intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa

Chia sẻ: Trần Thị Tan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:23

137
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là Giúp học sinh nhận diện, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Giúp học sinh học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau. Giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa

  1. I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề tài Một trong những nguyên tắc cơ bản của dạy Tiếng Việt là dạy học thông  qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt   giao tiếp bằng ngôn ngữ  là   công cụ  cực mạnh để  học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả  năng sử  dụng  từ Tiếng Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong   giờ Tiếng Việt được  giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý.    Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều nghĩa được bắt đầu đưa vào chương trình   Tiểu học  ở  lớp 5 với 5 tiết từ  bài 10, 12,13,14,16. Vấn đề  từ  đồng âm và từ  nhiều nghĩa là một vấn đề khá phức tạp, dễ nhầm lẫn.  Dân gian có câu:”Phong   ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam.”.           Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, mảng nội dung nghĩa của từ  được tập trung và được biên soạn   có hệ  thống trong phần luyện từ  và câu.   Nhiều năm liền trong quá trình dạy học, tôi thường nhận thấy các em học sinh   dễ  dàng tìm được các từ  trái nghĩa, việc tìm các từ  cùng nghĩa, gần nghĩa cũng   không mấy vất vả, tuy nhiên khi học xong từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thì các   em bắt đầu có sự nhầm lẫn và khả năng phân biệt các từ đồng âm với từ nhiều   nghĩa của học sinh không được như  mong đợi của cô giáo. kể  cả  một số  học   sinh khá, giỏi đôi khi cũng làm thiếu chính xác. Trăn trở  về  vấn đề  này, qua   những năm dạy lớp 5 tôi, đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách dạy từ đồng   âm , từ nhiều nghĩa , bài tập phân biệt từ  đồng âm với từ  nhiều nghĩa. Sau đây  tôi xin được chia sẻ  những kinh nghiệm nhỏ   ấy qua bài viết:"Một số  biện  pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều   nghĩa". I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài a) Mục tiêu ­ Giúp học sinh nhận diện , phân biệt từ đồng  âm và từ nhiều nghĩa.  ­ Giúp học sinh học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau. ­ Giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. b) Nhiệm vụ 1
  2. Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và phương pháp dạy  từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. Nghiên cứu, tìm hiểu các phương pháp, hình thức tổ  chức dạy học trên   lớp có sự lồng ghép, gợi mở kiến thức môn tiếng Việt. I.3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp 5B, Trường Tiểu học Phan Bội Châu, TT Buôn Trấp, Krông  Ana, năm học 2014­2015. I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu một số biện pháp dạy từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa, phân biệt   từ đồng âm với từ nhiều nghĩa, các biện pháp này chưa được nhân rộng mà chỉ  áp dụng tại lớp tôi chủ nhiệm. Môn Tiếng Việt lớp 5. I.5. Phương pháp nghiên cứu         a) Nghiên cứu tài liệu        Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục, tài liệu hướng dẫn về  tăng  cường Tiếng Việt của dự án PEDC, … có liên quan đến nội dung đề tài.        Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên, các loại sách tham khảo.            b) Nghiên cứu thực tế       Dự  giờ  trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về  nội dung cần đạt đối với HS  lớp 5.       Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.       Khảo sát, thống kê chất lượng học tập của học sinh. c) Áp dụng với học sinh ­ Phương pháp hỏi đáp ­ Hình thức học cá nhân ­ Phương pháp giảng giải ­ Thảo luận nhóm . ­Phương pháp trực quan ­ Tổ chức trò chơi. ­   Phương   pháp   luyện   tập   thực  hành. 2
