intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 6

Chia sẻ: Lê Thị Trà Giang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

128
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Căn cứ từ thực tiễn của việc dạy và học nói chung và việc học phân môn Ngữ văn nói riêng thì để đảm bảo cho người nói và người nghe, người viết và người đọc hiểu rõ văn bản một cách thống nhất, người ta đã đưa ra hệ thống qui tắc về cách viết cho các từ của một ngôn ngữ. Vì vậy vấn đề rèn luyện để nâng cao chất lượng viết đúng chính tả là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi người giáo viên. Chính vì lẽ đó tôi muốn đưa ra một số biện pháp để giúp các em giảm bớt lỗi chính tả, nắm chắc được các qui tắc cơ bản một cách sâu sắc, giúp các em không còn nhầm lẫn giữa các từ này với từ khác khi nói và viết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 6

MỤC LỤC<br />                                                                                                             Trang<br /> I. PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………. 2<br /> 1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………… 2<br /> 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài……………………………………... 3<br /> 3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………. 3<br /> 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu……………………………………… 4<br /> 5. Phương pháp nghiên cứu................................................................... 4<br /> II. PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………. 5 <br /> 1. Cơ sở lý luận........................................................................................ 5<br /> 2.Thực trạng............................................................................................ 5<br /> 2.1  Thuận lợi­ khó khăn........................................................................... 6<br /> 2.2 Thành công­ hạn chế........................................................................... 7<br /> 2.3 Mặt mạnh­ mặt yếu............................................................................. 8<br /> 2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động…............................................ 8<br /> 2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra........ <br /> 9<br /> 3. Giải pháp, biện pháp.......................................................................... 10 <br /> 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp...................................................... <br /> 10<br /> 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp....................... <br /> 10<br /> 3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp............................................ <br /> 20<br /> 3.4 Mối quan hệ  giữa các giải pháp, biện pháp......................................... <br /> 20<br /> <br /> 1<br /> I. PHẦN MỞ ĐẦU: <br /> 1. Lý do chọn đề tài.<br /> <br /> Quan niệm của Mĩ học truyền thống cho rằng: “Cái hay bao giờ cũng được  <br /> nảy sinh và tồn tại trên cơ  sở  của cái đúng. Nó phải lấy cái đúng làm điểm xuất  <br /> phát và là sự thể hiện ở cấp độ cao của chuẩn mực ngôn ngữ”. <br /> <br /> Các môn khoa học nói chung đều phải đạt tới sự chính xác tuyệt đối của các <br /> tri thức. Riêng đối với lĩnh vực văn học, ngoài chuẩn mực về  cái đúng còn phải  <br /> vươn tới chuẩn mực của cái hay. Cái hay tạo nên sự  khác biệt, dấu  ấn của tác <br /> phẩm. Chất liệu để tạo nên cái hay của tác phẩm văn học chính là các hình tượng <br /> nghệ thuật được xây dựng bằng chất liệu  ngôn từ. Tài năng của nhà văn phải thể <br /> hiện trước hết  ở  năng lực sử  dụng hệ  thống ngôn ngữ  sao cho có hiệu quả  cao <br /> nhất. <br /> Đối với học sinh THCS, việc nhận thức về cái hay và cái đúng mới chỉ dừng  <br /> lại ở mức độ thấp, sơ đẳng. Việc tiếp nhận và vận dụng các hình thức ngôn ngữ,  <br /> các quy tắc chính tả  còn hạn chế. Chính vì vậy các em thường mắc phải các lỗi <br /> chính tả trong quá trình học tập và trở thành một vấn đề cần phải quan tâm. <br /> Như chúng ta đã biết chữ quốc ngữ là một nét đẹp trong văn hóa của người  <br /> Việt Nam, gìn giữ và viết đúng chính tả là giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa <br /> dân tộc và còn là trách nhiệm của mỗi người Việt yêu nước, yêu sự trong sáng của <br /> tiếng Việt.<br /> Thực trạng viết sai chính tả  đang là mối quan tâm của nhiều người, của  <br /> cộng đồng xã hội trong việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.<br /> <br /> <br /> 2<br /> Thế  nhưng một thực trạng đáng buồn trong trường tôi hiện nay là có rất <br /> nhiều học sinh viết sai chính tả. Một bài văn của học sinh trung bình cũng như học <br /> sinh giỏi đều mắc lỗi chính tả. Đã không ít thầy cô giáo phải kêu lên: “Em viết tôi <br /> không thể nào đọc được...”. Thậm chí một số học sinh không chú ý gì về lỗi chính  <br /> tả khi làm bài, lâu ngày thành thói quen có hại khó sửa chữa được. <br /> Là một giáo viên dạy Ngữ  văn nên tôi rất quan tâm đến việc phát hiện lỗi <br /> chính tả  trong nói và viết của học sinh và tìm nhiều giải pháp giúp các em khắc  <br /> phục.<br /> Sau nhiều năm nghiên cứu, thực hiện, tôi đã tích lũy được một số  giải pháp <br /> giúp học sinh lớp 6 khắc phục lỗi chính tả  và đạt được những kết quả  khả  quan,  <br /> muốn được chia sẻ với đồng nghiệp. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài này.<br /> 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài<br /> 2.1. Mục tiêu: <br /> Căn cứ  từ  thực tiễn của việc dạy và học nói chung và việc học phân môn  <br /> Ngữ  văn nói riêng thì để  đảm bảo cho người nói và người nghe, người viết và <br /> người đọc hiểu rõ văn bản một cách thống nhất, người ta đã đưa ra hệ  thống qui  <br /> tắc về  cách viết cho các từ  của một ngôn ngữ. Vì vậy vấn đề  rèn luyện để  nâng <br /> cao chất lượng viết đúng chính tả là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi người <br /> giáo viên. Chính vì lẽ  đó tôi muốn đưa ra một số  biện pháp để  giúp các em giảm <br /> bớt lỗi chính tả, nắm chắc được các qui tắc cơ bản một cách sâu sắc, giúp các em  <br /> không còn nhầm lẫn giữa các từ này với từ khác khi nói và viết. <br /> <br /> Từ  thực trạng trên tôi mong muốn đề  tài sẽ  là giải pháp tối  ưu nhằm giảm  <br /> tối đa số học sinh viết sai lỗi chính tả trong quá trình học và thi cử, đồng thời tạo <br /> cho các em có lòng say mê học tập và làm việc có kế hoạch một cách cụ thể, có ý <br /> chí vượt khó vươn lên và tự tin trong học tập.