SÁNG KI ẾN KINH NGHI<br />
PHÒNG GIÁO D <br />
ỤC VÀ ĐÀO T ỆM<br />
ẠO KRÔNG ANA<br />
Krông Ana, tháng 03/2017<br />
TRƯỜNG THCS BUÔN TRẤP<br />
BIỆN PHÁP ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ <br />
ĐỘNG CỦA HỌC SINH TRONG HỌC TẬP MÔN NGỮ <br />
VĂN LỚP 6,7 Ở TRƯỜNG THCS BUÔN TRẤP<br />
BỘ MÔN: NGỮ VĂN<br />
<br />
Họ và tên: Nguyễn Thị Hoài Sương<br />
Chức danh: Giáo viên<br />
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm<br />
Môn đào tạo: Ngữ Văn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
I. PHẦN MỞ ĐẦU<br />
I.1. Lý do chọn đề tài<br />
Ngữ văn là một môn học rất quan trọng trong hệ thống các môn học ở cấp <br />
THCS. Mục tiêu của môn Ngữ văn là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục nói chung, <br />
chú trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp. Cụ thể, môn học Ngữ văn nhấn <br />
mạnh ba mục tiêu chính sau: Thứ nhât rang b<br />
́ ị những kiến thức phổ thông, cơ bản, <br />
hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn <br />
học Việt Nam – phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo <br />
nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ hai, hình <br />
thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn bản, <br />
cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là phương pháp tự học, <br />
năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống. Thứ ba, bồi dưỡng cho học <br />
sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước, <br />
lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần <br />
dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị <br />
hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và <br />
nhân loại”. Viêc day hoc môn Ng<br />
̣ ̣ ̣ ữ Ngữ văn con la giup cho hoc sinh co đ<br />
̀ ̀ ́ ̣ ́ ược <br />
nhưng nh<br />
̃ ưng ky năng giao tiêp, s<br />
̃ ̃ ́ ự tự tin trinh bay tr<br />
̀ ̀ ươc đông ng<br />
́ ười; giup cac em<br />
́ ́ <br />
́ ̉ ̃ ưng vang, dam bay to y kiên, suy nghi cua minh. Do vây, viêc nâng cao<br />
co ban linh v ̃ ̀ ́ ̀ ̉ ́ ́ ̃ ̉ ̀ ̣ ̣ <br />
́ ượng day hoc môn Ng<br />
chât l ̣ ̣ ữ văn la vô cung quan trong.<br />
̀ ̀ ̣<br />
̣ ̣ ̣<br />
Tuy vây, trong viêc hoc môn Ng ữ văn hiên nay noi chung, nhi<br />
̣ ́ ều em rất rụt <br />
rè trong giao tiếp, không dám bày tỏ ý kiến, suy nghĩ … của mình trước lớp, thiếu <br />
chủ động, tích cực trong việc tiếp thu kiến thức bài học. Chât l ́ ượng hoc tâp <br />
̣ ̣ ở <br />
nhưng l<br />
̃ ơp đai tra ch<br />
́ ̣ ̀ ưa được như mong muôn. V́ ậy làm thế nào để phát huy tính <br />
tích cực chủ động của học sinh trong học tập là câu hỏi mà các thầy cô giáo trong <br />
đó có bản thân chúng tôi luôn trăn trở và tìm hướng trả lời.<br />
Xuất phát từ nhu cầu và mong muốn của bản thân chung tôi trong quá trình<br />
́ <br />
dạy học là nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trong chương trình dạy học <br />
môn Ngữ văn ở trường phổ thông, do đó chung tôi l<br />
́ ựa chọn nghiên cứu đề tài <br />
̣ ́ để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập <br />
"Biên phap<br />
môn Ngư văn l<br />
̃ ơp 6,7 <br />
́ ở trương THCS Buôn Trâp<br />
̀ ́ ".<br />
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài<br />
a. Mục tiêu của đề tài<br />
2<br />
Chia sẻ cùng các thầy cô giáo một số kinh nghiệm nhằm phát huy tính tích <br />
cực, chủ động của học sinh thông qua việc vận dụng phương pháp dạy học tích <br />
cực trong giảng dạy phân môn Đoc – Hiêu văn ban thuôc môn Ng<br />
̣ ̉ ̉ ̣ ữ văn cấp THCS, <br />
góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, tạo niềm say mê, hứng thú cho các em <br />
trong học tập.<br />
b. Nhiệm vụ của đề tài<br />
Trình bày cụ thể những việc cần làm và làm như thế nào để tạo điều kiện <br />
cho học sinh phát triển tư duy sáng tạo, phát huy tính chủ động, tích cực trong học <br />
tập.<br />
I.3. Đối tượng nghiên cứu<br />
Từ thực tế việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh trường THCS <br />
Buôn Trấp. Đặc biệt là việc dạy và học môn Ngữ văn ở hoc sinh l<br />
̣ ơp 6,7 Tôi tiên<br />
́ ́ <br />
hanh nghiên c<br />
̀ ưu nh<br />
́ ưng biên phap day hoc tich, viêc ap dung biên phap day hoc nay<br />
̃ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ̣ ̣ ̀ <br />
̣ ́ ́ ực chu đông cua hoc sinh.<br />
trong viêc phat huy tinh tich c<br />
́ ̉ ̣ ̉ ̣<br />
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu<br />
Phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy phân Đoc – Hiêu văn ban cua<br />
̀ ̣ ̉ ̉ ̉ <br />
môn Ngữ văn lơp 6,7.<br />
́<br />
I.5. Phương pháp nghiên cứu<br />
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: các tài liệu viết về các phương pháp dạy <br />
học tích cực, giáo án Ngữ văn của giáo viên.<br />
Phương pháp điều tra thực tế: thông qua thực tế giảng dạy và các tiết dự <br />
giờ của đồng nghiệp.<br />
Phương pháp thu thập thông tin: thu thập thông tin từ đồng nghiệp, từ học <br />
sinh.<br />
Phương pháp xử lý thông tin thông qua đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng <br />
hợp.<br />
II. PHẦN NỘI DUNG<br />
1. Cơ sở lí luận<br />
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến giáo dục nói <br />
chung và vấn đề đổi mới PPDH trong trường trung học nói riêng. Vấn đề này đã <br />
được đề cập nhiều lần trong các văn kiện Đại hội Đảng, trong Luật Giáo dục. <br />
Đặc biệt, trong thông báo kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị <br />
<br />
3<br />
quyết Trung ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến <br />
