ̣ ́phương pháp dạy học  tích cực nhằm giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ  đọc – hiều tác   phẩm văn học  ở  chương trình ngữ  văn 12.Do thời gian và nguồn tư  liệu có  hạn, với trình độ  của giáo viên THPT, đề  tài này tôi chỉ  tìm hiểu một số  phương pháp dạy học tích cực và giới thiệu các phương pháp dạy học tích   cực ở một số các tác phẩm.Tư đo, giáo viên và h ̀ ́ ọc sinh tim ra đ ̀ ược gia tri cua ́ ̣ ̉   các phương pháp dạy học tích cực  môt cach chu đông sang tao, khoa hoc va ̣ ́ ̉ ̣ ́ ̣ ̣ ̀  ̣ ̉ hiêu qua thông qua vi ệc tìm hiểu về các phương pháp dạy học tích cực trong  một số tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn lớp   ̣ ́ ương phap day hoc kha 12 bên canh cac ph ́ ̣ ̣ ́c. Đồng thời cũng có thể  vận dụng  phương pháp này vào tất cả những giờ đọc văn khác  6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử, ( Năm học  2019­2020) 7. Mô tả bản chất của sáng kiến. PHẦN I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1. Lí do chọn đề tài. Từ  nhiều năm nay, việc dạy học môn Ngữ  văn được thực hiện theo  phương pháp truyền thống thiên về  lí thuyết, thầy cô giáo soạn bài giảng,  truyền thụ đến học sinh, học sinh tiếp thu thụ động kiến thức ấy, ghi nhớ và  vận dụng vào bài kiểm tra. Cứ  như  thế  thành một chu kì khép kín. Phương   pháp dạy học này có những ưu điểm riêng không thể phủ nhận được là đã đạt  những kết quả  đáng kể  trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi. Tuy nhiên trong   môi trường giáo dục ngày nay phương pháp truyền thống  ấy cũng bộc lộ  không ít nhược điểm như: Học sinh thụ  động, chỉ  biết tiếp nhận một chiều   chứ  không tự  nghiên cứu, tìm hiểu. Như  thế, hậu quả  khó tránh khỏi là học 
  5. sinh dần dần mất đi năng lực tư duy, tự cảm thụ tác phẩm mà chỉ  chấp nhận   và sao chép lại cảm thụ của thầy cô; Giáo viên chỉ thuyết giảng, thỉnh thoảng   lại đặt vào câu hỏi chiếu lệ  sẽ  không thể  nắm bắt được hiệu quả  tiếp thu  cũng như quan điểm, thái độ của học sinh. Cảm nhận văn học mang tính chủ  quan của giáo viên không có sự  phản hồi từ  học sinh sẽ  dễ  trở  thành khiên   cưỡng áp đặt; Giờ đọc văn vì không có sự  tương tác qua lại giữa thầy và trò  nên dần trở nên buồn tẻ, nặng nề không hứng thú. Trước thực trạng ấy, có thể thấy đổi mới phương pháp dạy học là việc   làm cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với việc vực dậy môn Ngữ văn vốn  đang mất dần sức hút đối với học sinh.  Trong những năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều cải cách quan trọng  từ  giáo dục ở bậc tiểu học cho đến đào tạo đại học và sau đại học. Riêng ở  phổ thông, sự đổi mới thể hiện trên nhiều phương diện, rõ nhất là về chương  trình, sách giáo khoa và đặc biệt là phương pháp dạy học. Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông  là thay đổi lối dạy học truyền thụ  một chiều sang dạy học theo “phương   pháp dạy học tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự  giác,   chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác,  kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và   thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui hứng thú trong học tập.  Từ  mục đích của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, tôi xin trao   đổi   kinh nghiệm của bản thân về  việc áp dụng phương pháp dạy học tích  cực nhằm giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc ­ hiểu tác phẩm  văn học ở chương trình Ngữ văn 12.   2. Mục đích nghiên cứu    : Mục đích nghiên cứu đề tài này là góp phần rèn luyện tính sáng tạo cho   các em học sinh. Đồng thời giúp các em tiếp cận tri thức một cách hiệu quả  nhất. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu. + Khách thể: Học sinh lớp 12 Trường THPT A. + Đối tượng nghiên cứu: Áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm  giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc ­ hiểu tác phẩm văn học ở  chương trình ngữ văn 12.  4. Giả thiết khoa học.
