SKKN: Một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa
lượt xem 10
download
Mục tiêu của đề tài là Giúp học sinh nhận diện, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Giúp học sinh học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau. Giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa
- I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề tài Một trong những nguyên tắc cơ bản của dạy Tiếng Việt là dạy học thông qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ cực mạnh để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ Tiếng Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong giờ Tiếng Việt được giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý. Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều nghĩa được bắt đầu đưa vào chương trình Tiểu học ở lớp 5 với 5 tiết từ bài 10, 12,13,14,16. Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là một vấn đề khá phức tạp, dễ nhầm lẫn. Dân gian có câu:”Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam.”. Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, mảng nội dung nghĩa của từ được tập trung và được biên soạn có hệ thống trong phần luyện từ và câu. Nhiều năm liền trong quá trình dạy học, tôi thường nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ cùng nghĩa, gần nghĩa cũng không mấy vất vả, tuy nhiên khi học xong từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thì các em bắt đầu có sự nhầm lẫn và khả năng phân biệt các từ đồng âm với từ nhiều nghĩa của học sinh không được như mong đợi của cô giáo. kể cả một số học sinh khá, giỏi đôi khi cũng làm thiếu chính xác. Trăn trở về vấn đề này, qua những năm dạy lớp 5 tôi, đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách dạy từ đồng âm , từ nhiều nghĩa , bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Sau đây tôi xin được chia sẻ những kinh nghiệm nhỏ ấy qua bài viết:"Một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa". I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài a) Mục tiêu Giúp học sinh nhận diện , phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Giúp học sinh học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau. Giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. b) Nhiệm vụ 1
- Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và phương pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. Nghiên cứu, tìm hiểu các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học trên lớp có sự lồng ghép, gợi mở kiến thức môn tiếng Việt. I.3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp 5B, Trường Tiểu học Phan Bội Châu, TT Buôn Trấp, Krông Ana, năm học 20142015. I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa, các biện pháp này chưa được nhân rộng mà chỉ áp dụng tại lớp tôi chủ nhiệm. Môn Tiếng Việt lớp 5. I.5. Phương pháp nghiên cứu a) Nghiên cứu tài liệu Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục, tài liệu hướng dẫn về tăng cường Tiếng Việt của dự án PEDC, … có liên quan đến nội dung đề tài. Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên, các loại sách tham khảo. b) Nghiên cứu thực tế Dự giờ trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung cần đạt đối với HS lớp 5. Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học. Khảo sát, thống kê chất lượng học tập của học sinh. c) Áp dụng với học sinh Phương pháp hỏi đáp Hình thức học cá nhân Phương pháp giảng giải Thảo luận nhóm . Phương pháp trực quan Tổ chức trò chơi. Phương pháp luyện tập thực hành. 2
- II. NỘI DUNG II.1. Cơ sở lí luận II.1.1 Cơ sở pháp lý Sách Tiếng Việt lớp 5 tập Một ,Sách giáo viên Lớp 5 tập Một, Sách Chuẩn kiến thức và kĩ năng bậc Tiểu học. Công văn số 896/BGD&ĐT GDTH.Về việc Hướng dẫn điều chỉnh việc dạy và học cho học sinh Tiểu học . Hướng dẫn số 9890/BGDĐT GDTH. Về việc hướng dẫn nội dung phương pháp giáo dục học sinh có hoàn cảnh khó khăn. II.1.2. Một số vấn đề về lý luận Các nguyên tắc đặc thù của phương pháp dạy – học Tiếng Việt bao gồm: Nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy; Nguyên tắc hướng hoạt động vào giao tiếp. Nguyên tắc chú ý tới trình độ Tiếng Việt vốn có của học sinh. Nguyên tắc so sánh và hướng tới hai dạng nói và viết và nguyên tắc đảm bảo mối quan hệ hữu cơ giữa dạy học tri thức và rèn luyện kỹ năng. Trước hết, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy. Ngôn ngữ vừa là công cụ vừa là sản phẩm của tư duy và tư duy là hiện thực trực tiếp của ngôn ngữ. Quá trình người học nhận thức các khái niệm và qui tắc của ngôn ngữ, vận