  3. II. NỘI DUNG II.1. Cơ sở lí luận II.1.1 Cơ sở pháp lý  ­   Sách Tiếng Việt lớp 5 tập Một ,Sách giáo viên Lớp 5 tập Một, Sách  Chuẩn kiến thức và kĩ năng  bậc Tiểu học. ­ Công văn số 896/BGD&ĐT­ GDTH.Về việc Hướng dẫn điều chỉnh việc  dạy và học cho học sinh Tiểu học . ­   Hướng dẫn số  9890/BGDĐT­ GDTH. Về  việc hướng dẫn nội dung   phương pháp giáo dục học sinh có hoàn cảnh khó khăn. II.1.2. Một số vấn đề về lý luận Các nguyên tắc đặc thù của phương pháp dạy – học Tiếng Việt bao gồm:  Nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ  gắn liền với rèn luyện tư  duy; Nguyên tắc   hướng hoạt động vào giao tiếp. Nguyên tắc chú ý tới trình độ Tiếng Việt vốn có  của học sinh. Nguyên tắc  so sánh và hướng tới hai dạng nói và viết và nguyên  tắc đảm bảo mối quan hệ hữu cơ giữa dạy học tri thức và rèn luyện kỹ năng. Trước hết, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy.   Ngôn ngữ  vừa là công cụ  vừa là sản phẩm của tư  duy và tư  duy là hiện thực  trực tiếp của ngôn ngữ. Quá trình người học nhận thức các khái niệm và qui tắc   của ngôn ngữ, vận dụng nó vào giải quyết các nhiệm vụ  cụ  thể  của giao tiếp   cũng chính là quá trình người học tiến hành các thao tác tư  duy theo một định  hướng. Quá trình này không chỉ  hình thành các kỹ  năng ngôn ngữ  mà còn hình  thành các kỹ  năng và phẩm chất tư  duy. Quá trình hoạt động tư  duy và hoạt   động ngôn ngữ  là hai quá trình có mối quan hệ  biện chứng, hữu cơ  tới mức “   Tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Nói một cách khác, muốn rèn luyện ngôn ngữ  thì tất phải rèn luyện tư duy và ngược lại.   Để hai quá trình được thực hiện một cách có ý thức, có kế hoạch, có tính   toán, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với tư duy được cụ thể hoá thành  các yêu cầu sau đây.­ Dạy học tiếng phải gắn liền với phương pháp rèn luyện   tư  duy.­ Dạy học tiếng phải gắn liền với rèn luyện các thao tác tư  duy.­ Dạy   học tiếng phải gắn liền với bồi dưỡng phẩm chất tư duy.­ D ạy h ọc ti ếng ph ải   gắn liền với bồi dưỡng tư duy hình tượng và tư duy logich.­ Dạy học tiếng phải  làm cho học sinh thông hiểu ý nghĩa các đơn vị  ngôn ngữ  gắn chúng với nội  3
  4. dung hiện thực mà chúng phản ánh, đồng thời phải thấy được giá trị của chúng   trong hệ  thống  Tiếng Việt. Phải chuẩn bị tốt nội dung các đề  tài cho các bài   tập luyện nói, liên kết gần gũi với đời sống của các em.  1. Thực trạng a) Thuận lợi, khó khăn * Thuận lợi          Trường Tiểu học Phan Bội Châu là một trường Tiểu học mới được công  nhận trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia mức độ  I năm 2014, những năm gần   đây chất lượng giáo dục và các phong trào hoat động của nhà trường vẫn đang  duy trì và phát triển. Năm học 2014 ­ 2015 nhà trường tiếp tục tổ  chức dạy học văn hoá song  song với tổ  chức các hoạt động ngoài giờ  lên lớp. các câu lạc bộ  năng khiếu.  chú trọng nâng cao chất lượng mũi nhọn và đại trà. đẩy mạnh giáo dục toàn  diện cho học sinh. Đối với môn tiếng Việt, ngoài các tiết dạy học chính khoá, nhà trường còn bố trí  cho học sinh được học thêm vào những tiết ôn luyện, được các tổ, khối và giáo  viên chủ  nhiệm   các lớp cụ  thể  hoá nội dung dạy học cho các phân môn của   tiếng Việt. Trong tuần những học sinh mũi nhọn cũng được tranh thủ  học bồi  dưỡng. Như vậy, học sinh có điều kiện thực hành thêm các bài tập và củng cố  kiến thức về tiếng Việt. ­ Cơ  sở  vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ, đảm bảo cho việc   dạy và học như phòng học, bàn ghế, đồ dung dạy học…. ­ Ban Giám hiệu nhà trường, thầy cô luôn quan tâm, động viên khích lệ  các em kịp thời, giúp đỡ các em khi các em gặp khó khăn. ­ Đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có lòng yêu nghề,  mến trẻ. * Khó khăn ­ Đa số  các em thiếu sự  quan tâm của gia đình, trình độ  nhận thức của  một số phụ huynh còn nhiều hạn chế. Khả năng nhận diện, phân biệt từ đồng  âm và từ nhiều nghĩa của các em  còn nhiều hạn chế.  4
  5. b) Thành công, hạn chế * Thành công ­ Sau khi áp dụng sau các biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân   biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa đa số  học sinh của lớp tôi có sự  tiến bộ  rõ   rệt. ­ Ý thức của các em trong các tiết học ngày một nâng lên. Các tiết học  diễn ra sôi nổi và hứng thú hơn trước. ­ Học sinh mạnh dạn hơn trong giao tiếp với người xung quanh. * Hạn chế  Các biện pháp không mang lại hiệu quả tức thì, mà cần áp dụng trong một  thời gian dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, tận tụy và quyết tâm thực   hiện. c) Mặt mạnh, mặt yếu * Mặt mạnh Trong quá trình dạy học tôi sử  dụng các biện pháp một cách nhẹ  nhàng,  phù hợp với đối tượng và sự tiến bộ của học sinh. Việc lồng ghép một số  trò chơi học tập hay nêu gương nhận biết, phân   biệt  trước lớp đã góp phần tạo cho các em hứng thú khi làm bài, ý thức học bài  của các em tốt hơn. * Mặt yếu Hệ thống biện pháp chưa phong phú, giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ nội  dung, biện pháp và hình thức tổ chức trước khi lên lớp. d) Các nguyên nhân, các yếu tố tác động * Về phía học sinh Nhiều năm liền trong quá trình dạy học, tôi thường nhận thấy các em học   sinh dễ  dàng tìm được các từ  trái nghĩa, việc tìm các từ  cùng nghĩa, gần nghĩa   cũng không mấy vất vả, tuy nhiên khi học xong từ  nhiều nghĩa và từ  đồng âm  thì các em bắt đầu có sự nhầm lẫn và khả năng phân biệt các từ đồng âm với từ  nhiều nghĩa của học sinh không được như  mong đợi của cô giáo. kể  cả  một số  học sinh khá, giỏi đôi khi cũng làm thiếu chính xác.  5
