intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Lựa chọn một số bài tập phát triển sức mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh nam khối lớp 11 trường THPT

Chia sẻ: Sỹ Trần Văn Sỹ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

290
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm "Lựa chọn một số bài tập phát triển sức mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh nam khối lớp 11 trường THPT" nhằm mục đích tìm hiểu cơ sở khoa học của các hình thức tổ chức tập luỵên trong môn học tự chọn Bóng Đá cho học sinh trừơng THPT

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Lựa chọn một số bài tập phát triển sức mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh nam khối lớp 11 trường THPT

  1. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Thể  dục thể  thao là một hoạt động không thể  thiếu trong đời sống xã hội,  ngoài mục đích nâng cao sức khoẻ cho mọi người nó còn là một hoạt động vui chơi  giải trí, phương tiện giao tiếp về văn hoá, nghệ  thuật có tác dụng giúp con người  phát triển cả  về  “Đức – Trí – Thể  – Mỹ”. TDTT còn là phương tiện giao lưu văn  hoá giữa các dân tộc, quốc gia nhằm thắt chặt tình hữu nghị trên toàn thế giới. Trong hệ  thống các môn thể  dục thể  thao thì điền kinh là một trong những   môn được nhiều người quan tâm tập luyện, đặc biệt phổ biến trong các trường học  bởi nó là một môn cơ bản, dễ học, dễ phổ biến cho tất cả học sinh – sinh viên tham  gia. Tập luyện điền kinh không những nâng cao sức khoẻ cho người tập mà còn là   cơ sở để phát triển các tố chất thể lực khác như: nhanh ­ mạnh ­ bền ­ khéo léo. Bộ  môn điền kinh bao gồm nhiều môn thi đấu trong đó môn nhảy cao nói  chung, nhảy cao kiểu nằm nghiêng nói riêng là môn được tập luyện và thi đấu rộng  rãi trong các trường phổ thông, các hội khoẻ, các giải thi đấu từ trung ương đến địa  phương. Tuy nhiên qua thực tế tìm hiểu thì thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng  của học sinh là chưa cao. Bởi vậy việc giảng dạy môn nhảy cao kiểu nằm nghiêng   ngày càng được chú trọng song vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Các trường THPT nằm trên địa bàn miền núi nên nền tảng thể  lực của học   sinh còn hạn chế, riêng thành tích môn nhảy cao nằm nghiêng của học sinh khối lớp   11 còn thấp so với thành tích môn nhảy cao nằm nghiêng của các trường trong   huyện.  Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Lựa chọn một   số  bài tập phát triển sức mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu nằm   nghiêng cho học sinh nam khối lớp 11 trường THPT ” II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. Để giải quyết nhịêm vụ trên của đề tài  tôi sử dụng các phương pháp sau : 1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu là quá trình tham khảo các tài liệu   chung và chuyên môn liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài.  Trên cơ sở đọc và phân tích tài liệu có liên quan đến đề  tài, phương pháp này  chúng tôi sử  dụng trong quá trình nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu cơ  sở  khoa   học của các hình thức tổ  chức tập luỵên trong môn học tự  chọn Bóng Đá cho học   sinh trừơng THPT . 1