dụng nó vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của giao tiếp cũng chính là quá trình người học tiến hành các thao tác tư duy theo một định hướng. Quá trình này không chỉ hình thành các kỹ năng ngôn ngữ mà còn hình thành các kỹ năng và phẩm chất tư duy. Quá trình hoạt động tư duy và hoạt động ngôn ngữ là hai quá trình có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ tới mức “ Tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Nói một cách khác, muốn rèn luyện ngôn ngữ thì tất phải rèn luyện tư duy và ngược lại. Để hai quá trình được thực hiện một cách có ý thức, có kế hoạch, có tính toán, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với tư duy được cụ thể hoá thành các yêu cầu sau đây. Dạy học tiếng phải gắn liền với phương pháp rèn luyện tư duy. Dạy học tiếng phải gắn liền với rèn luyện các thao tác tư duy. Dạy học tiếng phải gắn liền với bồi dưỡng phẩm chất tư duy. D ạy h ọc ti ếng ph ải gắn liền với bồi dưỡng tư duy hình tượng và tư duy logich. Dạy học tiếng phải làm cho học sinh thông hiểu ý nghĩa các đơn vị ngôn ngữ gắn chúng với nội 3
- dung hiện thực mà chúng phản ánh, đồng thời phải thấy được giá trị của chúng trong hệ thống Tiếng Việt. Phải chuẩn bị tốt nội dung các đề tài cho các bài tập luyện nói, liên kết gần gũi với đời sống của các em. 1. Thực trạng a) Thuận lợi, khó khăn * Thuận lợi Trường Tiểu học Phan Bội Châu là một trường Tiểu học mới được công nhận trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia mức độ I năm 2014, những năm gần đây chất lượng giáo dục và các phong trào hoat động của nhà trường vẫn đang duy trì và phát triển. Năm học 2014 2015 nhà trường tiếp tục tổ chức dạy học văn hoá song song với tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp. các câu lạc bộ năng khiếu. chú trọng nâng cao chất lượng mũi nhọn và đại trà. đẩy mạnh giáo dục toàn diện cho học sinh. Đối với môn tiếng Việt, ngoài các tiết dạy học chính khoá, nhà trường còn bố trí cho học sinh được học thêm vào những tiết ôn luyện, được các tổ, khối và giáo viên chủ nhiệm các lớp cụ thể hoá nội dung dạy học cho các phân môn của tiếng Việt. Trong tuần những học sinh mũi nhọn cũng được tranh thủ học bồi dưỡng. Như vậy, học sinh có điều kiện thực hành thêm các bài tập và củng cố kiến thức về tiếng Việt. Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ, đảm bảo cho việc dạy và học như phòng học, bàn ghế, đồ dung dạy học…. Ban Giám hiệu nhà trường, thầy cô luôn quan tâm, động viên khích lệ các em kịp thời, giúp đỡ các em khi các em gặp khó khăn. Đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có lòng yêu nghề, mến trẻ. * Khó khăn Đa số các em thiếu sự quan tâm của gia đình, trình độ nhận thức của một số phụ huynh còn nhiều hạn chế. Khả năng nhận diện, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa của các em còn nhiều hạn chế. 4
- b) Thành công, hạn chế * Thành công Sau khi áp dụng sau các biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa đa số học sinh của lớp tôi có sự tiến bộ rõ rệt. Ý thức của các em trong các tiết học ngày một nâng lên. Các tiết học diễn ra sôi nổi và hứng thú hơn trước. Học sinh mạnh dạn hơn trong giao tiếp với người xung quanh. * Hạn chế Các biện pháp không mang lại hiệu quả tức thì, mà cần áp dụng trong một thời gian dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, tận tụy và quyết tâm thực hiện. c) Mặt mạnh, mặt yếu * Mặt mạnh Trong quá trình dạy học tôi sử dụng các biện pháp một cách nhẹ nhàng, phù hợp với đối tượng và sự tiến bộ của học sinh. Việc lồng ghép một số trò chơi học tập hay nêu gương nhận biết, phân biệt trước lớp đã góp phần tạo cho các em hứng thú khi làm bài, ý thức học bài của các em tốt hơn. * Mặt yếu Hệ thống biện pháp chưa phong phú, giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ nội dung, biện pháp và hình thức tổ chức trước khi lên lớp. d) Các nguyên nhân, các yếu tố tác động * Về phía học sinh Nhiều năm liền trong quá trình dạy học, tôi thường nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ cùng nghĩa, gần nghĩa cũng không mấy vất vả, tuy nhiên khi học xong từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thì các em bắt đầu có sự nhầm lẫn và khả năng phân biệt các từ đồng âm với từ nhiều nghĩa của học sinh không được như mong đợi của cô giáo. kể cả một số học sinh khá, giỏi đôi khi cũng làm thiếu chính xác. 5