  6. Một số học sinh ý thức vươn lên trong học tập vẫn còn chưa cao. Kỹ năng nghe ­ hiểu, kỹ năng viết của học sinh nhìn chung là chậm, khả năng   hiểu và xác định nghĩa của từ tiếng Việt còn yếu nên dùng sai từ trong khi nói và viết. Do ảnh hưởng thói quen nói tiếng địa phương Thừa Thiên Huế, khả năng  nhận diện con chữ  chậm. Dẫn đến khả  năng đọc của các em chậm, việc đọc  liền mạch từ, câu gặp rất nhiều khó khăn. Khả năng đọc biểu cảm còn hạn chế.   Khả năng tiếp nhận thông tin, tư duy để xử  lý, tái tạo nội dung thông tin   của học sinh còn chậm. * Về phía giáo viên Việc sử dụng phương tiện dạy học và đồ  dùng chưa phong phú, đa dạng  nên chưa hấp dẫn học sinh một cách tuyệt đối trong việc tập trung vào luyện  đọc. ­ Một số  giáo viên chưa đánh giá đúng mức vai trò, vị  trí và tầm quan   trọng của việc dạy – học phân môn Luyện từ & câu; chưa sâu sát việc nắm bắt   tâm lí của học sinh và phụ huynh. ­ Ở một số tiết dạy, giáo viên chưa thể hiện   sự  quan tâm đúng mức đến đối tượng học sinh yếu; đặt yêu cầu chưa cao vào  việc tìm và phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đối với học sinh và cuốn hút  học sinh vào hoạt động này Qua thực tiễn dự giờ thăm lớp, tìm hiểu đối tượng,   thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề và các tiết dự giờ cũng như  các chuyên đề ở tổ khối; trong quy mô toàn cấp trường, tôi luôn coi trọng và chú   ý lắng nghe, đề  xuất ý kiến về  các giải pháp nâng cao chất lượng cho các em   học sinh nhằm nâng cao kĩ năng sử  dụng tiếng Việt cho các em. Đồng thời, tôi  luôn tìm tòi sáng kiến để cải tiến phương pháp dạy học làm sao cho các em đọc   đạt hiệu quả cao hơn. e) Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Nội dung dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ở lớp 5 * Từ đồng âm: Được dạy trong 2 tiết ở tuần 5 và tuần 6. Ơ  tuần 5 các em được học khái niệm về  từ  đồng âm. Các bài tập về  từ  đồng âm chủ  yếu giúp học sinh phân biệt nghĩa các từ  đồng âm, đặt câu phân  biệt các từ  đồng âm. Tuần 6, các em được học cách dùng từ  đồng âm để  chơi   6
  7. chữ,  bài tập thực hành ở  phần này chủ  yếu là tìm các từ  đồng âm chơi chữ  và  đặt câu với từ đồng âm. * Từ nhiều nghĩa: được dạy trong 3 tiết ở tuần 7 và tuần 8. Tiết 1 của tuần 7 các em được học khái niệm về từ nhiều nghĩa. Các bài  tập thực hành chủ yếu là phân biệt các từ mang nghĩa gốc và các từ mang nghĩa   chuyển. Hai tiết còn lại học sinh được luyện tập về  từ  nhiều nghĩa với các  dạng bài tập như giới thiệu nghĩa của một từ và yêu cầu học sinh tìm hoạt động  đúng với nghĩa cho trước, đặt câu phân biệt nghĩa chuyển, nghĩa gốc, nêu nét  nghĩa khác nhau của một từ. Duy nhất có 1 bài tập (bài 1 trang 82 ­ TV5 – tập 1)  có dạng phân biệt, nhận diện từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Như vậy số lượng   bài tập thực hành giúp học sinh phân biệt từ  đồng âm và từ  nhiều nghĩa còn ít.  trong khi đó khả năng tư duy trìu tượng của các em còn hạn chế. Việc dạy và học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm và từ  nhiều nghĩa của học sinh. * Về dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa của giáo viên Theo các trình tự nội dung được biện soạn trong sách giáo khoa và trình tự  dạy học luyện từ và câu, nhìn chung các đòng chí giáo viên lớp 5 đều làm đúng   vai trò là người hướng dẫn, tổ chức cho học sinh nắm kiến thức về hai nội dung   từ  đồng âm và từ  nhiều nghĩa. Tuy nhiên do thời lượng 1 tiết có hạn, nên giáo   viên chưa lồng ghép liên hệ  phân biệt từ  đồng âm và từ  nhiều nghĩa trong các   bài học được. Do đó ,sau các bài học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa học sinh chỉ  nắm được kiến thức về  nội dung học trên một cách tách bạch, đôi khi trong  giảng dạy các nội dung này, giáo viên còn có lúc “bí từ” khi lấy thêm một số ví   dụ cụ thể ngoài SGK để giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. * Về học từ đồng âm, tư nhiều nghĩa của học sinh     Một thực tế cho thấy khi học và làm bài tập về từ đồng âm học sinh tiếp   thu và làm bài nhanh hơn khi học và làm bài tập về từ nhiều nghĩa, có lẽ bởi từ  nhiều nghĩa trừu tượng hơn.     Đặc biệt, khi cho học sinh phân biệt và tìm các từ  có quan hệ  đồng âm,  các từ có quan hệ nhiều nghĩa với nhau trong một số văn cảnh thì đa số học sinh   lúng túng và làm bài chưa đạt yêu cầu. Lúc đầu, khi đang còn dạy tách bạch  từng bài về từ đồng âm, từ  nhiều nghĩa tôi thấy phần lớn các em làm bài trong   7