  6.   Một thực tế  cho thấy, chất lượng giáo dục  ở  các trường THPT hiện   nay chưa đáp ứng mục tiêu đào tạo. Do khả năng nhận thức của cha mẹ học  sinh còn hạn chế, chưa chú trọng đến việc học hành của con cái, nên chưa có  ý thức nhắc nhở, động viên con em mình đến trường, chưa làm cho con em  mình thấy được giá trị của việc học; do các thầy cô giáo áp dụng các phương  pháp dạy  học  chưa  phù  hợp, chưa  tạo ra  được  sức hút  để   học  sinh  đến  trường. Nếu có sự phối kết hợp tốt giữa gia đình và nhà trường, nếu các thầy  cô giáo thực hiện tốt việc đổi mới PPDH theo hướng tích cực thì chất lượng  dạy ­ học sẽ được nâng cao lên rõ rệt. Đặc biệt là trường THPT A. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu. ­ Đáp  ứng yêu cầu của việc thực hiện đổi mới chương trình SGK và  phương pháp dạy học. ­ Thường xuyên áp dụng các phương pháp dạy học tích cực trong các  giờ đọc ­ hiểu tác phẩm văn học nhằm phát huy tính sáng tạo của học sinh. ­ Thực hiện biện pháp tác động nhằm cải tạo thực trạng để  nâng cao  chất lượng dạy và học. 6. Phương pháp nghiên cứu. Để nghiên cứu đề tài này tôi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên  cứu sau:          ­ Các phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Đọc sách và tài liệu tham khảo   có liên quan đến đề tài, để khái quát những vấn đề, làm cơ sở cho vệc nghiên  cứu thực tiễn.          ­ Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:          + Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát theo dõi học sinh hoạt động  trong tất cả các giờ đọc ­ hiểu tác phẩm văn học.         + Phương pháp An két: Xây dựng một hệ thống câu hỏi ghi trên phiếu   bài tập, tìm hiểu mức độ nhận thức, biểu hiện, nguyên nhân của các em để có  những biện pháp khắc phục.         + Phương pháp thực nghiệm sư  phạm: Thực nghiệm những biện pháp   nhằm rèn luyện tính chủ động, sáng tạo cho học sinh trong thời gian một học   kì và so sánh kết quả thực nghiệm với kết quả thực trạng ban đầu chưa thực   nghiệm, để đánh giá kết quả của thực nghiệm có thành công hay không.          + Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Phương pháp này sử  dụng trong mỗi tiết học thông qua kết quả của việc áp dụng PPDH tích cực. 
  7.       + Phương pháp trò truyện: Trong quá trình dạy học tôi thường xuyên trò   truyện gần gũi với học sinh, trong giờ học hay ngoài giờ  học, nhằm tạo cho  học sinh tính tự  tin, bạo dạn. Để  thăm dò mức độ  biểu hiện của từng học   sinh, từ  đó lập kế  hoạch hướng dẫn rèn luyện cho phù hợp với từng đối  tượng học sinh. PHẦN II NỘI DUNG NGHIÊN CỨU A­ CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI. I. Cơ sở lý luận: 1. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã phân tích và  nhận định sâu sắc thực trạng phương pháp giảng dạy ở nước ta thời gian qua   còn chậm đổi mới, chưa phát huy được khả năng sáng tạo của người học và   yêu cầu đổi mới mạnh mẽ  phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối   truyền thụ một chiều, rèn luyện thành lối tư duy sáng tạo ở người học. 2. Luật giáo dục của nước CHXHCNVN trong điều 4 (yêu cầu về  nội  dung phương pháp giáo dục) cũng chỉ  rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát   huy tính tích cực tự giác, chủ động, tư duy, sáng tạo ở người học, bồi dưỡng   năng lực tự  học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật Giáo dục ­  trang 9 ­ 1998) II. Cơ sở thực tiễn:
  8. 1. Trong bộ môn văn học ở trường phổ thông trung học nhiều năm nay  thực tế đã có nhiều đổi mới đáng kể  nhưng vẫn còn có hiện tượng học sinh  học theo kiểu cũ: đọc thuộc, sao chép, nói lại ý sách vở  thầy cô mà không  hoặc ít có sự sáng tạo khi tiếp xúc tác phẩm văn chương. 2. Hiện tượng ít tập trung suy nghĩ, ít tìm tòi ở học sinh phải được khắc   phục dần qua những giờ  dạy của giáo viên  ở  trên lớp và cách học của học   sinh. 3. Thị  trường sách hiện nay: Sách in  ấn nhiều, giảng giải cụ  thể  tác  phẩm, học sinh mua về chép lại một cách máy móc mà không suy nghĩ, sáng  tạo do đó dẫn đến tình trạng mù kiến thức. 4. Khi tiếp xúc với tác phẩm văn học, học sinh chỉ hiểu theo một chiều,   ít chịu khó phát hiện, vốn từ  ngữ  nghèo, diễn đạt kém. Vì vậy, không đạt  hiệu quả cao khi cảm nhận tác phẩm văn chương.   B­ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN I. Vài nét khách thể nghiên cứu. Trường THPT A là một trường với quy mô nhỏ   được thành lập chưa  lâu, điều kiện thiết yếu để  phục vụ  cho dạy của giáo viên và học của học   sinh còn nhiều hạn chế. Đại đa số  học sinh có tư  tưởng lấy bằng cấp 3 để  xin đi xuất khẩu lao động hoặc di làm công nhân. Điều này đã  ảnh hưởng   không nhỏ tới việc dạy học của giáo viên và việc học tập của học sinh, nhất   là trong điều kiện kinh tế và việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học  hiện nay. Tuy nhiên, bằng sự  nỗ  lực và lòng yêu nghề, chúng tôi đã dồn tâm  huyết của mình vào công việc mà ngành đã giao cho với mong muốn làm cho   các em học sinh có vốn sống và vốn kiến thức nhất định, để  các em vững   bước vào cuộc sống sau này. Để  làm được điều đó thì phải phát huy được   tính chủ động, sáng tạo của các em, tạo điều kiện để các em được hoạt động,  từ đó tạo sự ham muốn được đến lớp mà biện pháp hữu hiệu nhất là phải đổi  mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Vì thế, GV cần phải linh   hoạt hơn trong quá trình thực hiện đổi mới bằng các biện pháp khác nhau. II. Thực nghiệm sư phạm. 1. Mục đích thực nghiệm: Như  ta đã biết, dạy học là một hoạt động có tính nghệ  thuật cao đòi  hỏi người thầy phải biết lựa chọn sao cho phù hợp với đối tượng học và với  thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy  trong nhà trường việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực sẽ  gặp rất 
  9. nhiều khó khăn. Nhưng với trách nhiệm của một người thầy, tôi đã mạnh dạn   áp dụng PPDH tích cực vào trong dạy học với đối tượng là học sinh lớp 12A   trường THPT A. Mục đích của việc áp dụng thực nghiệm này là: Rèn luyện  tính chủ động, sáng tạo cho các em học sinh, đồng thời giúp các em tiếp cận  tri thức một cách nhanh nhất. 2. Biện pháp cụ thể: Như  ta đã biết tiếp nhận văn học là một hoạt động nhằm chiếm lĩnh   giá trị  tư  tưởng, giá trị  thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Thông qua quá trình  đầu tiên là tiếp xúc, cảm thụ  văn bản ngôn từ  đến việc cảm nhận, hiểu ra  chân giá trị  của hình tượng nghệ  thuật và cảm hứng của nhà văn, tài năng   diễn tả  của nhà văn để  làm nên tác phẩm đó. Và cuối cùng là quá trình kết  thúc sự tiếp nhận  ở người đọc qua việc hiểu, rung cảm, có được những rung  cảm, những ấn tượng và chịu ảnh hưởng của tác phẩm, của hình tượng nghệ  thuật trong đời sống cá nhân. Quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học đã giúp cho con người có được  những thói  quen,  những tình  cảm lành  mạnh,  những suy  ngẫm  để  tự  rèn  luyện, tự điều chỉnh bản thân bởi vì chức năng tiếp nhận văn học không chỉ  đơn thuần là quá trình người đọc tiếp xúc với tác phẩm văn học mà nó còn   diễn ra quá trình nhận thức ở họ khi người đọc và người học có ý thức cao về  những vấn đề trong tác phẩm văn học. Quá trình học văn ở trường THPT đối  với lứa tuổi học sinh chính là quá trình thầy cô giúp các em tiếp xúc tác phẩm,  hiểu ra cái đúng, cái hay của nó và bằng tài năng của mình người thầy phải   cảm thụ, cảm nhận một cách toàn diện để  sau đó từng bước đưa HS bước   vào tác phẩm mà phân tích, cảm thụ và hiểu tác phẩm một cách đầy đủ, đúng  đắn. Trong cảm nhận tác phẩm văn học, người đọc phải dùng liên tưởng,  tưởng tượng để hình dung, để hiểu ý đồ, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng nhà  văn trong tác phẩm, bởi vì   nhà văn đã dùng liên tưởng, tưởng tượng làm  phương tiện, cách thức, thủ  pháp nghệ  thuật để  sáng tác tác phẩm văn học.   Quá trình tiếp xúc, tiếp thu một giờ giảng văn trên lớp của học sinh phải nhờ  vào tài năng, kĩ năng của người thầy qua các thao tác đọc, phân tích, bình  giảng, nhận xét để bằng các giác quan, học sinh có thể hiểu tác phẩm qua hệ  thống ngôn ngữ, hình tượng, các thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm. Sự dẫn   dắt của người thầy rất quan trọng, vì thế  thầy muốn dẫn dắt học sinh bước  vào khám phá tác phẩm thì trước hết phải hiểu tác phẩm, thâm nhập vào tác  phẩm một cách tự  nhiên, thoải mái và có khả  năng phân tích, đánh giá tác  