<br /> <br /> 2.2. Nhiệm vụ:<br /> <br /> 3<br /> Điều tra lỗi chính tả cơ bản thường hay mắc phải của học sinh; nguyên nhân <br /> các lỗi  đó để tìm ra biện pháp khắc phục.<br /> Vận dụng nguyên tắc trong chính tả để hình thành kĩ năng viết đúng chính tả <br /> cho học sinh.<br /> Dạy học theo phương pháp đổi mới kết hợp với rèn chính tả trong quá trình  <br /> hướng dẫn học sinh hoạt động theo nhóm.<br /> 3. Đối tượng nghiên cứu<br /> Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 6.<br /> 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu<br /> Áp dụng đối với học sinh 6a1, 6a2, Trường THCS Lê Đình Chinh nhằm giúp <br /> các em hoàn thiện hơn về  chữ  viết đặc biệt là hạn chế  về  lỗi chính tả. Để  thực <br /> hiện được ý định “khắc phục lỗi chính tả  cho học sinh THCS” của mình tôi đã <br /> vạch ra một số biện pháp cụ thể ngay từ đầu năm học khi bắt đầu nhận lớp.<br /> 5. Phương pháp nghiên cứu<br /> Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ  của đề  tài đề  ra, tôi đã xây dựng nhóm  <br /> phương pháp như sau:<br /> 5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu tài liệu, tư  liệu có <br /> liên quan đến đề tài.<br /> 5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:<br /> ­ Phương pháp luyện tập thực hành: <br /> Đây là phương pháp chủ  đạo trong quá trình dạy và học môn Ngữ  văn. Chỉ <br /> có thông qua con đường luyện tập thực hành thì mới hình thành được năng lực viết  <br /> đúng chính tả một cách có hiệu quả.<br /> ­ Phương pháp giao tiếp:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 4<br /> Phương pháp này giúp học sinh khắc sâu những quy tắc chính tả một cách có <br /> ý thức. Muốn sử dụng phương pháp này cần có hệ thống câu hỏi phù hợp với từng <br /> đối tượng học sinh.<br /> ­ Phương pháp phân tích ngôn ngữ : <br /> Để sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên phải chọn những từ ngữ dễ lẫn,  <br /> tùy theo từng địa phương, tùy theo tình hình lớp. Cách phân tích phải dễ  hiểu,  <br /> không sử dụng thuật ngữ khó hiểu đối với học sinh.<br /> ­ Phương pháp quan sát :<br /> Đây là phương pháp mà đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị  một số  đồ <br /> dùng học tập và một số  câu hỏi nhằm giúp học sinh tiếp thu bài một cách hiệu  <br /> quả.<br /> ­ Phương pháp điều tra, thống kê kết quả: <br /> Phương pháp này nhằm kiểm tra chất lượng học tập của học sinh qua từng  <br /> giai đoạn.<br /> II. PHẦN NỘI DUNG <br /> 1. Cơ sở lý luận<br /> Nghe, nói, đọc, viết là bốn kỹ năng rất quan trọng đối với bộ môn Ngữ văn. <br /> Rèn nét chữ  cho HS không chỉ  là công việc ngày một ngày hai, cũng không phải  <br /> một thầy cô giáo dạy môn Ngữ văn rèn luyện là có thể thành công đối với các em. <br /> Mà đó là một quá trình nỗ  lực tự  bản thân học sinh cố  gắng rèn luyện, có người <br /> hướng dẫn là các giáo viên dạy môn Ngữ văn, sự  giám sát nhắc nhở  của các thầy  <br /> cô giáo bộ  môn cùng phối hợp với phụ  huynh của học sinh mới tạo nên sự  thành <br /> công ấy. Tục ngữ xưa đã nói: “Nét chữ  nết người”, công việc rèn nét chữ  cho các <br /> em không phải kết quả  thu được là vở  sạch chữ  đẹp mà còn rèn luyện đức tính <br /> kiên trì, nhẫn nại, không bỏ  cuộc giữa chừng cho các em. Đó là đức tính mà mỗi <br /> con người muốn thành công không thể không có. Hơn thế nữa, một học sinh khi ra  <br /> <br /> <br /> 5<br /> đời, làm bất cứ  một công việc gì cũng cần đến công việc viết lách. Trong cuộc <br /> sống hiện đại ngày nay, khi công nghệ thông tin phát triển không ngừng các em có <br /> thể nói rằng chữ xấu thì có thể  đánh máy, song không thể viết đúng nếu như  các  <br /> em không hiểu luật, và các quy tắc chính tả. Bởi vậy, tôi mạnh dạn đi sâu vào vấn  <br /> đề có thể xem là vấn nạn không chỉ ở học đường mà của toàn xã hội khi các biển  <br /> quảng cáo, các bản tin, các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng sai nhiều lỗi <br /> chính tả một cách ngớ ngẩn.<br /> 2. Thực trạng<br /> Hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh là  <br /> mối quan tâm có tầm quan trọng hàng đầu bao trùm và chi phối mọi hoạt động  <br /> khác. Trong thực tế, khi giảng dạy tôi đã phát hiện có những học sinh mắc sai lỗi  <br /> chính tả  rất nhiều, có những học sinh viết sai hơn 10 lỗi  ở một bài kiểm tra. Khi  <br /> chấm bài Tập làm văn, tôi không hiểu các em muốn diễn đạt điều gì vì bài viết  <br /> mắc quá nhiều lỗi chính tả. Điều này ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em  <br /> ở môn Ngữ văn cũng như  các môn học khác, hạn chế  khả  năng giao tiếp, làm các  <br /> em mất tự tin, trở nên rụt rè nhút nhát.<br /> <br /> Do đó để  đạt được mục tiêu chương trình đề  ra, người giáo viên phải nắm <br /> chắc mục tiêu, nội dung để khai thác. Điều quan trọng là giáo viên phải nghiên cứu  <br /> đầu tư  xây dựng phương pháp dạy và học, phân nhóm đối tượng học sinh nhằm <br /> giúp học sinh tích cực hoạt động học tập. Xuất phát từ  vị  trí tầm quan trọng của <br /> môn Ngữ  văn, xuất phát từ  thực trạng dạy và học trong chương trình Ngữ  văn 6, <br /> qua nghiên cứu khả năng ứng dụng cụ thể, thiết thực của vấn đề  vì lí do đó tôi đã  <br /> cố  gắng thống kê, phân loại lỗi, tìm hiểu nguyên nhân vì sao các em mắc lỗi đến <br /> như vậy tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nhằm khắc phục  <br /> lỗi chính tả  cho học sinh lớp 6”. Với mong muốn nâng cao hiệu quả  trong công <br /> <br /> <br /> <br /> 6<br /> tác giảng dạy, đồng thời giúp các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong học tập cũng <br /> như trong giao tiếp. <br /> <br /> 2.1. Thuận lợi ­ khó khăn<br /> 2.1.1. Thuận lợi:<br /> ­ Đa số các em đã được nắm được một số qui tắc viết chính tả ở tiểu học.