- Một số học sinh ý thức vươn lên trong học tập vẫn còn chưa cao. Kỹ năng nghe hiểu, kỹ năng viết của học sinh nhìn chung là chậm, khả năng hiểu và xác định nghĩa của từ tiếng Việt còn yếu nên dùng sai từ trong khi nói và viết. Do ảnh hưởng thói quen nói tiếng địa phương Thừa Thiên Huế, khả năng nhận diện con chữ chậm. Dẫn đến khả năng đọc của các em chậm, việc đọc liền mạch từ, câu gặp rất nhiều khó khăn. Khả năng đọc biểu cảm còn hạn chế. Khả năng tiếp nhận thông tin, tư duy để xử lý, tái tạo nội dung thông tin của học sinh còn chậm. * Về phía giáo viên Việc sử dụng phương tiện dạy học và đồ dùng chưa phong phú, đa dạng nên chưa hấp dẫn học sinh một cách tuyệt đối trong việc tập trung vào luyện đọc. Một số giáo viên chưa đánh giá đúng mức vai trò, vị trí và tầm quan trọng của việc dạy – học phân môn Luyện từ & câu; chưa sâu sát việc nắm bắt tâm lí của học sinh và phụ huynh. Ở một số tiết dạy, giáo viên chưa thể hiện sự quan tâm đúng mức đến đối tượng học sinh yếu; đặt yêu cầu chưa cao vào việc tìm và phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đối với học sinh và cuốn hút học sinh vào hoạt động này Qua thực tiễn dự giờ thăm lớp, tìm hiểu đối tượng, thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề và các tiết dự giờ cũng như các chuyên đề ở tổ khối; trong quy mô toàn cấp trường, tôi luôn coi trọng và chú ý lắng nghe, đề xuất ý kiến về các giải pháp nâng cao chất lượng cho các em học sinh nhằm nâng cao kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho các em. Đồng thời, tôi luôn tìm tòi sáng kiến để cải tiến phương pháp dạy học làm sao cho các em đọc đạt hiệu quả cao hơn. e) Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Nội dung dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ở lớp 5 * Từ đồng âm: Được dạy trong 2 tiết ở tuần 5 và tuần 6. Ơ tuần 5 các em được học khái niệm về từ đồng âm. Các bài tập về từ đồng âm chủ yếu giúp học sinh phân biệt nghĩa các từ đồng âm, đặt câu phân biệt các từ đồng âm. Tuần 6, các em được học cách dùng từ đồng âm để chơi 6
- chữ, bài tập thực hành ở phần này chủ yếu là tìm các từ đồng âm chơi chữ và đặt câu với từ đồng âm. * Từ nhiều nghĩa: được dạy trong 3 tiết ở tuần 7 và tuần 8. Tiết 1 của tuần 7 các em được học khái niệm về từ nhiều nghĩa. Các bài tập thực hành chủ yếu là phân biệt các từ mang nghĩa gốc và các từ mang nghĩa chuyển. Hai tiết còn lại học sinh được luyện tập về từ nhiều nghĩa với các dạng bài tập như giới thiệu nghĩa của một từ và yêu cầu học sinh tìm hoạt động đúng với nghĩa cho trước, đặt câu phân biệt nghĩa chuyển, nghĩa gốc, nêu nét nghĩa khác nhau của một từ. Duy nhất có 1 bài tập (bài 1 trang 82 TV5 – tập 1) có dạng phân biệt, nhận diện từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Như vậy số lượng bài tập thực hành giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn ít. trong khi đó khả năng tư duy trìu tượng của các em còn hạn chế. Việc dạy và học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa của học sinh. * Về dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa của giáo viên Theo các trình tự nội dung được biện soạn trong sách giáo khoa và trình tự dạy học luyện từ và câu, nhìn chung các đòng chí giáo viên lớp 5 đều làm đúng vai trò là người hướng dẫn, tổ chức cho học sinh nắm kiến thức về hai nội dung từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Tuy nhiên do thời lượng 1 tiết có hạn, nên giáo viên chưa lồng ghép liên hệ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong các bài học được. Do đó ,sau các bài học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa học sinh chỉ nắm được kiến thức về nội dung học trên một cách tách bạch, đôi khi trong giảng dạy các nội dung này, giáo viên còn có lúc “bí từ” khi lấy thêm một số ví dụ cụ thể ngoài SGK để giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. * Về học từ đồng âm, tư nhiều nghĩa của học sinh Một thực tế cho thấy khi học và làm bài tập về từ đồng âm học sinh tiếp thu và làm bài nhanh hơn khi học và làm bài tập về từ nhiều nghĩa, có lẽ bởi từ nhiều nghĩa trừu tượng hơn. Đặc biệt, khi cho học sinh phân biệt và tìm các từ có quan hệ đồng âm, các từ có quan hệ nhiều nghĩa với nhau trong một số văn cảnh thì đa số học sinh lúng túng và làm bài chưa đạt yêu cầu. Lúc đầu, khi đang còn dạy tách bạch từng bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa tôi thấy phần lớn các em làm bài trong 7