  8. vở  bài tập tơng đối đạt yêu cầu. Để  kiểm tra khả  năng phân biệt chính xác từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa tôi đã cho học sinh lớp 5B ( năm học 2013­2014) làm  bài tập 1(trang 82 – sgk TV5­ tập 1). Đề bài: Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào  là từ nhiều nghĩa? a) chín. ­ Lúa ngoài đồng đã chín vàng. ­  Tổ em có chín học sinh. ­ Nghĩ cho chín rồi hãy nói. b) đường. ­ Bát chè này nhiều đường nên rất ngọt. ­ Các chú công nhân đang chữa đường dây điện thoại. ­ Ngoài đường,mọi người đang đi lại nhộn nhịp. c) vạt. ­ Những vạt nương màu mật.      Lúa chín ngập lòng thung.                                                      ( Nguyễn Đình  Anh) ­ Chú Tư láy dao vạt nhọn đầu chiếc gậy tre. ­ Những người Giáy, người Dao      Đi tìm măng, hái nấm. Vạt áo chàm thấp thoáng Nhuộm xanh cả nắng chiều                                                           ( Nguyễn Đình  Anh) * Kết quả: Sau khi thu bài chấm bài, kết quả  là học sinh làm bài tập trên được tổng   hợp như sau: Tổng số học  Điểm 9, 10 Điểm 7,8 Điểm 5,6 Điểm dưới  8
  9. sinh 5 18 1 = 5,6% 3 = 16,7% 8  = 44,4% 6 = 33,3% Nếu học sinh trả lời đúng mỗi ý a, b, c được 3 điểm, trình bày khoa học  sạch đẹp cho 1 điểm. ­ Số  học sinh chưa làm đúng 1/3 ý của bàn còn tới 6 em, như  vậy việc  phân biệt từ  đồng âm và từ  nhiều nghĩa của những học sinh này còn yếu. Trăn   trở  với kết quả  trên tôi đã nghiên cứu, học hỏi và tự  rút kinh nghiệm cho việc   dạy học sinh phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và mạnh dạn ứng dụng trong  giảng dạy năm học 2014 – 2015.                                  II.3. Giải pháp, biện pháp a) Mục tiêu của giải pháp, biện pháp ­ Nắm vững kiến thức về  từ  đồng âm và từ  nhiều nghĩa, phương pháp  dạy từ đồng âm , từ nhiều nghĩa. ­ Tìm các căn cứ để giúp học sinh nhận diện, phân biệt từ đồng âm và từ  nhiều nghĩa. ­ Tổ chức dạy học trên lớp có sự lồng ghép, gợi mở các kiến thức. ­ Tập hợp một số  dạng bài tập về  từ  đồng âm và từ  nhiều nghĩa, phân  biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để có tư liệu dạy học. ­ Tự tích luỹ một số trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong cuộc  sống hàng ngày để  có thêm vốn từ trong dạy học.   b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp ­  Nắm vững kiến thức về  từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa và phương pháp  dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. + Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa: * Từ đồng âm: Là những từ giống nhau về âm nhưng khác nhau về nghĩa  (theo SGK TV5­ tập 1­ trang 51)     Đây là kiến thức cô đọng, xúc tích nhất dành cho học sinh tiểu học ghi  nhớ,vận dụng khi làm bài tập, thực hành. 9
  10. ­ Trong chương trình ngữ văn lớp 7, các em cũng sẽ được học về từ đồng  âm. Trên cơ sở kiến thức về từ đồng âm đã học ở cấp I, các em cũng được nắm   bắt từ đồng âm là những từ giống nhau về âm thanh nhưng nghĩa khác xa nhau,  không liên quan gì với nhau. ­ Đối với giáo viên tiểu học, cần chú ý thêm từ  đồng âm được nói tới   trong sách giáo khoa. Tiếng Việt 5 bao gồm cả từ đồng âm ngẫu nhiên (nghĩa là  có 2 hay hơn 2 từ  có   hình thức ngữ  âm   ngẫu nhiên giống nhau, trùng nhau   nhưng giữa chúng không có mối quan hệ nào, chúng vốn là những từ  hoàn toàn  khác nhau) như trường hợp  “câu” trong "câu cá", và “câu” trong "đoạn văn có 5  câu" là từ  đồng âm ngẫu nhiên và cả  từ  đồng âm chuyển loại (nghĩa là các từ  giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về nghĩa, đây là kết quả của  hoạt động chuyển hoá từ loại của từ). ­ VD: a)  + cuốc (danh từ), đá ( danh từ )                     cái cuốc, hòn đá               +  cuốc(động từ) ,đá ( động từ )                   cuốc đất, đá bóng                      b)  + thịt (danh từ)                                             miếng thịt                + thịt (động từ)                                               thịt con gà    Trong giao tiếp cần chú ý đầy đủ  đến ngữ  cảnh để  tránh hiểu sai nghĩa  của từ hoặc dùng từ với nghĩa nước đôi do hiện tượng đồng âm. VD: Đem cá về kho Câu trên có thể hiểu là hai cách Cách 1: Đem cá về kho cất để dự trữ Cách 2: Đem cá về để kho lên ăn *  Từ   nhiều  nghĩa:  Là  từ   có   một  nghĩa  gốc  và  một  hay  một  số   nghĩa  chuyển. Các nghĩa của từ  nhiều nghĩa bao giờ  cũng có mối liên hệ  với nhau.  (SGK Tiếng Việt 5­ Trang 67). VD: Từ “mắt” trong câu “quả na mở mắt” là nghĩa chuyển.   Đối với giáo viên có thể  hiểu. Một từ  có thể  gọi tên nhiều sự  vật hiện   tượng, biểu thị nhiều khái niệm (khái niệm về sự vật, hiện tượng) trong thực tế  khách quan thì từ ấy được gọi là từ nhiều nghĩa. Các nghĩa trong từ nhiều nghĩa  có mối liên hệ mật thiết với nhau. 10