  2. 2. Phương pháp phỏng vấn toạ đàm. Chúng tôi sử dụng phuơng pháp này để phỏng vấn trực tiếp và gián tiếp phiếu   hỏi các giáo viên thể dục của trừơng THPT. Các vấn đề  phỏng vấn tập trung vào  việc tìm hiểu một số  biện pháp và hình thức tổ  chức tập luyện môn học tự  chọn   Bóng Đá thông qua đó thu thập số liệu cần thiết làm cơ sở   cho việc lựa chọn các  biện pháp và hình thức tổ chức tập luyện. 3. Phương pháp quan sát sư phạm. Quan sát sư phạm là phương pháp thu thập thông tin về quá trình giáo dục dựa  trên cơ sở tri giác trực tiếp các hoạt động của giáo viên, học sinh và cán bộ quản lí   giáo dục.   Trong quá trình học tập tại trừơng đã sử dụng quan sát sư phạm dự giờ các thầy   cô giáo trong môn Bóng đá, qua đó rút ra  được những kinh nghiệm thực tiễn kết hợp   với cơ sở lí luận để xác định áp dụng hình thức tổ chức tập lụyên môn học tự  chọn   Bóng đá làm  căn cứ cho viêc tổ chức thực nghiệm sư phạm. 4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.  Là phương pháp nghiên cứu có hệ  thống và logic một hiện tượng, một quá  trình giáo dục nhằm trả  lời câu hỏi “nếu quá trình đó được thực hiện trong điều  kiện đã được khống chế, phát triển, về tính liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả”. Để  giải quyết nhiệm vụ  đề  tài, thực hiện phương pháp này bằng cách thực  thực nghiệm song song. Trong quá trình nghiên cứu đã phân thành hai nhóm, mổi  nhóm 30 học sinh có cùng lứa tuổi, giới tính, cùng địa bàn dân cư, tương đương  nhau về sức khoẻ, thành tích. 2
  3. PHẦN II. NỘI DUNG I. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN. 1.Thuận lợi. + Về đội ngũ giáo viên: tổ bộ môn thể dục hiện tại có 10 giáo viên với trình  độ đạt chuẩn, các giáo viên có tuổi đời công tác lâu năm. Nhìn vào đội ngũ giáo viên  của tổ ta thấy được sức trẻ chiếm ưu thế hơn. + Về  thực trạng giảng dạy và học tập môn nhảy cao  ở  các trường phổ   thông: Nhảy cao là môn thể thao không đòi hỏi nhiều về trang thiết bị, kĩ thuật tương  đối đơn giản, dễ  phổ  cập, phù hợp với mọi lứa tuổi, giới tính, do đó nhảy cao là   một nội dung cơ bản trong chương trình giáo dục thể chất.  Ở  cấp THPT các em được làm quen và tập luyện với kĩ thuật nhảy cao kiểu  nằm nghiêng . Việc giảng dạy môn nhảy cao trong nhiều năm qua đã được chú trọng  (tăng cường : đệm, cột, sào...) và đạt kết quả nhất định, song  cả thầy và trò còn phải  phấn đấu nhiều hơn nữa mới đáp  ứng được phong trào ngày càng phát triển mạnh   mẽ. Để giảng dạy tốt hơn nữa kĩ thuật nhảy cao nằm nghiêng cho học sinhthì giáo   viên cần phải nắm chắc được đối tượng và không ngừng chọn lựa cải tiến, các biện   pháp, nội dung giảng dạy cho phù hợp, gây  ảnh hưởng tốt đến sự  phát triển toàn  diện các bộ phận cơ thể học sinh. 2. Khó khăn: ­ Đa số học sinh đều ở xa trường nên việc tập luyện, ngoại khóa của các em  còn ít. ­ Nhiều học sinh chưa có đủ điều kiện đảm bảo cho việc tập luyện thể dục,  bố mẹ các em đa phần đều làm nông thôn nên kinh tế còn khó khăn, do vậy các em  đều ăn chưa no và chưa đủ chất dẫn đến khi tập luyện nhanh bi mệt mỏi. ­ Hầu hết các trường  THPT  được đầu tư  về  cơ  sở  vật chất, trang thiết bị  phục vụ dạy học. Song chưa đầy đủ để đáp ứng cho việc dạy và học. II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỂN. 3
