intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc - hiểu văn bản cho học sinh THCS

Chia sẻ: Lê Thị Trà Giang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:28

571
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu đề tài nhằm giúp giáo viên hiểu rõ hơn về bản chất của hoạt động đọc- hiểu theo quan niệm đổi mới trong việc day - học môn Ngữ Văn. Từ đó có hướng đổi mới trong giảng dạy. Đưa ra một số thao tác cơ bản để có thể giúp giáo viên, học sinh thực hiện việc đọc- hiểu văn bản một cách khoa học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc - hiểu văn bản cho học sinh THCS

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KRÔNG ANA<br /> TRƯỜNG PTDTNT KRÔNG ANA<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG <br /> ĐỌC­ HIỂU VĂN BẢN CHO HỌC SINH <br /> THCS<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> HOÀNG MINH SƠN<br /> <br /> <br /> <br /> Họ và tên:  HOÀNG MINH SƠN   <br /> Chức vụ:   Giáo viên<br /> Đơn vị:      TRƯỜNG PTDTNT KRÔNG ANA<br /> Trình độ đào tạo: CĐSP<br /> Chuyên môn: Ngữ văn<br /> <br /> <br /> <br /> NĂM HỌC 2016­2017<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1<br />           <br /> <br /> <br /> MỤC LỤC<br /> MỤC LỤC.............................................................................................................................2<br /> <br /> PHẦN I: MỞ ĐẦU.................................................................................................................3<br /> <br /> 1. Lý do chọn đề tài:.........................................................................................................3<br /> <br /> 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:.....................................................................................4<br /> <br /> 3. Đối tượng nghiên cứu:.................................................................................................4<br /> <br /> 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: ....................................................................................4<br /> <br /> 5. Phương pháp nghiên cứu:...........................................................................................5<br /> <br /> PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI...............................................................................................5<br /> <br /> I. Cơ sở lý luận: ...............................................................................................................6<br /> <br /> 2. Đọc –hiểu văn bản và quan niệm đổi mới trong dạy và học văn:............................7<br /> <br /> II. Thực trạng vấn đề:.......................................................................................................9<br /> <br /> 1.Thuận lợi chung: .......................................................................................................9<br /> <br /> 2. Khó khăn: ...............................................................................................................10<br /> <br /> III. Một số biện pháp đã thực hiện để rèn kỹ năng đọc-hiểu văn bản cho học sinh:....11<br /> <br /> 3. Biện pháp 3 : Dựa vào tên gọi để xác định ý chính của nội dung văn bản .........14<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................26<br /> <br />                                                                                                      <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2<br /> MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC – HIỂU <br /> <br /> VĂN BẢN CHO HỌC SINH THCS<br /> <br /> <br /> <br /> PHẦN I: MỞ ĐẦU<br /> <br /> 1. Lý do chọn đề tài:<br /> 1.1. Đổi  mới  phương pháp dạy học là một nhiệm vụ  trọng tâm <br /> trong trường phổ  thông hiện nay. Môn Ngữ  Văn là môn học công cụ, có <br /> vai  trò   rất  quan  trọng  trong  việc  hình  thành  phẩm  chất,  năng  lực   của  <br /> người học nên càng phải tích cực đổi mới về mọi mặt.<br /> 1.2. Theo quan điểm đổi mới, việc dạy và học văn trước đây gọi là <br /> Giảng văn, nay được gọi là đọc­hiểu văn bản. Thuật ngữ   đọc­hiểu văn  <br /> bản được chính thức dùng trong sách giáo khoa từ đợt thay sách năm 2002.  <br /> Việc dùng thuật ngữ này cho thấy sự thay đổi về  bản chất của việc dạy  <br /> và học văn  ở  trường phổ  thông. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu một <br /> cách đầy đủ, thấu đáo về  thuật ngữ  này. Từ  đó dẫn đến việc thực hiện <br /> đọc­hiểu trong giờ học văn bản vẫn còn nhiều bất cập.<br /> 1.3. Bộ  môn Ngữ  Văn gồm 3 phân môn : Văn học, Tiếng Việt và <br /> Tập Làm Văn. Với phân môn Văn học, người học muốn hiểu văn bản,  <br /> muốn chiếm lĩnh tác phẩm thì việc đầu tiên là phải đọc. Vì thế, đọc là <br /> hoạt động cơ  bản, là điều kiện tiên quyết mà người học phải thực hiện  <br /> khi học văn bản. <br /> 1.4. Đọc phải có phương pháp thì mới hiểu được văn bản chứ  đọc  <br /> không đơn giản chỉ  là một hoạt động cơ  học thuần túy. Muốn hiểu thì <br /> phải đọc. Đọc rồi phải hiểu. Đọc mà không hiểu hoặc hiểu một cách hời  <br /> hợt thì coi như không đạt mục tiêu của việc học. <br /> <br /> 3<br /> 1.5. Trên thực tế, vẫn còn nhiều giáo viên do chưa hiểu rõ bản chất <br /> của hoạt động đọc­hiểu nên chưa chú trọng hướng dẫn học sinh những  <br /> thao tác tư duy cần thiết dẫn đến nhiều học sinh kỹ  năng đọc ­ hiểu còn <br /> yếu.<br /> Có thể nói hoạt động đọc­ hiểu là hoạt động cơ bản nhất của việc <br /> học văn. Nó có tính chất quyết định đối với chất lượng dạy và học. Tuy  <br /> nhiên, hiện nay việc dạy đọc ­ hiểu chưa đạt kết quả như mong muốn. Vì <br /> những lý do đó nên tôi chọn đề  tài Một số  biện pháp rèn kỹ  năng đọc ­  <br /> hiểu văn bản cho học sinh THCS để nghiên cứu. <br /> <br /> 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:<br /> ­ Giúp giáo viên hiểu rõ hơn về  bản chất của hoạt động đọc­ hiểu  <br /> theo   quan   niệm   đổi   mới   trong   việc   day­học   môn   Ngữ   Văn.   