  11.     Muốn hiểu rõ hơn khái niệm về từ nhiều nghĩa ta có thể so sánh từ nhiều   nghĩa với từ một nghĩa. Từ nào là tên gọi của một sự vật, hiện tượng biểu đạt  một khái niệm thì từ ấy chỉ có một nghĩa. VD: Từ “xe đạp” chỉ loại xe người đi có hai bánh hoặc ba bánh, dùng sức  người đạp cho quay bánh.   Đó là nghĩa duy nhất thông dụng của từ “xe đạp” vậy, có thể  nói, từ  “xe  đạp” là từ chỉ có một nghĩa. Từ nào là tên gọi của nhiều sự vât, hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm  thì từ ấy là từ nhiều nghĩa. VD: Từ ăn có các nghĩa sau đây: + ăn cơm: tự cho vào cơ thể thức ăn để nuôi sống cơ thể + ăn cưới: ăn uống nhân dịp cưới + Tàu ăn hàng: tiếp nhận  hàng để chuyên trở + ăn hoa hồng: nhận lấy để hưởng + ăn con xe: giành về mình phần hơn, phần thắng + Da ăn nắng: hấp thụ cho thấm vào, nhiễm vào + Sơn ăn mặt: làm huỷ hoại dần dần từng phần + ăn ảnh: vẻ đẹp được tôn lên (trong ảnh). + sông ăn ra biển: lan ra hoặc hướng đến nơi nào đó  + Đám đất này ăn về xã bên: Thuộc về  + Một đola ăn mấy đồng tiền Việt Nam:  Có thể đổi ngang giá. Như vậy từ " ăn" là một từ nhiều nghĩa. Trong chương trình môn tập đọc lớp 5 từ “trông” trong bài ca dao "đi cấy"   là một từ nhiều nghĩa. Chương trình phân môn luyện từ  và câu không đề  cập tới nghĩa đen và  nghĩa bóng của từ nhiều nghĩa mà đề  cập tới nghĩa chuyển và nghĩa gốc. Nghĩa  đen chính là nghĩa gốc của từ còn được gọi là nghĩa trực tiếp, là nghĩa đầu tiên  của từ, là cơ sở để tạo ra các nghĩa khác. Trong từ điển, nghĩa đen dược nói tới   đầu tiên. Nghĩa bóng cũng chính là nghĩa chuyển, là loại nghĩa được hình thành  11
  12. từ nghĩa đen (hoặc nghĩa chuyển này được hình thành từ nghĩa chuyển khác), có   mối liên hên mật thiết với nghĩa đen. Nghĩa bóng (nghĩa chuyển) là sản phẩm   của hoạt động chuyển nghĩa của từ  theo các phương thức như   ẩn dụ, hoán dụ  … Trong từ  điển, nghĩa bóng được nói đến sau nghĩa đen... Nghĩa bóng (nghĩa  chuyển) cũng mang tính cố  định, ổn định, bền vững, tính xã hội và tính dân tộc  như nghĩa đen. * Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái niệm. Giáo viên  tổ chức các hình thức dạy học để  giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, giúp  học sinh phát hiện các hiện tượng về từ  ở  các bài tập từ  đó rút ra được những   kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.Bước tiếp theo GV tổng hợp và chốt  kiến thức như nội dung phần ghi nhớ. Đến đây, nếu là HS khá, giỏi, GV có thể  cho các em lấy ví dụ về hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa  giúp các em nắm sâu  và chắc phần ghi nhớ. Chuyển sang phần luyện tập, giáo viên tiếp tục tổ chức   các hình thức dạy học để  giúp học sinh giải quyết các bài tập phần luyện tập.   Sau mỗi bài tập giáo viên lại cũng cố, khắc sâu kiến thức liên quan đến nội   dung bài học, liên hệ thực tế và liên hệ  tới các kiến thức đã học của phân môn  LTVC nói riêng và tất cả các môn học nói chung.    c) Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp ­ Cho học sinh nhận biết ngữ liệu để phát hiện những dấu hiệu bản chất   của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. ­ Học sinh rút ra các đặc điểm của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và nêu định   nghĩa. ­ Luyện tập để nắm khái niệm trong ngữ liệu mới . Việc dạy hai bài học trên cũng tuân theo nguyên tắc chung khi dạy luyện từ và   câu và vận  dụng các phương pháp, hình thức dạy học như:           ­ Phương pháp hỏi đáp ­ Hình thức học cá nhân ­ Phương pháp giảng giải ­ Thảo luận nhóm . ­Phương pháp trực quan ­ Tổ chức trò chơi. ­   Phương   pháp   luyện   tập   thực  hành. 12