  4. 1. Cơ sở lý luận của việc giảng dạy kỹ thuật động tác. Giảng dạy kỹ thuật động tác là một quá trình giúp cho học sinh hình thành kỹ  năng, kỹ  xảo vận động, khi tiến hành giảng dạy cần phải tuân thủ  theo những  nguyên tắc quá trình giáo dục và giáo dưỡng thể chất. Bất kỳ hoạt động giảng dạy   nào dù đơn giản hay phức tạp đều tuân thủ theo nguyên tắc hình thành kỹ năng, kỹ  xảo vận động từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.Giai đoạn dạy học ban đầu  rất quan trọng bởi vì giai đoạn này hình thành nên kỹ thuật động tác, những sai lầm   về lệch lạc động tác nếu không tạo nên sự tiếp thu, thu hút học sinh về động tác kỹ  thuật sẽ dẫn đến những sai lầm như vậy hiệu quả đạt được sẽ không cao. 2. Đặc điểm giải phẩu sinh lí lứa tuổi học sinh THPT.  Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi đầu thamh niên là thời kì đạt được sự  trưởng thành về  mặt thể  lực, nhưng sự  phát triển cơ  thể  còn kém so với sự  phát   triển cơ thể của người lớn. Có nghĩa ở  lứa tuổi này cơ  thể các em đang phát triển   mạnh. Khả năng hoạt động của các bộ phận cơ thể được nâng cao cụ thể là: 2.1. Về mặt tâm lý. Ở tuổi này các em đang phát triển các chức năng tâm lý,đây là giai đoạn mà   sự  phát triển trí tuệ  của các em mang tính chất hưng phấn ,đang dần hình thành  năng lực làm việc cũng như nhân cách được hình thành.Các em phần nào đã ý thức  được công việc mình làm, ở tuổi này các em tỏ  ra ham tìm tòi học hỏi và rất nhạy   cảm với cái mới. Tuy nhiên về mặt tâm lý các em hay nóng vội, chủ quan dẫn đến  hiệu quả công việc chưa cao. 2.2. Về Hệ vận động . + Hệ xương: ở lứa tuổi này cơ thể các em phát triển mạnh mẽ về chiều dài,   bề  dày, hàm lượng các chất hữu cơ  trong xương giảm do hàm lựơng magiê, phốt   pho, can xi trong xương tăng. Quá trình cốt hoá xương ở các bộ phận chưa hoàn tất   chỉ xuất hịên sự cốt hoá ở một số bộ phận như mặt. Các tổ chức sụn đựơc thay thế  bằng mô xương nên cùng vơi sự phát triển của xương cột sống không giảm, trái lại  tăng lên có xu hứơng cong vẹo. Vì vậy mà trong quá trình giảng dạy cần tránh cho  học sinh tập luyện với dụng cụ có trọng lượng quá nặng và các họat động gây chấn   thương quá mạnh. + Hệ cơ: ở lứa tuổi này cơ của các em phát triển nhanh để đi đến hoàn thiện   nhưng phát triển  không đều và chậm hơn so với hệ xương, cơ to phát triển nhanh  hơn cơ nhỏ, cơ co phát triển nhanh hơn cơ duổi, khối lựơng cơ tăng lên rất nhanh,  đàn tính cơ không đều chủ yếu là nhỏ và dài. Do vậy khi hoạt động cơ  chóng mệt  mỏi, vì vậy khi tập luyện giáo viên giảng dạy cần chú ý phát triển cơ bắp cho các   em. 4