năm 2020 đã chỉ rõ “ Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, khắc phục cơ <br />
bản lối truyền thụ một chiều. Phát huy PPDH tích cực, sáng tạo, hợp tác, giảm <br />
thời gian giảng lý thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh, giáo <br />
viên; gắn bó chặt chẽ giữa học lý thuyết và thực hành, đào tạo gắn với nghiên cứu <br />
khoa học, sản xuất và đời sống”.<br />
Thực tế cho thấy: hoạt động đổi mới PPDH chỉ có thể thành công khi giáo <br />
viên có động lực hành động và chuyển hóa được từ ý chí trở thành tình cảm và tinh <br />
thần trách nhiệm đối với học sinh, đối với nghề dạy học.<br />
Các chuyên đề về đổi mới PPDH được đưa ra tập huấn luôn là cơ sở cho <br />
giáo viên nghiên cứu, vận dụng một cách chủ động, tích cực, sáng tạo phù hợp với <br />
đặc trưng bộ môn, phù hợp với yêu cầu của từng bài học, giúp học sinh phát triển <br />
và rèn luyện các kỹ năng cần thiết như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý thông tin, <br />
giải quyết các tình huống, kỹ năng thực hành …<br />
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:<br />
2.1. Thuận lợi, khó khăn<br />
a) Thuận lợi:<br />
Phòng Giáo dục và Đào tạo, Ban giám hiệu nhà trường rất tích cực trong <br />
việc chỉ đạo đổi mới PPDH.<br />
Trường THCS Buôn Trấp có 13 giáo viên được đào tạo chuyên ngành Ngữ <br />
văn (trong đó có 11 giáo viên đứng lớp và 02 cán bộ quản lý), được biên chế thành <br />
một tổ chuyên môn nên dễ có điều kiện trao đổi, học hỏi nhau về kiến thức cũng <br />
như kinh nghiệm giảng dạy bộ môn.<br />
Sinh hoạt của tổ chuyên môn đã dần đi vào chiều sâu và đạt hiệu cao (tổ <br />
đã giành nhiều thời gian cho việc bàn bạc, thảo luận cách dạy các bài (nội dung) <br />
dài, khó …), năng lực chuyên môn của giáo viên ngày càng được khẳng định. <br />
Công nghệ thông tin phát triển cùng với sự bùng nổ của Internet nên việc <br />
tìm hiểu, khai thác thông tin về lĩnh vực bộ môn, phân môn, bài dạy trên mạng <br />
ngày càng dễ dàng và thuận lợi.<br />
Giáo viên thường xuyên được tập huấn hoặc tiếp thu chuyên đề về đổi <br />
mới PPDH nói chung và đổi mới PPDH đối với môn Ngữ văn nói riêng. Đa số giáo <br />
viên đã chủ động vận dụng khá hiệu quả các PPDH tích cực vào quá trình lên lớp.<br />
<br />
4<br />
b) Khó khăn: <br />
Thói quen sử dụng PPDH truyền thống ở một số giáo viên còn nặng nề.<br />
Một số bài học, tiết học, nội dung kiến thức còn nặng so với thời gian quy <br />
định tại PPCT.<br />
Cơ sở vật chất chưa thực sự đáp ứng yêu cầu dạy và học.<br />
Một số học sinh chưa thật hứng thú với môn học, còn có thói quen ỉ lại, <br />
dựa dẫm vào bạn; thiếu mạnh dạn, chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập.<br />
<br />
<br />
2.2. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng mà đề tài đã đặt ra.<br />
Thực tế giảng dạy cho chúng ta thấy: trong một lớp học đại trà, số học sinh <br />
học khá, giỏi môn Ngữ văn, tích cực tham gia vào các hoạt động học tập còn <br />
chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn. Bên cạnh đó, còn nhiều học sinh thiếu cố gắng trong <br />
học tập, thụ động trong việc tiếp thu kiến thức, hạn chế về khả năng diễn đạt, <br />
thậm chí có những học sinh thuộc vào diện “hết thuốc chữa”, giáo viên đành cho <br />
“ngủ yên” để khỏi ảnh hưởng lớp. Phương pháp tổ chức hoạt động học tập <br />
của học sinh theo hướng học sinh – đối tượng của hoạt động “dạy” trở thành <br />
chủ thể của hoạt động “học là một PPDH tích cực – “phương thuốc” khá hữu <br />
hiệu nhằm kích thích tư duy độc lập của học sinh, dạy học sinh cách tự suy nghĩ, <br />
lôi cuốn học sinh tham gia vào bài học, làm cho không khí lớp học sôi nổi, sinh <br />
động, kích thích hứng thú học tập, lòng tự tin của các em, rèn cho các em năng lực <br />
diễn đạt, mạnh dạn bày tỏ sự hiểu biết của mình, biết chú ý lắng nghe và hiểu ý <br />
diễn đạt của người khác. Tạo môi trường học tập thân thiện để học sinh có điều <br />
kiện giúp đỡ lẫn nhau. Học sinh kém có điều kiện học tập các bạn trong nhóm, <br />
cùng các bạn trong nhóm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thông qua đàm thoại, <br />
dạy học tích cực, giáo viên sẽ nhanh chóng thu thập được thông tin phản hồi từ <br />
phía người học, duy trì và kiểm soát được hành vi của học sinh. Học sinh sẽ có <br />
được niềm vui khi mình được trực tiếp tham gia khám phá, tìm hiểu và nắm bắt <br />
kiến thức mới thông qua sự hướng dẫn của thầy cô giáo.<br />
3. Nội dung và hình thức của giải pháp: <br />
3.1. Mục tiêu của giải pháp<br />
Giúp các thầy cô giáo cùng dạy môn Ngữ văn hiểu rõ hơn về mục đích của <br />
việc dạy học tích cực; có thêm kinh nghiệm trong việc thiết kế hệ thống câu hỏi <br />
<br />
5<br />
và đặt câu hỏi cũng như tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực, <br />
chủ động của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, tạo niềm say mê, <br />
hứng thú cho các em trong học tập.<br />
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp<br />
Từ y th<br />
́ ưc vê tâm quan trong cua viêc phat huy tinh tich c<br />
́ ̀ ̀ ̣ ̉ ̣ ́ ́ ́ ực chu đông cua hoc<br />
̉ ̣ ̉ ̣ <br />
sinh trong học tập va t<br />
̀ ừ thực trang cua viêc day hoc môn Ng<br />
̣ ̉ ̣ ̣ ̣ ữ văn lớp 6,7 ở trương<br />
̀ <br />
THCS THCS Buôn Trâp, nh ́ ưng năm qua chung tôi đa cô găng tim toi, vân dung<br />
̃ ́ ̃ ́ ́ ̀ ̀ ̣ ̣ <br />
Biên phap <br />
̣ ́ để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn <br />
Ngữ văn va b̀ ươc đâu đa thây hiêu qua. Chung tôi xin trinh bay cach nôi dung va<br />