  13. Ngoài ra giáo viên có thể vận dụng cách liên tưởng, liên hệ trong từng bài  tập cụ thể. VD: Bài tập 2 – Tiếng việt 5­ trang 67: yêu cầu học sinh tìm một số ví dụ về sự  chuyển nghĩa của các từ: lưỡi, miệng, cổ, tay, lưng.   Giáo viên gợi ý bằng cách đưa ra một số  câu hỏi gợi ý có nội dung liên  tưởng như: lưỡi của những đồ  vật gì có tính sắc, sáng (học sinh dễ  tìm được   lưới dao, lưỡi kiếm, lưỡi gươm, lưỡi lê, lưỡi lam , lưỡi hái…). Các từ  còn lại   giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, trình bày bằng trò chơi ai nhanh   hơn. Đối với các tiết dạy luyện tập về từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa, giáo viên  chủ yếu thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh cũng cố,  nắm vững kiến thức, nhận diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa… * Tìm các căn cứ để giúp học sinh nhận diện, phân biệt từ đồng  âm và từ   nhiều nghĩa Quay lại với bài kiểm tra  ở phần thực trạng, tôi muốn đề  cập  đến một   số lỗi HS mắc phải khi phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa . Đó là :   Các em không xác định được nghĩa cuả từ trong từng câu.  Không tìm được mối quan hệ giữa  từ  mang nghĩa gốc với từ mang nghĩa  chuyển. Không dựa vào văn cảnh để hiểu nghĩa của từ trong mối quan hệ với các   từ khác của câu. Không thuộc định nghĩa ( tức phần ghi nhớ) của mỗi bài học. hi học sinh làm bài xong, tôi hỏi một học sinh có số  điểm bài kiểm tra   dưới 5 (em Kiên) về  nghĩa của từ  “vạt” trong câu :“ Chú Tư  lấy dao vật nhọn   đầu chiếc gậy tre” nghĩa là gì? úc đầu em im lặng, không trả lời, sau tôi động viên mãi, bảo em hiểu thế  nào cứ  nói cho cô nghe thì em trả  lời “vạt” trong câu văn đó là một phần đầu   nhọn của con dao. Tôi không nói nhưng thầm nghĩ, em Kiên hiểu sai nghĩa của từ  "vạt" và  nội dung ý nghĩa thông báo của câu văn nên trong bài làm của mình em cho rằng   từ “vạt” trong câu : 13
  14. “Những vạt nương màu mật Lúa chín ngập lòng thung” và từ 'vạt' trong câu văn trên đều là những từ cùng nghĩa.            Tìm hiểu và nắm được một số sại lầm của học sinh như trên, tôi đã thử  nghiệm một số biện pháp phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa như sau: * Yêu cầu học sinh thuộc ghi nhớ  Tâm lí học sinh thích làm những bài tập đơn giản, để  lộ  kiến thức, ngại   học thuộc lòng, ngại viết các đoạn, bài cần yếu tố tư duy. Biết vậy, tôi thường  cho học sinh ngắt ý của phần ghi nhớ  cho đọc nối tiếp, rồi ghép lại cho đọc  toàn phần, đọc theo nhóm đôi, có lúc thi đua xem ai nhanh nhất, ai đọc tốt. Cách  làm này tôi đã cho các em thực hiện  ở các tiết học trước đó (về  từ  đồng nghĩa,  từ trái nghĩa) do đó dạy đến từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa các em cứ  sẵn cách tổ  chức như  trước mà thực hiện. Và kết quả  có tới 16/18 học sinh thuộc ghi nhớ  một cách trôi chảy tại lớp chỉ còn 2  em có thuộc song còn ấp úng, ngắc ngứ.    * Giúp học sinh học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau      Điều đặc biệt của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là phát âm giống nhau,   (nói đọc giống nhau viết cũng giống nhau). Ta thấy rõ ràng là “đường”(1)  trong   “đường rất ngọt”, "đường"(2) trong "đường dây điện thoại"   và “đường”(3)   trong “ngoài đường xe cộ  đi lại nhộn nhịp” đều phát âm, viết giống nhau. Vậy  mà “đường”  (1) với  “đường” (2) và “đường” (1 ) với "đưòng' (3)  lại có quan   hệ đồng âm , còn " đường" (2) với "đường" (3 ) lại có quan hệ nhiều nghĩa. Để có được kết luận trên đây, trước hết học sinh phải hiểu rõ nghĩa của  các từ đường (1), đường(2), đường (3) là gì? Đường (1) : (đường rất ngọt): chỉ một chất có vị ngọt. Đường (2) :(đường dây điện thoại )chỉ  dây dẫn,truyền điện thoại phục  vụ cho việc thông tin liên lạc. Đường (3)   :(ngoài   đường,  xe  cộ   đi lại  nhộn  nhịp)   chỉ  lối  đi  cho các  phương tiện, người, động vật. Để  có thể giải nghĩa chính xác các từ  "đường" như  trên, các em phải có  vốn từ phong phú. có vốn sống. vì vậy trong dạy học tất cả các môn, giáo viên   luôn chú trọng  trau dồi,  tích lũy vốn từ cho học sinh,  nhắc học sinh có ý thức   14
  15. tích lũy cho mình vốn sống và yêu cầu mỗi học sinh phải có được một cuốn từ  điển Tiếng Việt, biết cách tra từ điển Tiếng Việt đồng thời nắm được một số  biện pháp giải nghĩa từ. Tiếp đó học sinh căn cứ  vào định nghĩa, khái niệm về  từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa để xác định mối quan hệ giữa các từ "đường". Xét nghĩa của 3 từ "đường" trên ta thấy: Từ  (đường(1) và từ  đường (2) có nghĩa hoàn toàn khác nhau không liên  quan đến nhau­ kết luận. hai từ đường này có quan hệ đồng âm. Tương tự như  trên từ 'đường (2) và từ 'đường" (3) cũng có mối quan hệ đồng âm. Từ đường (2) và từ đường (3) có mối quan hệ mật thiết về nghĩa trên cơ  sở của từ đường (3)­ chỉ lối đi, ta suy ra nghĩa của từ 'đường' (2) (truyền đi) theo  