  10. phẩm và qua sự cảm thụ của mình hướng cho học sinh cảm thụ cái hay, chỗ  độc đáo của tác phẩm để  từ  đó từng bước hiểu ra vấn đề  nhà văn đặt ra và  giải quyết trong tác phẩm. Đề cập đến bản chất của giờ giảng văn, GS Đặng Thai Mai cho rằng:   “giảng văn trước hết là theo dõi trong nếp   áng  văn tất cả  cái tinh vi về  tư   tưởng, cái độc đáo về  nghệ  thuật của một tác giả. Hiểu như  vậy giảng văn   trước hết là chỉ ra sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, giữa kĩ thuật và   tư  tưởng trong một tác phẩm văn chương”(  Giảng văn Chinh phụ  ngâm  ­  Đặng Thai Mai ­ ĐHSPI HN; 1992). Vậy thì muốn chỉ  ra sự  thống nhất  ấy   trong tác phẩm rõ ràng lao động của giáo viên dạy văn vừa phải có tính nghệ  thuật vừa phải có tính sư  phạm. Mà tính nghệ  thuật của giờ  giảng văn tất   nhiên lại phải phụ thuộc vào tài năng của giáo viên và trình độ, khả năng của  học sinh. Như trên đã nói, tiếp xúc với tác phẩm văn chương, học sinh cần có   sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, rõ ràng mới có thể cảm nhận được cái  hay của tác phẩm, cái tài của tác giả. Việc đó theo tôi hoàn toàn phụ  thuộc  vào khả  năng tiếp thu của học sinh qua tài năng dẫn dắt của giáo viên. Vậy  thì việc đầu tiên theo tôi người thầy dạy văn cần phải làm đó là phải bằng   mọi cách tác động vào tư duy sáng tạo của học sinh trong quá trình tiếp nhận   tác phẩm văn học. Sự tác động ấy có thể bằng nhiều hình thức khác nhau. Có  thể đó là giọng đọc thiết tha diễn cảm khi phân tích tác phẩm trữ tình, giọng   đọc hài hước dí dỏm khi tiếp cận tác phẩm trào phúng, giọng đọc đanh thép  mạnh mẽ khi thể hiện thái độ căm thù, giọng đọc nhẹ nhàng ấm áp khi diễn   tả  tình cảm yêu thương... hoặc có thể  đó  còn là một hệ  thống câu hỏi phù  hợp, đúng lúc gõ vào trí tuệ  học sinh, bắt học sinh phải suy nghĩ, phải căng   thẳng chút ít để phán đoán mở hướng hiểu, cách khai thác vấn đề. Qua một số năm giảng dạy bộ môn văn ở  trường THPT, tôi thấy rằng  để  có được một giờ  giảng văn trọn vẹn quả  thật là khó bởi vì đó là cả  một  nghệ thuật. Giờ giảng văn đòi hỏi học sinh phải liên tưởng, tưởng tượng mới   có sự sáng tạo trong phát hiện tìm tòi trong khi đó thời gian rất eo hẹp. Đã thế  lớp học có ít nhất hơn 30 học sinh, thầy chỉ có một mà trò thì quá nhiều, sự  liên tưởng, tưởng tượng không đồng đều ở học sinh. Tất cả chừng ấy yếu tố  cũng đủ  để  chúng ta hiểu rằng khó có thể  cầu toàn đối với một giờ  giảng   văn. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn không thể có  được những giờ dạy, bài giảng thành công. Với những gì đã làm, đã học tập ở  đồng nghiệp và tiếp xúc với các khoá học sinh, tôi thấy rằng chúng ta có thể 
  11. giúp cho học sinh có điều kiện rèn luyện tư duy sáng tạo khi tiếp xúc với tác   phẩm văn chương qua một số vấn đề, một số thao tác sau đây: 1. Trong giờ học văn, trước khi giảng giáo viên có thể dùng lời kể hoặc   lời dẫn kết hợp với một số  hình  ảnh, đoạn phim, bài hát, câu thơ  minh hoạ  để tạo tâm thế thoải mái, giúp học sinh có điều kiện thâm nhập được vào tác  phẩm, vào bài dạy một cách hứng thú. Có thể ứng dụng công nghệ  thông tin   trong phần giới thiệu về tác giả, tác phẩm, giọng đọc của tác giả, hoặc nghệ  sĩ, một vài hình ảnh minh hoạ hoặc các tài liệu quý hiếm giúp học sinh hiểu   sâu thêm tác phẩm.  