  5. + Hệ  tuần hoàn: ở lứa tuổi này hệ  tuần hoàn đang trên đà phát triển mạnh  để kịp thời phát triển toàn thân, tim lớn hơn khả năng co bóp của cơ tim phát triển   mạnh, do đó nâng cao khá rõ lưu lượng máu trên phút. Buồng tim đã phát triển   tương đối hoàn chỉnh, mạch đập bình thường của nam là 70­80 lần/phút, nữ  là 75­ 85 lần/phút. Nhưng khi vận động căng thì tần số nhanh hơn phản ứng của hệ tuần   hoàn tương đối rõ rệt trong hệ  vận động, nhưng sau vận động mạch và huyêt áp   tăng tương đối nhanh chóng, tim trở nên hoạt động dẻo dai hơn.  + Hệ thần kinh: ở lứa tuổi này hệ thống thần kinh tiếp tục đựơc phát triển   để đi đến hoàn thiện , hoạt động phân tích trên vỏ não về tri giác có định hướng sâu  sắc hơn. Kích thứơc của não và hành tuỷ  đạt đến mức   của ngừơi trưởng thành.   Khả năng tư duy phân tích tổng hợp của não tăng lên, tư  duy trừu tượng được phát  triển tạo điều kiện thuận lợi   cho vịêc hình thành nhanh chóng phản xạ  có đìêu   kiện. Khả  năng nhận hiểu cấu trúc động tác và tái hiện chính xác hoạt động vận  động được nâng cao. Ngay từ tuổi thíêu niên đã dĩên ra quá trình hoàn thiện cơ quan  phân tích và những chức năng vận động quan trọng nhất, nhất là cảm giác bản thể  trong đìêu kiện động tác.  ở  lứa tuổi học sinh không chỉ  các phần động tác đơn lẽ  như trứơc mà chủ yếu từng bứơc hoàn thiện  ghép những phần đã học trứơc thành   các liên hợp động tác tương đối hoàn chỉnh    ở  điều kiện khác nhau phù hợp với  từng học sinh. Mặt khác do hoạt động mạnh của tuyến giáp, tuyến sinh dục, tuyến yên làm  cho tính hưng phấn cao của hệ thần kinh chiếm  ưu thế, gĩưa hưng phấn và ức chế  không cân bằng   ảnh hưởng tới hoạt động thể  lực, đặc biệt đối vớ  nữ, tính nhịp  điệu  giảm nhanh, khả  năng chịu lựơng vận động yếu. Vì vậy khi giảng dạy cần   phải thay đổi nhiều hình thức tập luyện, vận dụng các hình thức trò chơi thi đấu để  hoàn thành tốt những bài tập đề ra. + Hệ hô hấp:  ở lứa tuổi này, phổi các em phát triển mạnh nhưng chưa đều  khung ngực còn nhỏ, hẹp nên   các em thở  nhanh và lâu không có sự   ổn định của  dung tích sống, không khí, vòmg ngực trung bình của nam 67­77 cm, nữ 69­74 cm.   Lúc 15 tuổi dung lựơng phổi là 2­ 2,5 lít khi 16­18 tuổi là 3­4 lit, Tần số hô hấp gần  với người lớn, tuy nhiên  các cơ hô hấp còn yếu nên sức co giãn của lồng ngực ít,   chủ yếu co giãn cơ hoành, đây chính là nguyên nhân làm tần số hô hấp của các em  tăng nhanh khi hoạt động và gây nên hiện tượng thiếu oxi dẫn đến mệt mỏi. 3. Cơ sở thực tiển: 3.1. Tác dụng của tập luyện môn nhảy cao ở trường phổ thông: Nhảy cao là một môn thể thao khá phổ biến, được nhiều người ưa thích và   tham gia tập luyện. 5
  6. Tập luyện nhảy cao có tác dụng rất lớn trong việc phát triển các tố  chất thể  lực, nâng cao khả năng tập trung sức, tự chủ và rèn luyện lòng dũng cảm, tính kiên trì  và khắc phục khó khăn trong rèn luyện. Thông qua các bài tập kĩ thuật của chạy đà và  giậm nhảy, làm tăng cường và phát triển các tố  chất sức nhanh, sức mạnh và sức  mạnh tốc độ của người tập. Thực hiện tốt các kỹ thuật trên không và rơi xuống đất,   đã rèn luyện được sự khéo léo, tính chính xác, nâng cao