MỤC LỤC<br />
Trang<br />
I. PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………. 2<br />
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………… 2<br />
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài……………………………………... 3<br />
3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………. 3<br />
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu……………………………………… 4<br />
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................... 4<br />
II. PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………. 5 <br />
1. Cơ sở lý luận........................................................................................ 5<br />
2.Thực trạng............................................................................................ 5<br />
2.1 Thuận lợi khó khăn........................................................................... 6<br />
2.2 Thành công hạn chế........................................................................... 7<br />
2.3 Mặt mạnh mặt yếu............................................................................. 8<br />
2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động…............................................ 8<br />
2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra........ <br />
9<br />
3. Giải pháp, biện pháp.......................................................................... 10 <br />
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp...................................................... <br />
10<br />
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp....................... <br />
10<br />
3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp............................................ <br />
20<br />
3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp......................................... <br />
20<br />
<br />
1<br />
I. PHẦN MỞ ĐẦU: <br />
1. Lý do chọn đề tài.<br />
<br />
Quan niệm của Mĩ học truyền thống cho rằng: “Cái hay bao giờ cũng được <br />
nảy sinh và tồn tại trên cơ sở của cái đúng. Nó phải lấy cái đúng làm điểm xuất <br />
phát và là sự thể hiện ở cấp độ cao của chuẩn mực ngôn ngữ”. <br />
<br />
Các môn khoa học nói chung đều phải đạt tới sự chính xác tuyệt đối của các <br />
tri thức. Riêng đối với lĩnh vực văn học, ngoài chuẩn mực về cái đúng còn phải <br />
vươn tới chuẩn mực của cái hay. Cái hay tạo nên sự khác biệt, dấu ấn của tác <br />
phẩm. Chất liệu để tạo nên cái hay của tác phẩm văn học chính là các hình tượng <br />
nghệ thuật được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ. Tài năng của nhà văn phải thể <br />
hiện trước hết ở năng lực sử dụng hệ thống ngôn ngữ sao cho có hiệu quả cao <br />
nhất. <br />
Đối với học sinh THCS, việc nhận thức về cái hay và cái đúng mới chỉ dừng <br />
lại ở mức độ thấp, sơ đẳng. Việc tiếp nhận và vận dụng các hình thức ngôn ngữ, <br />
các quy tắc chính tả còn hạn chế. Chính vì vậy các em thường mắc phải các lỗi <br />
chính tả trong quá trình học tập và trở thành một vấn đề cần phải quan tâm. <br />
Như chúng ta đã biết chữ quốc ngữ là một nét đẹp trong văn hóa của người <br />
Việt Nam, gìn giữ và viết đúng chính tả là giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa <br />
dân tộc và còn là trách nhiệm của mỗi người Việt yêu nước, yêu sự trong sáng của <br />
tiếng Việt.<br />
Thực trạng viết sai chính tả đang là mối quan tâm của nhiều người, của <br />
cộng đồng xã hội trong việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.<br />
<br />
<br />
2<br />
Thế nhưng một thực trạng đáng buồn trong trường tôi hiện nay là có rất <br />
nhiều học sinh viết sai chính tả. Một bài văn của học sinh trung bình cũng như học <br />
sinh giỏi đều mắc lỗi chính tả. Đã không ít thầy cô giáo phải kêu lên: “Em viết tôi <br />
không thể nào đọc được...”. Thậm chí một số học sinh không chú ý gì về lỗi chính <br />
tả khi làm bài, lâu ngày thành thói quen có hại khó sửa chữa được. <br />
Là một giáo viên dạy Ngữ văn nên tôi rất quan tâm đến việc phát hiện lỗi <br />
chính tả trong nói và viết của học sinh và tìm nhiều giải pháp giúp các em khắc <br />
phục.<br />
Sau nhiều năm nghiên cứu, thực hiện, tôi đã tích lũy được một số giải pháp <br />
giúp học sinh lớp 6 khắc phục lỗi chính tả và đạt được những kết quả khả quan, <br />
muốn được chia sẻ với đồng nghiệp. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài này.<br />
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài<br />
2.1. Mục tiêu: <br />
Căn cứ từ thực tiễn của việc dạy và học nói chung và việc học phân môn <br />
Ngữ văn nói riêng thì để đảm bảo cho người nói và người nghe, người viết và <br />
người đọc hiểu rõ văn bản một cách thống nhất, người ta đã đưa ra hệ thống qui <br />
tắc về cách viết cho các từ của một ngôn ngữ. Vì vậy vấn đề rèn luyện để nâng <br />
cao chất lượng viết đúng chính tả là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi người <br />
giáo viên. Chính vì lẽ đó tôi muốn đưa ra một số biện pháp để giúp các em giảm <br />
bớt lỗi chính tả, nắm chắc được các qui tắc cơ bản một cách sâu sắc, giúp các em <br />
không còn nhầm lẫn giữa các từ này với từ khác khi nói và viết. <br />
<br />
Từ thực trạng trên tôi mong muốn đề tài sẽ là giải pháp tối ưu nhằm giảm <br />
tối đa số học sinh viết sai lỗi chính tả trong quá trình học và thi cử, đồng thời tạo <br />
cho các em có lòng say mê học tập và làm việc có kế hoạch một cách cụ thể, có ý <br />
chí vượt khó vươn lên và tự tin trong học tập.<br />
<br />
2.2. Nhiệm vụ:<br />
<br />
3<br />
Điều tra lỗi chính tả cơ bản thường hay mắc phải của học sinh; nguyên nhân <br />
các lỗi đó để tìm ra biện pháp khắc phục.<br />
Vận dụng nguyên tắc trong chính tả để hình thành kĩ năng viết đúng chính tả <br />
cho học sinh.<br />