Ví dụ:  ­ Dạy bài “ Ai đã dặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường,  ta có thể  dẫn dắt học sinh bằng lời giới thiệu, lời dẫn về con sông Hương  của Huế   ở  vẻ  đẹp tự  nhiên, văn hoá, lịch sử; hoặc cho học sinh nghe đoạn   nhạc “Dòng sông ai đã đặt tên?” kết hợp trình chiếu một số  hình  ảnh về  sông Hương, xứ Huế và hỏi cảm nhận của học sinh về dòng Hương. ­ Dạy bài “ Sóng ” của Xuân Quỳnh, ta có thể bắt đầu bằng một đoạn  bài hát về biển, một bài thơ có cùng chủ đề hoặc một trò chơi từ đó gợi dẫn   về vấn đề cơ bản cần tìm hiểu trong tác phẩm. ­ Dạy bài “Đàn ghi ta của Lor – ca ” có thể  cho học sinh khởi động  bằng cách nghe bài hát Cây đàn ghi ta của Lor – ca để tạo tâm thế và để học  sinh cảm nhận được phần nào về Lor – ca. Phần tìm hiểu về hình tượng Lor  ­ ca có thể trình chiếu một vài hình ảnh biểu tượng cho văn hóa Tây Ban Nha  để học sinh hiểu rõ hơn những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng, siêu thực   trong bài. Ví dụ: hình  ảnh đàn ghi ta, hình  ảnh đấu sĩ và bò tót, hình  ảnh áo  choàng đỏ gắt, hình ảnh hoa li ­ la, thiếu nữ di gan… 2. Trong  giờ  Đọc văn, giọng đọc của giáo viên như  trên đã nói là rất  quan trọng. Với giọng đọc của mình, giáo viên có thể  đã và đang truyền thụ  được cái hồn của tác phẩm cho học sinh. Qua giọng đọc của thầy, học sinh  đã có thể thấy mở ra trong tâm trạng, trong cảm xúc và tư  duy những gì cần   lĩnh hội. Đọc đúng, đọc diễn cảm đòi hỏi sự  luyện tập công phu của người   thầy. Nhiều đoạn thơ, đoạn văn thầy không cần giảng, bình mà chỉ đọc đã có  thể mở ra cho trò bao nhiêu điều thú vị. Tuy nhiên không chỉ  có thầy đọc mà  thầy phải có trách nhiệm tập luyện cho học sinh thói quen đọc đúng, đọc diễn   cảm  văn bản bởi vì đọc chính là khâu đầu tiên giúp học sinh cảm nhận tác   phẩm   văn  chương  bằng  chính  giọng  đọc   của  mình  để   cảm  thụ   đúng  tác  
  12. phẩm, cảm thụ  cái hay của tác phẩm thông  qua sự  ngân vang của nó trong  cảm xúc, là yếu tố quan trọng cho học sinh đến được và dần hiểu tác phẩm  văn chương. Một giờ  giảng văn mà cả  thầy lẫn trò đều có giọng đọc tốt sẽ  truyền được cảm xúc của mình từ tác phẩm cho học sinh trong lớp. 3. Giáo viên cần xây dựng một hệ thống câu hỏi phù hợp và sử dụng có   hiệu quả. Việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong giờ Đọc văn là hết sức cần  thiết. Nó sẽ  giúp học sinh tích cực, chủ  động tiếp thu, làm chủ  kiến thức.  Thậm chí, bằng hệ thống câu hỏi có chất lượng, người thầy có thể khơi gợi   sự sáng tạo của các em, làm cho giờ dạy trở nên hấp dẫn và có hiệu quả hơn   rất  nhiều.  * Để giúp các em phát huy tính sáng tạo của mình, trong giờ đọc – hiểu   tác phẩm, giáo viên nên xây dựng, sử dụng hệ thống câu hỏi sáng tạo. Đây là  loại câu hỏi yêu cầu học sinh phải vận dụng suy nghĩ độc lập, kết hợp với  khả năng tư duy chặt chẽ, trên nền tảng kiến thức đã có để  tìm tòi, phát hiện  ra cái mới. Loại câu hỏi này mang đặc trưng của một giờ hướng dẫn học sinh   cảm thụ tác phẩm văn chương. Nó đáp ứng đúng đặc thù của bộ môn và phân   môn, tạo cảm hứng cho cả  người dạy lẫn người học. Có thể  phân ra nhiều   kiểu nhỏ của dạng câu hỏi sáng tạo: + Câu hỏi phân tích: Kiểu câu hỏi phân tích yêu cầu học sinh bám sát  các yếu tố của tác phẩm, đi sâu tìm hiểu giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung   của tác phẩm. Ví dụ: Phân tích hình  ảnh người lính Tây Tiến được tác giả  tập trung   khắc họa ở đoạn thứ ba trong bài thơ Tây Tiến? + Câu hỏi dẫn dắt gợi mở: Đây sẽ là câu hỏi mang lại nhiều hiệu quả  và thể  hiện rất rõ khả  năng sư  phạm của người thầy. Từ  những chi tiết cụ  thể  trong tác phẩm, người thầy sẽ  hướng dẫn học sinh huy động khả  năng  liên tưởng, tưởng tượng của mình để tự học sinh sẽ phát hiện ra những điều   mới mẻ, khơi gợi ở học sinh sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú từ những  gì đã có trong văn bản. Ví dụ: Khi tìm hiểu bài thơ  Sóng của Xuân Quỳnh, để chỉ  ra được kết  cấu nghệ thuật của bài thơ và thấy được sự tương đồng giữa “sóng” với tâm   hồn người phụ nữ  đang yêu, có thể  đặt câu hỏi :  Giữa sóng và em trong bài   thơ  có mối quan hệ  như  thế  nào? Em có nhận xét gì về  nghệ  thuật kết cấu   của bài thơ? Người phụ nữ đang yêu tìm thấy sự tương đồng giữa các trạng   thái của tâm hồn mình với những con sóng. Hãy chỉ ra sự tương đồng đó.