- vở bài tập tơng đối đạt yêu cầu. Để kiểm tra khả năng phân biệt chính xác từ đồng âm, từ nhiều nghĩa tôi đã cho học sinh lớp 5B ( năm học 20132014) làm bài tập 1(trang 82 – sgk TV5 tập 1). Đề bài: Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào là từ nhiều nghĩa? a) chín. Lúa ngoài đồng đã chín vàng. Tổ em có chín học sinh. Nghĩ cho chín rồi hãy nói. b) đường. Bát chè này nhiều đường nên rất ngọt. Các chú công nhân đang chữa đường dây điện thoại. Ngoài đường,mọi người đang đi lại nhộn nhịp. c) vạt. Những vạt nương màu mật. Lúa chín ngập lòng thung. ( Nguyễn Đình Anh) Chú Tư láy dao vạt nhọn đầu chiếc gậy tre. Những người Giáy, người Dao Đi tìm măng, hái nấm. Vạt áo chàm thấp thoáng Nhuộm xanh cả nắng chiều ( Nguyễn Đình Anh) * Kết quả: Sau khi thu bài chấm bài, kết quả là học sinh làm bài tập trên được tổng hợp như sau: Tổng số học Điểm 9, 10 Điểm 7,8 Điểm 5,6 Điểm dưới 8
- sinh 5 18 1 = 5,6% 3 = 16,7% 8 = 44,4% 6 = 33,3% Nếu học sinh trả lời đúng mỗi ý a, b, c được 3 điểm, trình bày khoa học sạch đẹp cho 1 điểm. Số học sinh chưa làm đúng 1/3 ý của bàn còn tới 6 em, như vậy việc phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa của những học sinh này còn yếu. Trăn trở với kết quả trên tôi đã nghiên cứu, học hỏi và tự rút kinh nghiệm cho việc dạy học sinh phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và mạnh dạn ứng dụng trong giảng dạy năm học 2014 – 2015. II.3. Giải pháp, biện pháp a) Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Nắm vững kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, phương pháp dạy từ đồng âm , từ nhiều nghĩa. Tìm các căn cứ để giúp học sinh nhận diện, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Tổ chức dạy học trên lớp có sự lồng ghép, gợi mở các kiến thức. Tập hợp một số dạng bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để có tư liệu dạy học. Tự tích luỹ một số trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong cuộc sống hàng ngày để có thêm vốn từ trong dạy học. b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và phương pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. + Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa: * Từ đồng âm: Là những từ giống nhau về âm nhưng khác nhau về nghĩa (theo SGK TV5 tập 1 trang 51) Đây là kiến thức cô đọng, xúc tích nhất dành cho học sinh tiểu học ghi nhớ,vận dụng khi làm bài tập, thực hành. 9
- Trong chương trình ngữ văn lớp 7, các em cũng sẽ được học về từ đồng âm. Trên cơ sở kiến thức về từ đồng âm đã học ở cấp I, các em cũng được nắm bắt từ đồng âm là những từ giống nhau về âm thanh nhưng nghĩa khác xa nhau, không liên quan gì với nhau. Đối với giáo viên tiểu học, cần chú ý thêm từ đồng âm được nói tới trong sách giáo khoa. Tiếng Việt 5 bao gồm cả từ đồng âm ngẫu nhiên (nghĩa là có 2 hay hơn 2 từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau, trùng nhau nhưng giữa chúng không có mối quan hệ nào, chúng vốn là những từ hoàn toàn khác nhau) như trường hợp “câu” trong "câu cá", và “câu” trong "đoạn văn có 5 câu" là từ đồng âm ngẫu nhiên và cả từ đồng âm chuyển loại (nghĩa là các từ giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về nghĩa, đây là kết quả của hoạt động chuyển hoá từ loại của từ). VD: a) + cuốc (danh từ), đá ( danh từ ) cái cuốc, hòn đá + cuốc(động từ) ,đá ( động từ ) cuốc đất, đá bóng b) + thịt (danh từ) miếng thịt + thịt (động từ) thịt con gà Trong giao tiếp cần chú ý đầy đủ đến ngữ cảnh để tránh hiểu sai nghĩa của từ hoặc dùng từ với nghĩa nước đôi do hiện tượng đồng âm. VD: Đem cá về kho Câu trên có thể hiểu là hai cách Cách 1: Đem cá về kho cất để dự trữ Cách 2: Đem cá về để kho lên ăn * Từ nhiều nghĩa: Là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. (SGK Tiếng Việt 5 Trang 67). VD: Từ “mắt” trong câu “quả na mở mắt” là nghĩa chuyển. Đối với giáo viên có thể hiểu. Một từ có thể gọi tên nhiều sự vật hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm (khái niệm về sự vật, hiện tượng) trong thực tế khách quan thì từ ấy được gọi là từ nhiều nghĩa. Các nghĩa trong từ nhiều nghĩa có mối liên hệ mật thiết với nhau. 10
- Muốn hiểu rõ hơn khái niệm về từ nhiều nghĩa ta có thể so sánh từ nhiều nghĩa với từ một nghĩa. Từ nào là tên gọi của một sự vật, hiện tượng biểu đạt một khái niệm thì từ ấy chỉ có một nghĩa. VD: Từ “xe đạp” chỉ loại xe người đi có hai bánh hoặc ba bánh, dùng sức người đạp cho quay bánh. Đó là nghĩa duy nhất thông dụng của từ “xe đạp” vậy, có thể nói, từ “xe đạp” là từ chỉ có một nghĩa. Từ nào là tên gọi của nhiều sự vât, hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm thì từ ấy là từ nhiều nghĩa. VD: Từ ăn có các nghĩa sau đây: + ăn cơm: tự cho vào cơ thể thức ăn để nuôi sống cơ thể + ăn cưới: ăn uống nhân dịp cưới + Tàu ăn hàng: tiếp nhận hàng để chuyên trở + ăn hoa hồng: nhận lấy để hưởng + ăn con xe: giành về mình phần hơn, phần thắng + Da ăn nắng: hấp thụ cho thấm vào, nhiễm vào + Sơn ăn mặt: làm huỷ hoại dần dần từng phần + ăn ảnh: vẻ đẹp được tôn lên (trong ảnh). + sông ăn ra biển: lan ra hoặc hướng đến nơi nào đó + Đám đất này ăn về xã bên: Thuộc về + Một đola ăn mấy đồng tiền Việt Nam: Có thể đổi ngang giá. Như vậy từ " ăn" là một từ nhiều nghĩa. Trong chương trình môn tập đọc lớp 5 từ “trông” trong bài ca dao "đi cấy" là một từ nhiều nghĩa. Chương trình phân môn luyện từ và câu không đề cập tới nghĩa đen và nghĩa bóng của từ nhiều nghĩa mà đề cập tới nghĩa chuyển và nghĩa gốc. Nghĩa đen chính là nghĩa gốc của từ còn được gọi là nghĩa trực tiếp, là nghĩa đầu tiên của từ, là cơ sở để tạo ra các nghĩa khác. Trong từ điển, nghĩa đen dược nói tới đầu tiên. Nghĩa bóng cũng chính là nghĩa chuyển, là loại nghĩa được hình thành 11
- từ nghĩa đen (hoặc nghĩa chuyển này được hình thành từ nghĩa chuyển khác), có mối liên hên mật thiết với nghĩa đen. Nghĩa bóng (nghĩa chuyển) là sản phẩm của hoạt động chuyển nghĩa của từ theo các phương thức như ẩn dụ, hoán dụ … Trong từ điển, nghĩa bóng được nói đến sau nghĩa đen... Nghĩa bóng (nghĩa chuyển) cũng mang tính cố định, ổn định, bền vững, tính xã hội và tính dân tộc như nghĩa đen. * Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái niệm. Giáo viên tổ chức các hình thức dạy học để giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, giúp học sinh phát hiện các hiện tượng về từ ở các bài tập từ đó rút ra được những kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.Bước tiếp theo GV tổng hợp và chốt kiến thức như nội dung phần ghi nhớ. Đến đây, nếu là HS khá, giỏi, GV có thể cho các em lấy ví dụ về hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa giúp các em nắm sâu và chắc phần ghi nhớ. Chuyển sang phần luyện tập, giáo viên tiếp tục tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh giải quyết các bài tập phần luyện tập. Sau mỗi bài tập giáo viên lại cũng cố, khắc sâu kiến thức liên quan đến nội dung bài học, liên hệ thực tế và liên hệ tới các kiến thức đã học của phân môn LTVC nói riêng và tất cả các môn học nói chung. c) Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp Cho học sinh nhận biết ngữ liệu để phát hiện những dấu hiệu bản chất của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Học sinh rút ra các đặc điểm của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và nêu định nghĩa. Luyện tập để nắm khái niệm trong ngữ liệu mới . Việc dạy hai bài học trên cũng tuân theo nguyên tắc chung khi dạy luyện từ và câu và vận dụng các phương pháp, hình thức dạy học như: Phương pháp hỏi đáp Hình thức học cá nhân Phương pháp giảng giải Thảo luận nhóm . Phương pháp trực quan Tổ chức trò chơi. Phương pháp luyện tập thực hành. 12
- Ngoài ra giáo viên có thể vận dụng cách liên tưởng, liên hệ trong từng bài tập cụ thể. VD: Bài tập 2 – Tiếng việt 5 trang 67: yêu cầu học sinh tìm một số ví dụ về sự chuyển nghĩa của các từ: lưỡi, miệng, cổ, tay, lưng. Giáo viên gợi ý bằng cách đưa ra một số câu hỏi gợi ý có nội dung liên tưởng như: lưỡi của những đồ vật gì có tính sắc, sáng (học sinh dễ tìm được lưới dao, lưỡi kiếm, lưỡi gươm, lưỡi lê, lưỡi lam , lưỡi hái…). Các từ còn lại giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, trình bày bằng trò chơi ai nhanh hơn. Đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên chủ yếu thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh cũng cố, nắm vững kiến thức, nhận diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa… * Tìm các căn cứ để giúp học sinh nhận diện, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa Quay lại với bài kiểm tra ở phần thực trạng, tôi muốn đề cập đến một số lỗi HS mắc phải khi phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa . Đó là : Các em không xác định được nghĩa cuả từ trong từng câu. Không tìm được mối quan hệ giữa từ mang nghĩa gốc với từ mang nghĩa chuyển. Không dựa vào văn cảnh để hiểu nghĩa của từ trong mối quan hệ với các từ khác của câu. Không thuộc định nghĩa ( tức phần ghi nhớ) của mỗi bài học. hi học sinh làm bài xong, tôi hỏi một học sinh có số điểm bài kiểm tra dưới 5 (em Kiên) về nghĩa của từ “vạt” trong câu :“ Chú Tư lấy dao vật nhọn đầu chiếc gậy tre” nghĩa là gì? úc đầu em im lặng, không trả lời, sau tôi động viên mãi, bảo em hiểu thế nào cứ nói cho cô nghe thì em trả lời “vạt” trong câu văn đó là một phần đầu nhọn của con dao. Tôi không nói nhưng thầm nghĩ, em Kiên hiểu sai nghĩa của từ "vạt" và nội dung ý nghĩa thông báo của câu văn nên trong bài làm của mình em cho rằng từ “vạt” trong câu : 13