<br /> <br /> ­ Sĩ số  lớp vừa, không quá đông thuận lợi cho việc theo dõi quá trình rèn <br /> luyện của các em.<br /> <br /> ­ Nhà trường quan tâm sâu sắc trong việc chỉ  đạo tạo điều kiện về  chuyên <br /> môn, cũng như cơ sở vật chất.<br /> <br /> ­ Nhà trường tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ  giáo viên trong quá trình  <br /> nghiên cứu.<br /> <br /> ­ Phụ huynh quan tâm nhiều đến việc học tập và rèn luyện của học sinh.<br /> <br /> ­ Là một giáo viên, bản thân tôi luôn tìm tòi, học hỏi, năng động trong công <br /> tác, nhiệt tình trong công việc, đoàn kết giúp đỡ nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ.<br /> <br /> 2.1.2. Khó khăn:<br /> ­ Đa số các em chưa có ý thức tự giác về việc học. Việc học tập của các em <br /> cần phải có người nhắc nhở.<br /> <br /> ­ Một số em chưa nắm được một số qui tắc khi viết chính tả.<br /> <br /> ­ Một số phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của con em.<br /> <br /> ­ Thời gian học tập của các em còn hạn chế. Mặc khác, một bộ phận không  <br /> nhỏ  học sinh còn ham chơi lười học, không chịu suy nghĩ, tư  duy trong khi nói và  <br /> viết …<br /> <br /> ­ 100% học sinh là con em địa phương gốc Quảng Nam nên  ảnh hưởng rất  <br /> nhiều trong ngôn ngữ nói và viết.<br /> <br /> 7<br /> ­ Đây là năm đầu tiên nhà trường thí điểm thực hiện mô hình trường học mới <br /> VNEN nên việc tổ chức và giảng dạy theo chương trình đổi mới còn gặp rất nhiều  <br /> khó khăn.<br /> <br /> 2.2. Thành công ­ hạn chế<br /> 2.2.1. Thành công:<br /> Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các biện pháp mà đã nêu trong đề <br /> tài và nhận thấy học sinh đã có những tiến bộ  khá rõ rệt. Bản thân các em cũng ý  <br /> thức hơn khi viết bài nên bài viết ít mắc lỗi chính tả. Những em đầu năm thường  <br /> sai nhiều lỗi thì nay chỉ còn 3, 4 lỗi; những em sai 5, 6 lỗi thì nay chỉ còn 1, 2 lỗi...  <br /> Tuy rằng đây mới chỉ  là kết quả  bước đầu và việc “giúp học sinh khắc phục lỗi  <br /> chính tả” là một quá trình lâu dài, song tôi vẫn cảm thấy rất vui vì công việc mình <br /> làm đã bước đầu mang lại hiệu quả khả quan.<br /> 2.2.2. Hạn chế:<br /> Do tỉ lệ học sinh đều là con em địa phương có gốc Quảng Nam nên việc sử <br /> dụng ngôn ngữ  địa phương dường như  chiếm 99%. Vì vậy mà việc phát âm như <br /> thế nào thì viết như thế ấy là điều không thể tránh khỏi. Nên tôi nghĩ rằng để khắc <br /> phục được lỗi chính tả  cho học sinh không chỉ  là ngày một, ngày hai mà đòi hỏi <br /> một quá trình tương đối dài.<br /> 2.3. Mặt mạnh ­ mặt yếu<br /> 2.3.1. Mặt mạnh:<br /> Hằng ngày, giáo viên được gần gũi và tiếp xúc trực tiếp với học sinh nên tìm  <br /> hiểu và nắm bắt được những khó khăn và sai sót của các em khi viết chính tả  rất  <br /> thuận lợi.<br /> Việc tham dự các buổi hội thảo chuyên đề, hội giảng của trường, của Phòng  <br /> giáo dục đã góp phần cho giáo viên được học hỏi, phấn đấu tìm tòi nâng cao kiến  <br /> <br /> <br /> <br /> 8<br /> thức, kĩ năng thực hành sư  phạm. Từ  đó vận dụng sáng tạo và linh hoạt trong <br /> phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng học tập của HS.<br /> 2.3.2. Mặt yếu:<br />  Các em chưa có động cơ, thái độ đúng đắn trong việc học và rèn luyện viết <br /> chính tả, khi viết các em còn lơ là, không tập trung vào bài viết, lâu ngày thành thói <br /> quen cẩu thả "viết quen tay". Vì có nhiều em khi hỏi về quy tắc viết hoa thì các em <br /> trả lời tương đối đầy đủ nhưng vẫn mắc rất nhiều lỗi về viết hoa.<br /> Phụ huynh chưa thực sự quan tâm do mãi làm kinh tế nên ít quan tâm đến con <br /> em mình.        <br /> 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động<br />  Như  chúng ta đã biết tình trạng người Việt chúng ta, đặc biệt là học sinh <br /> trong nhà trường trong những năm gần đây, việc viết sai lỗi chính tả  là rất nhiều  <br /> cụ  thể  chúng ta có thể  thấy trên sách, báo, cũng như  trong các bài kiểm tra thi cử <br /> của học sinh, phần lớn người viết thường mắc vào những lỗi như lẫn lộn giữa các  <br /> phụ âm đầu: phụ âm ch và tr, x và s, d và gi, g và gh, ng và ngh; các vần : au và ao, <br /> iu và iêu, ưu và ươu; các phụ âm cuối: t và c, ng và n, đặc biệt là lẫn lộn giữa các  <br /> dấu thanh trong đó hai dấu mà học sinh mắc nhiều nhất là dấu hỏi và dấu ngã. <br /> Ngoài ra, học sinh còn mắc vào một lỗi nữa là viết hoa tùy tiện. Đó là một thực  <br /> trạng đáng báo động và cần phải được xã hội và nhà trường quan tâm một cách <br /> thích đáng. <br /> Những lỗi chính tả  mà học sinh mắc phải như  nêu  ở  trên cũng có những <br /> nguyên nhân của nó. Tôi có thể  liệt kê ra đây một số  những nguyên nhân cơ  bản  <br /> sau: học sinh không nắm được các quy tắc chính tả, do cách phát âm của người địa <br /> phương mà đa số là tiếng Quảng Nam dẫn đến một bộ phận học sinh phát âm như <br /> thế  nào viết như thế  đó, học sinh ít đọc, ít quan tâm tới sách báo, nhưng chủ  yếu  <br /> vẫn là học sinh thiếu ý thức rèn luyện trong khi viết. Ngoài những nguyên nhân trên <br /> tôi nhận thấy một nguyên nhân nữa không kém phần quan trọng dẫn đến việc sai <br /> 9<br /> chính tả của học sinh là do một bộ  phận giáo viên còn thiếu quan tâm đến các lỗi  <br /> chính tả của học sinh. Với tình hình như vậy, bản thân chúng ta là những giáo viên <br /> giảng dạy môn Ngữ văn phải có trách nhiệm trước việc học sinh viết sai lỗi chính <br /> tả, vì vậy cần phải đưa ra những biện pháp, phương pháp để khắc phục tình trạng  <br /> trên. Có như  thế  thì việc viết sai chính tả  mới khắc phục, mới giữ  gìn được sự <br /> trong sáng của tiếng Việt. <br /> 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.