Từ   đó   có <br /> hướng đổi mới trong giảng dạy.<br /> ­ Đưa ra một số  thao tác cơ  bản để  có thể  giúp giáo viên, học sinh <br /> thực hiện việc đọc­ hiểu văn bản một cách khoa học<br /> ­ Giáo viên phát hiện những tồn tại, yếu kém, sai sót trong việc học <br /> văn bản của học sinh, hướng dẫn học sinh những kỹ  năng cơ  bản cần <br /> thiết khi đọc –hiểu văn bản, giúp học sinh có cách học khoa học hơn, hiểu  <br /> vấn đề rõ hơn, từng bước nâng cao chất lượng bộ môn.<br /> <br /> 3. Đối tượng nghiên cứu:<br /> ­ Hoạt động đọc­hiểu và những kỹ  năng cơ  bản để  rèn luyện cho <br /> học sinh THCS.<br /> <br /> 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:  <br /> 4.1. Phân môn Văn học của bộ  môn Ngữ  Văn cấp THCS đưa ra 6 <br /> kiểu văn bản để  giảng dạy : văn bản tự  sự, văn bản miêu tả, văn bản  <br /> biểu cảm, văn bản nghị luận, văn bản thuyết minh và văn bản hành chính­<br /> 4<br /> công vụ. Do đặc thù về  kiểu văn bản và thể  loại, đề  tài này chủ  yếu  <br /> nghiên cứu trong phạm vi văn xuôi với các kiểu văn bản tự  sự, miêu tả, <br /> nghị  luận và biểu cảm, là những kiểu văn bản chiếm phần lớn số  tiết  <br /> trong chương trình, không đề  cập đến các văn bản thơ  hay hành chính­<br /> công vụ…<br /> 4.2. Đề tài này được rút ra từ thực tế giảng dạy trong nhiều năm ở <br /> các khối lớp, trong giờ học văn bản. <br /> <br /> 5. Phương pháp nghiên cứu:<br /> ­  Tìm hiểu, phân tích những quan điểm về  vấn đề  đọc­ hiểu văn <br /> bản trong dạy và học ngữ văn trong trường phổ thông.<br /> ­ Tìm hiểu, phân tích cấu tạo chương trình, chuẩn kiến thức kỹ <br /> năng phân môn văn học (đọc­hiểu văn bản) Ngữ  văn THCS từ  lớp 6 đến <br /> lớp 9.<br /> ­ Trao đổi với các đồng nghiệp giảng dạy ở các trường THCS khác <br /> để thấy những thiếu sót có tính phổ biến trong việc đọc­hiểu văn bản của <br /> thầy và trò nói chung.<br /> ­ Nghiên cứu những tài liệu về  việc dạy và học văn nhằm tìm ra <br /> những vấn đề chưa được hoặc còn ít đề cập xung quanh việc dạy và học <br /> văn bản.<br /> ­  Phân tích, tổng hợp các biện pháp để  rèn kỹ  năng đọc­hiểu cho <br /> học sinh.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI<br /> MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC – HIỂU VĂN <br /> BẢN CHO HỌC SINH THCS<br /> <br /> 5<br /> I. Cơ sở lý luận: <br /> 1. Dạy và học văn theo phương pháp truyền thống:  Hoạt   động <br /> dạy học văn trong nhà trường phổ  thông đã trải qua những lần đổi tên từ <br /> giảng văn qua phân tích tác phẩm văn học đến dạy học tác phẩm văn  <br /> chương và hiện nay là đọc hiểu văn vản. Việc thay đổi tên gọi không đơn  <br /> thuần chỉ là sự  thay đổi về hình thức mà đằng sau mỗi tên gọi là cả  một  <br /> hệ thống quan niệm dạy học gắn liền với bản chất của nó. <br /> 1.1. Tên gọi giảng văn : Trong dạy và học theo phương pháp truyền <br /> thống, môn văn được gọi là giảng văn. Sách giáo khoa môn Văn được gọi <br /> là Trích giảng Văn học.    Tên gọi này  gắn liền với quan niệm dạy học <br /> truyền thống. Quan niệm dạy học cũ xem giáo viên là nhân tố  trung tâm,  <br /> hàng đầu của dạy học. Giáo viên giữ một vị trí độc tôn trong quá trình dạy  <br /> học. Tên gọi này cho thấy bản chất của hoạt động dạy học đó là truyền <br /> thụ tri thức, chứng minh chân lí của giáo viên thông qua việc giảng giải, cắt <br /> nghĩa tác phẩm văn chương của mình. Học sinh chỉ  việc ngồi nghe, ghi  <br /> chép lại những gì mà thầy giảng. “Các giờ giảng văn trên lớp giáo viên chủ <br /> yếu là thuyết trình, giảng giải cho học sinh nghe những điều thầy cô giáo <br /> hiểu và cảm nhận được về  tác phẩm  ấy, còn bản thân học sinh hiểu và <br /> cảm nhận như thế nào thì không cần chú ý” .<br /> 1.2. Tên gọi phân tích tác phẩm văn học: tên gọi này xuất khoảng <br /> những năm 1970, vẫn nằm trong quan niệm dạy học truyền thống. Bản  <br /> chất của nó cũng không khác mấy so với giảng văn. Hoạt động phân tích  <br /> chủ yếu cũng chỉ là một hình thức giảng văn của giáo viên mà thôi. Thuật <br /> ngữ  giảng văn hay phân tích tác phẩm văn học đều xem ý nghĩa của tác  <br /> phẩm là một cái gì cố  định, có sẵn. Nhiệm vụ  của giáo viên là chỉ  cần <br /> giảng giải, phân tích ra mà thôi. Vì vậy mà xét về  mặt bản chất thì hai  <br /> thuật ngữ  này không có gì khác biệt nhiều. Giáo viên là người chủ  động <br /> <br /> 6<br /> cung cấp kiến thức cho học sinh còn học sinh là đối tượng thụ động tiếp  <br /> thu kiến thức một chiều.<br /> 1.3. Thuật ngữ dạy học tác phẩm văn chương ­ Đầu những năm 80 <br /> ra đời thuật ngữ dạy học tác phẩm văn chương với những ý kiến đề  xuất <br /> thay thế cho thuật ngữ “Giảng văn” vì giảng văn là mô hình dạy học đã tỏ <br /> ra lỗi thời, quá lạc hậu so với thực tiễn. Thuật ngữ này phản ánh sự  cân <br /> bằng giữa hoạt động dạy và học, sự  tương tác giữa hoạt động của giáo <br /> viên và hoạt động của học sinh. Giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy,  <br /> học sinh là chủ  thể  của hoạt động học.   Nhưng điểm bất cập của việc <br /> dạy học tác phẩm văn chương là chưa xác định được nhân tố  trung tâm <br /> của hoạt động dạy học, nhất là phương hướng dạy học hướng vào học  <br /> sinh, lấy học sinh làm trung tâm. Thêm vào đó, như  tên gọi của nó, thuật <br /> ngữ   này   đề   ra   yêu   cầu   chỉ   tuyển   chọn   những   tác   phẩm   có   chất   văn  <br /> chương để  giảng dạy. Đây là quan niệm hẹp hòi về  văn  ở  trường phổ <br /> thông. Tóm lại, tên gọi cũng như cách dạy này vẫn chưa làm thay đổi triệt <br /> để bản chất của hoạt động dạy và học văn.