Dạy học theo phương pháp đổi mới kết hợp với rèn chính tả trong quá trình <br />
hướng dẫn học sinh hoạt động theo nhóm.<br />
3. Đối tượng nghiên cứu<br />
Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 6.<br />
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu<br />
Áp dụng đối với học sinh 6a1, 6a2, Trường THCS Lê Đình Chinh nhằm giúp <br />
các em hoàn thiện hơn về chữ viết đặc biệt là hạn chế về lỗi chính tả. Để thực <br />
hiện được ý định “khắc phục lỗi chính tả cho học sinh THCS” của mình tôi đã <br />
vạch ra một số biện pháp cụ thể ngay từ đầu năm học khi bắt đầu nhận lớp.<br />
5. Phương pháp nghiên cứu<br />
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài đề ra, tôi đã xây dựng nhóm <br />
phương pháp như sau:<br />
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu tài liệu, tư liệu có <br />
liên quan đến đề tài.<br />
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:<br />
Phương pháp luyện tập thực hành: <br />
Đây là phương pháp chủ đạo trong quá trình dạy và học môn Ngữ văn. Chỉ <br />
có thông qua con đường luyện tập thực hành thì mới hình thành được năng lực viết <br />
đúng chính tả một cách có hiệu quả.<br />
Phương pháp giao tiếp:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
4<br />
Phương pháp này giúp học sinh khắc sâu những quy tắc chính tả một cách có <br />
ý thức. Muốn sử dụng phương pháp này cần có hệ thống câu hỏi phù hợp với từng <br />
đối tượng học sinh.<br />
Phương pháp phân tích ngôn ngữ : <br />
Để sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên phải chọn những từ ngữ dễ lẫn, <br />
tùy theo từng địa phương, tùy theo tình hình lớp. Cách phân tích phải dễ hiểu, <br />
không sử dụng thuật ngữ khó hiểu đối với học sinh.<br />
Phương pháp quan sát :<br />
Đây là phương pháp mà đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị một số đồ <br />
dùng học tập và một số câu hỏi nhằm giúp học sinh tiếp thu bài một cách hiệu <br />
quả.<br />
Phương pháp điều tra, thống kê kết quả: <br />
Phương pháp này nhằm kiểm tra chất lượng học tập của học sinh qua từng <br />
giai đoạn.<br />
II. PHẦN NỘI DUNG <br />
1. Cơ sở lý luận<br />
Nghe, nói, đọc, viết là bốn kỹ năng rất quan trọng đối với bộ môn Ngữ văn. <br />
Rèn nét chữ cho HS không chỉ là công việc ngày một ngày hai, cũng không phải <br />
một thầy cô giáo dạy môn Ngữ văn rèn luyện là có thể thành công đối với các em. <br />
Mà đó là một quá trình nỗ lực tự bản thân học sinh cố gắng rèn luyện, có người <br />
hướng dẫn là các giáo viên dạy môn Ngữ văn, sự giám sát nhắc nhở của các thầy <br />
cô giáo bộ môn cùng phối hợp với phụ huynh của học sinh mới tạo nên sự thành <br />
công ấy. Tục ngữ xưa đã nói: “Nét chữ nết người”, công việc rèn nét chữ cho các <br />
em không phải kết quả thu được là vở sạch chữ đẹp mà còn rèn luyện đức tính <br />
kiên trì, nhẫn nại, không bỏ cuộc giữa chừng cho các em. Đó là đức tính mà mỗi <br />
con người muốn thành công không thể không có. Hơn thế nữa, một học sinh khi ra <br />
<br />
<br />
5<br />
đời, làm bất cứ một công việc gì cũng cần đến công việc viết lách. Trong cuộc <br />
sống hiện đại ngày nay, khi công nghệ thông tin phát triển không ngừng các em có <br />
thể nói rằng chữ xấu thì có thể đánh máy, song không thể viết đúng nếu như các <br />
em không hiểu luật, và các quy tắc chính tả. Bởi vậy, tôi mạnh dạn đi sâu vào vấn <br />
đề có thể xem là vấn nạn không chỉ ở học đường mà của toàn xã hội khi các biển <br />
quảng cáo, các bản tin, các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng sai nhiều lỗi <br />
chính tả một cách ngớ ngẩn.<br />
2. Thực trạng<br />
Hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh là <br />
mối quan tâm có tầm quan trọng hàng đầu bao trùm và chi phối mọi hoạt động <br />
khác. Trong thực tế, khi giảng dạy tôi đã phát hiện có những học sinh mắc sai lỗi <br />
chính tả rất nhiều, có những học sinh viết sai hơn 10 lỗi ở một bài kiểm tra. Khi <br />
chấm bài Tập làm văn, tôi không hiểu các em muốn diễn đạt điều gì vì bài viết <br />
mắc quá nhiều lỗi chính tả. Điều này ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em <br />
ở môn Ngữ văn cũng như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm các <br />
em mất tự tin, trở nên rụt rè nhút nhát.<br />
<br />
Do đó để đạt được mục tiêu chương trình đề ra, người giáo viên phải nắm <br />
chắc mục tiêu, nội dung để khai thác. Điều quan trọng là giáo viên phải nghiên cứu <br />
đầu tư xây dựng phương pháp dạy và học, phân nhóm đối tượng học sinh nhằm <br />
giúp học sinh tích cực hoạt động học tập. Xuất phát từ vị trí tầm quan trọng của <br />
môn Ngữ văn, xuất phát từ thực trạng dạy và học trong chương trình Ngữ văn 6, <br />
qua nghiên cứu khả năng ứng dụng cụ thể, thiết thực của vấn đề vì lí do đó tôi đã <br />
cố gắng thống kê, phân loại lỗi, tìm hiểu nguyên nhân vì sao các em mắc lỗi đến <br />
như vậy tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nhằm khắc phục <br />
lỗi chính tả cho học sinh lớp 6”. Với mong muốn nâng cao hiệu quả trong công <br />
<br />
<br />
<br />
6<br />
tác giảng dạy, đồng thời giúp các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong học tập cũng <br />
như trong giao tiếp. <br />
<br />
2.1. Thuận lợi khó khăn<br />
2.1.1. Thuận lợi:<br />
Đa số các em đã được nắm được một số qui tắc viết chính tả ở tiểu học.<br />
<br />
Sĩ số lớp vừa, không quá đông thuận lợi cho việc theo dõi quá trình rèn <br />
luyện của các em.<br />
<br />
Nhà trường quan tâm sâu sắc trong việc chỉ đạo tạo điều kiện về chuyên <br />
môn, cũng như cơ sở vật chất.<br />
<br />
Nhà trường tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ giáo viên trong quá trình <br />
nghiên cứu.<br />
<br />
Phụ huynh quan tâm nhiều đến việc học tập và rèn luyện của học sinh.<br />