  13. + Câu hỏi nêu vấn đề: Đi­xtec­vec nói rằng: “Người giáo viên bình   thường mang chân lí đến cho học trò. Người giáo viên giỏi biết dạy học trò   đi tìm chân lí”. Mà trong thực tế, chân lí nhiều khi  ẩn sau những nghịch lí. Ở  mỗi tác phẩm văn chương, đều có những vấn đề, những mâu thuẫn được đặt   ra. Giáo viên giỏi sẽ  nắm bắt hoặc tìm cách tạo ra những tình huống có vấn  đề để học sinh chủ động giải quyết. Ví dụ:   Nghệ sĩ Phùng đã chụp bức  ảnh con thuyền trên biển sớm mờ   sương từ một cự li rất gần.  Hãy lí giải vì sao Nguyễn Minh Châu lại đặt tên   cho tác phẩm của mình là “Chiếc thuyền ngoài xa” ? * Để  phát huy được tính sáng tạo của học sinh, khi xây dựng và sử  dụng hệ thống câu hỏi cần chú ý một số nguyên tắc sau:  ­ Cần khuyến khích được sự tham gia của tất cả các học sinh trong lớp:  Trình độ  học sinh trong một lớp học không thể  đồng đều. Tâm lí chung của  người dạy là hay chú ý đến những học sinh thông minh, hăng hái. Và câu hỏi   cũng thường hướng về  những em vốn được coi là sáng dạ  trong lớp. Như  vậy, những học sinh trung bình hoặc yếu kém thường không có cơ  hội để  trình bày ý kiến. Muốn tránh tình trạng này, giáo viên nên chuẩn bị  nhiều  dạng câu hỏi, có dễ, có khó. Những câu hỏi khó, nếu cần phải có cả  câu hỏi   gợi ý để khơi mở cho học sinh con đường đến với chân lí. ­ Không nên yêu cầu học sinh trả lời hoàn toàn theo ý mình: Tác phẩm   văn chương vốn đa thanh đa nghĩa. Với mỗi thời đại, mỗi dân tộc, thậm chí  với mỗi người đọc trong những hoàn cảnh khác nhau, nó lại mang những nét  nghĩa không hoàn toàn trùng lặp. Giáo viên cũng là một kiểu người đọc, có   thể là người đọc lớn tuổi, có kinh nghiệm sống, sự trải nghiệm nhiều hơn so   với người đọc ­ học sinh. Nhưng cần chú ý một điều, cách  hiểu của người   thầy về  văn bản văn học không phải là cách hiểu duy nhất đúng. Vậy cần  tránh hiện tượng người dạy cố gắng lái học sinh theo suy nghĩ của mình một   cách gò ép, khiên cưỡng. Điều này vừa phản giáo dục vừa không phù hợp với  con đường tiếp cận cái hay cái đẹp của văn chương phải bằng những rung  động thẩm mĩ. ­ Biết phân loại các câu trả lời: Đây là những tình huống sư phạm, yêu  cầu giáo viên phải có cách  ứng xử  hợp lí, khéo léo. Với những câu trả  lời   hoàn toàn đúng, hãy khích lệ  học sinh bằng một lời khen đúng mức. Các em   sẽ cảm thấy tự tin, thậm chí thấy mình đã thành công. Với những câu trả lời   sai, cần nhạy bén tìm ra nguyên nhân khiến học sinh nhầm lẫn. Nên tiếp tục   có định hướng để các em tìm ra câu trả lời đúng. Cũng cần hết sức quan tâm  
  14. đến những câu trả lời ngoài dự đoán.Trong một lớp học, giữa những học sinh   bình   thường   có   thể   có   những   em   xuất   sắc,   năng   lực   cảm   thụ   vượt   trội.  Những học   sinh này có thể  đưa ra những câu trả  lời bất ngờ, thông minh,   ngoài tầm dự  đoán của giáo viên, thậm chí còn gợi mở  một hướng khái thác  mới cho bài học. Người thầy không chỉ  dạy mà còn học được nhiều điều từ  những học sinh như thế. Trong trường hợp này, cần khuyến khích, khen ngợi,   tạo cơ hội cho các em được phát triển năng lực của mình.  4. Trong giờ  học văn, để  rèn luyện tư  duy sáng tạo cho học sinh, giáo  viên còn phải cố  gắng tập cho học sinh có thói quen rèn luyện và thao tác   những thói quen cần thiết khi chuẩn bị ở nhà và khi học giờ giảng văn ở lớp.   Theo tôi đó có thể là những thói quen sau: ­ Thói quen đọc tác phẩm cẩn thận, kỹ  càng, đọc đúng đọc, diễn cảm   để  tự  cảm nhận tác phẩm, đồng thời với việc đọc có suy nghĩ là thói quen  gạch chân và ghi lại những đoạn hay của tác phẩm. ­ Thói quen đọc thuộc  tác phẩm, ghi nhớ, suy ngẫm tác phẩm, những  câu đoạn mà mình tâm đắc nhất. ­ Thói quen liên tưởng, liên hệ với những vấn đề, những tác phẩm khác   có liên quan đến những giá trị cơ bản trong tác phẩm đang học. ­ Thói quen lật đi lật lại những vấn đề  quan trọng khi cảm nhận phân  tích tác phẩm. ­ Thói quen cảm nhận tác phẩm theo nhiều chiều, nhiều khía cạnh  không máy móc thụ động; phải tập trung suy nghĩ, phát hiện những điều mới   lạ ở tác phẩm khi cảm nhận nó qua sự dẫn dắt gợi ý của thầy cô, có nghĩa là  phải có sự cảm nhận của riêng mình. ­ Phải biết và có thói quen cảm nhận tác phẩm theo đặc trưng thể loại,   đặc trưng thi pháp. 5. Rèn luyện tư  duy sáng tạo cho học sinh  ở  giờ  học văn không chỉ  dừng lại  ở những thao tác trên mà nó còn đòi hỏi ở  cả thầy lẫn trò một cách   học, cách dạy hợp lý, khoa học, linh hoạt, không phải bài nào cũng giảng và  liên tưởng theo một cách, không phải tác giả tác phẩm nào cũng một dạng lời   bình mà phải tùy thuộc vào hoàn cảnh, tác phẩm cụ  thể  để  hướng dẫn học  sinh cách cảm thụ, cách phát hiện. Về  phía học sinh, theo tôi nếu cầu toàn  100% học sinh đều cảm thụ tốt tác phẩm văn học bằng tư duy của các em thì   khó mà đạt được. Vì vậy phải tùy đối tượng, tùy năng lực cảm thụ  văn học   của từng đối tượng mà hướng dẫn chỉ  đạo các em phát hiện sáng tạo phù  hợp. 