<br /> Ngôn ngữ  không chỉ  là phương tiện giao tiếp quan trọng mà còn là công cụ <br /> tư  duy của một dân tộc nói chung và mỗi học sinh đang ngồi trên ghế  nhà trường  <br /> nói riêng. Ngôn ngữ  đồng thời là một trong những yếu tố  cấu thành quan trọng <br /> nhất của một nên văn hóa dân tộc góp phần tạo nên và thể hiện ra bản sắc của nền <br /> văn hóa ấy.<br /> Hiện nay, vấn đề  làm sao viết cho đúng tiếng Việt đang là vấn đề  cần bàn <br /> luận trong nhà trường hiện nay. Không chỉ dừng lại ở học sinh cấp tiểu học, trung  <br /> học cơ sở, trung học phổ thông mà có thể nói là hầu như phần đa người Việt gần <br /> như phải chấp nhận “chung sống” vời tiếng Việt viết sai. Trong thực tế khi lỡ viết  <br /> sai một câu tiếng Anh, tiếng Pháp, nhiều người cảm thấy bứt rứt, mang nặng mặc  <br /> cảm đốt nát. Trong khi viết sai tiếng Việt, thậm chí sai một cách trầm trọng thì họ <br /> lại xem đó là chuyện bình thường và còn ngụy biện cho những cái sai của mình là <br /> phong cách hay là sự sáng tạo. Điều đó dẫn đến thói quen coi thường văn bản, xem  <br /> nội dung đại khái quan trọng hơn ngôn ngữ. Việc viết sai tiếng Việt còn do  ảnh  <br /> hưởng của những thói quen, tập quán của từng vùng miền. Vì thế  mà ngay trên <br /> chính quê hương của người Việt thì việc viết sai lỗi chính tả  là điều không thể <br /> tránh khỏi.<br /> Từ thực trạng trên, đồng thời cũng xuất phát từ tình hình thực tế của Trường <br /> Trung học cơ sở Lê Đình Chinh nằm ngay  ở trung tâm Xã Quảng Điền, đa số  học <br /> sinh là con em nông thôn nên việc sử dụng tiếng phổ thông trong quá trình học tập <br /> 10<br /> còn hạn chế, bởi từ nhỏ các em vốn sử dụng tiếng địa phương có gốc Quảng Nam  <br /> thành thục nên khi nói thế  nào các em viết thế   ấy là điều không thể  tránh khỏi. <br /> Chính vì thế bản thân tôi đã xác định việc giáo dục ý thức viết đúng chính tả là một <br /> trong những nhiệm vụ quan trọng được tiến hành có kế hoạch, chiến lược cụ thể <br /> để phát triển toàn diện học sinh về mọi mặt. Trước thềm nông thôn mới và đồng <br /> thời để  xây dựng Trường THCS Lê Đình Chinh đạt chuẩn quốc gia thì việc giáo <br /> dục học sinh khắc phục lỗi chính tả cũng là việc làm hết sức cần thiết, có thể lồng  <br /> ghép vào các tiết bộ  môn sẽ  tạo điều kiện để  học sinh sửa chữa và rèn luyện về <br /> chữ viết tốt hơn.<br />  Đồng hành với những suy nghĩ ấy rõ ràng chúng ta sẽ nhận thấy giải quyết  <br /> vấn đề này như thế nào để mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất là điều mà những <br /> người làm công tác giáo dục phải quan tâm. Tôi cho rằng sự  thành công của công <br /> tác này không thể  thiếu sự  kết hợp chặt chẽ từ ba lực lượng giáo dục Gia đình ­ <br /> Nhà trường ­ Xã hội.<br /> 3. Giải pháp, biện pháp: <br /> 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp<br /> Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng của trường tôi hiện nay, tôi <br /> nhận thấy rằng nếu chỉ dùng sách giáo khoa, thì chưa đáp ứng đầy đủ  với các yêu <br /> cầu nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng sai lỗi chính tả ở học sinh THCS  <br /> mà đặc biệt hơn là học sinh lớp 6. Vì vậy, để khắc phục lỗi chính tả mà học sinh  <br /> mắc phải, tôi đã nghiên cứu và vận dụng một vài biện pháp để  giúp các em nắm  <br /> được các quy tắc chính tả, các mẹo luật chính tả phù hợp với trình độ tiếp thu của <br /> các em, hình thành kĩ năng, kĩ xảo chính tả, bỏ thói quen phát âm sai dẫn đến việc <br /> viết sai. Mặc dù đề  tài này không có gì mới mẻ  nhưng tôi mong rằng nó sẽ  góp <br /> phần làm thay đổi kĩ năng của các em khi viết cũng như khi phát âm.<br /> <br /> 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp<br /> <br /> 11<br /> Như  vậy, việc khắc phục, uốn nắn chữ  viết cho học sinh thật là khó khăn <br /> mà còn khó khăn hơn đối với cấp THCS vì trong chương trình không có những tiết  <br /> luyện viết, lại mỗi môn một thầy dạy cho nên không có thời gian để sửa và luyện <br /> chữ cho học sinh và không quan sát thường xuyên liên tục chữ viết cho các em. Cho <br /> nên việc luyện chữ  viết cho học sinh thật là khó khăn cho những thầy cô giáo <br /> chúng ta. Vì thế người giáo viên cần phải nhiệt tình, tận tâm, tận lực sửa chữa chữ <br /> viết cho học sinh trong từng tiết học và kiểm tra đánh giá thường xuyên. Để  thực <br /> hiện được ý định “khắc phục lỗi chính tả  cho học sinh THCS” của mình tôi đã <br /> vạch ra một số  biện pháp nhằm giúp các em thay đổi thói quen viết sai lỗi, đồng <br /> thời giúp các em hình thành kĩ năng rèn chữ  khi viết cụ  thể ngay từ đầu năm học <br /> khi bắt đầu nhận lớp. Cụ thể theo từng bước như sau:<br /> <br /> * Thống kê lỗi:<br /> <br /> Qua kết quả  thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc phải các  <br /> loại lỗi sau:<br /> <br /> ­ Về thanh điệu:<br /> <br /> Tiếng Việt có 6 thanh điệu (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì học sinh <br /> không phân biệt 2 thanh hỏi, ngã. Tuy chỉ có 2 thanh nhưng số lượng tiếng mang 2 <br /> thanh này không ít và rất phổ biến ­ kể cả những người có trình độ văn hoá cao.<br /> <br /> Ví dụ:  Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành…<br /> <br /> ­ Về âm đầu: <br /> <br /> Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:<br /> <br /> + c/k: Céo cờ…<br /> <br /> + g/gh: Con gẹ , gê sợ…<br /> <br /> + ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc…<br /> <br /> 12<br /> + ch/tr: Cây che, chiến chanh…<br /> <br /> + s/x:  Cây xả , xa mạc…<br /> <br /> + v/d/gi: Giao động, giải lụa , giòng giống , dui dẻ…<br /> <br /> Trong các lỗi này, lỗi về ch/tr, s/x, v/d/gi là phổ biến hơn cả<br /> <br /> ­ Về âm chính:<br /> <br /> Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau đây:<br /> <br /> + ai/ay/ây: Bàn tai, đi cầy, dậy học…<br /> <br /> + ao/au/âu: Hôm sao, mầu đỏ…<br /> <br /> + iu/êu/iêu: chìu chuộng, cây niu…<br /> <br /> + oi/ôi/ơi: nôi gương, xoi nếp…<br /> <br /> + ăm/âm: con tầm, sưu tằm, bụi bậm…<br /> <br /> + im/iêm/êm/em: tim thuốc, lúa