<br />
Là một giáo viên, bản thân tôi luôn tìm tòi, học hỏi, năng động trong công <br />
tác, nhiệt tình trong công việc, đoàn kết giúp đỡ nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ.<br />
<br />
2.1.2. Khó khăn:<br />
Đa số các em chưa có ý thức tự giác về việc học. Việc học tập của các em <br />
cần phải có người nhắc nhở.<br />
<br />
Một số em chưa nắm được một số qui tắc khi viết chính tả.<br />
<br />
Một số phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của con em.<br />
<br />
Thời gian học tập của các em còn hạn chế. Mặc khác, một bộ phận không <br />
nhỏ học sinh còn ham chơi lười học, không chịu suy nghĩ, tư duy trong khi nói và <br />
viết …<br />
<br />
100% học sinh là con em địa phương gốc Quảng Nam nên ảnh hưởng rất <br />
nhiều trong ngôn ngữ nói và viết.<br />
<br />
7<br />
Đây là năm đầu tiên nhà trường thí điểm thực hiện mô hình trường học mới <br />
VNEN nên việc tổ chức và giảng dạy theo chương trình đổi mới còn gặp rất nhiều <br />
khó khăn.<br />
<br />
2.2. Thành công hạn chế<br />
2.2.1. Thành công:<br />
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các biện pháp mà đã nêu trong đề <br />
tài và nhận thấy học sinh đã có những tiến bộ khá rõ rệt. Bản thân các em cũng ý <br />
thức hơn khi viết bài nên bài viết ít mắc lỗi chính tả. Những em đầu năm thường <br />
sai nhiều lỗi thì nay chỉ còn 3, 4 lỗi; những em sai 5, 6 lỗi thì nay chỉ còn 1, 2 lỗi... <br />
Tuy rằng đây mới chỉ là kết quả bước đầu và việc “giúp học sinh khắc phục lỗi <br />
chính tả” là một quá trình lâu dài, song tôi vẫn cảm thấy rất vui vì công việc mình <br />
làm đã bước đầu mang lại hiệu quả khả quan.<br />
2.2.2. Hạn chế:<br />
Do tỉ lệ học sinh đều là con em địa phương có gốc Quảng Nam nên việc sử <br />
dụng ngôn ngữ địa phương dường như chiếm 99%. Vì vậy mà việc phát âm như <br />
thế nào thì viết như thế ấy là điều không thể tránh khỏi. Nên tôi nghĩ rằng để khắc <br />
phục được lỗi chính tả cho học sinh không chỉ là ngày một, ngày hai mà đòi hỏi <br />
một quá trình tương đối dài.<br />
2.3. Mặt mạnh mặt yếu<br />
2.3.1. Mặt mạnh:<br />
Hằng ngày, giáo viên được gần gũi và tiếp xúc trực tiếp với học sinh nên tìm <br />
hiểu và nắm bắt được những khó khăn và sai sót của các em khi viết chính tả rất <br />
thuận lợi.<br />
Việc tham dự các buổi hội thảo chuyên đề, hội giảng của trường, của Phòng <br />
giáo dục đã góp phần cho giáo viên được học hỏi, phấn đấu tìm tòi nâng cao kiến <br />
<br />
<br />
<br />
8<br />
thức, kĩ năng thực hành sư phạm. Từ đó vận dụng sáng tạo và linh hoạt trong <br />
phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng học tập của HS.<br />
2.3.2. Mặt yếu:<br />
Các em chưa có động cơ, thái độ đúng đắn trong việc học và rèn luyện viết <br />
chính tả, khi viết các em còn lơ là, không tập trung vào bài viết, lâu ngày thành thói <br />
quen cẩu thả "viết quen tay". Vì có nhiều em khi hỏi về quy tắc viết hoa thì các em <br />
trả lời tương đối đầy đủ nhưng vẫn mắc rất nhiều lỗi về viết hoa.<br />
Phụ huynh chưa thực sự quan tâm do mãi làm kinh tế nên ít quan tâm đến con <br />
em mình. <br />
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động<br />
Như chúng ta đã biết tình trạng người Việt chúng ta, đặc biệt là học sinh <br />
trong nhà trường trong những năm gần đây, việc viết sai lỗi chính tả là rất nhiều <br />
cụ thể chúng ta có thể thấy trên sách, báo, cũng như trong các bài kiểm tra thi cử <br />
của học sinh, phần lớn người viết thường mắc vào những lỗi như lẫn lộn giữa các <br />
phụ âm đầu: phụ âm ch và tr, x và s, d và gi, g và gh, ng và ngh; các vần : au và ao, <br />
iu và iêu, ưu và ươu; các phụ âm cuối: t và c, ng và n, đặc biệt là lẫn lộn giữa các <br />
dấu thanh trong đó hai dấu mà học sinh mắc nhiều nhất là dấu hỏi và dấu ngã. <br />
Ngoài ra, học sinh còn mắc vào một lỗi nữa là viết hoa tùy tiện. Đó là một thực <br />
trạng đáng báo động và cần phải được xã hội và nhà trường quan tâm một cách <br />
thích đáng. <br />
Những lỗi chính tả mà học sinh mắc phải như nêu ở trên cũng có những <br />
nguyên nhân của nó. Tôi có thể liệt kê ra đây một số những nguyên nhân cơ bản <br />
sau: học sinh không nắm được các quy tắc chính tả, do cách phát âm của người địa <br />
phương mà đa số là tiếng Quảng Nam dẫn đến một bộ phận học sinh phát âm như <br />
thế nào viết như thế đó, học sinh ít đọc, ít quan tâm tới sách báo, nhưng chủ yếu <br />
vẫn là học sinh thiếu ý thức rèn luyện trong khi viết. Ngoài những nguyên nhân trên <br />
tôi nhận thấy một nguyên nhân nữa không kém phần quan trọng dẫn đến việc sai <br />
9<br />
chính tả của học sinh là do một bộ phận giáo viên còn thiếu quan tâm đến các lỗi <br />
chính tả của học sinh. Với tình hình như vậy, bản thân chúng ta là những giáo viên <br />
giảng dạy môn Ngữ văn phải có trách nhiệm trước việc học sinh viết sai lỗi chính <br />
tả, vì vậy cần phải đưa ra những biện pháp, phương pháp để khắc phục tình trạng <br />
trên. Có như thế thì việc viết sai chính tả mới khắc phục, mới giữ gìn được sự <br />
trong sáng của tiếng Việt. <br />
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.<br />
Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp quan trọng mà còn là công cụ <br />
tư duy của một dân tộc nói chung và mỗi học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường <br />
nói riêng. Ngôn ngữ đồng thời là một trong những yếu tố cấu thành quan trọng <br />
nhất của một nên văn hóa dân tộc góp phần tạo nên và thể hiện ra bản sắc của nền <br />
văn hóa ấy.<br />
Hiện nay, vấn đề làm sao viết cho đúng tiếng Việt đang là vấn đề cần bàn <br />
luận trong nhà trường hiện nay. Không chỉ dừng lại ở học sinh cấp tiểu học, trung <br />