́ ̀ ̃ ́ ̣ ̉ ́ ̀ ̀ ́ ̣ ̀ <br />
cach th<br />
́ ức thực hiên giai phap, biên phap nh<br />
̣ ̉ ́ ̣ ́ ư sau:<br />
1. Biện pháp tổ chức hoạt động học tập của học sinh theo hướng học <br />
sinh – đối tượng của hoạt động “dạy” trở thành chủ thể của hoạt động <br />
“học”. <br />
Trước hết, cần đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy và học. Giáo viên phải <br />
chú trọng đến phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Trong đó học sinh <br />
dưới sự tổ chức, gợi mở, dẫn dắt của giáo viên tự mình chiếm lĩnh tác phẩm, tự <br />
rút ra những kết luận, những bài học cần thiết cho mình với sự chủ động tối đa.<br />
Theo chúng tôi, trong giờ dạy văn bản, giáo viên cần tổ chức, dẫn dắt cho <br />
học sinh theo bốn cấp độ sau đây:<br />
Thứ nhất, giúp học sinh tri giác, cảm thụ văn bản, hiểu ngôn ngữ, tình tiết, <br />
cốt truyện, thể loại... để có thể cảm nhận được hình tượng nghệ thuật trong sự <br />
toàn vẹn của các chi tiết, các liên hệ.<br />
Thứ hai, giúp học sinh tiếp xúc với ý đồ sáng tạo của nghệ sĩ, thâm nhập <br />
vào hệ thống hình tượng như là sự kết tinh sâu sắc của tư tưởng, tình cảm tác giả.<br />
Thứ ba, giúp học sinh đưa hình tượng nghệ thuật vào văn cảnh đời sống và <br />
kinh nghiệm sống của mình để thể nghiệm, đồng cảm.<br />
Thứ tư, giúp học sinh nâng cấp lý giải tác phẩm lên cấp quan niệm và tính <br />
hệ thống, hiểu được vị trí của tác phẩm trong lịch sử văn hóa, tư tưởng, đời sống <br />
và truyền thống nghệ thuật.<br />
Có như vậy, học sinh mới thấy hứng thú và cảm thấy mình cũng là người <br />
“đồng sáng tạo” với tác giả, như quan điểm của mỹ học tiếp nhận. <br />
<br />
6<br />
Ví dụ: Khi dạy văn bản Cô Tô của Nguyễn Tuân, giáo viên phải giúp học <br />
sinh tri giác, cảm thụ được: Hầu hết cảnh vật sau khi bão đi qua là xơ xác, là điêu <br />
tàn. Nhưng với Cô Tô, sau cơn bão cảnh sắc lại càng trở nên đẹp hơn, đáng yêu <br />
hơn. Điều đó giúp em cảm nhận thêm vẻ đẹp nữa của Cô Tô. Đó là vẻ đẹp hồi <br />
sinh nhanh chóng sau trận bão. Đó chính là vẻ đẹp của sức sống bền vững, mãnh <br />
liệt. Đặc biệt là kể từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu của sự sống con <br />
người như tác giả đã nói Điều đó chứng tỏ không những thiên nhiên nơi đây có <br />
sức sống bền vững, mãnh liệt mà con người nơi đây cũng rất kiên cường, bất <br />
khuất trước sự tàn phá của dông bão, không khuất phục trước sức mạnh của thiên <br />
nhiên.<br />
Với những yêu cầu cao trong công việc đổi mới phương pháp, người giáo <br />
viên phải nâng cao trình độ và bản lĩnh. Truyền thụ tri thức, rèn luyện kĩ năng đã <br />
khó, hướng dẫn cách cảm thụ, lối tư duy cho học sinh còn khó bội phần. Sự cập <br />
nhật tri thức phải luôn đi đôi với nâng cao trình độ sư phạm. Một khi đã quán triệt <br />
tinh thần coi học sinh là chủ thể tiếp nhận, tất yếu giáo viên sẽ phải đối diện với <br />
sự đa dạng, phức tạp trong tư duy, trong cách phát ngôn của các em. <br />
2. Biện pháp tổ chức hoạt động tự học của học sinh: rèn luyện cho học <br />
sinh có được phương pháp, kĩ năng: đọc, tóm tắt, phân tích tác phẩm, viết <br />
bài…<br />
Dựa vào các mục biên soạn trong SGK để hướng dẫn học sinh chuẩn bị <br />
bài Với người dạy và người học hiện nay ở nước ta, SGK là công cụ có tính <br />
chất pháp lí. Nội dung kiểm tra, thi cử bắt đầu và xuất phát từ chương trình và <br />
Sách giáo khoa. Nói cách khác dạy và học không thể thoát li chương trình và Sách <br />
giáo khoa. Phần Đọc văn trong SGK ở chương trình THCS hiện nay thường được <br />
biên soạn theo một cấu trúc cố định với những mục rõ ràng, với trình tự gồm các <br />
mục: Tên bài – Kết quả cần đạt – Tên văn bản – Chú thích – Đọc – Hiểu văn bản <br />
– Ghi nhớ Luyên tập. Để chuẩn bị bài, nhất thiết học sinh phải có trong tay quyển <br />
SGK và tự làm việc với sách theo hướng dẫn của thầy cô giáo. Trang bị SGK đầy <br />
đủ, học sinh thường xuyên đọc sách, bám sát tất cả các mục ở trong SGK, mỗi <br />
mục có một vai trò cụ thể. Đặc biệt, HS phải chú trọng đến mục Đọc – hiểu văn <br />
bản sau mỗi văn bản. Đây là mục quan trọng có tác dụng định hướng tìm hiểu văn <br />
bản cho cả người học và người dạy. Ở mục hướng dẫn học bài này có nhiều câu <br />
hỏi được sắp xếp theo hệ thống. Dựa vào hệ thống câu hỏi này để giáo viên <br />
hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài một cách phù hợp, thiết thực và có hiệu quả. Bắt <br />
7<br />
đầu từ SGK là một định hướng khoa học trong việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị <br />
bài cho giờ Đọc văn. Chăng han<br />
̉ ̣<br />
Gắn với từng bài học cụ thể phù hợp với đặc trưng thể loại để hướng <br />
dẫn học sinh chuẩn bị bài. <br />
Mỗi bài học, mỗi văn bản được phân bố với một số lượng thời gian nhất <br />
định trong bảng phân phối chương trình. Vì thế, giáo viên nhất thiết phải gắn với <br />
từng bài học, từng văn bản với số tiết quy định cụ thể để hướng dẫn học sinh <br />
cách thức nội dung, mức độ soạn bài phù hợp. Chẳng hạn với những bài học trong <br />
một tiết thì có cách hướng dẫn chuẩn bị bài gọn, nhẹ hơn so với bài hai tiết. Giáo <br />
viên cũng cần phải xem xét đặc điểm, tính chất của từng văn bản cụ thể để yêu <br />
cầu học sinh chuẩn bị: Thơ khác với văn xuôi. Mặt khác, hiện nay định hướng <br />
giảng dạy phần Văn theo phương pháp mới đặc biệt chú trọng yêu cầu tích hợp và <br />
đặc trưng thể loại. Xuất phát từ yêu cầu tích hợp cũng như ý thức về việc bám sát <br />