chim, cái kềm…<br /> <br /> + ăp/âp: gập gỡ, trùng lấp…<br /> <br /> + ip/iêp/êp/ep: số kíp, liên típ, thệp cưới…<br /> <br /> + ui/uôi: chín mùi, đầu đui, tủi tác…<br /> <br /> + um/uôm: nhụm áo, ao chum…<br /> <br /> + ưi /ươi: trái bửi…<br /> <br /> + ưu/ ươu: ốc bưu, con khứu<br /> <br /> ­ Về âm cuối: <br /> <br />  Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:<br /> <br /> + an/ang: cây bàn, bàng bạc…<br /> 13<br /> + at/ac: lang bạc, lừa gạc, rẻ mạc…<br /> <br /> + ăn/ăng: lẳn lặn, căn tin…<br /> <br /> + ăt/ăc: giặc giũ, co thắc, mặt quần áo…<br /> <br /> + ân/âng: hụt hẫn, nhà tần…<br /> <br /> + ât/âc: nổi bậc, nhất lên…<br /> <br /> + ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển…<br /> <br /> + êt/êch: trắng bệt…<br /> <br /> + iêt/iêc: mải miếc, tiêu diệc…<br /> <br /> + ut/uc: chim cúc, bão lục…<br /> <br /> + uôn/uông: khuôn nhạc, buồn tắm…<br /> <br /> + uôt/uôc: rét buốc, chải chuốc…<br /> <br /> + ươn/ương: lươn bổng, sung sướn<br /> <br /> * Kiểm tra, phân loại: <br /> Vấn đề  chữ  viết xấu, sai lỗi chính tả  không chỉ  là mối lo chung của mọi  <br /> người làm nghề  dạy học. Việc dùng vở  luyện viết cho học sinh lớp 6 là rất cần  <br /> thiết. Tôi đã dựa vào vở  luyện viết này mà uốn nắn, sửa chữa và luyện viết cho <br /> các em. Đồng thời tìm ra những biện pháp phù hợp đối với học sinh lớp tôi. Năm  <br /> học 2015­2016 tôi được phân công dạy lớp 6A1, 6A2 với tổng số  học sinh là 70 <br /> em. Vào đầu năm học, tôi đã tiến hành phân loại chữ viết cho học sinh và chia làm  <br /> ba nhóm chính: <br /> Nhóm 1: Gồm những học sinh viết chữ đẹp, rõ ràng, không sai lỗi chính tả <br /> hoặc có một hai lỗi không đáng kể (có 20 em chiếm 28,5 %). <br /> <br /> <br /> <br /> 14<br /> Nhóm 2: Những em viết xấu, thiếu nét hoặc sai lỗi chính tả (có 35 em chiếm <br /> 50%). Hầu hết trong nhóm này các em đều mắc phải một số  lỗi cơ  bản như chữ <br /> viết cẩu thả, tuỳ  tiện, sai quy tắc chính tả  và không hiểu nghĩa dẫn đến lẫn lộn  <br /> phụ âm. <br /> Nhóm 3: Còn lại những em viết chữ quá xấu, cẩu thả, sai và lẫn lộn các phụ <br /> âm, không rõ chữ dẫn đến tình trạng không đọc được hoặc đọc sai nghĩa của từ (có <br /> 15 em chiếm 21,5%).<br /> Qua thống kê lỗi và phân loại học sinh để có biện pháp phù hợp với từng đối <br /> tượng. Đồng thời nhận xét chung về chữ viết của từng em và ghi vào sổ  ghi chép  <br /> của giáo viên. Qua đó, giáo viên có cách uốn nắn một cách cụ  thể  và phù hợp với <br /> từng đối tượng. Dựa vào vở  luyện viết, tôi hướng dẫn học sinh cách luyện viết <br /> theo từng tuần và yêu cầu học sinh mua thêm một vở  ô­li để  luyện văn và luyện <br /> viết nhằm giúp các em vừa ôn luyện lại kiến thức đã học, vừa luyện chữ viết. Các  <br /> vở này tôi kiểm tra một tháng một lần gồm hai bài (trong vở ô­li tôi đã ra đề về nhà <br /> cho các em làm). Đối với học sinh ở nhóm 1 không chỉ dừng lại ở mức độ rèn chữ <br /> viết mà còn chú ý đến nội dung, chất lượng của bài viết. Đối với số  học sinh  ở <br /> nhóm 2 tôi cho thêm một tháng một bài luyện viết và tập trung các em học một <br /> buổi trong một tháng để  uốn nắn, sửa chữa chữ  viết tỉ  mỉ  hơn đối với nhóm 1.  <br /> Riêng nhóm 3 mỗi tuần tôi cho thêm một bài viết chính tả  về  nhà để  học sinh rèn <br /> luyện thêm để  sửa chữa tỉ  mĩ hơn với nhóm 1 và 2. Đồng thời tôi đề  nghị  phụ <br /> huynh học sinh cần theo dõi hàng ngày về việc học tập của các em ở nhà để có các  <br /> biện pháp kịp thời uốn nắn các em.<br /> * Các biện pháp thực hiện cụ thể:<br /> ­ Giới thiệu kiểu chữ: <br /> Trong tuần thứ nhất của tháng đầu tiên, tôi giảng giải cho các em nắm được <br /> kiểu chữ, dáng chữ  cách viết thường cách viết hoa và viết in. Mặc dù các em đã <br /> được học nhiều nhưng khi nghe vấn đề  này cứ như là lạ lắm. Bởi vì các em quen <br /> 15<br /> tính cẩu thả  và ít để  tâm vào việc luyện chữ  viết sao cho đẹp. Đầu tiên tôi giới  <br /> thiệu cho các em về  cách viết hoa, viết thường theo hai kiểu là kiểu chữ  đứng và  <br /> kiểu chữ nghiêng. Sau đó hướng dẫn học sinh chọn cho mình một kiểu chữ sao cho  <br /> thuận tay và hợp ý thích của mình. Khi đã chọn kiểu chữ nào thì viết theo kiểu chữ <br /> đó không được tuỳ tiện thay đổi kiểu chữ, vì như vậy sẽ làm xấu chữ viết. <br /> ­ Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật chính tả:<br /> <br /> Mẹo luật chính tả  là các hiện tượng chính tả  mang tính quy luật chi phối  <br /> hàng loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu <br /> hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các  <br /> âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. Ngoài ra, giáo viên có <br /> thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như:<br /> <br />  Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật <br /> đều bắt đầu bằng  ch, ví dụ:  chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum,  <br /> chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn,  <br /> châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi…<br /> <br />  Để  phân biệt âm đầu s/x: Đa số  các từ  chỉ  tên cây và tên con vật đều bắt <br /> đầu bằng s: Sả, si, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt,  <br /> sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc,  <br /> sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô…<br /> <br />  Để  phân biệt dấu thanh hỏi/ngã: Các từ  gộp âm chỉ mang thanh hỏi không <br /> mang thanh ngã:<br /> <br /> ­ Trong + ấy = trỏng.<br /> <br /> ­ Trên + ấy = trển<br /> <br /> ­ Cô + ấy = cổ<br /> <br /> 16<br /> ­ Chị + ấy = chỉ<br /> <br /> ­ Anh + ấy = ảnh<br /> <br /> ­ Ông + ấy = ổng<br /> <br /> ­ Hôm + ấy = hổm<br /> <br /> ­ Bên + ấy = bển<br /> <br /> Luật bổng ­ trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu <br /> tố   ở  cùng một hệ  bổng  (ngang/sắc/hỏi)  hoặc  trầm (huyền/ngã/nặng). Để  nhớ <br /> được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc 2 câu thơ:<br /> <br /> “Em Huyền mang nặng, ngã đau<br /> <br /> Anh Ngang sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào”<br /> <br /> Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh  huyền,  <br /> nặng, ngã thì yếu tố  đứng sau sẽ  mang thanh ngã, nếu yếu tố  đứng trước mang <br /> thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).