  15. 6. Để  giúp học sinh có được sự  sáng tạo trong giờ  học văn, giáo viên  nên hướng dẫn cho học sinh đi theo con đường thi pháp học bởi vì thi pháp   học sẽ  giúp học sinh hiểu đúng, nhanh chóng phát hiện ra những điểm sáng  thẩm mỹ   ở  tác phẩm. Muốn vậy, người thầy phải nắm và vận dụng linh   hoạt, vững vàng lý luận thi pháp trong quá trình giảng văn. Ví dụ: ­ Với thơ, nên đi từ mạch cảm hứng, cảm xúc của nhân vật trữ  tình hoặc hình tượng trữ tình trong tác phẩm ( Chẳng hạn khi tìm hiểu bài thơ  “ Sóng” của Xuân Quỳnh ta có thể  phân tích hình tượng sóng và hình tượng   em; Khi tìm hiểu bài thơ  “Đất Nước ” của nguyễn Khoa Điềm ta phân tích  theo mạch trữ tình­ chính luận của nhân vật trữ tình trong bài thơ). ­ Với văn xuôi, có tác phẩm giảng bằng thi pháp nhân vật, có tác phẩm   giảng bằng thi pháp cốt truyện, tình tiết...( Chẳng hạn khi tìm hiểu tác phẩm   “ Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài thì phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật;  khi tìm hiểu tác phẩm “  Ai đã đặt tên cho dòng sông” hoặc “Người lái đò   sông Đà” thì phân tích tác phẩm theo đăc trưng thể loại bút kí, tuỳ bút). 7. Để  phát huy sự  sáng tạo, tích cực chủ  động của học sinh, giáo viên   cần tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, đồng thời vận dụng các   phương pháp, kĩ thuật dạy học mới vào giờ  đọc văn, như  phương pháp thảo  luận nhóm, giao dự án, kết hợp kĩ thuật khăn trải bàn, mảnh ghép,…v...v... 3. Minh hoạ đọc ­ hiểu tác phẩm: Để  tiến hành thực nghệm các vấn đề  đã nêu ra, tôi xin chọn một tiết  học cụ thể để minh hoạ. Nhưng do thời gian và điều kiện cho nên tôi chỉ tóm  tắt ngắn gọn tiết học với mục tiêu tập trung vào việc áp dụng PPDH tích cực.
  16. Ngày soạn:  Tiết 37,38 SÓNG                                           ­ Xuân Quỳnh­ I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:  1. Về kiến thức ­ Qua 2 hình tượng sóng và em, HS cảm nhận được những cung bậc tình cảm,   vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. ­ Đặc sắc trong nghệ  thuật xây dựng hình tượng  ẩn dụ, giọng thơ  tha thiết,   sôi nổi, nồng nàn, nhiều suy tư, trăn trở. 2. Về kĩ năng ­ Đọc  ­ hiểu một bài thơ trữ tình theo đặc trưng thể loại. ­ Rèn kĩ năng cảm thụ thơ. 3. Về thái độ ­ Nhận thức đúng đắn về một tình yêu đẹp. ­ Trân trọng những khát vọng hạnh phúc chân chính, vẻ  đẹp tâm hồn của  người phụ nữ. 4. Các năng lực cần hình thành cho học sinh ­ Năng lực tự học:  + Xác định mục tiêu học tập: Xác định được nhiệm vụ  học tập một cách tự  giác, chủ động; tự đặt được mục tiêu học tập để nỗ lực phấn đấu thực hiện. + Đánh giá và điều chỉnh việc học: Nhận ra và điều chỉnh những sai sót, hạn  chế của bản thân khi được giáo viên, bạn bè góp ý; chủ động tìm kiếm sự hỗ  trợ của người khác khi gặp khó khăn trong học tập. ­ Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo:  + Phát hiện và làm rõ vấn đề: Phân tích được tình huống trong học tập; phát   hiện và nêu được tình huống có vấn đề trong học tập. + Đề xuất, lựa chọn giải pháp: Xác định được và biết tìm hiểu các thông tin   liên quan đến vấn đề; đề xuất được giải pháp giải quyết vấn đề.