đặc trưng thể loại là định hướng đúng đắn cung cấp tri thức đọc hiểu cho học <br />
sinh, mà trước hết là ở khâu giúp các em chuẩn bị tốt bài ở nhà Xuất phát từ yêu <br />
cầu tích hợp cũng như ý thức về việc bám sát đặc trưng thể loại là định hướng <br />
đúng đắn cung cấp tri thức đọc hiểu cho học sinh, mà trước hết là ở khâu giúp các <br />
em chuẩn bị tốt bài ở nhà. Chẳng hạn khi dạy văn bản Tinh thần yêu nước của <br />
nhân dân ta (Ngữ văn 7) giáo viên phải hướng dẫn cho các em nắm vững đặc <br />
trưng của văn nghị luận để học sinh dễ tiếp xúc với văn bản. Bên cạnh đó khi dạy <br />
giáo viên nhất thiết phải tích hợp với môn lịch sử để làm rõ về tinh thần yêu nước <br />
của dân tộc ta qua các thời kì dựng nước và giữ nước. Từ đó khơi gợi lòng tự hào <br />
dân tộc, lòng yêu nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho thế hệ trẻ.<br />
Giáo viên nắm chắc ý đồ của người soạn SGK ở phần hướng dẫn học bài <br />
sau mỗi văn bản.<br />
Ở mỗi văn bản, mỗi bài học cụ thể có những mục đích khác nhau. Trong <br />
Sách giáo khoa Ngữ văn sau tên mỗi văn bản là mục kết quả cần đạt. Đây là phạm <br />
vi kiến thức trọng tâm bài học mà học sinh cần nắm được. Để đạt được kết quả <br />
đó người soạn sách đã có những định hướng đọc hiểu cho cả người dạy và người <br />
học ở mục hướng dẫn học bài. Để tổ chức cho học sinh đọc hiểu văn bản sát hợp, <br />
một yêu cầu vô cùng quan trọng là giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh chuẩn <br />
bị bài ở nhà đúng trọng tâm như yêu cầu ở mục kết quả cần đạt. Ví dụ, khi học <br />
bài thơ Lượm của Tố Hữa, để học sinh hiểu và cảm nhận sâu hình ảnh của <br />
Lượm, giáo viên yêu cầu học sinh khi soạn bài cần đọc kĩ đoạn thơ miêu tả hình <br />
dáng, trang phục, cử chỉ, lời nói của Lượm để từ đó cảm nhận được Lượm là một <br />
<br />
<br />
8<br />
chú bé liên lạc nhí nhảnh, hồn nhiên, yêu đời, nhanh nhẹn và ham thích công việc <br />
kháng chiến. <br />
Hiểu được mục đích của người soạn Sách giáo khoa ở phần hướng dẫn học <br />
bài sau mỗi văn bản sẽ giúp giáo viên xác định phương pháp dạy học phù hợp từng <br />
bài học cụ thể. Chẳng hạn, với mục đích đồng sáng tạo ở bạn đọc, trong phần <br />
hướng dẫn học bài của văn bản Cuộc chia tay của những con búp bê, sách giáo <br />
khoa Ngữ văn 7 có nêu câu hỏi: Tại sao khi dắt em ra khỏi trường Thành lại kinh ngạc <br />
thấy mọi người vẫn đi lại bình thường và nắng vẫn ươm trùm lên cảnh vật? Từ đó em <br />
cảm nhận được điều gì mà tác giả muốn nhắn nhủ?( Thành cảm nhận được sự bất <br />
hạnh của hai anh em mình. Đó là bi kịch riêng của gia đình Thành và Thủy còn dòng chảy <br />
thời gian, màu sắc cảnh vật, nhịp điệu cuộc sống vẫn diễn ra một cách tự nhiên. Thành <br />
cảm thấy cô đơn trước sự vô tình của người và cảnh. Qua đó tác giả muốn nói nỗi đau <br />
khổ của những đứa con thơ khi bố mẹ bỏ nhau là lên đến tột cùng của sự đau khổ, một <br />
nỗi đau không biết ngỏ cùng ai. Nhắc nhở ta không nên dửng dưng vô tình trước nỗi đau <br />
của đồng loại).<br />
Từ câu hỏi hướng dẫn này, giáo viên có thể lồng phương pháp vấn đáp, đàm <br />
thoại bên cạnh các phương pháp khác. Tất nhiên để đàm thoại được ở trên lớp thì <br />
giáo viên phải hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà... <br />
Hướng dẫn học sinh đọc Sách giáo khoa và trả lời câu hỏi trong Sách giáo <br />
khoa. <br />
Để giúp học sinh có sự chuẩn bị hiệu quả trước khi bước vào giờ học văn <br />
bản, giáo viên cần có những định hướng cho học sinh trong các hoạt động tiếp xúc <br />
với Sách giáo khoa, tập cho các em biết gia công tìm tòi, sáng tạo trong quá trình <br />
lĩnh hội tri thức. Hướng dẫn học sinh soạn bài ở nhà trước hết và quan trọng nhất <br />
vẫn là yêu cầu các em trả lời các câu hỏi ở phần Hướng dẫn học bài. Việc đọc <br />
Sách giáo khoa như đã nói trên trước hết là để trả lời được các câu hỏi này. Tuy <br />
vậy, muốn công việc này của các em đạt hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải có những <br />
cách thức, biện pháp phù hợp. Giáo viên vừa yêu cầu vừa khuyến khích, động viên <br />
các em tự trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn theo cách hiểu của mình, tránh <br />
viêc ghi lại, chép lại theo sách giải một cách đối phó, thụ động. Trong quá trình <br />
soạn bài chỗ nào các em chưa hiểu hay còn thắc mắc, giáo viên yêu cầu các em <br />
chú ý ghi lại hoặc gạch chân, đánh dấu để có thể trao đổi trong quá trình đọc hiểu <br />
văn bản trên lớp. Một điều nữa không kém phần quan trọng là khi hướng dẫn học <br />
sinh trả lời các câu hỏi trong Sách giáo khoa, giáo viên cần hướng các em vào <br />
những ý trọng tâm, câu hỏi trọng tâm, điều này rất có ích cho việc đọc hiểu văn <br />
bản ở trên lớp. Muốn làm được điều này giáo viên phải có đầu tư suy nghĩ trước <br />
một bước. Và như vậy, việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà sẽ mang lại <br />
9<br />
hiệu quả hơn. Chẳng hạn khi soạn bài Tiếng gà trưa(Xuân Quỳnh) giáo viên yêu <br />
cầu các em chú ý và trả lời kỹ những vấn đề sau: Câu 1: Tại sao trong vô vàn <br />
âm thanh của làng quê, tâm trí người chiến sĩ bị ám ảnh bởi tiếng gà trưa ? Với <br />
người lính ra trận, tiếng gà trưa gợi những cảm giác mới lạ nào? Tại sao? Nghệ <br />
thuật?<br />
Câu 2: Nghe tiếng gà trưa, người lính nhớ lại những kỉ niệm nào của tình bà <br />
cháu? Tại sao những kỉ niệm về người bà lại không phai mờ trong tâm hồn của <br />
người cháu?<br />
Câu 3 : Điệp từ “vì” trong khổ thơ cuối được lặp lại ba lần điều ấy có ý nghĩa <br />