<br /> <br /> Ví dụ:  Bổng<br /> <br /> Ngang + hỏi: Nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ…<br /> <br /> Sắc + hỏi: Nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ…<br /> <br /> Hỏi + hỏi: Lỏng lẻo, thỏ thẻ, hổn hển, thủ thỉ, rủ rỉ…<br /> <br /> Trầm:<br /> <br /> Huyền + ngã: Sẵn sàng, lững lờ, vồn vã<br /> <br /> Nặng + ngã: Nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,…<br /> <br /> Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…<br /> <br /> 17<br /> + Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn: <br /> <br /> Một   số   từ   có   vần  ênh  chỉ   trạng   thái   bấp   bênh,   không   vững   chắc:  Gập  <br /> ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh  <br /> choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh…<br /> <br /> Hầu hết các từ  tượng thanh có tận cùng là  ng  hoặc  nh: oang oang, đùng  <br /> đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác,  <br /> ăng ẳng, ằng ặc, oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng pằng, eng éc, beng beng,  <br /> chập cheng, leng keng, reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng ùng,  <br /> đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, thình thình, rập rình, xập xình,  <br /> huỳnh huỵch…<br /> <br /> Vần  uyu  chỉ  xuất hiện trong các từ:  khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu,  <br /> khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân.<br /> <br /> ­ Cách rèn luyện chữ viết cho học sinh: <br /> + Đối với học sinh: <br /> Trong buổi học đầu tiên, tôi lấy một đoạn văn mẫu và cho học sinh chép lại  <br /> đoạn văn đó trong thời gian 15 phút. Sau đó cho các em đổi chéo bài cho nhau để <br /> cùng phát hiện lỗi của bạn, liệt kê những lỗi mà bạn mắc phải. Trong buổi học  <br /> này học sinh nhóm 2 và đặc biệt là nhóm 3 học rất vất vả  nhọc nhằn bởi lâu nay <br /> các em viết theo kiểu tuỳ hứng và không chú tâm vào việc luyện chữ. Đồng thời  <br /> trong buổi học đầu tiên này tôi kể cho các em nghe một số mẩu chuyện về tác hại <br /> của chữ viết xấu, sai lỗi chính tả  dẫn đến người đọc hiểu sai ý hoặc chất lượng <br /> bài kiểm tra kém… để các em thấy rõ tầm quan trọng của chữ viết. Từ đó các em  <br /> có ý thức uốn nắn, sửa chữa và rèn luyện chữ viết của chính mình. Qua đó cho học <br /> sinh thấy “nét chữ là nết người” để  các em phải cẩn thận tránh cẩu thả  trong khi  <br /> viết chữ. Vấn đề rèn kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh trung học cơ sở chủ <br /> <br /> 18<br /> yếu là luyện  ở  nhà dưới sự  hướng dẫn của thầy. Vì thế  ngay trong kỳ  họp phụ <br /> huynh đầu tiên của lớp, tôi trao đổi về  tình hình chữ  viết của học sinh cùng với ý <br /> định luyện chữ của tôi và đề xuất với họ một ngày dành chút ít thời gian quan tâm <br /> nhắc nhở  các cháu học tập và luyện chữ, và việc luyện chữ  phải luyện vào một <br /> thời gian nhất định có thời gian biểu rõ ràng cho các cháu. Việc làm này được tất  <br /> cả  các phụ  huynh đồng tình  ủng hộ. Trong buổi học thứ nhất, sau khi hướng dẫn  <br /> và luyện viết một phần ở lớp, tôi giao bài cho các em viết vào vở luyện viết và vở <br /> luyện văn ở nhà để hôm sau thu chấm. <br /> Sang tuần thứ hai tôi đọc chậm một đoạn văn cho học sinh chép vào vở. Sau <br /> đó cho các em đổi bài cho nhau để  chấm và kiểm tra lỗi chính tả  của bạn. Riêng <br /> với các bạn nhóm 1 tôi ra một đề bài yêu cầu các em viết đoạn mở bài của bài văn <br /> và cách làm cũng như với nhóm 2 và nhóm 3 nhưng ở mức độ cao hơn là chấm cả <br /> nội dung đoạn văn. Cứ  một tuần, các em chép một bài trong vở  luyện viết mà tôi  <br /> đề  ra và cứ  hai tuần cho các em làm một bài văn từ  dễ  đến khó. Đầu tiên là cho  <br /> viết một đoạn văn và tiếp đến là một bài văn. Sau đó, tôi thu vở  chấm một tháng <br /> hai lần. Riêng nhóm 3 tôi chấm hằng tuần. Bằng sự nhắc nhở và giám sát của gia  <br /> đình cùng với sự kiểm tra chặt chẽ của giáo viên. Sau một tháng đầu khi chấm bài  <br /> và xem vở ghi bài của các em tôi thấy các em đã có tiến bộ về chữ viết – so với bài  <br /> kiểm tra chất lượng đầu năm. Cụ  thể là: Các em đã có ý thức rèn luyện chữ  viết, <br /> giảm được sự cẩu thả tuỳ tiện trong khi viết. Chữ viết đẹp hơn, ít lỗi hơn. Trong  <br /> đó, số học sinh ở nhóm hai tôi đã chọn được năm em vào nhóm một. Số còn lại tuy  <br /> viết đã có phần khá hơn song lỗi vẫn còn nhiều. Riêng nhóm 3 tiến triển rất chậm. <br /> Các tuần tiếp theo tôi tiếp tục yêu cầu học sinh viết thành nếp và cứ  thế <br /> theo thói quen và quy định của tôi các em tiến hành viết theo tuần. Đối với học sinh  <br /> thuộc đối tượng ở nhóm hai, tôi vẫn yêu cầu các em học thêm một tháng một buổi, <br /> nhóm 3 mỗi tuần thêm một buổi để  có điều kiện uốn nắn và sửa lỗi cho các em. <br /> Ngoài ra, đối với tất cả  các học sinh trong lớp, thỉnh thoảng tôi cho thêm một bài <br /> 19<br /> để  củng cố  kiến thức và ôn luyện về  chữ  viết. Muốn chữ  viết của các em ngày  <br /> càng tiến bộ  thì điều chủ  yếu là người giáo viên phải thu bài và chấm chữa kịp  <br /> thời, khen, chê đúng lúc. Có như vậy mới khuyến khích được hứng thú luyện viết  <br /> cho các em. Việc chấm chữa bài cho các em là một công việc rất vất vả vì đòi hỏi <br /> phải tốn nhiều thời gian và công sức. Nhưng tôi nghĩ muốn khắc phục, uốn nắn  <br /> tình trạng chữ viết xấu, sai lỗi chính tả cho các em thì người giáo viên cần phân bố <br /> thời gian hợp lý và tận tuỵ. Chính vì vậy mà tôi đã cố  gắng thực hiện việc chấm <br /> chữa bài cho các em trong vở và yêu cầu cho các em luyện viết và làm bài, sửa lỗi <br /> nghiêm túc, dựa vào lời phê của thầy cô. Vì thế, trong suốt học kỳ I, chữ viết của  <br /> các em đã tiến bộ  rõ rệt. Số  học sinh nhóm một đã tăng lên. Điều đó làm tôi rất  <br /> mừng bởi những công sức mà cô và trò đã bỏ công luyện tập. <br /> Bước sang học kỳ II, tôi gắn luôn chữ viết vào đánh giá bài làm ở lớp. Trong <br /> các bài làm của học sinh nhất là bài làm Tập làm văn, tôi đề  ra hai điều: “phải” và  <br /> “cấm” như sau: <br />  Phải: <br /> (1) Viết cẩn thận, rõ ràng từng nét. <br /> (2) Phải viết hoa đầu đoạn văn, đầu câu và những danh từ riêng. <br /> (3) Phải chú ý phân biệt nghĩa của các từ để viết cho đúng. <br />  Cấm: <br /> (1) Viết hoa tuỳ tiện. <br /> (2) Viết thiếu nét nguệch ngoạc. <br /> Các bài làm của các em, nếu em nào viết xấu và sai lỗi nhiều, lỗi về  chữ <br /> viết tôi đều không chấm và phê cụ  thể  yêu cầu viết lại hai lần mới chấm. Còn  <br /> những bài lỗi mà tôi gạch chân và bắt viết lại mỗi lỗi năm dòng cho đúng. Tôi  <br /> kiểm tra chặt chẽ việc sửa lỗi. Nếu em nào không chữa sẽ  có hình thức phạt phù  <br /> hợp. Chính vì vậy mà các bài làm sau của các em, tôi thấy các em có ý thức tu  <br /> <br /> <br /> 20<br /> luyện chữ, thể hiện  ở  chỗ  chữ  ít lỗi và rõ ràng hơn. Vì phần lớn các em đều rất <br /> ngại viết đi viết lại nhiều lần. Cùng với việc chấm chữa bài và các hình thức phạt <br /> phù hợp đối với những học sinh trong những tiết bài trên lớp hay những bài các em <br /> làm trên bảng, khi chữa bài bên cạnh chữa về mặt nội dung yêu cầu thì không thể <br /> thiếu được việc chữa lỗi về  chữ  viết cho các em bằng các câu hỏi và cho các em  <br /> nhận xét. Chữ  viết của bạn đã đẹp và cẩn thận chưa? Bài làm có mắc lỗi nào  <br /> không? Muốn sửa những lỗi đó, ta phải sửa bằng cách nào? Từ  đó học sinh nhận <br /> thấy lỗi của các bạn và tự sửa lỗi cho chính mình. <br /> + Đối với giáo viên: <br /> Khi dạy học cho các em, người giáo viên khi đọc (nói) phải phù hợp nghĩa là: <br /> Phát âm chuẩn tiếng phổ  thông vì nếu không phát âm chuẩn tiếng phổ  thông sẽ <br /> dẫn đến viết sai. Trường hợp này đã xảy ra. Vì thế  phải dạy cho học sinh nói và <br /> phát âm chuẩn mới được viết. Cho nên trong các giờ dạy ở lớp, tôi luôn chú ý vào <br /> việc đọc và phát âm của các em, nếu em nào đọc sai tôi sẽ uốn nắn luôn. <br /> Cùng với việc làm đó, tôi tìm hiểu về những lỗi mà do tiếng địa phương các  <br /> em hay mắc phải để chú ý sửa cho các em ví dụ ở phần in/iên; mông/ mong; chông  <br /> đợi/ trông đợi; sâu đó/ sau đó; lông lanh/ long lanh…và chú trọng sửa những lỗi này  <br /> để  khi các em viết bài các em chú ý và có thể  sửa được những lỗi mà mình mắc  <br /> phải. Để  rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận trong khi viết chữ người giáo viên  <br /> khi viết lên bảng hay trong lời phê phải làm gương để cho học sinh học tập. Trong  <br /> các bài luyện tập tôi hướng dẫn học sinh kiểm tra chéo bài của nhau, ghi vào phiếu <br /> kiểm tra những lỗi của bạn và nhận xét bài viết của bạn, mục đích là các em nhận  <br /> biết được lỗi của bạn cũng chính là lỗi của mình, để  tự  sửa chữa. Cuối cùng tôi <br /> thu bài viết và cả phiếu về nhà kiểm tra, chấm lại. Cứ mỗi lỗi sai lại yêu cầu viết <br /> lại như lần trước. Khi phát hiện ra những lỗi điển hình, tôi yêu cầu sửa dần bằng <br /> cách: Trong một thời gian nhất định phải sửa dần từng lỗi một. Đối với nhóm 2 và <br /> đặc biệt là nhóm 3 yêu cầu sửa chữ  thiếu nét mới yêu cầu sang lỗi khác… Việc  <br /> 21<br /> này kết hợp chữa lỗi những tiết ngoài giờ, tiết tự chọn và cả  trong giờ  học chính  <br /> khoá trên lớp. Cùng với những biện pháp trên, khi luyện viết chữ cho các em vừa  <br /> kết hợp luyện chữ, vừa tìm những nguyên nhân mắc lỗi của các em để có cách sửa <br /> chữa cho phù hợp với từng đối tượng, từng lỗi và học sinh. <br /> 3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp<br /> Rèn cho học sinh viết đúng chính tả là một việc làm khó khăn và lâu dài. Nó <br /> quyết định chất lượng học tập và tỉ  lệ  học sinh lên lớp cao hay thấp; nó không <br /> những giúp các em học tốt mà còn góp phần “giữ  gìn sự  trong sáng của Tiếng  <br /> Việt”. Mặt khác, học sinh viết đúng chính tả  thì chắc chắn chữ  viết cũng sẽ  đẹp <br /> hơn; khi chấm bài, giáo viên sẽ có tâm lí thoải mái phấn chấn hơn. Nhưng nếu chỉ <br /> dùng các phương pháp, biện pháp, hình thức dạy học thông thường; nếu chỉ  cho  <br /> học sinh làm các bài tập có sẵn trong SGK thì không thể khắc phục được lỗi chính  <br /> tả  ; đặc biệt là lỗi chính tả  do  ảnh hưởng của cách phát âm địa phương. Tôi tin <br /> rằng mỗi thầy cô giáo sẽ có những cách làm khác nhau, sẽ có những kinh nghiệm  <br /> rèn chính tả  hiệu quả. Nhưng theo tôi, muốn rèn cho học sinh kĩ năng viết đúng <br /> chính tả thì cần phải:<br />   Giáo viên phải nắm được các quy tắc chính tả, phát âm chuẩn tiếng phổ <br /> thông, tìm hiểu rõ nguyên nhân sai lỗi chính tả  của học sinh. Vì thế  đòi hỏi giáo <br /> viên phải nghiên cứu và hiểu đặc điểm tâm sinh lý của học sinh để từ đó có những <br /> biện pháp thích hợp nhất giúp các em hạn chế tối đa lỗi chính tả.<br /> Tích cực tìm tòi, sáng tạo áp dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy để <br /> áp dụng nội dung chuyên đề một cách phù hợp với khả  năng của học sinh và tình  <br /> hình thực tế ở trường, lớp.<br /> Tận tình dạy bảo,  ân cần hướng dẫn và giúp đỡ  những học sinh yếu;  <br /> thường xuyên kiểm tra vở , nhắc nhở các em cách trình bày, cách sửa lỗi trong vở ;  <br /> động viên, tuyên dương và khen thưởng những học sinh có nhiều tiến bộ.<br /> <br /> <br /> 22<br /> Luôn phối  kết  hợp  chặt chẽ  cùng phụ  huynh học  sinh gia  đình và nhà <br /> trường về việc rèn chữ cho học sinh.<br /> Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, bài giảng điện tử, sưu tầm thêm tài <br /> liệu để sử dụng trên tiết học và các hoạt động.<br /> Lập kế hoạch tham mưu với ban giám hiệu tổ chuyên môn dự giờ đóng góp <br /> xây dựng ý kiến.