khả năng phối hợp vận động,  giúp cho người tập nâng cao sức khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần, phục vụ đắc lực   cho lao động sản xuất và chiến đấu. 3.2. Sức mạnh và sức mạnh trong nhảy cao: Khái niệm về sức mạnh cho đến nay vẫn còn có những cách hiểu khác nhau.   nhưng tố chất sức mạnh có thể phân thành : sức mạnh tuyệt đối, sức mạnh tương đối,   sức mạnh tốc độ, sức mạnh bền : trong đó: ­ Sức mạnh tuyệt đối: là năng lực khắc phục lực cản lớn nhất. ­ Sức mạnh tương đối: là sức mạnh tuyệt đối của vận động viên trên 1 kg  thể trọng của họ. ­ Sức mạnh tốc độ: là khả năng sinh lực trong các động tác nhanh. ­ Sức mạnh bền: là năng lực khắc phục lực cản nhỏ trong thời gian dài. Bên cạnh đó, ở nhiều trường hợp còn gặp một dạng sức mạnh rất quan trọng  được gọi là “sức mạnh bột phát”: Dạng sức mạnh này xuất hiện và giữ  vai trò quan   trọng trong các môn có hoạt động bật nhảy, được tính theo công thức. F I = max Tmax Trong đó I là chỉ số đánh giá sức mạnh, tốc độ hay sức mạnh bột phát, Fmax là  lúc sức mạnh tối đa, Tmax là thời gian để đạt sức mạnh tối đa. Nhảy cao là nội dung nằm trong hệ  thống các môn không có chu kỳ, gồm  nhiều động tác liên kết lại với nhau, thành một kỹ  thuật hoàn chỉnh, người ta chia   thành 4 giai đoạn: chạy đà, giậm nhảy, tư thế bay trên không và tiếp đất. Trong bốn   yếu tố đó, yếu tố giậm nhảy có ảnh hưởng nhiều nhất tới việc hình thành kỹ thuật   động tác và quyết định thành tích ở môn này. Nhưng khâu giậm nhảy lại có quan hệ  rất lớn với tốc độ chạy đà, thời gian chống đỡ khi giậm nhảy, góc độ giậm nhảy…   Như  vậy, có thể  thấy sức mạnh trong nhảy cao là dạng sức mạnh hỗn hợp, mà ta   có thể  phân ra một cách tương đối, gắn liền với quá trình thực hiện kỹ  thuật bao  gồm: ­ Sức mạnh tốc độ: Dạng sức mạnh này thể hiện trong động tác chạy đà. ­ Sức mạnh bột phát: Dạng sức mạnh thể hiện trong động tác giậm nhảy  (sức bật). 6
  7. Theo “Tính chu kỳ trong huấn luyện thể thao” hầu hết các môn thể thao đều  cần sức mạnh, những tố chất sức mạnh cần thiết cho từng môn thể thao khác nhau   gọi là sức mạnh đặc thù của môn nào đó. Sức mạnh tối đa đóng vai trò quan trọng   nếu không nói là quyết định trong việc tạo ra sức mạnh đặc thù của môn thể thao.  III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Xác định và ứng dụng một số bài tập phát triển sức mạnh nhằm  nâng cao thành tích trong môn nhảy cao. Để xác định một cách khách quan, chúng tôi dùng phiếu phỏng vấn để lấy ý  kiến của các giáo viên thể dục ở các trường THPT trong huyện để xem xét đánh giá  mức độ quan trọng của hai tố chất thể lực trên. Câu hỏi được đưa ra gồm hai yếu   tố về mặt tố chất thể lực được đánh giá theo ba mức sau: + Rất quan trọng. + Quan trọng. + Bình thường. Phỏng vấn tiến hành một lần đối với 8 giáo viên thể  dục  ở  các trường   THPT trên địa bàn huyện. Bảng 3.1: Kết quả phỏng vấn vai trò các tố chất thể lực  trong phát triển thành tích nhảy cao. Rất quan trọng Quan trọng Bình thường NHÓM NỘI DUNG SL TL % SL TL % SL TL % Sức mạnh tốc độ 6 88% 2 12% 0 0% Các