học cơ sở, trung học phổ thông mà có thể nói là hầu như phần đa người Việt gần <br />
như phải chấp nhận “chung sống” vời tiếng Việt viết sai. Trong thực tế khi lỡ viết <br />
sai một câu tiếng Anh, tiếng Pháp, nhiều người cảm thấy bứt rứt, mang nặng mặc <br />
cảm đốt nát. Trong khi viết sai tiếng Việt, thậm chí sai một cách trầm trọng thì họ <br />
lại xem đó là chuyện bình thường và còn ngụy biện cho những cái sai của mình là <br />
phong cách hay là sự sáng tạo. Điều đó dẫn đến thói quen coi thường văn bản, xem <br />
nội dung đại khái quan trọng hơn ngôn ngữ. Việc viết sai tiếng Việt còn do ảnh <br />
hưởng của những thói quen, tập quán của từng vùng miền. Vì thế mà ngay trên <br />
chính quê hương của người Việt thì việc viết sai lỗi chính tả là điều không thể <br />
tránh khỏi.<br />
Từ thực trạng trên, đồng thời cũng xuất phát từ tình hình thực tế của Trường <br />
Trung học cơ sở Lê Đình Chinh nằm ngay ở trung tâm Xã Quảng Điền, đa số học <br />
sinh là con em nông thôn nên việc sử dụng tiếng phổ thông trong quá trình học tập <br />
10<br />
còn hạn chế, bởi từ nhỏ các em vốn sử dụng tiếng địa phương có gốc Quảng Nam <br />
thành thục nên khi nói thế nào các em viết thế ấy là điều không thể tránh khỏi. <br />
Chính vì thế bản thân tôi đã xác định việc giáo dục ý thức viết đúng chính tả là một <br />
trong những nhiệm vụ quan trọng được tiến hành có kế hoạch, chiến lược cụ thể <br />
để phát triển toàn diện học sinh về mọi mặt. Trước thềm nông thôn mới và đồng <br />
thời để xây dựng Trường THCS Lê Đình Chinh đạt chuẩn quốc gia thì việc giáo <br />
dục học sinh khắc phục lỗi chính tả cũng là việc làm hết sức cần thiết, có thể lồng <br />
ghép vào các tiết bộ môn sẽ tạo điều kiện để học sinh sửa chữa và rèn luyện về <br />
chữ viết tốt hơn.<br />
Đồng hành với những suy nghĩ ấy rõ ràng chúng ta sẽ nhận thấy giải quyết <br />
vấn đề này như thế nào để mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất là điều mà những <br />
người làm công tác giáo dục phải quan tâm. Tôi cho rằng sự thành công của công <br />
tác này không thể thiếu sự kết hợp chặt chẽ từ ba lực lượng giáo dục Gia đình <br />
Nhà trường Xã hội.<br />
3. Giải pháp, biện pháp: <br />
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp<br />
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng của trường tôi hiện nay, tôi <br />
nhận thấy rằng nếu chỉ dùng sách giáo khoa, thì chưa đáp ứng đầy đủ với các yêu <br />
cầu nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng sai lỗi chính tả ở học sinh THCS <br />
mà đặc biệt hơn là học sinh lớp 6. Vì vậy, để khắc phục lỗi chính tả mà học sinh <br />
mắc phải, tôi đã nghiên cứu và vận dụng một vài biện pháp để giúp các em nắm <br />
được các quy tắc chính tả, các mẹo luật chính tả phù hợp với trình độ tiếp thu của <br />
các em, hình thành kĩ năng, kĩ xảo chính tả, bỏ thói quen phát âm sai dẫn đến việc <br />
viết sai. Mặc dù đề tài này không có gì mới mẻ nhưng tôi mong rằng nó sẽ góp <br />
phần làm thay đổi kĩ năng của các em khi viết cũng như khi phát âm.<br />
<br />
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp<br />
<br />
11<br />
Như vậy, việc khắc phục, uốn nắn chữ viết cho học sinh thật là khó khăn <br />
mà còn khó khăn hơn đối với cấp THCS vì trong chương trình không có những tiết <br />
luyện viết, lại mỗi môn một thầy dạy cho nên không có thời gian để sửa và luyện <br />
chữ cho học sinh và không quan sát thường xuyên liên tục chữ viết cho các em. Cho <br />
nên việc luyện chữ viết cho học sinh thật là khó khăn cho những thầy cô giáo <br />
chúng ta. Vì thế người giáo viên cần phải nhiệt tình, tận tâm, tận lực sửa chữa chữ <br />
viết cho học sinh trong từng tiết học và kiểm tra đánh giá thường xuyên. Để thực <br />
hiện được ý định “khắc phục lỗi chính tả cho học sinh THCS” của mình tôi đã <br />
vạch ra một số biện pháp nhằm giúp các em thay đổi thói quen viết sai lỗi, đồng <br />
thời giúp các em hình thành kĩ năng rèn chữ khi viết cụ thể ngay từ đầu năm học <br />
khi bắt đầu nhận lớp. Cụ thể theo từng bước như sau:<br />
<br />
* Thống kê lỗi:<br />
<br />
Qua kết quả thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc phải các <br />
loại lỗi sau:<br />
<br />
Về thanh điệu:<br />
<br />
Tiếng Việt có 6 thanh điệu (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì học sinh <br />
không phân biệt 2 thanh hỏi, ngã. Tuy chỉ có 2 thanh nhưng số lượng tiếng mang 2 <br />
thanh này không ít và rất phổ biến kể cả những người có trình độ văn hoá cao.<br />
<br />
Ví dụ: Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành…<br />
<br />
Về âm đầu: <br />
<br />
Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:<br />
<br />
+ c/k: Céo cờ…<br />
<br />
+ g/gh: Con gẹ , gê sợ…<br />
<br />
+ ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc…<br />
<br />
12<br />
+ ch/tr: Cây che, chiến chanh…<br />
<br />
+ s/x: Cây xả , xa mạc…<br />
<br />
+ v/d/gi: Giao động, giải lụa , giòng giống , dui dẻ…<br />
<br />
Trong các lỗi này, lỗi về ch/tr, s/x, v/d/gi là phổ biến hơn cả<br />
<br />
Về âm chính:<br />
<br />
Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau đây:<br />
<br />
+ ai/ay/ây: Bàn tai, đi cầy, dậy học…<br />
<br />
+ ao/au/âu: Hôm sao, mầu đỏ…<br />
<br />
+ iu/êu/iêu: chìu chuộng, cây niu…<br />
<br />
+ oi/ôi/ơi: nôi gương, xoi nếp…<br />
<br />
+ ăm/âm: con tầm, sưu tằm, bụi bậm…<br />
<br />
+ im/iêm/êm/em: tim thuốc, lúa chim, cái kềm…<br />
<br />
+ ăp/âp: gập gỡ, trùng lấp…<br />
<br />
+ ip/iêp/êp/ep: số kíp, liên típ, thệp cưới…<br />
<br />
+ ui/uôi: chín mùi, đầu đui, tủi tác…<br />
<br />
+ um/uôm: nhụm áo, ao chum…<br />
<br />
+ ưi /ươi: trái bửi…<br />
<br />
+ ưu/ ươu: ốc bưu, con khứu<br />
<br />
Về âm cuối: <br />
<br />
Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:<br />
<br />
+ an/ang: cây bàn, bàng bạc…<br />
13<br />
+ at/ac: lang bạc, lừa gạc, rẻ mạc…<br />
<br />
+ ăn/ăng: lẳn lặn, căn tin…<br />
<br />
+ ăt/ăc: giặc giũ, co thắc, mặt quần áo…<br />
<br />
+ ân/âng: hụt hẫn, nhà tần…<br />
<br />
+ ât/âc: nổi bậc, nhất lên…<br />
<br />
+ ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển…<br />
<br />
+ êt/êch: trắng bệt…<br />
<br />
+ iêt/iêc: mải miếc, tiêu diệc…<br />
<br />
+ ut/uc: chim cúc, bão lục…<br />
<br />
+ uôn/uông: khuôn nhạc, buồn tắm…<br />
<br />
+ uôt/uôc: rét buốc, chải chuốc…<br />
<br />
+ ươn/ương: lươn bổng, sung sướn<br />
<br />
* Kiểm tra, phân loại: <br />
Vấn đề chữ viết xấu, sai lỗi chính tả không chỉ là mối lo chung của mọi <br />
người làm nghề dạy học. Việc dùng vở luyện viết cho học sinh lớp 6 là rất cần <br />
thiết. Tôi đã dựa vào vở luyện viết này mà uốn nắn, sửa chữa và luyện viết cho <br />
các em. Đồng thời tìm ra những biện pháp phù hợp đối với học sinh lớp tôi. Năm <br />
học 20152016 tôi được phân công dạy lớp 6A1, 6A2 với tổng số học sinh là 70 <br />
em. Vào đầu năm học, tôi đã tiến hành phân loại chữ viết cho học sinh và chia làm <br />
ba nhóm chính: <br />
Nhóm 1: Gồm những học sinh viết chữ đẹp, rõ ràng, không sai lỗi chính tả <br />
hoặc có một hai lỗi không đáng kể (có 20 em chiếm 28,5 %). <br />
<br />
<br />
<br />
14<br />
Nhóm 2: Những em viết xấu, thiếu nét hoặc sai lỗi chính tả (có 35 em chiếm <br />
50%). Hầu hết trong nhóm này các em đều mắc phải một số lỗi cơ bản như chữ <br />
viết cẩu thả, tuỳ tiện, sai quy tắc chính tả và không hiểu nghĩa dẫn đến lẫn lộn <br />
phụ âm. <br />
Nhóm 3: Còn lại những em viết chữ quá xấu, cẩu thả, sai và lẫn lộn các phụ <br />
âm, không rõ chữ dẫn đến tình trạng không đọc được hoặc đọc sai nghĩa của từ (có <br />
15 em chiếm 21,5%).<br />
Qua thống kê lỗi và phân loại học sinh để có biện pháp phù hợp với từng đối <br />
tượng. Đồng thời nhận xét chung về chữ viết của từng em và ghi vào sổ ghi chép <br />
của giáo viên. Qua đó, giáo viên có cách uốn nắn một cách cụ thể và phù hợp với <br />
từng đối tượng. Dựa vào vở luyện viết, tôi hướng dẫn học sinh cách luyện viết <br />
theo từng tuần và yêu cầu học sinh mua thêm một vở ôli để luyện văn và luyện <br />
viết nhằm giúp các em vừa ôn luyện lại kiến thức đã học, vừa luyện chữ viết. Các <br />
vở này tôi kiểm tra một tháng một lần gồm hai bài (trong vở ôli tôi đã ra đề về nhà <br />
cho các em làm). Đối với học sinh ở nhóm 1 không chỉ dừng lại ở mức độ rèn chữ <br />
viết mà còn chú ý đến nội dung, chất lượng của bài viết. Đối với số học sinh ở <br />
nhóm 2 tôi cho thêm một tháng một bài luyện viết và tập trung các em học một <br />
buổi trong một tháng để uốn nắn, sửa chữa chữ viết tỉ mỉ hơn đối với nhóm 1. <br />
Riêng nhóm 3 mỗi tuần tôi cho thêm một bài viết chính tả về nhà để học sinh rèn <br />
luyện thêm để sửa chữa tỉ mĩ hơn với nhóm 1 và 2. Đồng thời tôi đề nghị phụ <br />
huynh học sinh cần theo dõi hàng ngày về việc học tập của các em ở nhà để có các <br />
biện pháp kịp thời uốn nắn các em.<br />
* Các biện pháp thực hiện cụ thể:<br />
Giới thiệu kiểu chữ: <br />
Trong tuần thứ nhất của tháng đầu tiên, tôi giảng giải cho các em nắm được <br />
kiểu chữ, dáng chữ cách viết thường cách viết hoa và viết in. Mặc dù các em đã <br />
được học nhiều nhưng khi nghe vấn đề này cứ như là lạ lắm. Bởi vì các em quen <br />
15<br />
tính cẩu thả và ít để tâm vào việc luyện chữ viết sao cho đẹp. Đầu tiên tôi giới <br />
thiệu cho các em về cách viết hoa, viết thường theo hai kiểu là kiểu chữ đứng và <br />
kiểu chữ nghiêng. Sau đó hướng dẫn học sinh chọn cho mình một kiểu chữ sao cho <br />
thuận tay và hợp ý thích của mình. Khi đã chọn kiểu chữ nào thì viết theo kiểu chữ <br />
đó không được tuỳ tiện thay đổi kiểu chữ, vì như vậy sẽ làm xấu chữ viết. <br />
Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật chính tả:<br />
<br />
Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối <br />
hàng loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu <br />
hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các <br />
âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. Ngoài ra, giáo viên có <br />
thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như:<br />
<br />
Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật <br />
đều bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, <br />
chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, <br />
châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi…<br />
<br />
Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt <br />
đầu bằng s: Sả, si, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, <br />
sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, <br />
sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô…<br />
<br />
Để phân biệt dấu thanh hỏi/ngã: Các từ gộp âm chỉ mang thanh hỏi không <br />
mang thanh ngã:<br />
<br />
Trong + ấy = trỏng.<br />
<br />
Trên + ấy = trển<br />
<br />
Cô + ấy = cổ<br />
<br />
16<br />
Chị + ấy = chỉ<br />
<br />
Anh + ấy = ảnh<br />
<br />
Ông + ấy = ổng<br />
<br />
Hôm + ấy = hổm<br />
<br />
Bên + ấy = bển<br />
<br />
Luật bổng trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu <br />
tố ở cùng một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ <br />
được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc 2 câu thơ:<br />
<br />
“Em Huyền mang nặng, ngã đau<br />
<br />
Anh Ngang sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào”<br />
<br />
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền, <br />
nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang <br />
thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).<br />
<br />