<br /> <br /> 2. Đọc –hiểu văn bản và quan niệm đổi mới trong dạy và học văn:<br /> 2.1. Những hạn chế  của các tên gọi trên đã dẫn đến sự  ra đời của <br /> thuật ngữ  đọc hiểu để  thay thế  chúng. Thuật ngữ  đọc hiểu lần đầu tiên  <br /> xuất hiện trong cuốn Ngữ văn 6 (2002). Trước đây tương ứng với ba phân <br /> môn chúng ta có ba bộ  sách giáo khoa độc lập là  Văn học, Làm văn  và <br /> Tiếng Việt, nay hợp nhất lại trong cuốn  Ngữ  văn. Theo đó tên gọi giảng <br /> văn, phân tích tác phẩm văn học, dạy học tác phẩm văn chương được đổi <br /> thành dạy đọc hiểu văn bản. <br /> ­ Sự thay đổi về mặt bản chất của hoạt động tìm hiểu văn bản của <br /> môn Ngữ  văn qua tên gọi đọc ­hiểu được thể  hiện qua nội hàm của khái  <br /> niệm “đọc” và “hiểu” trong quan niệm về dạy học hiện nay.<br /> 7<br /> 2.2. Một số quan điểm về đọc­ hiểu văn bản : <br /> 2.2.1.Đọc  ở  đây không phải chỉ  là hoạt động biến các ký tự  thành <br /> âm thanh ngôn ngữ, mà là một quá trình nhận thức. Thông qua việc đọc, <br /> người đọc sẽ  phải giải mã các ngôn ngữ, hình  ảnh nghệ  thuật để  tiếp <br /> nhận tác phẩm  ở  nhiều góc độ  khác nhau. Từ  đó hình thành một thái độ,  <br /> tư tưởng, tình cảm, kỹ năng sống nhất định.<br /> 2.2.2.Trong quan niệm thông thường “hiểu” là nắm vững và vận <br /> dụng được, hiểu là nhận biết một tri thức nào đó, nhớ được, nhắc đúng tri <br /> thức. “Hiểu” có nhiều mức: hiểu nghĩa đen của một từ, câu, sự  kiện cụ <br /> thể; hiểu nghĩa hàm  ẩn của các yếu tố  cấu thành văn bản; nắm bắt chủ <br /> đề, thông điệp của tác phẩm và hiểu gắn liền với cảm xúc hành động. <br /> Theo GS. Trần Đình Sử thì “hiểu thực chất là tự hiểu, nghĩa là làm  <br /> cho nảy sinh, sinh thành trong ý thức của người học một tri thức mong  <br /> muốn, nghĩa là làm cho thay đổi tính chất chủ quan của người học”. Trong <br /> dạy đọc hiểu văn bản học sinh phải tự mình hiểu lấy ý nghĩa của văn bản  <br /> chứ  giáo viên không thể  hiểu thay học sinh. “Hiểu” là nhận ra những gì <br /> mình biết và những gì mình chưa biết để  cấu trúc lại nhận thức của bản <br /> thân. “Hiểu” gắn liền với giải thích,  ứng dụng, mô hình hoá được đối  <br /> tượng. Học sinh sau khi tìm hiểu ý nghĩa của một văn bản thuộc một thể <br /> loại nào đó thì phải biết vận dụng để đọc hiểu những văn bản cùng loại.<br /> 2.2.3. Đọc  ở  đây không bó hẹp trong đọc diễn cảm mà phải gắn <br /> liền với sự hiểu. Với thuật ngữ đọc­ hiểu, giờ giảng văn hay phân tích tác <br /> phẩm văn học hay dạy học tác phẩm văn chương trước đây đã mang tính  <br /> chất khác. Giờ  học văn không còn là giờ    thuyết giảng của giáo viên và <br /> không còn là giờ học sinh chỉ cần ngồi nghe, ghi chép một cách thụ  động <br /> mà là học sinh dưới sự hướng dẫn, dẫn dắt của giáo viên tự mình chiếm <br /> lĩnh tri thức, chiếm lĩnh văn bản. Giờ  dạy học văn là giờ  giáo viên dạy <br /> <br /> 8<br /> học sinh đọc hiểu, học sinh học cách đọc hiểu. Học sinh phải tự mình đọc <br /> hiểu chứ giáo viên không đọc hộ  hiểu thay học sinh như trước đây. Theo  <br /> giáo sư  Trần Đình Sử  “dạy học văn trong nhà trường chỉ  có thể  là thầy <br /> dạy đọc văn, trò học đọc văn chứ không thể có gì khác. Và môn học riêng <br /> về  văn bản văn học trong nhà trường chỉ  có thể  định danh là môn đọc  <br /> văn”.<br /> Tóm lại, với những nội dung mới của “đọc” và “hiểu” trong dạy  <br /> đọc ­ hiểu hiện nay được trình bày ở trên thì tên gọi đọc hiểu đã cho thấy <br /> sự thay đổi về mặt bản chất của hoạt động dạy học văn so với những tên <br /> gọi trước đó. Bản chất của dạy học văn không còn là sự  truyền thụ  tri  <br /> thức một chiều mà là sự  tổ  chức cho hoạt động của học sinh, dạy học  <br /> sinh tìm ra chân lí, phát huy được tính tích cực, chủ  động của học sinh  <br /> trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Dạy là dạy tự  học và học là học tự <br /> học. Do đó hiểu bản chất của môn văn là môn dạy đọc văn vừa thể  hiện <br /> cách hiểu thực sự  bản chất của văn học, vừa hiểu đúng thực chất của  <br /> việc dạy văn là dạy năng lực, phát triển năng lực chủ thể của học sinh. <br /> Với những quan niệm mới về  “đọc” và “hiểu” như  trên thì rõ ràng <br /> bản chất của dạy đọc hiểu đã thay đổi về  chất so với các hoạt động tìm  <br /> hiểu văn bản trước đây. Mỗi bản thân học sinh phải tự mình đọc hiểu lấy <br /> văn bản dưới sự  hướng dẫn của giáo viên chứ  giáo viên không còn cảm <br /> thụ thay, hiểu thay cho học sinh như trước.  Dạy học đọc­ hiểu văn bản  <br /> là dạy cho học sinh cách tự học, bao gồm cả hiểu và cảm thụ văn bản.<br /> <br /> II. Thực trạng vấn đề:<br /> <br /> 1.Thuận lợi chung: <br /> ­ Phân phối chương trình Ngữ Văn THCS quy định số tiết ở các lớp  <br /> 6,7,8 là 4 tiết /tuần, trong đó có 2 tiết học văn bản, 1 tiết Tiếng Việt và 1  <br /> <br /> 9<br /> tiết Tập Làm Văn. Lớp 9 là 5 tiết /tuần, trong đó học văn bản 3 tiết, Tiếng  <br /> Việt 1 tiết và Tập Làm Văn 1 tiết. Như vậy, số tiết học văn bản chiếm tỉ <br /> lệ cao so với số tiết học Tiếng Việt và Tập Làm Văn. <br /> ­ Bên cạnh sách giáo khoa, Bộ Giáo dục còn cho phát hành nhiều tài  <br /> liệu tham khảo như  sách giáo viên, sách bài tập Ngữ  Văn và nhiều sách  <br /> tham khảo khác thuận lợi cho giáo viên và học sinh.<br /> ­ Hàng năm, giáo viên được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tập  <br /> huấn về các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực.<br /> <br /> 2. Khó khăn:<br /> <br /> ­ Thuật ngữ  đọc hiểu xuất hiện lần đầu tiên trong cuốn sách Ngữ <br /> văn tích hợp (Ngữ văn 6 ­ 2002) nhưng đến nay thì vẫn chưa có một định <br /> nghĩa rõ ràng, một cách hiểu thống nhất về nó. Đã có nhiều bài viết trên <br /> các tạp chí chuyên ngành, các chuyên luận của các tác giả  đầu ngành về <br /> vấn đề  đọc hiểu. Tuy nhiên, hầu hết còn lúng túng trong việc xác định <br /> thuật ngữ  đọc hiểu. Đến nay chưa có một khái niệm chính thức về  đọc  <br /> hiểu. <br /> ­  Mỗi người  đưa ra một cách hiểu riêng, quan niệm riêng về  đọc –<br /> hiểu. Bên cạnh đó vẫn không ít ý kiến trái chiều, không đồng tình với việc <br /> sử dụng thuật ngữ đọc hiểu. Đây là một vấn đề đang cần được giải quyết <br /> một cách thấu đáo cho tên gọi của một hoạt động quan trọng bậc nhất <br /> của môn Ngữ văn. <br /> ­   Chương   trình,   sách   giáo   khoa   Ngữ   Văn   các   lớp   6,7,8,9   vẫn   còn  <br /> nhiều văn bản không tiêu biểu, khô khan, thiếu chất văn chương nên dẫn <br /> đến việc đọc­hiểu không hấp dẫn được học sinh. Hệ thống câu hỏi trong <br /> phần hướng dẫn đọc hiểu  ở  cuối mỗi văn bản vẫn chưa thực sự  theo  <br /> hướng kích thích, phát huy năng lực đọc hiểu ở học sinh.<br /> <br /> <br /> 10<br /> ­ Đọc –hiểu văn bản là bước đột phá trong đổi mới dạy và học môn  <br /> Ngữ  Văn. Việc đổi mới đòi hỏi sự  nỗ  lực của mỗi giáo viên. Tuy nhiên  <br /> không ít giáo viên vẫn còn tư  tưởng chủ  quan cho rằng việc dùng thuật  <br /> ngữ  đọc hiểu văn bản chỉ là hình thức, kiểu “bình mới rượu cũ” mà thôi; <br /> hoặc còn tư  tưởng ngại đổi mới nên vẫn nghiêng về  cách dạy truyền <br /> thống hoặc có đổi mới nhưng là đổi mới nửa vời. Do vậy, còn thiếu sự <br /> đầu tư cho việc nghiên cứu, tìm tòi, không quan tâm đến việc rèn kỹ năng <br /> đọc hiểu văn bản cho học sinh.<br /> ­ Đổi mới phương pháp dạy học phải kèm theo việc đổi mới trong <br /> kiểm tra đánh giá học sinh. Tuy nhiên việc kiểm tra miệng cũng như kiểm <br /> tra viết nhiều lúc, nhiều nơi còn thiên về  ra câu hỏi kiểm tra học sinh <br /> thuộc lòng, ghi nhớ kiến thức một cách máy móc, thụ động… Trong các kì <br /> kiểm tra… nhiều khi những người ra đề vẫn ra đề bài theo kiểu cũ (kiểm  <br /> tra việc ghi nhớ, thuộc lòng…) thế  là tạo ra tình huống trống đánh xuôi <br /> kèn thổi ngược trong môn học, khiến cho việc đọc hiểu vẫn chưa được <br /> thực thi nhất quán trong nhà trường.<br /> <br /> <br /> III. Một số biện pháp đã thực hiện để rèn kỹ năng đọc­hiểu văn <br /> bản cho học sinh:<br /> Văn bản tồn tại  ở nhiều dạng, có văn bản ngắn chỉ một câu như tục  <br /> ngữ, thành ngữ. Có văn bản chỉ là một đoạn văn ngắn, một trích đoạn một <br /> vài trang. Có văn bản dài vài chục trang hay hàng nghìn trang như  một <br /> truyện ngắn, một cuốn tiểu thuyết… Nhưng dù là ngắn hay dài, muốn <br /> hiểu được văn bản thì việc đầu tiên là phải đọc. Giáo viên phải yêu cầu <br /> học sinh đọc trước  ở  nhà. Trong chương trình Ngữ  Văn THCS, các văn <br /> bản nhìn chung không quá dài. Bố cục, cách trình bày, lập luận không quá <br /> phức tạp. Nên việc học sinh tự đọc trước  ở  nhà, bước đầu nắm sơ  lược <br /> nội dung văn bản là hoàn toàn có thể thực hiện được.<br /> 11<br /> Nhưng để giúp cho học sinh hiểu một cách toàn diện các giá trị của  <br /> văn bản, giáo viên cần phải có sự  hướng dẫn, giúp cho học sinh có các  <br /> thao tác tư duy cần thiết, hình thành phương pháp chung. Có thể thực hiện <br /> các biện pháp để rèn kỹ năng đọc­hiểu văn bản cho học sinh như sau:<br /> 1.Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh cách đọc hiểu phần chú thích: <br /> <br /> ­ Mục tiêu: giúp học sinh xác định được các ý chính cần nắm trong  <br /> khâu tìm hiểu chung về tác giả, văn bản<br /> ­ Nội dung của biện pháp: Cuối mỗi văn bản bao giờ  cũng là phần <br /> chú thích.  Phần chú thích gồm hai ý: giới thiệu về  tác giả, tác phẩm và <br /> giải nghĩa từ  khó của bài. Tùy theo từng tác giả, tác phẩm mà sách giáo <br /> khoa giới thiệu dài hay ngắn. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách hiểu <br /> chú thích một cách ngắn gọn nhất, ghi thật ngắn gọn những ý cơ  bản về <br /> tác giả, tác phẩm.  Về phần giới thiệu tác phẩm, chỉ hướng dẫn học sinh  <br /> ghi chép về văn bản được tìm hiểu trong tiết học, còn tất cả các thông tin  <br /> khác về  các tác phẩm chính (nếu có) thì tìm hiểu theo sách khoa . Ví dụ: <br /> Khi dạy văn bản  Những ngôi sao xa xôi của nhà văn Lê Minh Khuê (Ngữ <br /> Văn 9­tập 2), phần đọc hiểu chú thích có thể  hướng dẫn học sinh đọc <br /> hiểu và ghi như sau:<br /> I. Giới thiệu chung:<br /> 1. Tác giả: <br /> ­ Lê Minh Khuê (1949). Quê: Thanh Hóa.<br /> ­ Gia nhập TNXP đầu những năm 70. (Đây là điểm nổi bật của tiểu <br /> sử tác giả lên quan đến các sáng tác)<br /> ­ Chuyên viết truyện ngắn.  (Đây là nhận định về  phong cách sáng <br /> tác).<br /> 2.   Văn   bản:   Truyện   viết   về   các   cô   gái  TNXP   trên   tuyến   đường  <br /> Trường Sơn (1971).<br /> <br /> 12<br /> Phần giải nghĩa từ yêu cầu học sinh tự tìm hiểu trong quá trình soạn <br /> bài ở nhà, vừa để  đỡ  mất thời gian trên lớp vừa để  học sinh có thói quen  <br /> tìm hiểu từ  ngữ  trong học văn. Giáo viên có thể  yêu cầu giải nghĩa từ <br /> trong quá trình tìm hiểu bài mới để  kiểm tra mức độ  chuẩn bị  của học  <br /> sinh. <br /> Giáo viên cần tránh việc cho học sinh ghi chép lại y nguyên phần <br /> giới thiệu tác giả, tác phầm trong sách giáo khoa vì làm như vậy vừa thừa <br /> (trong sách đã có) vừa dài dòng, khó nhớ, khó hiểu. Mà cần chú ý tập cho  <br /> học sinh thói quen tìm hiểu chú thích, biết cách tóm lược được những ý cơ <br /> bản nhất về tác giả, văn bản. Đó chính là một yêu cầu để hiểu văn bản ở <br /> phần tiếp theo trong giờ học.<br /> 2. Biện pháp 2: Xác định kiểu văn bản trước khi tiến hành tìm hiểu  <br /> <br /> nội dung, nghệ thuật văn bản đó:<br /> <br /> ­ Mục tiêu: Nắm kiểu văn bản để  có hướng tìm hiểu nội dung văn <br /> bản một cách khoa học nhất, nhanh nhất, chính xác nhất.