vệt dài (dây dẫn). như vậy từ đường (3) là nghĩa gốc, còn từ đường (2) là nghĩa  chuyển – kết luận: từ 'đường' (2) và từ  'đường' (3) có quan hệ  nhiều nghĩa với  nhau. * Dựa vào yếu tố  từ  loại cũng có thể  giúp học sinh phân biệt được từ   đồng âm và từ nhiều nghĩa Biện pháp này thực ra ít khi tôi vận dụng bởi nếu học sinh đã hiểu đúng  nghĩa của từ. thuộc được khi nhớ  thì không cần thiết phải dùng đến cách dựa   vào yếu tố từ loại, tuy nhiên đối với một số học sinh trung bình và yếu giáo viên  có thể kết hợp cả 3     biên pháp. Nếu trong thực tế đời sống hàng ngày học sinh có thể bắt gặp hiện tượng   một từ nào đó phát âm gần nhau nhưng xét về từ loại khác nhau thì kết luận đó   là hiện tượng đồng âm. chẳng hạn khi chơi đùa học sinh hò  reo đồng thanh để  cổ vũ cho một học sinh được mệnh danh là “ cụ cố” vì em này nhỏ, yếu:   "Cố lên cụ cố…ơi!" “Cố” thứ nhất là tính từ, “cố” thứ 2 là danh từ. đây là hiện tượng đồng âm dễ  nhận diện. Tùy trường hợp những từ  phát âm giống nhau nhưng cùng từ  loại (cùng  loaị  danh từ, động từ, tính từ) thì phải vận dụng biện pháp giải nghĩa từ  trong   văn cảnh đồng thời xét xem các từ  đó có mối quan hệ  về  nghĩa hay không để  15
  16. tránh nhầm lẫn giữa từ  đồng âm với từ  nhiều nghĩa hoặc quan hệ  đồng nghĩa  nếu có. Trong trường hợp này thông thường ta dựa vào ngữ  cảnh để  nhận biết  nghĩa của từ  đồng âm, nói cách khác là dựa vào các từ  cùng đi với nó trong  câu .Ngữ  cảnh có tác dụng hiện thực hóa nghĩa của từ  và giúp con người sử  dụng ngôn ngữ tránh sự nhầm lẫn. VD: ­ đồng tiền – cánh đồng         ­ Vạc dầu   ­ con vạc ­ Con cò – cò súng ­ Xe đạp – con xe(quân cờ).   Xét  câu văn sau:"Hôm nay tôi đánh rơi mười nghìn đồng ngay đoạn cánh đồng   làng. Các từ trong câu có mối quan hệ vơí từ 'đồng' thứ nhất gồm” đánh rơi”, “ mười   nghìn”, nếu chỉ dừng lại  ở đánh rơi 10 nghìn đồng thì người đọc chưa rõ mười  nghìn đồng tiền Việt Nam hay tiền nước nào và chưa xác định rõ giá trị số tiền   đánh rơi . Có từ "đồng ngay sau cụm từ 'đánh rơi mười nghìn đồng' thì ta hiểu rõ  số tiền đánh rơi ở đây là tiền Việt và xác định được giá trị của nó.Vậy từ 'đồng"   thứ  nhất là đơn vị  tiền Việt nam, từ  "đồng" thứ  2 nằm trong mối quan hệ với   từ" qua', "cánh', 'làng'.Đồng trong “cánh đồng”là khoảng đất rộng bằng phẳng  trồng lúa hoạc hoa màu. Hiện tượng đồng âm cùng từ loại như trên học sinh rất dễ nhầm lẫn với   từ  nhiều nghĩa hầu hết các từ  nhiều nghĩa đều có cùng từ  loại.Trong quá trình  dạy học , tôi gặp phần lớn các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại .Từ 'đi' trong  các trường hợp sau đều là động từ                           đi bộ   VD: đi: đi chơi đi ngủ                         đi máy bay 16
  17. Vì vậy khi gặp những từ  có cùng vỏ  âm thanh giống nhau thì học sinh   không được vội vàng phán quyết ngay hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa mà   phải suy nghĩ thật kĩ. giải nghĩa chính xác các từ đó trong văn cảnh tìm ra điểm   khác nhau hoàn toàn hay giữa chúng có sự  liên hệ với nhau về nghĩa. Trong một  số  bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi,có một số  trường hợp giống nhau về  âm  thanh nhưng khó phân biệt hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa. * Tập hợp nghiên cứu các bài tập về từ đồng âm và từ  nhiều nghĩa, bài   tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa: ­ Dạng 1: Phân biệt nghĩa của các từ + Đối với từ đồng âm: Phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm   từ sau: Cánh đồng(1) – tượng đồng(2) – một nghìn đồng(3). Bài tập này giúp học sinh hiểu nghĩa của các từ  "đồng"  ở  mỗi trường  hợp :' đồng' (1) chỉ  khoảng đất rộng , bằng phẳng , dùng để  cấy , trồng trọt .  "Đồng " (2) là kim loại có màu đỏ , dễ dát mỏng và kéo thành sợi . "Đồng" (3) là  đơn vị  tiền Việt Nam . Như vậy nghiã của các từ  "đồng" khác nhau , chúng là  những từ đồng âm . + Đối với từ  nhiều nghĩa: Trong những câu sau câu nào có từ  “chân”   mang nghĩa gốc và  câu nào có từ 'chân' mang nghĩa chuyển? Chân: a) Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. b) Bé đau chân. Đối với bài tập trên giáo viên yêu cầu học sinh nêu được nghĩa của từ  “chân” trong mỗi câu và xác định nghĩa chuyển, nghĩa gốc('chân' trong câu a chỉ  một bộ phận làm trụ đỡ của cái kiềng – nghĩa chuyển, 'chân' trong câu b một bộ  phận của cơ thể đỡ và di chuyển cơ thể – nghĩa gốc).  Dạng 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm hoặc nhiều nghĩa + Đối với từ đồng âm: Đặt câu để  phân biệt các từ  đồng âm :  bàn, cờ,   nước. Ở bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh với mỗi từ các em cần đặt ít  nhất là hai câu, các từ đó có quan hệ đồng âm với nhau. D: Bàn :­ Cả nhà ngồi vào bàn để ăn cơm.                          ­ Bố mẹ em cũng đang bàn chuyện cưới vợ cho anh trai. 17