  17. + Thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề: Thực hiện giải pháp  giải quyết vấn đề  và nhận ra sự  phù hợp hay không phù hợp của giải pháp  thực hiện ­ Năng lực giao tiếp:  + Sử dụng tiếng Việt: Nghe hiểu nội dung chính hay nội dung chi tiết các đề bài, lời   giải thích, cuộc thảo luận; có thái độ tích cực trong khi nghe; có phản hồi phù hợp,... + Xác định mục đích giao tiếp: Bước đầu biết đặt ra mục đích giao tiếp và  hiểu được vai trò quan trọng của việc đặt mục tiêu trước khi giao tiếp. ­ Năng lực hợp tác: + Xác định mục đích và phương thức hợp tác: Chủ  động đề  xuất mục đích  hợp tác khi được giao các nhiệm vụ; xác định được loại công việc nào có thể  hoàn thành tốt nhất bằng hợp tác theo nhóm với quy mô phù hợp. + Đánh giá hoạt động hợp tác: Biết dựa vào mục đích đặt ra để tổng kết hoạt  động chung của nhóm; nêu mặt được, mặt thiếu sót của cá nhân và của cả  nhóm. ­ Năng lực thẩm mỹ:  + Nhận ra cái đẹp: Có cảm xúc và chính kiến cá nhân trước hiện tượng trong tự  nhiên, đời sống xã hội và nghệ thuật. + Diễn tả, giao lưu thẩm mỹ: Giới thiệu được, tiếp nhận có chọn lọc thông  tin trao đổi về  biểu hiện của cái đẹp trong tự  nhiên, trong đời sống xã hội,  trong nghệ thuật và trong tác phẩm của mình, của người khác. II. CHUẨN BỊ CỦA THẦY VÀ TRÒ  1. Chuẩn bị của giáo viên ­ Trờ chơi ô chữ, video bài hát “Sóng”, các bài thơ cùng chủ đề 2. Chuẩn bị của học sinh ­ Soạn bài theo các câu hỏi hướng dẫn học bài. III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC 1. Ổn định tổ chức:   Lớp Ngày dạy Sĩ số 12A1 12A2 12A3 2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra trong giờ 3. Bài mới:
  18. HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS NỘI DUNG CẦN ĐẠT
  19. I. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG:  TRÒ CHƠI Ô CHỮ + GV đưa ra các câu hỏi học sinh  trả lời + Mỗi câu trả  lời sẽ  lộ  ra một từ  khóa + từ khóa là “ Tình yêu” =>   Gv   dẫn   dắt   và   giới   thiệu   bài  thơ “Sóng” của XQ. II. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH  I. Tìm hiểu chung KIẾN THỨC MỚI. 1. Tác giả 1. Hoạt động 1: Đóng vai ­ Xuân Quỳnh (1942 ­ 1988). ­ 1hs đóng vai phóng viên hỏi về  ­ Quê: La Khê, Hà Đông, Hà Tây   tác giả Xuân Quỳnh. ­ Cuộc đời: ­1 hs đóng vai tác giả  trả  lời các  + Mẹ mất sớm, ở với bà nội. câu hỏi của phóng viên. +Từng là diễn viên múa Đoàn văn công  trung ương, biên tập viên báo Văn nghệ,  biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm  mới,   Uỷ   viên   Ban   chấp   hành   Hội   nhà    văn Việt Nam khoá III.   + Mất cùng chồng và con trai vì tai nạn  giao thông tại Hải Dương (29­4­1988) ­ Sự nghiệp sáng tác: + Tác phẩm tiêu biểu: SGK. + Phong cách thơ: +) Tiếng lòng của một tâm hồn phụ  nữ  giàu   tình   cảm   yêu   thương,vừa   hồn  nhiên; vừa chân thành, đằm thắm +) Trong T/Y luôn thể hiện cảm hứng: • Khao   khát   gắn   bó,   hiến   dâng   hi  sinh cho T/Y • Dự cảm lo âu, trăn trở suy tư đầy  bất ổn ­ Vị trí:  + Một trong những gương mặt tiêu biểu 
  20. III. Kết quả thực hiện: Trong học kì I, năm học 2019 ­ 2020,  tôi đã áp dụng các giải pháp trên   trong một số  bài giảng văn  ở  lớp 12A để  không ngừng góp phần rèn luyện,  khơi gợi khả  năng sáng tạo  ở  các em học sinh. Thực tế  qua các giờ  dạy tôi  thấy HS đã  kích thích được khả  năng học tập sáng tạo, tích cực, chủ  động,   say mê tìm hiểu kiến thức mới một cách có hiệu quả. Giờ  học sôi nổi, hấp   dẫn và có hiệu quả hơn. Bảng số liệu. Trước thực nghiệm Sau thực nghiệm   Kết quả Số lượng % Số lượng % Giỏi 02 5,1% 05 12,8% Khá 14 35,9% 19 48,7% Trung bình 20 51,3% 15 38,5% Yếu 3  7,7% 0 0 %          Qua bảng số liệu trên, ta có thể thấy sau thực nghiệm chất lượng học   tập của học sinh được nâng lên rõ rệt. Cụ  thể số học sinh khá giỏi tăng, học  sinh trung bình, yếu giảm đáng kể. Điều đó cho thấy đề  tài bước đầu mang   tính khả thi. PHẦN III  KẾT LUẬN Góp phần khơi gợi và rèn luyện sự sáng tạo cho học sinh trong giờ đọc  ­ hiểu là công việc thường xuyên và cần thiết  ở  tất cả  các môn học. Tuy   nhiên  ở  bộ  môn văn các đặc thù của nó vẫn là sự  sáng tạo dựa trên sự  đồng  cảm, sự  cảm nhận của người học qua người dạy văn và văn bản ngôn từ  trong tác phẩm. Sự sáng tạo trong văn chương không hề có sự giống nhau bởi  sự liên tưởng, tưởng tượng ở mỗi người khác nhau, tuy vậy vẫn có chỗ giống  nhau trong tiếp nhận tác phẩm văn học giữa các đối tượng: tác giả  ­ người  dạy ­ người học. Theo tôi để có sự gặp nhau ấy, cả người dạy và người học   phải có một trường liên tưởng, một sự tưởng tượng phong phú, linh hoạt để  từ  đó người dạy có thể đưa người học vào tác phẩm bằng hệ  thống các câu   hỏi, bằng lời bình, cách đọc, lời phân tích và người học tiếp nhận tác phẩm  bằng quá trình tích luỹ từ ngữ, vốn hiểu biết và khả năng cảm nhận được tác 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2