<br /> ­ Nội dung của biện pháp: Văn bản được chia thành nhiều kiểu vì <br /> mỗi kiểu văn bản có một mục đích giao tiếp khác nhau, có phương thức  <br /> biểu đạt khác nhau. Vì thế khi tìm hiểu nội dung một văn bản ta phải xác <br /> định kiểu văn bản. Ví dụ: Kiểu văn bản tự  sự  có phương thức biểu đạt <br /> chính là tự sự với đặc trưng là cốt truyện (chuỗi sự việc) và nhân vật. Khi  <br /> tìm hiểu văn bản Thánh Gióng ( Ngữ Văn 6, tập 1) ta phải xác định đây là  <br /> kiểu văn bản tự  sự  để  từ  đó sẽ  hướng dẫn học sinh tìm hiểu chuỗi sự <br /> việc và các hành động của các nhân vật trong truyện. Hoặc khi tìm hiểu <br /> truyện ngắn Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng­ Ngữ  Văn 9 tập 1), <br /> phải hướng dẫn học sinh đọc hiểu truyện theo hướng tìm hiểu hành động <br /> của nhân vật bé Thu và nhân vật ông Sáu, vì các hành động này cũng chính <br /> là chuỗi sự việc tạo nên nội dung, ý nghĩa của truyện. Hoặc như khi đọc  <br /> <br /> 13<br /> hiểu văn bản Tinh thần yêu nước của nhân dân ta (Hồ Chí Minh­ Ngữ Văn <br /> 7, tập 2) trước tiên phải giúp học sinh xác định đây là kiểu văn bản nghị <br /> luận để tiếp đó chỉ ra các luận điểm của văn bản nghị luận này. Tương tự <br /> như vậy, khi dạy văn bản biểu cảm phải chỉ ra và bám sát vào mạch cảm  <br /> xúc của văn bản đó.<br /> Trên thực tế, nhiều khi giáo viên chưa thấy được tầm quan trọng  <br /> của việc xác định kiểu văn bản dẫn đến việc đọc hiểu văn bản chưa khoa <br /> học, chưa tích hợp được với phân môn tập làm văn nên chưa có sự  đổi <br /> mới trong phương pháp giảng dạy.<br /> <br /> 3. Biện pháp 3 : Dựa vào tên gọi để xác định ý chính của nội dung <br /> văn bản  <br /> ­ Mục tiêu: Giúp học sinh phỏng đoán được nội dung văn bản một  <br /> cách nhanh và chính xác.<br /> ­ Nội dung của biện pháp:<br />  + Một văn bản  bao giờ  cũng chứa đựng một nội dung nhất định. <br /> Tên gọi của văn bản luôn luôn gắn liền với nội dung, phản ánh chủ  đề  ­ <br /> đề tài văn bản đó. Vì thế giáo viên phải tập cho học sinh có thói quen tìm  <br /> hiểu ý nghĩa tên gọi văn bản. Đây là thao tác đầu tiên, là bước tìm hiểu có <br /> tính khái quát, sơ bộ, đại cương. Nó định hướng cho các thao tác tiếp theo <br /> trong đọc­hiểu. Ví dụ : khi tìm hiểu văn bản Lão Hạc (Nam Cao­ Ngữ văn <br /> 8, tập 1), sau khi đọc xong, giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu : truyện  <br /> ngắn này viết về  gì ? Vì sao tác giả  lại đặt tên truyện là Lão Hạc ? Học  <br /> sinh dễ  dàng trả  lời   được  các  ý này (truyện viết về  lão Hạc,  đặt tên <br /> truyện như vậy vì đó là nhân vật chính của truyện). Tiếp đó sẽ triển khai <br /> sâu hơn về  nội dung truyện : hoàn cảnh gia đình lão Hạc như  thế  nào,  <br /> cuộc sống của lão ? Lão có những điều gì đáng quý, đáng thương. Hoặc <br /> khi dạy bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta (Ngữ Văn 7, tập 2) cũng  <br /> <br /> 14<br /> yêu cầu học sinh xác định : văn bản bàn luận về vấn đề  gì ? Khi dạy bài <br /> Mùa xuân của tôi, hỏi : văn bản biểu cảm về điều gì ? … v…v…<br /> Qua hoạt động này, giáo viên chỉ  ra cho học sinh : chỉ cần dựa vào <br /> đầu đề  của văn bản, ta có thể  biết văn bản nói về  điều gì. Đây là bước <br /> định hướng rất cần thiết, không thể bỏ qua, là tiền đề cho ta tiếp tục thực  <br /> hiện việc tìm hiểu các chi tiết cụ thể trong văn bản.<br /> Như  vậy, chỉ  dựa vào tên gọi văn bản, học sinh bước đầu đã tiếp <br /> cận được văn bản với một cái nhìn khái quát, khá chính xác về  nội dung <br /> văn bản. <br />           ­ Điều kiện thực  hiện: Tuy nhiên, không phải lúc nào tên gọi của <br /> văn bản cũng thể hiện một cách rõ ràng, trực tiếp nội dung văn bản. Cho  <br /> nên thao tác này cần thực hiện một cách linh hoạt, có thêm một vài sự gợi  <br /> mở, dẫn dắt của giáo viên. Ví dụ  : khi đọc hiểu văn bản Làng – truyện<br /> ngắn của Kim Lân (Ngữ Văn 9-tập 1), có thể gợi ý cho h ọc sinh : Truy ện<br /> viết về làng, như cái tên gọi của nó, nhưng điều chủ yếu là muốn nói về<br /> ai, nói về tình cảm gì của nhân vật đó với làng ? Học sinh d ễ dàng xác<br /> định : truyện muốn nói về tình yêu làng của ông Hai. Hoặc khi học truy ện<br /> ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long (Ngữ Văn 9 - tập 1), định<br /> hướng cho học sinh tìm hiểu tên gọi văn bản : nói Sa Pa l ặng lẽ nh ưng<br /> thực ra muốn nói về ai, nói điều gì về người đó ? Học sinh sẽ chỉ ra đó chỉ <br /> là sau cái vẻ lặng lẽ bên ngoài, cái vẻ lặng lẽ của Sa Pa là cuộc sống sôi  <br /> nổi của những con người đầy trách nhiệm đối với công việc, đối với đất <br /> nước, với mọi người mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng  <br /> một mình trên đỉnh núi cao. Trong cái không khí lặng im của Sa Pa. Sa Pa <br /> mà nhắc tới người ta chỉ  nghĩ đến chuyện nghỉ  ngơi lại có những con <br /> người ngày đêm lao động hăng say, miệt mài lặng lẽ, âm thầm, cống hiến  <br /> cho đất nước.<br /> <br /> 15<br /> Việc dựa vào tên gọi của văn bản để  bước đầu nắm bắt khái quát <br /> nội dung văn bản là một thao tác cần thiết. Cần phải rèn cho học sinh thao <br /> tác này bới đó là một cách nhìn bao quát, là cơ sở  định hướng để  tiếp tục  <br /> tìm tòi, khám phá văn bản. Tạo cho học sinh thói quen này cũng chính là <br /> tạo thói quen tìm hiểu khi tiếp xúc với văn bản.<br /> 4. Biện pháp 4 : Dựa vào câu chủ đề để tìm hiểu đoạn văn <br /> <br /> ­ Mục tiêu: Biết tìm câu chủ đề để hiểu đoạn văn.<br /> ­ Nội dung của biện pháp:<br /> 4.1. Lý thuyết về đoạn văn: Một văn bản bao gồm nhiều đoạn văn. <br /> Mỗi đoạn văn lại bao gồm nhiều câu văn. Các câu văn trong đoạn được  <br /> sắp xếp theo một trình tự nhất định, theo một cách trình bày nhất định. <br /> ­ Chương trình, nội dung sách giáo khoa môn Văn lớp 9 lưu hành <br /> trước năm thay sách 2002, có đưa ra 4 cách trình bày đoạn văn, tóm lược <br /> như sau :<br /> + Trình bày theo cách diễn dịch : câu chốt (câu chủ  đề) nằm ở  đầu <br /> đoạn.<br /> + Trình bày theo cách quy nạp : câu chốt nằm ở cuối đoạn.<br /> +  Trình bày theo cách song hành : không có câu chốt, các câu trong <br /> đoạn quan hệ ngang hàng với nhau và cùng tập trung vào đề tài của đoạn.