  18. + Đối với từ nhiều nghĩa. Đặt câu để phân biệt nghĩa của từ “ đứng” Đứng : Nghĩa 1: ở tư thế chân thẳng, chân đặt trên mặt nền.                Nghĩa 2: Ngừng chuyển động. Giáo viên có thể  gợi ý nghĩa 1 nói tới một tư  thế của người hoặc động   vật. Nghĩa 2 nói tới trạng thái của một đồ vật hiện tượng, dựa vào gợi ý đó học  sinh có thể đặt câu. Nghĩa 1: Chúng em đang đứng nghiêm trang chào cờ. Nghĩa 2: Kim đồng hồ đứng lại.               Trời đứng gió    Dạng 3: Phân biệt quân hệ đồng âm, quan hệ nhiều nghĩa. VD: Trong các từ  im đậm dưới đây, những từ  nào có quan hệ  đồng âm,  những từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau? Vàng: ­ Giá vàng ở nước ta tăng đột biến           ­ Tấm lòng vàng.           ­ Ông tôi mua mua một một bộ vàng lưới để chuẩn bị cho vụ đánh bắt hải   sản. Ở bài tập này giào viên hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của các từ “vàng”,   rồi xác định mối quan hệ giữa chúng dựa vào các căn cứ như mục (II .2). Đáp án: Từ “vàng” ở  câu 1,2 có quan hệ nhiều nghĩa, từ 'vàng' ở câu 3 có  quan hệ đồng âm với từ “vàng” ở câu 1 và 2. ­ Dạng 4: Nối từ hoặc cụm từ với nghĩa đã cho. + Đối với từ đồng âm: Ví dụ: Nối các cụm từ ở cột A với nghĩa thích hợp ở cột B. A. B 1. Sao trên trời có khi tỏ khi mờ. a.Chép   lại   hoặc   tạo   ra   văn   bản   khác  2. Sao lá đơn này thành ba bản. theo đúng  bản chính. b.Tẩm một chất nào đó rồi sấy khô 18
  19. 3. Sao tẩm chè. c.Nêu   thắc   mắc   không   biết   rõ  nguyên  4. Sao ngồi lâu thế? nhân. 5. Đồng lúa mượt mà sao. d.Nhấn mạnh mức độ  làm ngạc nhiên,  thấn phục e.Các thiên thể trong vũ trụ.  Đáp án: 1 – e, 2 – a, 3 – b, 4 – c, 5 – d. ­ Đối với từ nhiều nghĩa:  Ví dụ: Tìm ở cột B lời giảI nghĩa thích hợp cho từ “chạy” trong mỗi câu ở  cột A. A B 1. Bé chạy lon ton trên sân a.Hoạt động của máy móc. 2. Tàu   chạy   băng   băng   trên   đường  b.Khẩn trương tránh những diều không  ray. may sắp xảy đến.  3. Đồng hồ chạy đúng giờ  c.   Sự   di   chuyển   nhanh   của   phương  4. Dân làng khẩn trương chạy lũ tiện giao thông d. Sự di chuyển nhanh bằng chân. Đáp án: 1 – d, 2 – c, 3 – a, 4 – b. Đối với  những bài tập trên, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận để  nối những cụm từ  hoặc câu với nghĩa thích hợp  ở  những trường hợp dễ  nhận   thấy trước.  Trường hợp khó còn lại nếu học sinh chưa hiểu nghĩa các em có thể vận   dụng cả  phương pháp loại trừ.  Ở cả từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có mặt cả bốn dạng bài tập trên.  Bên cạnh đó, mỗi nội dung  lại có một số dạng bài tập riêng:  Đối với từ đồng âm có dạng bài tập đố vui: Trùng trục như con chó thui 19
  20. Chín mặt, chín mũi, chín đuôI, chín đầu                                                                                (Là con gì?) d) Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Để biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với   từ  nhiều nghĩa cho các em học sinh đạt kết quả  cao nhất cần phối hợp nhịp   nhàng mọi biện pháp với nhau. Các biện pháp mang tính bỗ  trợ, không có biện   pháp nào mang tính quyết định. Việc rèn kĩ năng tìm và phân biệt từ ngữ không   chỉ áp dụng trong phân môn Luyện từ và câu mà còn áp dụng trong các môn học  khác cũng như kĩ năng thực hành giao tiếp của các em. e) Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu * Kết quả khảo nghiệm So với đầu năm học thì kết quả  kiểm tra cuối năm học đã phản ánh rõ  những sự  tiến bộ  cảu các em học sinh. Cuối học kì I năm học 2014 – 2015 tôi  cũng ra những bài tập tương tự cho các em HS lớp 5B ­ lớp chủ nhiệm. Kết quả  làm bài như sau: Sĩ số Điểm 9 , 10 Điểm 8 , 9 Điểm 5 , 6 Điểm dưới 5 18 2= 11,1% 6 = 33,3% 9 = 50% 1 = 5,6%                                   II.4. Kết quả Sĩ số: 18 Điểm 9 , 10 Điểm 8 , 9 Điểm 5 , 6 Điểm dưới 5 Đầu năm 1 = 5,6% 3 = 16,7% 8  = 44,4% 6 = 33,3% 2= 11,1% 6 = 33,3% 9 = 50% 1 = 5,6% Cuối kì I  III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ   III.1. Kết luận Dạy các nội dung về nghĩa của từ thực sự không đơn giản, nhất là phân  biệt từ  đồng âm với từ  nhiều nghĩa và cả  với từ  đồng nghĩa. Trong quá trình   giảng dạy, tổ  chức cho học sinh nắm được kiến thức, bản thân tôi cũng đã cố  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2