tố chất Sức mạnh bộc phát 7 94% 1 6% 0 0% Kết quả phỏng vấn được trình bày ở bảng 1, chứng tỏ hầu hết các thầy cô đều  cho rằng các tố chất phát triển sức mạnh bột phát và sức mạnh tốc độ có tác động lớn   đến việc nâng cao thành tích nhảy cao. Trên thực tế trong sách giáo khoa thể dục lớp 11 có giới thiệu một số trò chơi,   bài tập bổ trợ, bài tập phát triển thể lực phát triển sức mạnh chân (trang 83­ 86) trong   sách giáo khoa thể dục lớp 12 có giới thiệu một số bài tập bổ trợ, bài tập phát triển thể  lực phát triển sức mạnh chân (trang 85). Cũng dựa trên cơ sở hai tố chất thể lực phát   triển sức mạnh trên, chúng tôi xác định thêm được một số bài tập sau: STT Bài tập về sức mạnh tốc độ STT Bài tập về sức mạnh bộc phát 1 Chạy 30m xuất phát cao. 1 Bật xa tại chỗ 2 Chạy 30m tốc độ cao 2 Bật cao tại chỗ 3 Chạy 60m xuất phát cao 3 Bật cóc 15m 7
  8. 4 Chạy đạp sau 30m 4 Lò cò nhanh một chân 30m Xong để  xác định được các bài tập này có độ  tin cậy và có giá trị  sử  dụng  hay không chúng tôi tiến hành phỏng vấn các giáo viên thể dục để đánh giá xác định  độ tin cậy của các bài tập đã đưa ra. Bảng 3.2: Kết quả phỏng vấn các bài tập phát triển sức mạnh  để nâng cao thành tích nhảy cao cho học sinh  SỐ PHIẾU ĐỒNG Ý KHÔNG ĐỒNG Ý T NỘI DUNG PHÁT  THU  T SL TL% SL TL% RA VÀO 1 Chạy 30 m xuất phát cao 8 8 7 94% 1 6% 2 Chạy 30 m tốc độc cao 8 8 7 94% 1 6% 3 Chạy 60 m xuất phát cao 8 8 5 89% 2 11% 4 Chạy đạp sau 30 m 8 8 8 100% 0 0% 5 Bật xa tại chỗ 8 8 7 94% 1 6% 6 Bật cao tại chỗ 8 8 8 100% 0 0% 7 Bật cao ôm gối trên hố cát 8 8 8 100% 0 0% 8 Lò cò một chân 30 m 8 8 8 100% 0 0% Qua kết quả phỏng vấn thấy rằng trong 8 bài tập ở phiếu phỏng vấn đưa ra   có tỷ lệ đồng ý cao. Điều đó cho thấy độ tin cậy của các bài tập có giá trị thực tiễn   trong huấn luyện và giảng dạy. Từ kết quả trên tôi đưa toàn bộ 8 bài tập phát triển   sức mạnh này vào thực nghiệm. 2. Đánh giá hiệu quả của các bài tập trong quá trình giảng dạy *  Kết quả kiểm tra trước và sau tập luyện ­ Trước khi tiến hành thực nghiệm tôi tiến hành kiểm tra kết quả  lần 1 (từ  20/10/2014) ở cả hai nhóm thực nghiệm và đối chứng và kiểm tra lần 2 sau 16 tuần   thực nghiệm (24/02/2015) tôi kiểm tra lần 2 để so sánh đánh giá thành tích giữa hai   nhóm nhằm đánh giá hiệu quả của các bài tập đã đưa vào thực nghiệm. Sau khi tiến hành tính toán các số  liệu thu thập được, chúng tôi có  các tham  số: giá trị trung bình ( X ), độ lệch chuẩn ( ), Hệ số biến thiên (Cv%), Sai số tương  đối ( ε  ), T­student (t) của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Bảng 3.3: Kết quả kiểm tra của 2 nhóm TN và nhóm ĐC trước thực nghiệm (đơn vị tính : cm) Vậy thì sự khác biệt ở bảng trên có ý nghĩa không ? s δx CV%ẽ được tính và thể  X Test hiện trong bảng: 3.4 TN ĐC TN ĐC TN ĐC TN ĐC 8 Bật cao tại chổ 49.45 49.35 1.64 1.87 3.31 3.79 0.02 0.02 Nhảy cao có đà 127.75 128.00 8.81 8.94 6.89 6.99 0.03 0.03
  9. Bảng 3.4. Sự khác biệt của nhóm TN  và nhóm ĐC trước thực nghiệm. T TN ĐC TÊN TEST t p T X ±δ X ±δ 1 Bật cao tại chổ 49.45 ± 1.64 49.35 ±1.87 0.18 >0.05 2 Nhảy cao có đà 127.75 ± 8.81 128.00 ±8.94 0.04 >0.05 Qua bảng 3.4 cho thấy:  ­ Bật cao tại chỗ. Có ttính = 0.18 