<br /> + Trình bày theo cách móc xích : không có câu chốt. Câu sau liên kết  <br /> với câu đứng trước nó về mặt nội dung hoặc bằng các từ ngữ liên kết. Cứ <br /> thế cho đến hết đoạn.<br /> ­ Chương trình, sách giáo khoa Ngữ  Văn 9 hiện hành đưa ra 2 kiểu <br /> trình bày đoạn văn, gọi là phép lập luận :<br />           +  Phép lập luận phân tích (tương ứng với cách trình bày diễn dịch).<br /> +  Phép lập luận tổng hợp (tương ứng với cách trình bày tổng hợp).<br /> <br /> <br /> <br /> 16<br /> 4.2. Trên cơ  sở  về  những cách trình bày đoạn văn hay còn gọi là <br /> phép lập luận như thuật ngữ hiện hành, giáo viên cần cho học sinh hiểu :  <br /> mỗi đoạn văn trong một văn bản đều tuân thủ  theo một cách trình bày  <br /> nhất định. Đó chính là một nguyên tắc trong tạo lập văn bản. Lập luận <br /> phân tích và lập luận tổng hợp là hai phép lập luận khá phổ biến, thường  <br /> gặp trong các văn bản văn xuôi  ở  chương trình Ngữ  Văn THCS. Vì thế, <br /> muốn hiểu đoạn văn nói gì thì cần phải biết đoạn văn đó được trình bày  <br /> theo cách nào, câu nào là câu chủ đề của đoạn. <br /> Lưu ý : Việc tìm câu chủ đề trong đoạn văn chỉ nên áp dụng với các  <br /> kiểu văn bản nghị luận, miêu tả  hay thuyết minh vì các kiểu văn bản này  <br /> thường thể  hiện khá rõ cách trình bày đoạn văn. Còn với văn bản tự  sự  <br /> hay biểu cảm thì tùy từng trường hợp cụ thể mà vận dụng.<br /> 4.3.1.  Đối với văn bản nghị  luận  : Đặc trưng của kiểu văn bản <br /> nghị luận là phải có luận điểm. Một văn bản nghị luận có thể có một hay <br /> nhiều luận điểm. Đọc­hiểu văn bản nghị luận chính là tìm hiểu hệ thống  <br /> luận điểm, cách sắp xếp luận cứ, luận chứng của văn bản đó. Với văn <br /> bản nghị  luận, hiểu được hệ  thống luận điểm tức là đã hiểu được văn <br /> bản. Áp dụng kiến thức về cách trình bày một đoạn văn đề  đọc­hiểu văn  <br /> bản nghị  luận là một cách làm đặc biệt hữu hiệu, cần phải rèn cho học  <br /> sinh kỹ năng này. Phải luyện cho học sinh kỹ thuật tìm câu chủ  đề  bằng  <br /> cách cần đặc biệt   chú ý vào câu đầu đoạn hoặc câu cuối đoạn để  xác  <br /> định câu chủ đề.<br /> Ví dụ  : Khi học văn bản Tinh thần yêu nước của nhân dân ta của  <br /> Hồ  Chí Minh (Ngữ Văn 7 ­ tập 2), sau khi đọc xong văn bản, hướng dẫn  <br /> học sinh tìm hiểu bằng cách xác định câu chủ  đề  của mỗi đoạn. Cụ  thể <br /> yêu cầu học sinh xác định : Theo em, câu nào là câu chủ  đề  của đoạn 1,  <br /> hoặc đoạn 1 có câu chủ đề nào ? (Câu 1: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu  <br /> <br /> 17<br /> nước). Từ đó em hiểu ý đoạn văn nói gì ? (Nói về lòng yêu nước của nhân <br /> dân ta). Vậy luận điểm của đoạn văn là gì ? ( Yêu nước là truyền thống <br /> của nhân dân ta). Đoạn 2 cũng thực hiện tương tự. Học sinh sẽ  lần lượt <br /> chỉ  ra câu chủ  đề  của đoạn 2 là câu đầu : Lịch sử  ta đã có nhiều cuộc <br /> kháng chiến vĩ đại chứng tỏ  lòng yêu nước của nhân dân ta. Ý đoạn văn  <br /> nói về lòng yêu nước của nhân dân ta trong lịch sử. Luận điểm : lòng yêu  <br /> nước của nhân dân ta trong lịch sử. Đoạn 3: Câu chủ  đề  : câu 1. Ý của  <br /> đoạn : Lòng yêu nước của nhân dân ta ngày nay. Luận điểm : Lòng yêu <br /> nước của nhân dân ta ngày nay. Đoạn 4 : Câu chủ  đề  : câu kết đoạn. Ý  <br /> đoạn văn : phải phát huy lòng yêu nước đó. Luận điểm : Đề  ra nhiệm vụ <br /> phải phát huy lòng yêu nước đó.<br /> Từ  việc nắm bắt nội dung mỗi đoạn, chỉ  ra cho học sinh thấy mối  <br /> liên hệ giữa các đoạn : đoạn 1 là phần mở bài, đoạn 2,3 là phần thân bài, <br /> đoạn 4 là phần kết bài. Học sinh sẽ hiểu được nội dung văn bản, trình tự <br /> lập luận, bố cục của văn bản. <br /> Việc xác định câu chủ đề của đoạn văn giúp học sinh nắm bắt được <br /> nội dung đoạn văn đó một cách nhanh nhất, chính xác nhất, ngắn gọn <br /> nhất. Tránh được cách học nhồi nhét, học vẹt. Đó chính là  ưu điểm của  <br /> biện pháp này. Biện pháp này cũng chính là một cách đổi mới theo quan <br /> điểm dạy và học văn theo thể loại chứ không phải theo tiến trình văn học <br /> sử.<br /> 4.3.2. Đối với văn bản miêu tả : <br /> ­ “Văn miêu tả  là loại văn nhằm giúp người đọc, người nghe hình  <br /> dung những đặc điểm, tính chất nổi bật của một sự  vật, sự  việc, con  <br /> người, phong cảnh ... làm cho những cái đó như hiện lên trước mắt người  <br /> đọc , người nghe”. (Sách giáo khoa Ngữ Văn 6, tập 2).<br /> <br /> <br /> <br /> 18<br /> ­ Đọc­hiểu một văn bản miêu tả là tìm hiểu xem văn bản đó tái hiện <br /> điều gì (Người, vật, sự vật, việc, hiện tượng, cảnh tượng ....). Điều đó có <br /> đặc điểm gì, được tái hiện như thế nào.<br /> ­ Khi đọc­hiểu văn bản miêu tả, cần định hướng cho học sinh tìm <br /> hiểu theo trình tự  : văn bản miêu tả   gì (cảnh, người, vật, việc ...) ? Có  <br /> mấy đoạn văn ? Ý của mỗi đoạn văn là gì ? Với câu hỏi văn bản miêu tả <br /> cảnh gì, mục đích là để học sinh có cái nhìn bao quát về văn bản. Câu hỏi <br /> này học sinh có thể  dựa vào đầu đề  của văn bản để  trả  lời. Hai câu hỏi  <br /> còn lại mục đích là để  học sinh tìm hiểu ý cụ  thể  của bài. Học sinh sẽ <br /> vận dụng hiểu biết về cách trình bày đoạn văn để tìm hiểu. <br /> Ví dụ  : khi học bài Sông nước Cà Mau (Ngữ Văn 6, tập 2), sau khi <br /> đọc, cho học sinh tìm hiểu theo các câu hỏi : bài văn tả  cành gì ? (Cảnh  <br /> sông nước Cà Mau, như đầu đề văn bản). Có mấy đoạn văn (4 đoạn). Với <br /> câu hỏi : Ý của mỗi đoạn là gì ? Yêu cầu học sinh xác định câu chủ đề để <br /> hiểu được ý chính của mỗi đoạn ( đoạn 1: không có câu chủ  đề  vì đoạn <br /> văn trình bày theo cách song hành. Các câu văn lần lượt miêu tả  về  đặc  <br /> điểm của kênh rạch, màu sắc, âm thanh của vùng sông nước Cà Mau. Ý  <br /> đoạn văn : cảm nhận chung của nhân vật về đặc điểm của sông nước Cà <br /> Mau). Đoạn 2 : ý chính đoạn văn nằm ở  câu 2: “ Ở đây, người ta gọi tên  <br /> đất, tên sông không phải bằng những danh từ mỹ lệ mà cứ theo đặc điểm <br /> riêng biệt của nó mà gọi thành tên”. Đoạn 3 : Câu chủ đề : câu 1. Ý chính: <br /> Cảnh dòng sông Năm Căn. Đoạn 4 : Câu chủ  đề  : câu 1. Ý chính : Cảnh  <br /> chợ Năm Căn.