<br /> 3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp<br /> Để  đạt được hiệu quả  cao trong việc khắc phục lỗi chính tả  cho học sinh  <br /> đặc biệt là học sinh lớp 6, tôi luôn kết hợp hài hòa giữa các biện pháp và giải pháp  <br /> trên. Dựa trên kết quả khảo sát tình hình thực tế của lớp từ đó tôi đã kết hợp lồng  <br /> ghép việc sữa lỗi chính tả  vào trong các tiết dạy. Không chỉ  dừng lại  ở  đó mà tôi <br /> cũng không ngừng kết hợp với phụ huynh và lồng ghép vào những hoạt động ngoài <br /> giờ học. Chính điều đó mà kết quả đạt được trong quá trình áp dụng các biện pháp <br /> trên rất cao. Tôi thấy học sinh hứng thú hơn nhiều so với các tiết học trước, có ý  <br /> thức về lỗi chính tả hơn khi viết cũng như khi nói.<br /> Bên cạnh đó, công tác này sẽ đạt được hiệu quả cao hơn khi có sự tham mưu <br /> của Ban Giám hiệu nhà trường, sự  phối hợp của các giáo viên trong tổ  khối về  ý <br /> nghĩa của việc khắc phục lỗi chính tả cho học sinh.<br /> 3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu <br /> Cứ  bằng các biện pháp như  thế, khi thì cách này, khi thì cách khác, tôi liên <br /> tục luyện chữ cho các em trong một học kì nên chữ viết của các em đã tiến bộ rất <br /> nhiều. Cụ  thể  như  sau: Cuối học kì I năm học 2015 ­ 2016, các em đã được các  <br /> giáo viên dạy hai lớp này khen ngợi chữ viết của học sinh tương đối đẹp, dễ đọc,  <br /> rõ ràng và ít lỗi chính tả, trình bày sạch, đẹp. Có được kết quả  như  vậy phải kể <br /> đến sự  kiên trì, quyết tâm luyện tập của học sinh dưới sự  kiểm tra chặt chẽ, chỉ <br /> bảo ân cần, nhẹ  nhàng của giáo viên và sự  giám sát kiên quyết của các bậc phụ <br /> huynh. <br /> 23<br /> Học kì I kết thúc, với ý định viết sáng kiến này tôi đã tiến hành khảo sát chất  <br /> lượng về  chữ  viết của các em cụ  thể  như  sau: Nhóm 1: có 10 em chữ  viết đảm  <br /> bảo. Nhóm 2: có 22 em trong số những em viết vẫn còn sai lỗi chính tả. Những chữ <br /> còn chưa đúng phụ  âm, nguyên âm là 9 em, những em này chữ  viết đã có tiến bộ <br /> hơn so với đầu năm nhập học nhưng vẫn còn sai lỗi chính tả do tiếng địa phương <br /> và việc phân biệt nghĩa của các từ chưa chính xác. Chỉ trong một học kì luyện viết,  <br /> tỷ  lệ  28,5% đạt yêu cầu về  chữ  viết đến nay đã tăng lên 39,5%. Tỉ  lệ  học sinh  <br /> chưa đạt yêu cầu từ 71,5% xuống còn 53,3%, giảm 18,2%. <br /> Thật là vui mừng khi chữ viết của các em đã tiến triển như vậy. Nếu cứ tiếp <br /> tục luyện chữ  viết cho các em, tôi tin rằng lên lớp 9 chữ  viết của các em sẽ  đạt <br /> được như mong muốn. Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã đề ra và áp dụng với  <br /> học sinh của lớp tôi chưa có gì là mới mẻ nhưng nhờ sự kiên trì, nhiệt tình của cả <br /> cô và trò mà kết quả chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt.<br /> 4. Kết quả  thu được qua khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn đề  nghiên  <br /> cứu<br /> Với việc thực hiện những phương pháp trên, bước đầu đã có những chuyển <br /> biến đáng kể  trong việc viết chính tả  của học sinh. Trong các bài kiểm tra và <br /> những lần kiểm tra bài vở của học sinh tôi nhận thấy những bài viết sau ít mắc lỗi  <br /> chính tả hơn so với những bài viết trước. Đó là một kết quả đáng mừng cần phải <br /> phát huy. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận học sinh do thiếu ý thức trong việc học  <br /> tập nên vẫn còn tình trạng viết sai chính tả. Nhưng dù sao, tôi hi vọng rằng với  <br /> sáng kiến này có thể  góp một phần nào đó khắc phục tình trạng viết sai chính tả <br /> trong học sinh và góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn <br /> tại đơn vị tôi đang công tác, cũng như góp một phần nào đó cho sự nghiệp giáo dục <br /> của nước nhà.<br /> III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ <br /> <br /> <br /> 24<br /> 1. Kết luận: <br /> Trong sự  nghiệp giáo dục, dù ai đã và đang công tác cũng chung nhau một  <br /> lòng mong mõi là làm sao, làm thế nào cho học sinh của mình viết đẹp và viết đúng <br /> chính tả, góp phần làm rạng danh tiếng Việt, sử dụng đúng chính tả  có tầm quan <br /> trọng cho cả quốc gia và là một yêu cầu tất yếu của xã hội hiện tại.<br /> <br />  Qua đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính  <br /> tả cho học sinh lớp 6”  tôi đã tìm hiểu được các cơ sở lý luận, xác định được chất  <br /> lượng chính tả của học sinh Trường THCS Lê Đình Chinh, từ đó đề ra những biện  <br /> pháp cần thiết. Đây là nhiệm vụ  của mỗi người giáo viên nói chung và của giáo  <br /> viên Trường THCS Lê Đình Chinh nói riêng. Nhiệm vụ  này không chỉ  tiến hành  <br /> trong một thời gian ngắn mà cho ta kết quả tốt ngay được, nó phải được tiến hành <br /> trong một thời gian dài với sự đồng bộ của các khối lớp. Tuy nhiên nhiệm vụ này <br /> có hoàn thành triệt để hay không chúng tôi cũng cần có sự giúp đỡ của các cấp, các  <br /> ngành có liên quan.<br /> <br /> Với những dòng viết trên đây là những kinh nghiệm nhỏ không phải chưa có  <br /> ai nói, chưa có sách viết. Song tôi muốn qua những kinh nghiệm nhỏ này một lần <br /> nữa giúp giáo viên – những người đang trực tiếp giảng dạy hiểu rõ được vai trò  <br /> chính tả tiếng Việt trong việc giảng dạy môn Ngữ văn cũng như các môn học khác  <br /> nhằm giúp học sinh học tốt hơn. Góp phần vào việc nâng cao hiệu quả dạy – học  <br /> môn Ngữ Văn. Không có kinh nghiệm nào là chung cho tất cả mọi người. Không có  <br /> con đường nào để đi đến thành công mà không lắm chông gai. Với những suy nghĩ <br /> trong đề tài này cũng như việc tôi áp dụng đề tài này vào việc dạy học cụ thể và có <br /> những kết quả đáng mừng, tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp để  nhằm học hỏi <br /> và nâng cao trình độ  chuyên môn của mình. Vì vậy tôi kính mong quý vị  vui lòng <br /> đóng góp ý kiến để kinh nghiệm được hoàn thiện hơn.<br /> <br /> 2. Kiến nghị: <br /> <br /> 25<br />    * Đối với giáo viên :    <br /> <br /> Để  thực  hiện  được  công việc này thì  giáo viê
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2