Ví dụ: Bổng<br />
<br />
Ngang + hỏi: Nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ…<br />
<br />
Sắc + hỏi: Nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ…<br />
<br />
Hỏi + hỏi: Lỏng lẻo, thỏ thẻ, hổn hển, thủ thỉ, rủ rỉ…<br />
<br />
Trầm:<br />
<br />
Huyền + ngã: Sẵn sàng, lững lờ, vồn vã<br />
<br />
Nặng + ngã: Nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,…<br />
<br />
Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…<br />
<br />
17<br />
+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn: <br />
<br />
Một số từ có vần ênh chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: Gập <br />
ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh <br />
choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh…<br />
<br />
Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, đùng <br />
đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, <br />
ăng ẳng, ằng ặc, oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng pằng, eng éc, beng beng, <br />
chập cheng, leng keng, reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng ùng, <br />
đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, thình thình, rập rình, xập xình, <br />
huỳnh huỵch…<br />
<br />
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, <br />
khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân.<br />
<br />
Cách rèn luyện chữ viết cho học sinh: <br />
+ Đối với học sinh: <br />
Trong buổi học đầu tiên, tôi lấy một đoạn văn mẫu và cho học sinh chép lại <br />
đoạn văn đó trong thời gian 15 phút. Sau đó cho các em đổi chéo bài cho nhau để <br />
cùng phát hiện lỗi của bạn, liệt kê những lỗi mà bạn mắc phải. Trong buổi học <br />
này học sinh nhóm 2 và đặc biệt là nhóm 3 học rất vất vả nhọc nhằn bởi lâu nay <br />
các em viết theo kiểu tuỳ hứng và không chú tâm vào việc luyện chữ. Đồng thời <br />
trong buổi học đầu tiên này tôi kể cho các em nghe một số mẩu chuyện về tác hại <br />
của chữ viết xấu, sai lỗi chính tả dẫn đến người đọc hiểu sai ý hoặc chất lượng <br />
bài kiểm tra kém… để các em thấy rõ tầm quan trọng của chữ viết. Từ đó các em <br />
có ý thức uốn nắn, sửa chữa và rèn luyện chữ viết của chính mình. Qua đó cho học <br />
sinh thấy “nét chữ là nết người” để các em phải cẩn thận tránh cẩu thả trong khi <br />
viết chữ. Vấn đề rèn kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh trung học cơ sở chủ <br />
<br />
18<br />
yếu là luyện ở nhà dưới sự hướng dẫn của thầy. Vì thế ngay trong kỳ họp phụ <br />
huynh đầu tiên của lớp, tôi trao đổi về tình hình chữ viết của học sinh cùng với ý <br />
định luyện chữ của tôi và đề xuất với họ một ngày dành chút ít thời gian quan tâm <br />
nhắc nhở các cháu học tập và luyện chữ, và việc luyện chữ phải luyện vào một <br />
thời gian nhất định có thời gian biểu rõ ràng cho các cháu. Việc làm này được tất <br />
cả các phụ huynh đồng tình ủng hộ. Trong buổi học thứ nhất, sau khi hướng dẫn <br />
và luyện viết một phần ở lớp, tôi giao bài cho các em viết vào vở luyện viết và vở <br />
luyện văn ở nhà để hôm sau thu chấm. <br />
Sang tuần thứ hai tôi đọc chậm một đoạn văn cho học sinh chép vào vở. Sau <br />
đó cho các em đổi bài cho nhau để chấm và kiểm tra lỗi chính tả của bạn. Riêng <br />
với các bạn nhóm 1 tôi ra một đề bài yêu cầu các em viết đoạn mở bài của bài văn <br />
và cách làm cũng như với nhóm 2 và nhóm 3 nhưng ở mức độ cao hơn là chấm cả <br />
nội dung đoạn văn. Cứ một tuần, các em chép một bài trong vở luyện viết mà tôi <br />
đề ra và cứ hai tuần cho các em làm một bài văn từ dễ đến khó. Đầu tiên là cho <br />
viết một đoạn văn và tiếp đến là một bài văn. Sau đó, tôi thu vở chấm một tháng <br />
hai lần. Riêng nhóm 3 tôi chấm hằng tuần. Bằng sự nhắc nhở và giám sát của gia <br />
đình cùng với sự kiểm tra chặt chẽ của giáo viên. Sau một tháng đầu khi chấm bài <br />
và xem vở ghi bài của các em tôi thấy các em đã có tiến bộ về chữ viết – so với bài <br />
kiểm tra chất lượng đầu năm. Cụ thể là: Các em đã có ý thức rèn luyện chữ viết, <br />
giảm được sự cẩu thả tuỳ tiện trong khi viết. Chữ viết đẹp hơn, ít lỗi hơn. Trong <br />
đó, số học sinh ở nhóm hai tôi đã chọn được năm em vào nhóm một. Số còn lại tuy <br />
viết đã có phần khá hơn song lỗi vẫn còn nhiều. Riêng nhóm 3 tiến triển rất chậm. <br />
Các tuần tiếp theo tôi tiếp tục yêu cầu học sinh viết thành nếp và cứ thế <br />
theo thói quen và quy định của tôi các em tiến hành viết theo tuần. Đối với học sinh <br />
thuộc đối tượng ở nhóm hai, tôi vẫn yêu cầu các em học thêm một tháng một buổi, <br />
nhóm 3 mỗi tuần thêm một buổi để có điều kiện uốn nắn và sửa lỗi cho các em. <br />
Ngoài ra, đối với tất cả các học sinh trong lớp, thỉnh thoảng tôi cho thêm một bài <br />
19<br />
để củng cố kiến thức và ôn luyện về chữ viết. Muốn chữ viết của các em ngày <br />
càng tiến bộ thì điều chủ yếu là người giáo viên phải thu bài và chấm chữa kịp <br />
thời, khen, chê đúng lúc. Có như vậy mới khuyến khích được hứng thú luyện viết <br />
cho các em. Việc chấm chữa bài cho các em là một công việc rất vất vả vì đòi hỏi <br />
phải tốn nhiều thời gian và công sức. Nhưng tôi nghĩ muốn khắc phục, uốn nắn <br />
tình trạng chữ viết xấu, sai lỗi chính tả cho các em thì người giáo viên cần phân bố <br />
thời gian hợp lý và tận tuỵ. Chính vì vậy mà tôi đã cố gắng thực hiện việc chấm <br />
chữa bài cho các em trong vở và yêu cầu cho các em luyện viết và làm bài, sửa lỗi <br />
nghiêm túc, dựa vào lời phê của thầy cô. Vì thế, trong suốt học kỳ I, chữ viết của <br />
các em đã tiến bộ rõ rệt. Số học sinh nhóm một đã tăng lên. Điều đó làm tôi rất <br />
mừng bởi những công sức mà cô và trò đã bỏ công luyện tập. <br />
Bước sang học kỳ II, tôi gắn luôn chữ viết vào đánh giá bài làm ở lớp. Trong <br />