<br /> Việc tìm hiểu từng đoạn văn theo các bước như  trình bày  ở  trên <br /> giúp học sinh nắm được dàn ý đại cương bài văn, thấy được bố cục, trình <br /> tự  miêu tả. Từ  đó tiếp tục đi sâu tìm hiểu các ý cụ  thể, chi tiết của văn  <br /> bản. Hiểu được ý từng đoạn mới có thể  hiểu được nội dung cả  bài. Kỹ <br /> <br /> 19<br /> năng tìm hiểu đoạn văn như  trên còn giúp học sinh nhanh chóng hiểu bài,  <br /> nhớ lâu. <br /> ­ Điều kiện thực hiện: giáo viên phải bố  trí thời gian ngoại khóa <br /> cung cấp kiến thức về  lý thuyết đoạn văn và vận dụng những kiến thức <br /> này vào khâu đọc hiểu trong giờ học văn bản.<br /> 5. Biện pháp 5 : Tìm mối liên hệ giữa các đoạn văn để  xác định nội  <br /> <br /> dung của văn bản :<br /> <br /> ­ Mục tiêu: Học sinh hiểu một văn bản có nhiều phần (đoạn), giữa <br /> các phần (đoạn) có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.<br /> ­ Nội dung biện pháp: Một văn bản thông thường có cấu tạo 3 phần  <br /> : mở bài, thân bài, kết bài. Phần mở bài và kết bài mỗi phần thường tương  <br /> ứng với 1 đoạn văn, phần thân bài thường gồm nhiều đoạn văn. Tuy nhiên <br /> trong thực tế không phải lúc nào cũng như vậy. Nhiều văn bản mỗi phần  <br /> được cấu tạo bằng nhiều đoạn văn chứ  không phải chỉ  là 1 đoạn văn. <br /> Điều này ta vẫn thường gặp trong các văn bản sách giáo khoa hiện hành  <br /> nếu không muốn nói là khá phổ biến. Đặc biệt rõ nét trong các văn bản tự <br /> sự, biểu cảm. Vậy khi đọc­ hiểu các kiểu văn bản này, cần phải thấy  <br /> được mối liên hệ giữa các đoạn văn.<br /> 5.1. Đối với văn bản tự sự : <br /> ­“ Tự sự” (kể chuyện) là phương thức trình bày một chuỗi sự việc, <br /> sự  việc này dẫn đến sự  việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể <br /> hiện một ý nghĩa.” (Sách giáo khoa Ngữ Văn 6, tập 1)<br /> Như  vậy, đặc điểm của văn bản tự  sự  là phải có nhân vật và cốt <br /> truyện. Cốt truyện bao gồm nhiều sự  việc. Sự  việc trong văn tự  sự  là <br /> những lời nói, việc làm, hành động của nhân vật. <br /> ­ Cốt truyện trong văn bản tự  sự  thường gồm một chuỗi sự  việc.  <br /> Phải biết tóm tắt  cốt truyện để  nắm các sự  việc. Sự  việc có thể  được <br /> <br /> 20<br /> diễn đạt bằng một hoặc nhiều đoạn văn. Tìm hiểu mối liên hệ  giữa các <br /> đoạn văn có mục đích là tìm ra truyện có những sự  việc nào. Điều này  <br /> thực ra cũng không phải là mới nhưng nó càng được chú trọng trong việc <br /> dạy và học văn theo quan điểm đổi mới. Vì thế, khi đọc ­ hiểu, không thể <br /> chỉ  đơn thuần tìm hiểu ý của 1 đoạn mà phải tìm hiểu mối quan hệ  ý <br /> nghĩa giữa các đoạn, từ  đó chỉ  ra sự  việc chính trong chuỗi sự  việc của <br /> truyện.<br /> Ví dụ: khi đọc­ hiểu văn bản Thánh Gióng (Ngữ Văn 6­tập 1), chỉ ra  <br /> cho học sinh thấy văn bản gồm 6 đoạn văn. Đoạn 1: sự  ra đời kỳ  lạ  của  <br /> chú bé Gióng, đoạn 2: chú bé xin đi đánh giặc, đoạn 3: chú bé lớn nhanh <br /> như  thổi, đoạn 4: chú bé đi đánh giặc, đoạn 5: Vua nhớ công ơn, đoạn 6:  <br /> những dấu tích còn lại. Nắm được ý của mỗi đoạn là nắm được các sự <br /> việc chính của truyện. Qua đó hiểu được ý nghĩa của truyền thuyết này: <br /> ước mơ  của nhân dân ta xưa kia về  người anh hùng cứu nước chống  <br /> ngoại xâm.<br /> Ví dụ khác : văn bản “ Bức tranh của em gái tôi”  (Truyện ngắn­ Tạ <br /> Duy Anh ­ Ngữ  Văn 6, tập 2). Đoạn văn 1,2 (sự  việc 1): người anh coi  <br /> thường em, khó chịu khi thấy em hay lục lọi. Đoạn 3 (sự  việc 2): người  <br /> anh phát hiện người em bí mật chế  màu vẽ. Đoạn 3,4 (sự  việc 3): mọi  <br /> người phát hiện năng khiếu vẽ  tranh của Kiều Phương. Đoạn 5,6,7,8,9 <br /> (sự việc 4): người anh buồn, ghen tức trước tài năng của em. Đoạn 10,11  <br /> (sự việc 5): em gái Kiều Phương đoạt giải nhất và muốn người anh cùng  <br /> đi nhận giải. Đoạn 12,13 (sự  việc 6): người anh bất ngờ  và xấu hổ  khi  <br /> thấy em gái vẽ mình rất đẹp, rất đáng yêu. Đoạn 14 (sự việc 7): sự ân hận <br /> của người anh.<br /> Như vậy, sau khi tìm hiểu nội dung từng đoạn rồi xâu chuỗi các sự <br /> việc lại, học sinh sẽ  hiểu  được  cốt truyện, thấy  được  diễn biến tâm  <br /> <br /> 21<br /> trạng   của   người   anh   cũng   như   sự   hồn   nhiên,   vô   tư   của   em   gái   Kiều <br /> Phương từ  đó nắm được ý nghĩa của truyện: sự  nhân hậu của người em <br /> đã khiến người anh nhận ra và từ bỏ sự ghen ghét, đố kỵ; có thái độ sống <br /> tốt hơn.<br /> Tuy nhiên, cách làm này chỉ  nên vận dụng khi tìm hiểu văn bản <br /> bằng phương pháp cắt ngang (tìm hiểu theo trình tự diễn biến cốt truyện), <br /> còn nếu dùng phương pháp bổ dọc (tìm hiểu theo tuyến nhân vật) thì nên  <br /> vận dụng các kỹ thuật khác thích hợp hơn. <br /> 5.2. Đối với văn bản biểu cảm : Văn bản biểu cảm có đặc trưng <br /> là bày tỏ, bộc lộ  tâm trạng, tình cảm, cảm xúc đối với một người, vật,  <br /> việc ... được nói đến. Cho nên đọc­hiểu văn bản biểu cảm chính là tìm <br /> hiểu những tình cảm, cảm xúc có trong văn bản. Văn biểu cảm còn gọi là <br /> văn trữ  tình, bao gồm các thể  loại như  : thơ  trữ  tình, ca dao trữ  tình, tùy <br /> bút...  Ở  đây chỉ  đề  cập đến thể  loại tùy bút là những văn bản văn xuôi <br /> như giới hạn đề tài đã nói. Và cũng bởi trong chương trình ngữ văn THCS <br /> có một số văn bản thuộc thể văn tùy bút, như chương trình Ngữ Văn 7 có <br /> các văn bản : Một thứ quà của lúa non : Cốm, Sài Gòn tôi yêu, Mùa xuân <br /> của tôi.