  10. + Trước thực nghiệm có: X = 127.75 ± 8.81 + Sau thực nghiệm có:    X = 134.50 ± 7.05 So sánh cho thấy có sự phát triển với nhịp tăng trưởng W=5.15% với  ttính = 9.00 > tbảng = 2.093 nên sự khác nhau giữa hai giá trị trung bình mẫu có  ý nghĩa thống kê.  Bảng 3.6. So sánh sự phát triển của nhóm đối chứng  trước (TTN) và sau thực nghiệm (STN). TTN STN TT TÊN TEST W% t p X ±δ X ±δ 1 Bật cao tại chổ 49.35 ± 1.87 51.45 ± 2.04 4.38 13.08  tbảng = 2.093 nên sự khác nhau giữa hai giá trị trung bình mẫu có  ý nghĩa thống kê.  Bảng 3.7. So sánh sự phát triển của nhóm TN và nhóm ĐC sau thực nghiệm. Nhóm TN Nhóm ĐC TT TÊN TEST t p X ±δ X ±δ 1 Bật cao tại chổ 53.75 ± 2.22 51.45 ± 2.04 3.41
  11. Qua bảng 3.7 cho thấy:  ­ Bật cao tại chỗ. Có ttính = 3.41> tbảng = 2.093 nên sự khác nhau giữa hai giá trị trung bình mẫu  có ý nghĩa thống kê. ­ Nhảy cao có đà.  Có ttính = 2.11> tbảng = 2.093 nên sự khác nhau giữ a hai giá trị trung bình mẫu  Test có ý nghĩa thống kê.  Hay nói cách khác là có sự khác biệt giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối  chứng. Diễn biến nhịp độ tăng trưởng của hai nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng  đều tăng sau  16 tuần tập luyện. Kết quả kiểm tra của nhóm thực nghiệm có sự  tăng  trưởng cao, đồng đều và ổn định hơn so với nhóm đối chứng. Tóm lại: từ  kết quả  nghiên cứu trên cho thấy qua 2 nội dung kiểm tra,   nhóm thực nghiệm đều phát triển hơn nhóm đối chứng, đạt sự khác biệt có ý nghĩa  thống kê với ngưỡng xác suất p 
  12. PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. Kết luận: Từ những kết quả nghiên cứu trên cho phép rút ra những kết luận như sau: 1. Qua các bước nghiên cứu đề tài đã xác định được 8 bài tập phát triển sức   mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao cho học sinh nam   khối lớp 11 trường  THPT đảm bảo có giá trị thông báo và đủ độ tin cậy đó là: STT Bài tập về sức mạnh tốc độ STT Bài tập về sức mạnh bộc phát 1 Chạy 30m xuất phát cao. 1 Bật xa tại chỗ 2 Chạy 30m tốc độ cao 2 Bật cao tại chỗ 3 Chạy 60m xuất phát cao 3 Bật cóc 15m 4 Chạy đạp sau 30m 4 Lò cò nhanh một chân 30m 2. Sau 18 tuần tập luyện thành tích của cả  2 nhóm đều tăng vói nhịp tăng   trưởng từ  1,36%­8,33%. Tuy nhiên nhóm thực nghiệm tăng cao và đồng đều hơn   nhóm đối chứng. II. Kiến nghị: Từ kết quả nghiên cứu của đề tài cho phép có một số kiến nghị như sau: ­ Có thể sử dụng hệ thống các bài tập trên để đưa vào quá trình giảng dạy  và huấn luyện nội dung nhảy cao cho các trường  ­ Do chương trình  ở  bậc THPT chỉ  có 2 tiết/tuần, vì vậy cần tăng cường  thời gian để tập luyện ngoại khóa cho học sinh, góp phần nâng cao sức khỏe. ­ Cần mở  rộng nghiên cứu này trên các đối tượng khác để  hình thành hệ  thống bài tập phù hợp với các đối tượng, các lứa tuổi khác.    Vũ Quang, ngày 11 tháng 01 năm 2017         Người viết   Trần Văn Sỹ     12
  13. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1