các bài làm của học sinh nhất là bài làm Tập làm văn, tôi đề ra hai điều: “phải” và <br />
“cấm” như sau: <br />
Phải: <br />
(1) Viết cẩn thận, rõ ràng từng nét. <br />
(2) Phải viết hoa đầu đoạn văn, đầu câu và những danh từ riêng. <br />
(3) Phải chú ý phân biệt nghĩa của các từ để viết cho đúng. <br />
Cấm: <br />
(1) Viết hoa tuỳ tiện. <br />
(2) Viết thiếu nét nguệch ngoạc. <br />
Các bài làm của các em, nếu em nào viết xấu và sai lỗi nhiều, lỗi về chữ <br />
viết tôi đều không chấm và phê cụ thể yêu cầu viết lại hai lần mới chấm. Còn <br />
những bài lỗi mà tôi gạch chân và bắt viết lại mỗi lỗi năm dòng cho đúng. Tôi <br />
kiểm tra chặt chẽ việc sửa lỗi. Nếu em nào không chữa sẽ có hình thức phạt phù <br />
hợp. Chính vì vậy mà các bài làm sau của các em, tôi thấy các em có ý thức tu <br />
<br />
<br />
20<br />
luyện chữ, thể hiện ở chỗ chữ ít lỗi và rõ ràng hơn. Vì phần lớn các em đều rất <br />
ngại viết đi viết lại nhiều lần. Cùng với việc chấm chữa bài và các hình thức phạt <br />
phù hợp đối với những học sinh trong những tiết bài trên lớp hay những bài các em <br />
làm trên bảng, khi chữa bài bên cạnh chữa về mặt nội dung yêu cầu thì không thể <br />
thiếu được việc chữa lỗi về chữ viết cho các em bằng các câu hỏi và cho các em <br />
nhận xét. Chữ viết của bạn đã đẹp và cẩn thận chưa? Bài làm có mắc lỗi nào <br />
không? Muốn sửa những lỗi đó, ta phải sửa bằng cách nào? Từ đó học sinh nhận <br />
thấy lỗi của các bạn và tự sửa lỗi cho chính mình. <br />
+ Đối với giáo viên: <br />
Khi dạy học cho các em, người giáo viên khi đọc (nói) phải phù hợp nghĩa là: <br />
Phát âm chuẩn tiếng phổ thông vì nếu không phát âm chuẩn tiếng phổ thông sẽ <br />
dẫn đến viết sai. Trường hợp này đã xảy ra. Vì thế phải dạy cho học sinh nói và <br />
phát âm chuẩn mới được viết. Cho nên trong các giờ dạy ở lớp, tôi luôn chú ý vào <br />
việc đọc và phát âm của các em, nếu em nào đọc sai tôi sẽ uốn nắn luôn. <br />
Cùng với việc làm đó, tôi tìm hiểu về những lỗi mà do tiếng địa phương các <br />
em hay mắc phải để chú ý sửa cho các em ví dụ ở phần in/iên; mông/ mong; chông <br />
đợi/ trông đợi; sâu đó/ sau đó; lông lanh/ long lanh…và chú trọng sửa những lỗi này <br />
để khi các em viết bài các em chú ý và có thể sửa được những lỗi mà mình mắc <br />
phải. Để rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận trong khi viết chữ người giáo viên <br />
khi viết lên bảng hay trong lời phê phải làm gương để cho học sinh học tập. Trong <br />
các bài luyện tập tôi hướng dẫn học sinh kiểm tra chéo bài của nhau, ghi vào phiếu <br />
kiểm tra những lỗi của bạn và nhận xét bài viết của bạn, mục đích là các em nhận <br />
biết được lỗi của bạn cũng chính là lỗi của mình, để tự sửa chữa. Cuối cùng tôi <br />
thu bài viết và cả phiếu về nhà kiểm tra, chấm lại. Cứ mỗi lỗi sai lại yêu cầu viết <br />
lại như lần trước. Khi phát hiện ra những lỗi điển hình, tôi yêu cầu sửa dần bằng <br />
cách: Trong một thời gian nhất định phải sửa dần từng lỗi một. Đối với nhóm 2 và <br />
đặc biệt là nhóm 3 yêu cầu sửa chữ thiếu nét mới yêu cầu sang lỗi khác… Việc <br />
21<br />
này kết hợp chữa lỗi những tiết ngoài giờ, tiết tự chọn và cả trong giờ học chính <br />
khoá trên lớp. Cùng với những biện pháp trên, khi luyện viết chữ cho các em vừa <br />
kết hợp luyện chữ, vừa tìm những nguyên nhân mắc lỗi của các em để có cách sửa <br />
chữa cho phù hợp với từng đối tượng, từng lỗi và học sinh. <br />
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp<br />
Rèn cho học sinh viết đúng chính tả là một việc làm khó khăn và lâu dài. Nó <br />
quyết định chất lượng học tập và tỉ lệ học sinh lên lớp cao hay thấp; nó không <br />
những giúp các em học tốt mà còn góp phần “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng <br />
Việt”. Mặt khác, học sinh viết đúng chính tả thì chắc chắn chữ viết cũng sẽ đẹp <br />
hơn; khi chấm bài, giáo viên sẽ có tâm lí thoải mái phấn chấn hơn. Nhưng nếu chỉ <br />
dùng các phương pháp, biện pháp, hình thức dạy học thông thường; nếu chỉ cho <br />
học sinh làm các bài tập có sẵn trong SGK thì không thể khắc phục được lỗi chính <br />
tả ; đặc biệt là lỗi chính tả do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương. Tôi tin <br />
rằng mỗi thầy cô giáo sẽ có những cách làm khác nhau, sẽ có những kinh nghiệm <br />
rèn chính tả hiệu quả. Nhưng theo tôi, muốn rèn cho học sinh kĩ năng viết đúng <br />
chính tả thì cần phải:<br />
Giáo viên phải nắm được các quy tắc chính tả, phát âm chuẩn tiếng phổ <br />
thông, tìm hiểu rõ nguyên nhân sai lỗi chính tả của học sinh. Vì thế đòi hỏi giáo <br />
viên phải nghiên cứu và hiểu đặc điểm tâm sinh lý của học sinh để từ đó có những <br />
biện pháp thích hợp nhất giúp các em hạn chế tối đa lỗi chính tả.<br />
Tích cực tìm tòi, sáng tạo áp dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy để <br />
áp dụng nội dung chuyên đề một cách phù hợp với khả năng của học sinh và tình <br />
hình thực tế ở trường, lớp.<br />
Tận tình dạy bảo, ân cần hướng dẫn và giúp đỡ những học sinh yếu; <br />
thường xuyên kiểm tra vở , nhắc nhở các em cách trình bày, cách sửa lỗi trong vở ; <br />
động viên, tuyên dương và khen thưởng những học sinh có nhiều tiến bộ.<br />
<br />
<br />
22<br />
Luôn phối kết hợp chặt chẽ cùng phụ huynh học sinh gia đình và nhà <br />
trường về việc rèn chữ cho học sinh.<br />
Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, bài giảng điện tử, sưu tầm thêm tài <br />
liệu để sử dụng trên tiết học và các hoạt động.<br />
Lập kế hoạch tham mưu với ban giám hiệu tổ chuyên môn dự giờ đóng góp <br />
xây dựng ý kiến.<br />
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp<br />
Để đạt được hiệu quả cao trong việc khắc phục lỗi chính tả cho học sinh <br />
đặc biệt là học sinh lớp 6, tôi luôn kết hợp hài hòa giữa các biện pháp và giải pháp <br />
trên. Dựa trên kết quả khảo sát tình hình thực tế của lớp từ đó tôi đã kết hợp lồng <br />
ghép việc sữa lỗi chính tả vào trong các tiết dạy. Không chỉ dừng lại ở đó mà tôi <br />
cũng không ngừng kết hợp với phụ huynh và lồng ghép vào những hoạt động ngoài <br />
giờ học. Chính điều đó mà kết quả đạt được trong quá trình áp dụng các biện pháp <br />
trên rất cao. Tôi thấy học sinh hứng thú hơn nhiều so với các tiết học trước, có ý <br />
thức về lỗi chính tả hơn khi viết cũng như khi nói.<br />
Bên cạnh đó, công tác này sẽ đạt được hiệu quả cao hơn khi có sự tham mưu <br />
của Ban Giám hiệu nhà trường, sự phối hợp của các giáo viên trong tổ khối về ý <br />
nghĩa của việc khắc phục lỗi chính tả cho học sinh.<br />
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu <br />
Cứ bằng các biện pháp như thế, khi thì cách này, khi thì cách khác, tôi liên <br />
tục luyện chữ cho các em trong một học kì nên chữ viết của các em đã tiến bộ rất <br />
nhiều. Cụ thể như sau: Cuối học kì I năm học 2015 2016, các em đã được các <br />
giáo viên dạy hai lớp này khen ngợi chữ viết của học sinh tương đối đẹp, dễ đọc, <br />
rõ ràng và ít lỗi chính tả, trình bày sạch, đẹp. Có được kết quả như vậy phải kể <br />
đến sự kiên trì, quyết tâm luyện tập của học sinh dưới sự kiểm tra chặt chẽ, chỉ <br />
bảo ân cần, nhẹ nhàng của giáo viên và sự giám sát kiên quyết của các bậc phụ <br />
huynh. <br />
23<br />
Học kì I kết thúc, với ý định viết sáng kiến này tôi đã tiến hành khảo sát chất <br />
lượng về chữ viết của các em cụ thể như sau: Nhóm 1: có 10 em chữ viết đảm <br />
bảo. Nhóm 2: có 22 em trong số những em viết vẫn còn sai lỗi chính tả. Những chữ <br />
còn chưa đúng phụ âm, nguyên âm là 9 em, những em này chữ viết đã có tiến bộ <br />
hơn so với đầu năm nhập học nhưng vẫn còn sai lỗi chính tả do tiếng địa phương <br />
và việc phân biệt nghĩa của các từ chưa chính xác. Chỉ trong một học kì luyện viết, <br />
tỷ lệ 28,5% đạt yêu cầu về chữ viết đến nay đã tăng lên 39,5%. Tỉ lệ học sinh <br />
chưa đạt yêu cầu từ 71,5% xuống còn 53,3%, giảm 18,2%. <br />
Thật là vui mừng khi chữ viết của các em đã tiến triển như vậy. Nếu cứ tiếp <br />
tục luyện chữ viết cho các em, tôi tin rằng lên lớp 9 chữ viết của các em sẽ đạt <br />
được như mong muốn. Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã đề ra và áp dụng với <br />
học sinh của lớp tôi chưa có gì là mới mẻ nhưng nhờ sự kiên trì, nhiệt tình của cả <br />
cô và trò mà kết quả chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt.<br />
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên <br />
cứu<br />
Với việc thực hiện những phương pháp trên, bước đầu đã có những chuyển <br />
biến đáng kể trong việc viết chính tả của học sinh. Trong các bài kiểm tra và <br />
những lần kiểm tra bài vở của học sinh tôi nhận thấy những bài viết sau ít mắc lỗi <br />
chính tả hơn so với những bài viết trước. Đó là một kết quả đáng mừng cần phải <br />
phát huy. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận học sinh do thiếu ý thức trong việc học <br />
tập nên vẫn còn tình trạng viết sai chính tả. Nhưng dù sao, tôi hi vọng rằng với <br />
sáng kiến này có thể góp một phần nào đó khắc phục tình trạng viết sai chính tả <br />
trong học sinh và góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn <br />
tại đơn vị tôi đang công tác, cũng như góp một phần nào đó cho sự nghiệp giáo dục <br />
của nước nhà.<br />
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ <br />
<br />
<br />
24<br />
1. Kết luận: <br />
Trong sự nghiệp giáo dục, dù ai đã và đang công tác cũng chung nhau một <br />
lòng mong mõi là làm sao, làm thế nào cho học sinh của mình viết đẹp và viết đúng <br />
chính tả, góp phần làm rạng danh tiếng Việt, sử dụng đúng chính tả có tầm quan <br />
trọng cho cả quốc gia và là một yêu cầu tất yếu của xã hội hiện tại.<br />
<br />
Qua đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính <br />
tả cho học sinh lớp 6” tôi đã tìm hiểu được các cơ sở lý luận, xác định được chất <br />
lượng chính tả của học sinh Trường THCS Lê Đình Chinh, từ đó đề ra những biện <br />
pháp cần thiết. Đây là nhiệm vụ của mỗi người giáo viên nói chung và của giáo <br />
viên Trường THCS Lê Đình Chinh nói riêng. Nhiệm vụ này không chỉ tiến hành <br />
trong một thời gian ngắn mà cho ta kết quả tốt ngay được, nó phải được tiến hành <br />
trong một thời gian dài với sự đồng bộ của các khối lớp. Tuy nhiên nhiệm vụ này <br />
có hoàn thành triệt để hay không chúng tôi cũng cần có sự giúp đỡ của các cấp, các <br />
ngành có liên quan.<br />
<br />
Với những dòng viết trên đây là những kinh nghiệm nhỏ không phải chưa có <br />
ai nói, chưa có sách viết. Song tôi muốn qua những kinh nghiệm nhỏ này một lần <br />
nữa giúp giáo viên – những người đang trực tiếp giảng dạy hiểu rõ được vai trò <br />
chính tả tiếng Việt trong việc giảng dạy môn Ngữ văn cũng như các môn học khác <br />
nhằm giúp học sinh học tốt hơn. Góp phần vào việc nâng cao hiệu quả dạy – học <br />
môn Ngữ Văn. Không có kinh nghiệm nào là chung cho tất cả mọi người. Không có <br />
con đường nào để đi đến thành công mà không lắm chông gai. Với những suy nghĩ <br />
trong đề tài này cũng như việc tôi áp dụng đề tài này vào việc dạy học cụ thể và có <br />
những kết quả đáng mừng, tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp để nhằm học hỏi <br />
và nâng cao trình độ chuyên môn của mình. Vì vậy tôi kính mong quý vị vui lòng <br />
đóng góp ý kiến để kinh nghiệm được hoàn thiện hơn.<br />
<br />
2. Kiến nghị: <br />
<br />
25<br />
* Đối với giáo viên : <br />
<br />
Để thực hiện được công việc này thì giáo viê