<br /> Tùy bút là một thể loại văn học tuy gần với thể bút ký, ký sự nhưng <br /> thiên về  biểu cảm, chú trọng tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ của tác giả  về <br /> vấn đề được nói đến. Vì thế, hiểu một bài tùy bút (văn bản biểu cảm) là  <br /> hiểu mạch cảm xúc được thể hiện trong bài. Mạch cảm xúc của một bài <br /> văn biểu cảm bao gồm những trạng thái tình cảm tạo thành.  Ở  văn biểu  <br /> cảm, mỗi trạng thái tình cảm có thể  được diễn đạt bằng một đoạn văn <br /> nhưng cũng có thể  được diễn đạt bằng vài ba đoạn văn. Cho nên cần có  <br /> sự linh hoạt, không nên máy móc, cứng nhắc khi đọc­hiểu đoạn văn trong <br /> văn bản biểu cảm.<br /> <br /> 22<br /> Ví dụ : Khi đọc hiểu văn bản Mùa xuân của tôi (Vũ Bằng­ Ngữ Văn <br /> 7 tập 1), cho học sinh đọc từng đoạn văn và yêu cầu nêu ý chính của mỗi <br /> đoạn. Học sinh phải vận dụng sự hiểu biết về cách trình bày đoạn văn mà <br /> giáo viên đã cung cấp trong quá trình học tập trước đó : diễn dịch (lập  <br /> luận phân tích), quy nạp (lập luận tổng hợp), móc xích, song hành để  tìm  <br /> hiểu ý của đoạn. Sau khi đọc hiểu từng đoạn văn lại cần phải xem xét <br /> mối quan hệ giữa mỗi đoạn để tìm ra mạch cảm xúc của văn bản. Chẳng <br /> hạn ở đoạn 1: yêu mến mùa xuân là một tình cảm tự  nhiên ở  mỗi người. <br /> Đoạn 2,3: cảnh sắc mùa xuân Hà Nội. Đoạn 5,6,7,8: cảm xúc của con  <br /> người trước mùa xuân. Đoạn 9: Không khí trong gia đình. Đoạn 10,11,12: <br /> Cảnh sắc mùa xuân Hà Nội sau ngày Rằm tháng Giêng. Tất cả  các trạng <br /> thái tình cảm này đã bộc lộ nỗi nhớ  thương da diết của tác gỉa (là người <br /> xa quê) đối với mùa xuân ở Hà Nội, ở miền Bắc.<br /> IV. Đánh giá hiệu quả, giá trị khoa học của đề tài:<br /> 1. Vấn đề đọc hiểu văn bản không phải hoàn toàn xa lạ đối với các  <br /> giáo viên văn xưa nay và không thủ  tiêu yếu tố  giảng bình của giáo viên. <br /> Tuy nhiên không phải giáo viên Ngữ  văn nào cũng nhận thức được một  <br /> cách đầy đủ vấn đề này và không ít giáo viên còn lúng túng trong việc dạy  <br /> văn bản theo hướng đổi mới. Đề tài này sẽ giúp giáo viên có một cái nhìn  <br /> đầy đủ và có hệ thống hơn về dạy văn bản theo quan niệm đọc hiểu. Từ <br /> đó sẽ tìm ra những phương pháp phù hợp trong dạy học văn bản.<br /> 2. Dạy văn theo hướng đọc –hiểu văn bản biến giáo viên từ  người <br /> giảng văn trở thành người hướng dẫn đọc văn, tăng cường vai trò hướng <br /> dẫn của thầy, tạo điều kiện cho học sinh tự học và thầy chỉ giảng những  <br /> chỗ  quan trọng và cần thiết nhất, khắc phục lối diễn giảng dài dòng. <br /> Muốn vậy, người thầy phải rèn được những kỹ  năng cần thiết cho học  <br /> sinh, cung cấp cho học sinh những thủ thuật, những kỹ thuật để học sinh <br /> <br /> 23<br /> hiểu và cảm được văn bản. Nghĩa là dạy cho học sinh phương pháp tự <br /> học. Đồng thời các kỹ năng này cũng giúp ích rất nhiều, rất thiết thực cho  <br /> các em trong việc tạo lập văn bản (viết bài tập làm văn, sáng tác văn <br /> chương…). Đề tài này đáp ứng phần nào vào những vấn đề nêu trên. <br /> 3. Ở trường PTDTNT Krông Ana, bằng thực tế giảng dạy, trong vài <br /> năm học gần đây, tôi đã thực hiện các biện pháp như đã nêu trên. Qua đó, <br /> học sinh dần có được các kỹ năng cần thiết trong đọc – hiểu văn bản. <br /> Nhưng việc nắm bắt và vận dụng các kỹ năng này không phải lúc nào <br /> cũng dễ dàng nên không ít học sinh còn lúng túng. Tuy nhiên, phần lớn học <br /> sinh đã hình thành được những thao tác cơ bản để đọc hiểu văn bản theo <br /> hướng tích cực. Nhờ thế, chất lượng bộ môn các lớp tôi dạy được cải <br /> thiện rõ rệt.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 24<br /> PHẦN III: KẾT LUẬN<br /> 1. Đọc hiểu văn bản Ngữ  văn  ở  trường phổ  thông là vấn đề  đã và  <br /> đang thu hút sự  quan tâm của nhiều người, bởi lẽ  dạy học văn chưa đạt <br /> được những kết quả như mong muốn. Hoạt động đọc hiểu ra đời để thay  <br /> thế các hoạt động giảng văn, phân tích tác phẩm văn học hay dạy học tác <br /> phẩm văn chương trong dạy học văn đã thể hiện nỗ lực đổi mới dạy học  <br /> văn trong những năm qua. Bởi lẽ những hoạt động trước đó về cơ bản là <br /> hoạt động của giáo viên, học sinh dường như chưa thể hiện được vai trò <br /> chủ  thể  của mình trong học tập. Do đó các em trở  thành đối tượng bị <br /> động, chỉ  biết tiếp thu kiến thức do giáo viên truyền đạt lại. Dạy đọc <br /> hiểu có bản chất hoàn toàn khác. Hoạt động học tập được thực hiện bởi <br /> chính người học. Học sinh phải trực tiếp đọc văn bản, khám phá ra cái <br /> thông điệp mà văn bản muốn gửi gắm. Giáo viên có nhiệm vụ  của một <br /> người cố vấn, người trọng tài... giúp các em hoàn thành nhiệm vụ học tập <br /> của mình một cách tốt nhất. Với quan niệm mới về dạy học (trong đó có <br /> dạy học văn) thì hoạt động đọc hiểu đã thể hiện và đáp ứng được yêu cầu  <br /> đó.<br /> 2. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có được một sự  thống nhất trong cách  <br /> hiểu về    vấn đề  đọc­hiểu văn bản, chưa có được một tiếng nói thống <br /> nhất về  vấn đề  dạy đọc hiểu vì nhiều lí do khác nhau. Tuy vậy, là một <br /> giáo viên trực tiếp đứng lớp, xuất phát từ  thực tế  giảng dạy, bằng kinh <br /> nghiệm của bản thân, tôi cố  gắng tìm tòi, nghiên cứu, đúc rút ra một số <br /> biện pháp để  phục vụ  cho việc dạy học như  đề  tài đã trình bày, chắc <br /> chắn còn nhiều điểm thiếu sót, rất mong được sự  góp ý của các đồng <br /> nghiệp để nó được hoàn chỉnh hơn.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 25<br />  <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> 1. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 6, 7, 8, 9 tập 1, 2 ( nxb Giáo dục )<br /> 2. Sách giáo viên Ngữ văn lớp 6, 7, 8 , 9 tập 1, 2. ( nxb Giáo dục )<br /> 3. Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở trung học cơ sở ­ TS.  <br /> Đỗ Ngọc Thống ­ nxb Giáo dục ­ 2002. <br /> 4.  Đọc   hiểu   văn   bản­   một   khâu   đột   phá   trong   n
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2