- “Những vạt nương màu mật Lúa chín ngập lòng thung” và từ 'vạt' trong câu văn trên đều là những từ cùng nghĩa. Tìm hiểu và nắm được một số sại lầm của học sinh như trên, tôi đã thử nghiệm một số biện pháp phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa như sau: * Yêu cầu học sinh thuộc ghi nhớ Tâm lí học sinh thích làm những bài tập đơn giản, để lộ kiến thức, ngại học thuộc lòng, ngại viết các đoạn, bài cần yếu tố tư duy. Biết vậy, tôi thường cho học sinh ngắt ý của phần ghi nhớ cho đọc nối tiếp, rồi ghép lại cho đọc toàn phần, đọc theo nhóm đôi, có lúc thi đua xem ai nhanh nhất, ai đọc tốt. Cách làm này tôi đã cho các em thực hiện ở các tiết học trước đó (về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa) do đó dạy đến từ đồng âm, từ nhiều nghĩa các em cứ sẵn cách tổ chức như trước mà thực hiện. Và kết quả có tới 16/18 học sinh thuộc ghi nhớ một cách trôi chảy tại lớp chỉ còn 2 em có thuộc song còn ấp úng, ngắc ngứ. * Giúp học sinh học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau Điều đặc biệt của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là phát âm giống nhau, (nói đọc giống nhau viết cũng giống nhau). Ta thấy rõ ràng là “đường”(1) trong “đường rất ngọt”, "đường"(2) trong "đường dây điện thoại" và “đường”(3) trong “ngoài đường xe cộ đi lại nhộn nhịp” đều phát âm, viết giống nhau. Vậy mà “đường” (1) với “đường” (2) và “đường” (1 ) với "đưòng' (3) lại có quan hệ đồng âm , còn " đường" (2) với "đường" (3 ) lại có quan hệ nhiều nghĩa. Để có được kết luận trên đây, trước hết học sinh phải hiểu rõ nghĩa của các từ đường (1), đường(2), đường (3) là gì? Đường (1) : (đường rất ngọt): chỉ một chất có vị ngọt. Đường (2) :(đường dây điện thoại )chỉ dây dẫn,truyền điện thoại phục vụ cho việc thông tin liên lạc. Đường (3) :(ngoài đường, xe cộ đi lại nhộn nhịp) chỉ lối đi cho các phương tiện, người, động vật. Để có thể giải nghĩa chính xác các từ "đường" như trên, các em phải có vốn từ phong phú. có vốn sống. vì vậy trong dạy học tất cả các môn, giáo viên luôn chú trọng trau dồi, tích lũy vốn từ cho học sinh, nhắc học sinh có ý thức 14
- tích lũy cho mình vốn sống và yêu cầu mỗi học sinh phải có được một cuốn từ điển Tiếng Việt, biết cách tra từ điển Tiếng Việt đồng thời nắm được một số biện pháp giải nghĩa từ. Tiếp đó học sinh căn cứ vào định nghĩa, khái niệm về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để xác định mối quan hệ giữa các từ "đường". Xét nghĩa của 3 từ "đường" trên ta thấy: Từ (đường(1) và từ đường (2) có nghĩa hoàn toàn khác nhau không liên quan đến nhau kết luận. hai từ đường này có quan hệ đồng âm. Tương tự như trên từ 'đường (2) và từ 'đường" (3) cũng có mối quan hệ đồng âm. Từ đường (2) và từ đường (3) có mối quan hệ mật thiết về nghĩa trên cơ sở của từ đường (3) chỉ lối đi, ta suy ra nghĩa của từ 'đường' (2) (truyền đi) theo vệt dài (dây dẫn). như vậy từ đường (3) là nghĩa gốc, còn từ đường (2) là nghĩa chuyển – kết luận: từ 'đường' (2) và từ 'đường' (3) có quan hệ nhiều nghĩa với nhau. * Dựa vào yếu tố từ loại cũng có thể giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa Biện pháp này thực ra ít khi tôi vận dụng bởi nếu học sinh đã hiểu đúng nghĩa của từ. thuộc được khi nhớ thì không cần thiết phải dùng đến cách dựa vào yếu tố từ loại, tuy nhiên đối với một số học sinh trung bình và yếu giáo viên có thể kết hợp cả 3 biên pháp. Nếu trong thực tế đời sống hàng ngày học sinh có thể bắt gặp hiện tượng một từ nào đó phát âm gần nhau nhưng xét về từ loại khác nhau thì kết luận đó là hiện tượng đồng âm. chẳng hạn khi chơi đùa học sinh hò reo đồng thanh để cổ vũ cho một học sinh được mệnh danh là “ cụ cố” vì em này nhỏ, yếu: "Cố lên cụ cố…ơi!" “Cố” thứ nhất là tính từ, “cố” thứ 2 là danh từ. đây là hiện tượng đồng âm dễ nhận diện. Tùy trường hợp những từ phát âm giống nhau nhưng cùng từ loại (cùng loaị danh từ, động từ, tính từ) thì phải vận dụng biện pháp giải nghĩa từ trong văn cảnh đồng thời xét xem các từ đó có mối quan hệ về nghĩa hay không để 15