gì?<br />
Với câu hỏi 1 giáo viên đã giúp học sinh tìm hiểu nội dung đoạn thơ 1 của <br />
bài thơ: Tiếng gà trưa thức dậy tình cảm làng quê; câu hỏi 2 giúp học sinh tìm <br />
hiểu nội dung 5 khổ thơ tiếp theo: Tiếng gà trưa khơi dậy những kỉ niệm ấu thơ; <br />
câu hỏi 3 giúp học sinh cảm nhận được nội dung khổ thơ cuối: Điệp từ “vì” <br />
khẳng định hành động chiến đấu vì mục đích cao cả, bảo vệ non sông đất nước, <br />
bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân, gia đình, người thân, và niềm hạnh phúc <br />
của tuổi thơ. <br />
Nếu học sinh về nhà chuẩn bị tốt theo các câu hỏi mà giáo viên đã cho <br />
khi lên lớp các em sẽ tiếp thu bài rất nhanh.<br />
Như vậy, việc hướng dẫn học sinh đọc Sách giáo khoa và trả lời câu hỏi là <br />
việc làm vô cùng quan trọng, bởi đây là một bước chuẩn bị trước làm cơ sở cho <br />
việc đọc tác phẩm trên lớp. Nếu giáo viên làm tốt bước này thì khâu lên lớp sẽ <br />
nhẹ nhàng hơn, giờ học sôi nổi hơn và tất nhiên hiệu quả giờ học sẽ cao hơn. <br />
Hướng dẫn học sinh lập dàn ý khái quát sơ đồ tư duy cho bài học. <br />
Từ những hiểu biết của bản thân, học sinh tự lập thành sơ đồ, thành những <br />
dàn ý theo suy nghĩ của mình. Điều ấy có nghĩa rằng sau khi đọc phân tích, học <br />
sinh cần phải tổng hợp, tái tạo lại cấu trúc của bài học. Ghi chép tóm tắt những gì <br />
và như thế nào là phụ thuộc vào hiểu biết và kinh nghiệm của từng người. Điều <br />
quan trọng là người học phải tự mình nêu lại được các thông tin quan trọng đã tiếp <br />
nhận bằng từ ngữ riêng theo cách của mình. <br />
Tổ chức phân công từng vấn đề cụ thể cho từng nhóm học sinh. <br />
Sau khi kết thúc một giờ học công việc thường thấy từ trước tới nay là giáo<br />
viên dặn dò học sinh về nhà học bài và chuẩn bị bài mới cho giờ học tiếp theo. <br />
Đây thường là việc làm lấy lệ máy móc, qua loa, làm cho xong. Vì thế tính hiệu <br />
quả thấp. Kinh nghiệm cho thấy đối với học sinh THCS giao việc càng cụ thể thì <br />
<br />
10<br />
tính hiệu quả càng cao. Vì vậy, tổ chức phân công vấn đề cho học sinh chuẩn bị <br />
trước là bước đệm rất quan trọng cho bài học mới đạt kết quả. Để việc làm này <br />
có chất lượng giáo viên phải thực hiện những bước sau: <br />
+ Chuẩn bị trước các vấn đề. <br />
+ Chia nhóm.<br />
+ Phân công vấn đề cụ thể cho từng nhóm. <br />
Chẳng hạn khi dạy văn bản “Thầy bói xem voi” (Ngữ văn 6) ngoài việc học <br />
sinh chuẩn bài theo phần hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa, giáo viên có thể <br />
chuẩn bị trước các vấn đề sau để giao cho học sinh và yêu cầu mỗi nhóm phải <br />
chuẩn bị kĩ phần việc của nhóm mình. Giáo viên chia lớp làm bốn nhóm mỗi nhóm <br />
phải có nhóm trưởng, nhóm phó để đôn đốc các thành viên và chịu trách nhiệm <br />
chung cho cả nhóm. Phần việc giao cho mỗi nhóm như sau: Hoàn cảnh của 5 ông <br />
thầy bói. (Nhóm 1) Cách xem voi của 5 ông thầy bói. (Nhóm 2) Năm ông thầy bói <br />
phán về voi (Nhóm 3)Kết quả của việc xem voi(Nhóm 4). Khi đã phân công học <br />
sinh về nhà chuẩn bị như trên thì khi lên lớp, giáo viên giảng bài học sinh sẽ dễ <br />
tiếp thu và sau tiết học các em sẽ dễ dàng thành lập được sơ đồ tư duy như sau: <br />
Sơ đồ tư duy về truyện ngụ ngôn “Thầy bói xem voi”:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hay khi học xong văn bản “Quan Âm Thị Kính”, GV yêu cầu HS khái quát nội <br />
dung kiến thức bằng sơ đồ tư duy. HS có thể tự do sáng tạo theo khả năng của <br />
mình:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
11<br />
Có thể khẳng định rằng, nếu công việc này được giáo viên làm một cách <br />
đều đặn và tâm huyết thì giờ học văn bản sẽ đạt được kết quả như mong đợi. Ưu <br />
điểm của cách làm này là tiết kiệm được thời gian khi lên lớp, phát huy được cách <br />
học hợp tác, vấn đề trọng tâm của bài học sẽ được mổ xẻ một cách sâu sắc hơn.. <br />
Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở một số tiết học tác phẩm văn chương <br />
cụ thể:<br />
Bài 1: Truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng. <br />
<br />
12<br />
+ Giới thiệu một số truyện cổ tích mà em đã học. <br />
+ Suy nghĩ, tranh luận về sự tham lam của nhân vật mụ vợ cũng như cách <br />
kết thúc truyện. <br />
: Ca dao “Những câu hát than thân(Ngữ văn 7). <br />
Bài 2<br />
+ Các tổ sưu tầm và đóng thành tập về những bài ca dao mở đầu bằng 2 từ <br />
“Thân em”. <br />
+ Những học sinh có năng khiếu văn nghệ chuẩn bị một bài hát dân gian có <br />
chủ đề than thân để diễn xướng trong giờ học trên lớp. <br />
3. Biện pháp tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.<br />
* Đối với giáo viên: <br />
Phải nắm vững nội dung bài giảng và trọng tâm bài dạy để đặt câu hỏi <br />
hướng vào nội dung bài học. Việc đặt câu hỏi phải phù hợp với từng đối tượng <br />
học sinh cụ thể, từng lớp học, từng điều kiện có thể có. Tránh đặt câu hỏi máy <br />
móc, hỏi cho có, tránh lạm dụng trong việc đặt câu hỏi để rơi vào tình trạng dạy <br />
học hỏi đáp máy mọc đơn điệu. <br />
Việc đặt câu hỏi phải phù hợp với phương pháp giảng dạy mà mình đã lựa <br />
chọn: Nêu vấn đề, đàm thoại, giảng bình…và lượng câu hỏi phải hết sức hợp lí. <br />
Nội dung câu hỏi phải đảm bảo các yêu cầu về cung cấp kiến thức; rèn luyện kĩ <br />
năng; giáo dục tư tưởng, nhân cách ở học sinh. <br />
Điều quan trọng nhất đối với giáo viên là khâu soạn giáo án. Để giáo án có <br />
chất lượng phải có hệ thống câu hỏi chuẩn, hợp lí. Các câu hỏi trọng tâm của bài <br />