- tránh nhầm lẫn giữa từ đồng âm với từ nhiều nghĩa hoặc quan hệ đồng nghĩa nếu có. Trong trường hợp này thông thường ta dựa vào ngữ cảnh để nhận biết nghĩa của từ đồng âm, nói cách khác là dựa vào các từ cùng đi với nó trong câu .Ngữ cảnh có tác dụng hiện thực hóa nghĩa của từ và giúp con người sử dụng ngôn ngữ tránh sự nhầm lẫn. VD: đồng tiền – cánh đồng Vạc dầu con vạc Con cò – cò súng Xe đạp – con xe(quân cờ). Xét câu văn sau:"Hôm nay tôi đánh rơi mười nghìn đồng ngay đoạn cánh đồng làng. Các từ trong câu có mối quan hệ vơí từ 'đồng' thứ nhất gồm” đánh rơi”, “ mười nghìn”, nếu chỉ dừng lại ở đánh rơi 10 nghìn đồng thì người đọc chưa rõ mười nghìn đồng tiền Việt Nam hay tiền nước nào và chưa xác định rõ giá trị số tiền đánh rơi . Có từ "đồng ngay sau cụm từ 'đánh rơi mười nghìn đồng' thì ta hiểu rõ số tiền đánh rơi ở đây là tiền Việt và xác định được giá trị của nó.Vậy từ 'đồng" thứ nhất là đơn vị tiền Việt nam, từ "đồng" thứ 2 nằm trong mối quan hệ với từ" qua', "cánh', 'làng'.Đồng trong “cánh đồng”là khoảng đất rộng bằng phẳng trồng lúa hoạc hoa màu. Hiện tượng đồng âm cùng từ loại như trên học sinh rất dễ nhầm lẫn với từ nhiều nghĩa hầu hết các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại.Trong quá trình dạy học , tôi gặp phần lớn các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại .Từ 'đi' trong các trường hợp sau đều là động từ đi bộ VD: đi: đi chơi đi ngủ đi máy bay 16
- Vì vậy khi gặp những từ có cùng vỏ âm thanh giống nhau thì học sinh không được vội vàng phán quyết ngay hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa mà phải suy nghĩ thật kĩ. giải nghĩa chính xác các từ đó trong văn cảnh tìm ra điểm khác nhau hoàn toàn hay giữa chúng có sự liên hệ với nhau về nghĩa. Trong một số bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi,có một số trường hợp giống nhau về âm thanh nhưng khó phân biệt hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa. * Tập hợp nghiên cứu các bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa: Dạng 1: Phân biệt nghĩa của các từ + Đối với từ đồng âm: Phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau: Cánh đồng(1) – tượng đồng(2) – một nghìn đồng(3). Bài tập này giúp học sinh hiểu nghĩa của các từ "đồng" ở mỗi trường hợp :' đồng' (1) chỉ khoảng đất rộng , bằng phẳng , dùng để cấy , trồng trọt . "Đồng " (2) là kim loại có màu đỏ , dễ dát mỏng và kéo thành sợi . "Đồng" (3) là đơn vị tiền Việt Nam . Như vậy nghiã của các từ "đồng" khác nhau , chúng là những từ đồng âm . + Đối với từ nhiều nghĩa: Trong những câu sau câu nào có từ “chân” mang nghĩa gốc và câu nào có từ 'chân' mang nghĩa chuyển? Chân: a) Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. b) Bé đau chân. Đối với bài tập trên giáo viên yêu cầu học sinh nêu được nghĩa của từ “chân” trong mỗi câu và xác định nghĩa chuyển, nghĩa gốc('chân' trong câu a chỉ một bộ phận làm trụ đỡ của cái kiềng – nghĩa chuyển, 'chân' trong câu b một bộ phận của cơ thể đỡ và di chuyển cơ thể – nghĩa gốc). Dạng 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm hoặc nhiều nghĩa + Đối với từ đồng âm: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm : bàn, cờ, nước. Ở bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh với mỗi từ các em cần đặt ít nhất là hai câu, các từ đó có quan hệ đồng âm với nhau. D: Bàn : Cả nhà ngồi vào bàn để ăn cơm. Bố mẹ em cũng đang bàn chuyện cưới vợ cho anh trai. 17
- + Đối với từ nhiều nghĩa. Đặt câu để phân biệt nghĩa của từ “ đứng” Đứng : Nghĩa 1: ở tư thế chân thẳng, chân đặt trên mặt nền. Nghĩa 2: Ngừng chuyển động. Giáo viên có thể gợi ý nghĩa 1 nói tới một tư thế của người hoặc động vật. Nghĩa 2 nói tới trạng thái của một đồ vật hiện tượng, dựa vào gợi ý đó học sinh có thể đặt câu. Nghĩa 1: Chúng em đang đứng nghiêm trang chào cờ. Nghĩa 2: Kim đồng hồ đứng lại. Trời đứng gió Dạng 3: Phân biệt quân hệ đồng âm, quan hệ nhiều nghĩa. VD: Trong các từ im đậm dưới đây, những từ nào có quan hệ đồng âm, những từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau? Vàng: Giá vàng ở nước ta tăng đột biến Tấm lòng vàng. Ông tôi mua mua một một bộ vàng lưới để chuẩn bị cho vụ đánh bắt hải sản. Ở bài tập này giào viên hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của các từ “vàng”, rồi xác định mối quan hệ giữa chúng dựa vào các căn cứ như mục (II .2). Đáp án: Từ “vàng” ở câu 1,2 có quan hệ nhiều nghĩa, từ 'vàng' ở câu 3 có quan hệ đồng âm với từ “vàng” ở câu 1 và 2. Dạng 4: Nối từ hoặc cụm từ với nghĩa đã cho. + Đối với từ đồng âm: Ví dụ: Nối các cụm từ ở cột A với nghĩa thích hợp ở cột B. A. B 1. Sao trên trời có khi tỏ khi mờ. a.Chép lại hoặc tạo ra văn bản khác 2. Sao lá đơn này thành ba bản. theo đúng bản chính. b.Tẩm một chất nào đó rồi sấy khô 18