giảng phải cho học sinh nắm trước trong câu hỏi chuẩn bị bài ở nhà. <br />
* Đối với học sinh: <br />
Khâu soạn bài: Học sinh đọc văn bản, chuẩn bị bài theo câu hỏi mà giáo <br />
viên <br />
đã cho, đã hướng dẫn. Tuỳ loại câu hỏi giáo viên phân công học sinh chuẩn bị theo <br />
tổ, nhóm, hoặc theo cá nhân.<br />
Tham gia xây dựng bài: Động viên khích lệ học sinh bằng điểm số khi các <br />
em tham gia xây dựng bài. Tạo không khí đối thoại thoải mái trong tiết học giữa <br />
thầy và trò, giữa học sinh với học sinh, tranh luận giữa các nhóm học sinh với nhau <br />
để phát huy tư duy sáng tạo của học sinh, tránh việc áp đặt kiến thức mang tính <br />
<br />
<br />
13<br />
chủ quan của người dạy, cần trân trọng khen ngợi, động viên những khám phá <br />
phát hiện độc đáo mới lạ của các em trong quá trình tìm hiểu tác phẩm văn học.<br />
Hứng thú học tập là ngọn nguồn giúp cho học sinh cảm thụ sâu sắc giá trị <br />
của đời sống văn hoá nhân loại. Phát huy trí lực, chú trọng tới hứng thú học tập <br />
của học sinh là hướng đi tích cực của phương pháp dạy học văn hiện nay. Tuy <br />
nhiên, để biến những lý luận trên thành hiện thực đòi hỏi người thầy ngoài tri thức <br />
khoa học cần phải có lòng yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục và đào tạo <br />
và phải có thêm niềm tin vào học sinh, những chủ nhân tương lai của đất nước.<br />
Từ mục tiêu trên, chúng tôi mạnh dạn đưa ra những biện pháp trong việc lựa <br />
chọn hệ thống câu hỏi nhằm tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập <br />
hợp tác, phát huy tư duy, sáng tạo của học sinh như sau: <br />
a. Yêu cầu của các loại câu hỏi: <br />
Câu hỏi phải gợi mở để tìm tòi vấn đề, phải đạt được mục đích kích <br />
thích sự cảm thụ của học sinh với tác phẩm, phải gây được những phản ứng <br />
bên trong của học sinh. <br />
Không nên đưa những dạng câu hỏi mà chỉ yêu cầu học sinh trả lời có hoặc <br />
không. Ví dụ: Khi giảng văn bản Bức tranh của em gái tôi(Ngữ văn 7) chúng ta <br />
không nên đặt những câu hỏi như: Đọc xong văn bản, em thấy nhân vật người anh <br />
có phải là một người xấu không? Mà chúng ta phải đặt những câu hỏi nhằm giúp <br />
các em tìm kiếm, phát hiện: Qua hình ảnh người anh đứng trước bức tranh đạt <br />
giải của em gái và những suy nghĩ của người anh, em cảm nhận được gì về nhân <br />
vật người anh?<br />
Câu hỏi phải tác động đến cảm xúc và rung động thẩm mỹ, đặc biệt là <br />
tác động đến trực giác của học sinh. <br />
Ở dạng câu hỏi này giáo viên phải biết chọn lựa những chi tiết nghệ thuật <br />
đặc sắc, có tác dụng thẫm mỹ cao. <br />
Ví dụ 1: Cách sử dụng điệp từ “vì” ở 4 câu thơ trong khổ thơ cuối ở bài <br />
“Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh giúp em cảm nhận được điều gì? (Điệp từ “vì” <br />
khẳng định hành động chiến đấu vì mục đích cao cả, bảo vệ non sông đất nước, <br />
bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân, gia đình, người thân, và niềm hạnh phúc <br />
của tuổi thơ). <br />
Vì sao người chiến sĩ có thể nghĩ rằng cuộc chiến đấu của mình còn là “vì <br />
tiếng gà cục tác, Ổ trứng hồng tuổi thơ”? (Ổ trứng hồng và tiếng gà là những <br />
điều thân thương, quí giá chân thật. Là biêu tượng hạnh phúc ở mỗi miên quê. Vì <br />
<br />
14<br />
thế cuốc chiến đấu hôm nay còn có thêm ý nghĩa bảo vệ những điều chân thật quí <br />
giá đó).<br />
Ví dụ 2: Trong bài thơ, có nhiều câu thơ có cách cấu tạo đặc biệt. Đó là <br />
những câu thơ nào?<br />
“ Ra thế “ Thôi rồi, Lượm ơi!”<br />
Lượm ơi !” “ Lượm ơi, còn không?<br />
? Tại sao những câu thơ trên lại có cấu tạo đặc biệt như thế? Tác giả sử <br />
dụng như thế để làm gì? (Diễn tả niềm đau xót, tiếc thương của tác giả đối với <br />
sự hi sinh của Lượm).<br />
Câu hỏi phải hướng vào thao tác tư duy: Phân tích, tổng hợp, khái quát. <br />
Chẳng hạn khi củng cố bài hay kiểm tra bài cũ học sinh cần tránh những câu <br />
hỏi như sau: Em hãy đọc thuộc lòng bài thơ và cho biết nội dung, nghệ thuật của <br />
bài. Dạng câu hỏi này không có tác dụng phát huy sự sáng tạo, tính tích cực của <br />
học sinh vì chỉ cần chăm chỉ học thuộc phần ghi nhớ cuối sách giáo khoa chứ <br />
không cần tư duy nhiều là học sinh trả lời được. Hơn nữa, câu hỏi này sẽ gây cho <br />
học sinh thói quen có hại đó là thói quen học thuộc một cách máy móc.<br />
Có thể thay dạng câu hỏi này bằng một câu hỏi có sức gợi hơn. Ví dụ: Để <br />
kiểm tra kiến thức cũ bài thơ “Lượm” của Tố Hữu trong chương trình Ngữ văn <br />
lớp 6 thì giáo viên có thể hỏi như sau:<br />
1. Qua bài thơ “Lượm”, em thích nhất đoạn thơ nào? Vì sao? Hãy đọc đoạn <br />
thơ đó với ngữ điệu sao cho phù hợp với những điều mà em vừa giải thích?( Học <br />
sinh có thể trả lời em thích khổ thơ nào trong bài thơ cũng được. Miễn là các em <br />
giải thích được lí do mình thích và đọc thuộc lòng đúng đoạn thơ đó)<br />
2. Em có nhận xét gì về cách sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh của tác giả trong <br />
bài thơ? Cách viết đó có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung bài? Từ đó, em <br />
hãy khái quát tư tưởng chủ đề của bài thơ. (Qua bài thơ “Lượm”, bằng từ ngữ, <br />
hình ảnh giàu sức gợi cảm, Tố Hữu đã thể hiện Lượm là một chú bé liên lạc <br />
nhí nhảnh, hồn nhiên, yêu đời, nhanh nhẹn và ham thích công việc kháng <br />
chiến. Tác giả đã dành cho Lượm tình cảm vừa thân thiết, gần gũi vừa trân <br />
trọng, cảm phục, coi Lượm như người bạn chiến đấu).<br />
Với những câu hỏi này, đòi hỏi học sinh phải có sự hiểu biết, cảm thụ sâu <br />
sắc<br />
về tác phẩm đồng thời phải có cách trả lời sao cho đáp ứng được yêu cầu của câu <br />
hỏi. Loại câu hỏi này vừa giúp giáo viên đánh giá được kiến thức, sự cảm thụ vừa <br />
rèn luyện kĩ năng diễn đạt trong môn Ngữ văn đồng thời cũng phát huy được tư <br />
15<br />
duy sáng tạo, tính tích cực, chủ động của học sinh. Sở dĩ như vậy vì học sinh phải <br />
dựa vào quá trình phân tích tác phẩm để nhận biết những chi tiết nghệ thuật mà <br />
tác giả sử dụng (đây là yêu cầu nhận biết). Sau khi nhận biết, học sinh phải lí giải <br />
được tác dụng của những chi tiết nghệ thuật ấy tức là phải lí giải được câu hỏi <br />
viết để làm gì? (đây là yêu cầu tư duy, cảm thụ). Cuối cùng học sinh phải chủ <br />
động tổng hợp khái quát những vấn đề do chính học sinh đã phân tích ở trên.<br />
Phải có câu hỏi then chốt, trọng tâm với mục đích yêu cầu của bài, <br />
tránh đưa ra những câu hỏi chung chung mơ hồ, vụn vặt không có sự tư duy, <br />
sáng tạo. <br />
Ví dụ: Khi dạy bài “ Bức tranh của em gái tôi” (Ngữ văn 6 Tạ Duy Anh) <br />
chúng ta có thể đặt câu hỏi: Qua sự thay đổi trong suy nghĩ của nhân vật người <br />
anh khi đứng trước bức tranh đạt giải của cô em gái Kiều Phương, em cảm nhận <br />
được điều gì? Với câu hỏi này giáo viên giúp học sinh cảm nhận được ở người <br />
anh là sự ăn năn, hối hận chân thành về thái độ của mình và rất khâm phục tài năng <br />
và tấm lòng nhân hậu của em gái. Hay: Qua việc tìm hiểu về nhân vật Kiều <br />
Phương? Em hãy cho biết những đặc điểm nổi bật nào về nhân vật này? Học sinh <br />
sẽ chốt được: Kiều Phương là một em bé hồn nhiên, trong sáng thông minh, hiếu <br />
động, có tấm lòng nhân hậu, độ lượng và có tài năng về hội họa.<br />
Hệ thống câu hỏi phải được sắp đặt hợp lý, được xác định phù hợp <br />
với đối tượng và phân loại đối tượng.<br />
Kiểm tra bài cũ ở các đối tượng học sinh giáo viên tổ chức như sau:<br />
Tổ chức trò chơi ai nhanh hơn:<br />
Giáo viên phổ biến luật chơi: Cô sẽ cho các em xem một số hình ảnh và sau <br />
đó chúng ta sẽ trả lời các câu hỏi phía dưới. Ai có câu trả lời đúng, nhanh nhất sẽ <br />
được cộng thêm điểm.<br />
Để tổ chức kiểm tra bài cũ theo phương pháp này giáo viên sưu tầm những <br />
hình ảnh phục vụ tốt cho kiến thức cần kiểm tra, sau đó trình chiếu cho học sinh <br />
xem rồi đặt câu hỏi. Ví dụ: Để kiểm tra bài “Cảnh khuya, Rằm tháng giêng” trong <br />
chương trình Ngữ văn lớp 7, giáo viên cho các em xem hình ảnh sau:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
16<br />
Đặt các câu hỏi:<br />
Những hình ảnh sau đây gợi cho em nhớ đến những bài thơ nào đã học trong <br />
chương trình Ngữ văn 7? <br />
Tác giả là ai? Hoàn cảnh sáng tác của những bài thơ đó?<br />
Đọc thuộc những bài thơ đó?<br />
Cảm nhận chung của em về về nội dung chính của những bài thơ đó?<br />
Với cách tổ chức và sử dụng các câu hỏi trên, giáo viên sẽ rất dễ dàng kiểm <br />
tra được các đối tượng học sinh. Hai câu đầu dành cho học sinh yếu, trung bình; <br />
hai câu sau dành cho đối tượng học sinh khá, giỏi. <br />
Tóm lại, yêu cầu của câu hỏi trong giờ giảng văn phải vừa tạo ra sự kích <br />
thích, vừa tác động đến nhận thức, tư duy của học sinh. Việc đưa ra câu hỏi phải <br />
căn cứ vào nội dung bài học, vào đối tượng học sinh, vào điều kiện khách quan… <br />
để có cách đặt câu hỏi, cách lựa chọn hình thức câu hỏi và sử dụng lượng câu hỏi <br />
thích hợp giúp các em lĩnh hội tác phẩm văn chương một cách hiệu quả nhất.<br />
4. Các dạng câu hỏi sử dụng trong giờ học văn bản. <br />
Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức của học sinh, kết hợp phương <br />
pháp dạy học, có thể phân ra các loại câu hỏi sau: <br />
(1) Câu hỏi tái hiện : Giáo viên đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh <br />
nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Loại câu <br />
hỏi này giúp học sinh tái hiện thế giới nghệ thuật của tác phẩm như: Các hình <br />
ảnh, hình tượng, chi tiết nghệ thuật, nhân vật, bức tranh đời sống qua sự phản <br />
ảnh…Các câu hỏi này có khả năng khơi dậy sự liên tưởng, tưởng tượng trong quá <br />
17<br />
trình tiếp nhận ở học sinh. Đó là một biện pháp được sử dụng khi cần đặt mối <br />
liên hệ giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học, hoặc củng cố kiến thức vừa <br />
mới học. <br />
Ví dụ: Ví dụ 1: Khi dạy văn bản Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh (văn 7 tập <br />
1), giáo viên có thể hỏi: Người chiến sỹ bắt gặp âm thanh của tiếng gà trưa trong <br />
hoàn cảnh nào?<br />
Ví dụ 2: Dạy Phần cuối văn bản Buổi học cuối cùng của Anphôngxơ <br />
Đôđê (văn 6 tập 1), GV có thể hỏi: Hãy tìm trong đoạn văn những chi tiết miêu tả <br />
hình ảnh thầy Hamen khiến ta xúc động.<br />
(2) Câu hỏi yêu cầu giải thích, minh hoạ: Loại câu hỏi này nhằm mục <br />
đích làm sáng tỏ một khái niệm, đề tài nào đó. Giáo viên lần lượt nêu ra những câu <br />
hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương <br />
pháp này được áp dụng có hiệu quả trong một số trường hợp như khi Giáo viên <br />
biểu diễn phương tiện trực quan (băng ghi hình, máy chiếu) <br />
Ví dụ: Em hãy nhìn tranh và đọc lại bài thơ “Bạn đến chơi nhà’ của Nguyễn <br />
Khuyến( Ngữ văn 7tập 1)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
18<br />
Khi dạy văn bản Cô Tô của Nguyễn Tuân, ở phần tìm hiểu khái quát về quần <br />
đảo Cô Tô. Để tạo tâm thế cho học sinh vào bài, giáo viên có thể đặt câu hỏi: <br />
Nêu những hiểu biết của em về quần đảo Cô Tô?<br />
+ Để giúp các em hình dung cụ thể hơn về quần đảo Cô Tô, giáo viên cho các <br />
em quan sát những bức tranh hoặc xem clip về Cô Tô.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Các em có cảm nhận gì về Cô Tô sau khi đã quan sát thêm tranh minh họa <br />
(xem clip) ?<br />
+ Hs cảm nhận được: Phong cảnh đẹp, tài nguyên biển phong phú, giàu có, là <br />
điểm du lịch hấp dẫn.<br />
GV: Chính vì vậy mà nhà văn Nguyễn Tuân đã nhiều lần đến thăm đảo Cô Tô và <br />
có lẽ lần này là lần ấn tượng nhất nên ông đã tạo ra một áng văn hay đến như <br />
vậy.<br />
(3) Câu hỏi tìm tòi (vấn đáp phát hiện) <br />
Đây là loại câu hỏi trọng tâm nhất trong một giờ học văn. Sự cảm thụ tác <br />
phẩm của học sinh phải qua con đường của nhận thức. Để học sinh nắm bắt <br />
chính xác tác phẩm, người giáo viên phải đặt những câu hỏi khơi dậy tư duy ở các <br />
em. Cần tổ chức việc trao đổi ý kiến kể cả tranh luận giữa thầy với cả lớp, <br />
giữa trò với trò, thông qua đó các em nắm được tri thức mới do chính mình tìm tòi <br />
phát hiện. Hệ thống câu hỏi được sắp đặt hợp lý nhằm phát hiện, đặt ra và giải <br />
quyết một vấn đề xác định, buộc học sinh phải liên tục cố gắng, tìm tòi lời giải <br />
19<br />
đáp. Trong vấn đáp tìm tòi, hệ thống câu hỏi của người thầy giữ vai trò chỉ đạo, <br />
quyết định chất lượng lĩnh hội của lớp học.Trật tự logic của các câu hỏi hướng <br />
dẫn học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, quy luật của hiện <br />
tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham muốn hiểu biết ở các em. Ở đây giáo <br />
viên là người tổ chức sự tìm tòi còn học sinh là người tự lực phát hiện kiến thức <br />
mới, vì vậy kết thúc cuộc đàm thoại học sinh có được niềm vui của sự khám phá, <br />
vừa nắm được kiến thức mới, vừa nắm được cách thức đi tới kiến thức đó, <br />
trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. Cuối đoạn đàm thoại, Giáo viên <br />
cần biết vận dụng các ý kiến của học sinh để kết luận vấn đề đặt ra, dĩ nhiên là <br />
có bổ sung, chỉnh lí khi cần thiết. Làm được như vậy, học sinh càng hứng thú, tự <br />
tin vì thấy trong kết luận của thầy có phần đóng góp ý kiến của mình. <br />
Để học sinh tìm tòi được kiến thức trong giờ học văn bản, có thể đưa ra <br />
nhiều dạng câu hỏi khác nhau: <br />
* Câu hỏi nêu vấn đề: Câu hỏi nêu vấn đề có liên quan chặt chẽ đến vấn <br />
đề và tình huống có vấn đề. Loại câu hỏi này phải làm rõ được vấn đề tiềm ẩn <br />
trong tác phẩm, phải gây hứng thú nhận thức cho học sinh và phải động viên, <br />
khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề đã nêu. <br />
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Cô Tô” của Nguyễn Tuân (Ngữ Văn 6 tập 2), Giáo <br />
viên có thể hỏi:<br />
Nếu có ý kiến cho rằng Nguyễn Tuân không hề miêu tả cảnh Cô Tô trước <br />
cơn bão nhưng người đọc vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của Cô Tô khi chưa có bão <br />
đi qua. Em thấy có đúng không? Vì sao?<br />
Câu hỏi này đặt ra khi phân tích Cảnh thiên nhiên trên đảo Cô Tô sau trận <br />
bão. Để giúp HS giải quyết được vấn đề trên, GV có thể gợi mở giúp cho HS cảm <br />
nhận được: Bên cạnh các tính từ miêu tả cảnh Cô Tô sau cơn báo, tác giả sử dụng <br />
đi kèm những từ: thêm, hơn. Điều đó chứng tỏ vốn dĩ Cô Tô rất đẹp, sau cơn bão <br />
Cô Tô càng đẹp hơn, càng đáng yêu hơn, càng có sức sống mãnh liệt hơn.<br />
Từ đó GV tích hợp giáo dục HS trong quan sát và cách dùng từ khi tạo lập <br />
văn bản miêu tả.<br />
Ví dụ 2: Khi dạy văn bản “Cổng trường mở ra” của Lý Lan, GV có thể đặt <br />
câu hỏi: Em hiểu gì về câu nói của người mẹ “ Bước qua cánh cổng trường là một <br />
thế giới kì diệu sẽ mở ra”? Theo em thế giới kì diệu đó là gì?<br />
HS có thể có nhiều phát hiện: <br />
+ Được khám phá một thế giới mới lạ: những điều kì diệu, bí ẩn trong thế giới tự <br />
nhiên và con người…<br />
20<br />
+ Được đến với cả một chân trời tri thức: văn hóa, khoa học bao la rộng lớn… <br />
+ Được bồi dưỡng về tâm hồn nhân cách<br />
+ Được sống trong vòng tay yêu thương của thầy cô, bè bạn…<br />
+ Ước mơ, khát vọng được chắp cánh để bay cao, bay xa;…<br />
Hay câu hỏi: Đoạn cuối văn bản xuất hiện câu thành ngữ “ Sai một li đi một <br />
dặm” Em hiểu câu thành ngữ này có ý nghĩa gì khi gắn với sự nghiệp giáo dục?<br />
Câu hỏi này đặt ra yêu cầu HS suy luận. Giáo viên giúp HS giải quyết vấn <br />
đề bằng những câu hỏi gợi mở để tìm ra ý nghĩa của câu nói đó là Không được <br />
phép sai lầm trong giáo dục.<br />
* Câu hỏi cần được phân tích, nhận xét, đánh giá: Sau khi nêu ra các câu <br />
hỏi chúng ta phải đặt những câu hỏi để tìm ra những lý do: Tại sao tác giả lại xây <br />
dựng, sử dụng những hình ảnh, hình tượng, chi tiết nghệ thuật đó? Ý nghĩa của <br />
vấn đề? Loại câu hỏi này giúp học sinh biết phân tích, đánh giá và khái quát những <br />
vấn đề quy tụ vào những đặc trưng về hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng <br />
của tác phẩm. <br />
Ví dụ 1: Khi giảng bài “ Cuộc chia tay của những con búp bê” của Khánh <br />
Hoài(Ngữ văn 7 tập 1) giáo viên có thể hỏi: Hai bức tranh trong SGK minh họa <br />
cho nội dung nào trong truyện? (Chia búp bê Hai anh em chia tay nhau). Nhan đề <br />
truyện gợi lên điều gì?<br />
HS cảm nhận được: Những con búp bê vốn là đồ chơi của tuổi thơ gợi nên sự <br />
ngộ nghĩnh, vô tư, ngây thơ, vô tội > thế mà đành chia tay > tên truyện gợi tình <br />
huống