- 3. Sao tẩm chè. c.Nêu thắc mắc không biết rõ nguyên 4. Sao ngồi lâu thế? nhân. 5. Đồng lúa mượt mà sao. d.Nhấn mạnh mức độ làm ngạc nhiên, thấn phục e.Các thiên thể trong vũ trụ. Đáp án: 1 – e, 2 – a, 3 – b, 4 – c, 5 – d. Đối với từ nhiều nghĩa: Ví dụ: Tìm ở cột B lời giảI nghĩa thích hợp cho từ “chạy” trong mỗi câu ở cột A. A B 1. Bé chạy lon ton trên sân a.Hoạt động của máy móc. 2. Tàu chạy băng băng trên đường b.Khẩn trương tránh những diều không ray. may sắp xảy đến. 3. Đồng hồ chạy đúng giờ c. Sự di chuyển nhanh của phương 4. Dân làng khẩn trương chạy lũ tiện giao thông d. Sự di chuyển nhanh bằng chân. Đáp án: 1 – d, 2 – c, 3 – a, 4 – b. Đối với những bài tập trên, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận để nối những cụm từ hoặc câu với nghĩa thích hợp ở những trường hợp dễ nhận thấy trước. Trường hợp khó còn lại nếu học sinh chưa hiểu nghĩa các em có thể vận dụng cả phương pháp loại trừ. Ở cả từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có mặt cả bốn dạng bài tập trên. Bên cạnh đó, mỗi nội dung lại có một số dạng bài tập riêng: Đối với từ đồng âm có dạng bài tập đố vui: Trùng trục như con chó thui 19
- Chín mặt, chín mũi, chín đuôI, chín đầu (Là con gì?) d) Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Để biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa cho các em học sinh đạt kết quả cao nhất cần phối hợp nhịp nhàng mọi biện pháp với nhau. Các biện pháp mang tính bỗ trợ, không có biện pháp nào mang tính quyết định. Việc rèn kĩ năng tìm và phân biệt từ ngữ không chỉ áp dụng trong phân môn Luyện từ và câu mà còn áp dụng trong các môn học khác cũng như kĩ năng thực hành giao tiếp của các em. e) Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu * Kết quả khảo nghiệm So với đầu năm học thì kết quả kiểm tra cuối năm học đã phản ánh rõ những sự tiến bộ cảu các em học sinh. Cuối học kì I năm học 2014 – 2015 tôi cũng ra những bài tập tương tự cho các em HS lớp 5B lớp chủ nhiệm. Kết quả làm bài như sau: Sĩ số Điểm 9 , 10 Điểm 8 , 9 Điểm 5 , 6 Điểm dưới 5 18 2= 11,1% 6 = 33,3% 9 = 50% 1 = 5,6% II.4. Kết quả Sĩ số: 18 Điểm 9 , 10 Điểm 8 , 9 Điểm 5 , 6 Điểm dưới 5 Đầu năm 1 = 5,6% 3 = 16,7% 8 = 44,4% 6 = 33,3% 2= 11,1% 6 = 33,3% 9 = 50% 1 = 5,6% Cuối kì I III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ III.1. Kết luận Dạy các nội dung về nghĩa của từ thực sự không đơn giản, nhất là phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa và cả với từ đồng nghĩa. Trong quá trình giảng dạy, tổ chức cho học sinh nắm được kiến thức, bản thân tôi cũng đã cố 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
SKKN: Một số biện pháp dạy học theo hướng tích cực và giáo dục kĩ năng phát triển trong giờ Thể dục
33 p | 950 | 281
-
SKKN: Một số biện pháp giúp HS lớp 1 học tốt giải Toán có lời văn
59 p | 1593 | 189
-
SKKN: Một số biện pháp quản lý, chỉ đạo sinh hoạt tổ chuyên môn
9 p | 979 | 164
-
SKKN: Một số biện pháp xây dựng nhà trường văn hoá ở trường THPT số 2 Bắc Hà
30 p | 1278 | 121
-
SKKN: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy – học môn Toán ở lớp một
13 p | 897 | 94
-
SKKN: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử
23 p | 818 | 84
-
SKKN: Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo bé biết quan tâm chia sẻ với người thân và bạn bè góp phần hình thành nhân cách trẻ
33 p | 1253 | 58
-
SKKN: Một số biện pháp dạy kí hiệu ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính
13 p | 416 | 49
-
SKKN: Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT
17 p | 247 | 39
-
SKKN: Một số biện pháp dạy học làm văn thể loại “tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm”
20 p | 420 | 31
-
SKKN: Một số biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm đổi mới PPDH ở trường THPT số 2 Bảo Yên trong giai đoạn hiện nay
31 p | 203 | 25
-
SKKN: Một số biện pháp rèn viết đúng chính tả cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 5
50 p | 241 | 25
-
SKKN: Một số biện pháp dạy mệnh đề quan hệ hiệu quả
53 p | 87 | 10
-
SKKN: Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện các phương pháp dạy học tích cực cho trẻ tại trường Mầm non Sao Mai
23 p | 141 | 9
-
SKKN: Một số biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng môn Tập đọc lớp 5 ở trường Tiểu học
18 p | 118 | 7
-
SKKN: Một số biện pháp dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 trường Tiểu học Võ Thị Sáu
22 p | 229 | 6
-
SKKN: Một số biện pháp dạy từ vựng cho học sinh tiểu học bằng việc học từ mới qua các bài khóa
27 p | 100 | 6
-
SKKN: Một số biện pháp rèn viết đúng chính tả cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 4
27 p | 69 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn