intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu

Chia sẻ: Trần Thị Tan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:32

57
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là Để học sinh học Mĩ thuật ngoài hứng thú ra còn có khả năng biểu hiện cái đẹp và cảm thụ cái đẹp. Nhằm trang bị, cung cấp cho học sinh một số kiến thức, kĩ năng cơ bản về nghệ thuật tạo hình. Học sinh có khả năng cảm thụ vẻ đẹp của đồ vật, hình thành ở học sinh biểu tượng trọn vẹn về đồ vật (hình dáng, cấu trúc, chất liệu, màu sắc).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu

  1. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu MUC LUC ̣ ̣     NÔI DUNG ̣ Trang I. PHÂN M ̀ Ở ĐÂU  ̀ I.1. Lý do chọn đề tài 2 I.2. Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài 2 I.3. Đối tượng nghiên cứu 3 I.4. Phạm vi nghiên cứu 3 I.5. Phương pháp nghiên cứu 3 II. PHÂN NÔI DUNG  ̀ ̣ II.1. Cơ sở lí luận 3 II.2. Thực trạng 4 II.3. Giải pháp biện pháp 7 II.4. Kết quả  26 III. PHÂN KÊT LUÂN, KIÊN NGHI  ̀ ́ ̣ ́ ̣ III.1. Kết luận 29 III.2. Kiến nghị 29 GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    1    ====                   Trường TH Krông Ana 
  2. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề tài Giáo dục phổ cấp tiểu học với chương trình mới, các môn nói chung và  môn Mĩ  thuật nói riêng được xây dựng một cách hợp lý, khoa học, đáp ứng mục  tiêu đào tạo và được đông đảo giáo viên, học sinh đón nhận một cách hào hứng,  phù hợp với xu thế hội nhập. Trong đó, phân môn vẽ theo mẫu có vị trí hết sức  quan trọng. Vẽ theo mẫu giúp học sinh nắm được đặc điểm, hình dáng, cấu trúc  của đồ vật thông qua việc so sánh, phân tích tổng hợp khái quát. Học sinh được  rèn luyện kỹ năng miêu tả đồ vật bằng đường nét, hình khối, đậm nhạt, màu  sắc. Kiến thức và kỹ năng của vẽ theo mẫu hỗ trợ rất nhiều cho các phân môn  khác như : Kiến thức, kỹ năng sắp xếp bố cục, vẽ hình, tỉ lệ, tương quan đậm  nhạt, màu sắc, không gian, ánh sáng được vận dụng trong các phân môn vẽ  tranh, trang trí. Vẽ theo mẫu nhằm trang bị, cung cấp cho học sinh một số kiến thức, kĩ năng cơ bản về  nghệ thuật tạo hình. Trên cơ sở những kĩ năng cơ bản đó, người học Mĩ  thuật nói chung, học sinh Tiểu học nói riêng có khả năng cảm thụ vẻ đẹp  của đồ vật, hình thành ở học sinh biểu tượng trọn vẹn về đồ vật ( hình dáng, cấu trúc,  chất liệu, màu sắc). Những biểu tượng đó là cơ sở hết sức cần thiết cho sự phát  triển khả năng sáng tạo ở các phân môn khác…. Trong giảng dạy không ít giáo viên còn băn khoăn vê cách th ̀ ưc h ́ ương dân cach  ́ ̃ ́ ve theo m ̃ ẫu để học sinh nắm bắt được cách vẽ và vẽ bài  tự tin, thoải mái, sắp  xếp hình phù hợp với khuôn khổ giấy vẽ với bố cục đẹp, đậm nhạt hài hòa.  Tạo được sự hứng thú cho học sinh với những bài vẽ theo mẫu, tạo được không  khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, đưa ra được đồ dùng trực quan hợp lí, ấn  tượng, bám sát nội dung bài vẽ. Học sinh cảm được bố cục, đường nét, hình  khối, ánh sáng màu sắc, có khả năng thể hiện cảm xúc của mình về thế giới  xung quanh. Tuy nhiên. Đây là một nội dung hoàn toàn mới mẻ đối với giáo  viên. Trong khi đó, sach giao viên và V ́ ́ ở tập vẽ chỉ cung cấp cho giáo viên một  số kiến thức sơ đẳng về cách hướng dẫn vẽ tranh chung chung nên môt sô giáo  ̣ ́ viên còn lúng túng, gặp nhiều vướng mắc.  Là một giáo viên dạy chuyên bộ môn Mĩ  thuật, trong qua trinh giang day tôi luôn ́ ̀ ̉ ̣   trăn trở làm thế nào để khi lên lớp, giáo viên có đủ khả năng tổ chức cho hoc  ̣ sinh học tập, nắm bắt cách vẽ theo mẫu va th ̀ ực hành một cách thấu đáo những  nội dung nói trên. Nhận thức được vai trò của phân môn vẽ theo mẫu cũng thấy  được những thực trạng, tồn tại trong việc giảng dạy phân môn này ở lớp 3, Với  mong muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác giảng dạy phân môn  vẽ theo mẫu tôi mạnh dạn đưa ra đề tài : “Một số kinh nghiệm giúp học sinh  lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu”. GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    2    ====                   Trường TH Krông Ana 
  3. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu I.2. Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu : Để học sinh học Mĩ  thuật ngoài hứng thú ra còn có khả năng biểu  hiện cái đẹp và cảm thụ cái đẹp.  Nhằm trang bị, cung cấp cho học sinh một số kiến thức, kĩ năng cơ bản về nghệ  thuật tạo hình. Học sinh có khả năng cảm thụ vẻ đẹp của đồ vật, hình thành ở học sinh biểu  tượng trọn vẹn về đồ vật (hình dáng, cấu trúc, chất liệu, màu sắc) Phân biệt được hình dáng, đặc điểm của mẫu, nắm được các bước theo mẫu và  vẽ được mẫu thật theo cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm thụ của học sinh. Phát triển năng lực tư duy trong học tập, trong sinh hoạt Mĩ  thuật, tiếp cận với  thực tế xung quanh.  Yêu mến và cảm nhận những hình ảnh màu sắc trong vẽ theo mẫu, góp phần  động viên hoc sinh phát huy tính ch ̣ ủ động.  Nhiệm vụ : Tìm giải pháp nâng cao chất lượng về vẽ theo mẫu ở lớp 3 cấp  Tiểu học. I.3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh khối lớp 3 (năm học 2013 – 2014) của trường TH Krông Ana. I.4. Phạm vi nghiên cứu Các bài vẽ theo mẫu của chương trình lớp 3 Kĩ năng vẽ theo mẫu của học sinh I.5. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cưu tai liêu ́ ̀ ̣ Điêu tra th ̀ ực trang ̣ Phương phap quan sat  ́ ́ Phương phap thao luân ́ ̉ ̣ Phương phap th́ ực nghiêṃ II. PHẦN NỘI DUNG II.1. Cơ sở lí luận Vẽ theo mẫu ở tiểu học là một phân môn quan trọng, phân môn này tạo nên ý  thức quan sát để cảm nhận cái đẹp, cái mĩ của sự vật hiện tượng. Đó sẽ là một  trong những kiến thức ban đầu quan trọng của chương trình Mĩ  thuật tiểu học,  và từ đây, sẽ dần hình thành các kĩ năng cần thiết để giúp học sinh hoàn thành  được các bài tập theo chương trình và vận dụng những kiến thức ấy vào học  tập, sinh họat hàng ngày. Kiến thức vẽ theo mẫu ở tiểu học, cũng như các phân  môn khác của bộ môn Mĩ  thuật đều được thiết kế theo chương trình đồng tâm  từ dễ đến khó, đó không phải là những mẫu vẽ, bài vẽ đòi hỏi trình độ cao siêu  mà được bắt đầu từ cách vẽ những nét thẳng, nét cong (đối với lớp 1), vẽ theo  mẫu với các vật mẫu đơn giản như cái mũ, giỏ xách....(đối với lớp 2). Đến lớp  3, các mẫu vẽ có nhiều chi tiết hơn và bước đầu yêu cầu về bố cục, cách vẽ  GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    3    ====                   Trường TH Krông Ana 
  4. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu đậm nhạt bằng chì đen hoặc bằng màu. Đồng thời, việc vẽ theo mẫu ở lớp 3  làm nền tảng cho việc vẽ các mẫu phức tạp hơn ở các lớp sau. Học vẽ theo mẫu học sinh được quan sát mẫu thực và nhận xét mẫu để rồi mô  phỏng lại mẫu một cách tương đối giống thực. Tức là học sinh sẽ hình thành  được kiến thức cơ bản của môn Mĩ  thuật qua phân môn vẽ theo mẫu này. Học  sinh sẽ vẽ theo một phương pháp cụ thể, đơn giản. Đó là vẽ hình chung trước  (tổng thể mẫu), sau rồi mới vẽ chi tiết (các bộ phận nhỏ), và quy trình vẽ này  đều được vận dụng trong tất cả các phân môn của bộ môn Mĩ  thuật. Nói như  vậy để thấy rằng vẽ theo mẫu sẽ tạo được thói quen cơ bản cho học sinh, đó là  vẽ từ phần chung trước, phần riêng sau ; vẽ phần chính trước, phần phụ sau ;  vẽ đơn giản trước, chi tiết sau ; vẽ nét thẳng trước, nét cong sau và vẽ mảng  chính trước, mảng phụ sau. Nói tóm lại vẽ theo mẫu có thể là “kim chỉ nam” cho các phân môn còn lại  của bộ môn Mĩ  thuật. Và đây sẽ là kiến thức cơ bản để học sinh tiếp tục khám   phá và làm chủ  cái đẹp trong chương trình Mĩ   thuật đồng tâm  ở  các cấp cao  hơn, đặc biệt là biết vận dụng cái đẹp vào cuộc sống hằng ngày. II.2. Thực trạng Là một giáo viên dạy chuyên phụ trách bộ môn Mĩ  thuật, tôi rất quan tâm và  luôn trăn trở đến chất lượng dạy phân môn vẽ theo mẫu, đặc biệt là vẽ theo  mẫu với học sinh lớp 3. Nhận thấy được việc dạy vẽ theo mẫu bằng phương  pháp mới sẽ nâng cao được chất lượng của các bài vẽ theo mẫu. Tuy nhiên,  việc giảng dạy vẽ theo mẫu đối vói học sinh lớp 3 vẫn còn những thuận lợi và  khó khăn sau: a) Thuận lợi, khó khăn * Thuận lợi : Các bài học môn Mĩ  thuật ở lớp 3 đã được sắp xếp theo cấu trúc đồng tâm,  kiến thức ở các bài học đã được tìm hiểu ở các lớp trước. Các bài vẽ được lặp  lại và nâng cao dần ở mỗi dạng bài và phát triển đi lên ở các bài sau, các dạng  bài phát triển từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.  Trường học được sự đầu tư về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, thúc đẩy sự phát  triển toàn diện về mọi mặt của học sinh. Lãnh đạo đơn vi luôn khuy ̣ ến khích,  tạo điều kiện cho giáo viên trong việc thiết kế, cải tạo đồ dùng dạy học trong  quá trình giảng dạy.  Đa số học sinh được sự quan tâm của gia đình, đầu tư tương đối đầy đủ các  công cụ, phương tiện để học môn Mĩ thuật. Đa số các em học sinh yêu thích  môn học, có ý thức học tập và làm bài tốt. Vì thế, cũng rất thuận lợi cho giáo  viên trong việc chú trọng bồi dưỡng thêm một số kĩ năng giúp các em có khả  năng vẽ tốt hơn. * Khó khăn : GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    4    ====                   Trường TH Krông Ana 
  5. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu Về hệ thống tài liệu : Chưa có sách tham khảo và sách giáo khoa đối với môn  này ở lớp 3, hầu hết giáo viên chỉ sử dụng theo sách giáo viên và vở tập vẽ của  học sinh, mà nội dung hướng dẫn trong sách giáo viên lại khá chung chung  khiến giáo viên khó khăn trong việc mở rộng, tìm tòi các phương pháp mới.  Về phía nhà trường : Không có phòng học môn Mĩ  thuật riêng, đồ dùng dạy học  còn nghèo nàn, chưa phong phú, vật mẫu, tranh minh họa hỗ trợ cho bài dạy còn  thiếu. Về phía giáo viên : Mất nhiều thời gian chuẩn bị đô dung giang day, t ̀ ̀ ̉ ̣ ốn nhiều  kinh phí cho việc sưu tầm mẫu vẽ, vật mẫu của giáo viên chưa đầy đủ gây  nhàm chán cho học sinh và hiệu quả tiết học chưa cao. Về phía học sinh + Một số học sinh vẫn coi giờ học Mĩ  thuật là giờ giải trí, là thời gian được  chơi sau nhiều tiết học căng thẳng, và vẫn chưa có ý thức chuẩn bị tốt bài từ  nhà (quan sát mẫu ở nhà và chuẩn bị mẫu mang lên lớp). + Trong hoạt động quan sát, nhận xét học sinh thường chưa chú trọng đến việc  quan sát mẫu, một số em muốn vẽ ngay nên vẽ trong khi giáo viên đang hướng  dẫn qua sát mẫu và hướng dẫn vẽ mẫu. + Học sinh thường vẽ theo trí nhớ, chưa quan sát mẫu khi vẽ nên vẽ chưa đúng  theo vị trí quan sát.  + Học sinh còn có nhiều bài vẽ lấy lệ, thường vẽ tự do, không chú ý tới các  bước giáo viên hướng dẫn. + Chất lượng một số bài vẽ chưa đồng đều : Cách sắp xếp hình chưa phù hợp,  sao chép một cách máy móc, rập khuôn ; Nhiều bài hình nhỏ, chưa rõ đậm nhạt  và chưa thể hiện được cảm xúc khi vẽ. b) Thành công, hạn chế * Thành công :  Đa số học sinh đã nắm được cách vẽ theo mẫu, chất lượng bài vẽ của học sinh  được nâng lên, cách thể hiện bố cục, độ đậm nhạt chặt chẽ hơn lôi cuốn được  người xem. Qua quan sát vật mẫu và vẽ theo mẫu, học sinh đã có được ý thức quan sát sự  vật, hiện tượng, tuy chưa cảm nhận hết được cái đẹp, cái mĩ nhưng đã bước  đầu hình thành óc nhìn nhận của các em về việc sắp xếp, bố trí, hình dáng, đặc  điểm của các đồ vật trong cuộc sống. * Hạn chế :  Vẫn còn tình trạng học sinh chỉ nhìn vào mẫu hoặc tranh mẫu để vẽ, không theo  quy trình, các bước mà giáo viên hướng dẫn nên tranh vẽ chưa mang tính chất  “vẽ theo mẫu”, tỉ lệ chưa cân xứng so với mẫu.  Do học sinh tiểu học chưa vượt ra khỏi vở ô ly, do đó khi vẽ trên vở mĩ thuật,  học sinh thường thấy trống trải bởi trang giấy trắng lại rộng, nên các em  thường vẽ hình rất nhỏ, lệch so với trang giấy khiến bố cục của bài vẽ không  cân đối với trang giấy GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    5    ====                   Trường TH Krông Ana 
  6. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu Giáo viên đôi lúc khó chuẩn bị đủ được nhiều mẫu vẽ cho các nhóm, dẫn tới  học sinh khó quan sát. Đồng thời, sau khi hướng dẫn cách vẽ xong thì chưa  kiểm tra, hướng dẫn được hết các cá nhân kịp thời trong quá trình thực hành về  vấn đề góc nhìn, phương pháp vẽ, tỉ lệ … c) Mặt mạnh, mặt yếu * Mặt mạnh :  Nhờ vào việ học tốt phân môn vẽ theo mẫu, học sinh đã nắm được phương  pháp vẽ căn bản như : Vẽ hình chung trước (tổng thể mẫu), sau rồi mới vẽ chi  tiết (các bộ phận nhỏ), hình thành được kiến thức cơ bản của môn Mĩ  thuật và  có thể áp dụng hiệu quả cho việc học các phân môn khác. * Mặt yếu :  Do phân môn vẽ theo mẫu là khó và kiến thức khá phức tạp; do tâm lí lứa tuổi  nên khả năng tập trung của học sinh chưa cao. Các em khó hệ thống được các  phần cần nắm khi giáo viên hướng dẫn cách vẽ dẫn đến khi thực hành học sinh  đôi lúc còn quên một số bước như quan sát để so sánh mẫu, nhấn đậm, lấy  sáng... Đặc biệt, ở dạng bài khó như vẽ mẫu có hai vật mẫu thì học sinh thường  quên xác định tương quan về tỉ lệ của hai vật mẫu khi thực hành.  d) Nguyên nhân Bên cạnh thành công trên, nguyên nhân dẫn đến một vài hạn chế, yếu kém khi  thực hiện đề tài này là vì: + Phân môn vẽ theo mẫu khá khô khan, số học sinh có sở thích vẽ theo mẫu  chưa nhiều, vốn về đậm nhạt, tỉ lệ của các em còn ít, khả năng vận dụng các  yêu cầu, các hoạt động … còn chậm. + Một số học sinh chưa thật chú ý và quan tâm cần thiết đến phần giáo viên  hướng dẫn quan sát và phân tích mẫu dẫn đến khó thực hiện bài vẽ theo mẫu. e) Phân tích và đánh giá những vấn đề của thực trạng  Những vấn đề tồn tại, hạn chế trong phân môn vẽ theo mẫu lớp 3 cần phải  được khắc phục sớm và được củng cố qua từng bài học, qua đó mới làm nền  tảng kiến thức, kỹ năng để học sinh vẽ tốt các phân môn khác và cho việc học  vẽ ở các lớp sau. Việc chuẩn bị mẫu vẽ của giáo viên và học sinh là hết sức  quan trọng. Ngoài ra, phương pháp giảng dạy cần được đổi mới cho phù hợp,  phát huy được năng lực, kỹ năng của học sinh, qua đó học sinh vẽ được những  bức tranh đảm bảo yêu cầu về đường nét, độ đậm nhạt, chia tỉ lệ…giúp các em  đạt được kết quả cao trong học tập. Qua môn vẽ, cũng cần phát huy trí tưởng tượng sáng tạo, làm giàu cảm xúc  thẩm mĩ cho học sinh trên cơ sở cung cấp kiến thức và rèn kĩ năng cơ bản. Học  sinh sẽ cảm thụ được ve đ ̉ ẹp của các sự vật, cuộc sống xung quanh và tác phẩm  Mĩ  thuật thông qua ngôn ngữ của hội họa là bố cục, đường nét, hình khối, ánh  sáng màu sắc, có khả năng thể hiện cảm xúc của mình về thế giới xung quanh.  Đồng thời, qua đây hình thành phẩm chất đạo đức, nhân cách cho học sinh : Biết  quan sát, so sánh, đánh giá đồ vật ; tính tỉ mỉ, cẩn thận ; biết đánh giá về kết quả  làm việc của bản thân… GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    6    ====                   Trường TH Krông Ana 
  7. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu Mặt khác, hiện nay nhu cầu tiến tới cái đẹp ngày càng cao, các em biết nhận  xét, bình chọn những tiêu chí cho cái đẹp, thế nào là đẹp phù hợp với cá nhân...  Chính vì thế, môn Mĩ thuật là môn hỗ trợ cho nhu cầu tất yếu của các em trong  cuộc sống, từ đây khơi gợi cho các em những lựa chọn đúng trong học tập và  thực tế trong sinh hoạt hàng ngày, cho mai sau.  Từ những thực trạng trên, tôi đưa ra một số kinh nghiệm của bản thân đã thực  hiện trong thời gian qua, phân nao đo đa cai thiên đ ̀ ̀ ́ ̃ ̉ ̣ ược chât l ́ ượng hoc tâp cua  ̣ ̣ ̉ phân môn nay.̀ II.3. Giải pháp biện pháp a/ Mục tiêu của giải pháp thực hiện Chỉ ra phương pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn Vẽ theo mẫu. Giúp học sinh vẽ hình tự tin, thoải mái, sắp xếp hình phù hợp với khuôn  khổ giấy vẽ với bố cục đẹp, đậm nhạt hài hòa.  Biết sử dụng ngôn ngữ của hội họa là bố cục, đường nét, hình khối, ánh sáng  màu sắc, có khả năng thể hiện cảm xúc của mình về thế giới xung quanh. Rèn cho học sinh có thói quen luôn quan tâm đến các sự vật quanh mình, tìm  hiểu các sự vật luôn đi từ tổng quát đến chi tiết. Nhằm phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vẽ theo mẫu. Tăng cường tính hợp tác, học hỏi lẫn nhau trong quá trình học tập của học  sinh. b/  Nội dung thực hiện các biện pháp b.1. Giáo viên thiết kế bài giảng, chuẩn bị đồ dùng dạy học. Cả giáo viên và học sinh đều phải có sự chuẩn bị chu đáo cho một bài học. Mọi  yếu tố của bài được chuẩn bị tốt thì tiết dạy sẽ hiệu quả, thành công, ngược lại  nếu không chuẩn bị tốt sẽ lúng túng mất thời gian và không hiệu quả. b.1.1. Sự chuẩn bị đối với giáo viên. Giáo viên cần chủ động chuẩn bị hai nội dung cụ thể đó là : Đồ dùng dạy học  và chuẩn bị phương pháp giảng dạy  Chuẩn bị đồ dùng dạy học :  Để dạy tiết học vẽ theo mẫu cần phải chú ý nhiều tới đồ dùng dạy học và  phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học. Bởi vì, dạy vẽ theo mẫu là dạy trên  những gì hiện diện một cách rõ ràng trước học sinh. Học sinh phải được quan  sát một cách cụ thể về hình dáng, đậm nhạt, màu sắc, đường nét, bố cục và  tương quan vật mẫu (đối với bài hai mẫu).  Việc sử dụng phương pháp trực quan là đặc thù trong dạy Mĩ  thuật. Vì học sinh  phải quan sát, nhận xét thì mới hình thành được khái niệm. Hơn thế vẽ theo  mẫu lại phải trực quan cụ thể, thực tế.  Giáo viên cần chuẩn bị mẫu đẹp, đa dạng, phù hợp với nội dung, mục đích của  bài học, mẫu phải gần gũi với cuộc sống thường ngày. Mẫu vẽ đẹp thể hiện ở  hình dáng, cấu trúc, các bộ phận (chi tiết) có đậm, có nhạt và việc chọn được  mẫu vẽ đẹp sẽ gây hứng thú cho học sinh học tập, tạo điều kiện cho các em  cảm thụ và vẽ có hiệu quả. Nếu là mẫu có 2 đồ vật trở lên cần chú ý về tương  GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    7    ====                   Trường TH Krông Ana 
  8. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu quan tỷ lệ : Tránh đồ vật cao to quá so với đồ vật nhỏ thấp quá, hoặc hai vật có  hình dáng và tỷ lệ tương đương nhau. Về tương quan đậm nhạt : Tránh các đồ  vật có độ đậm nhạt tương phản quá hay mờ nhạt quá trong cùng một mẫu vẽ.  Giáo viên chuẩn bị đủ mẫu theo đơn vị bài và căn cứ theo thực tế của từng bài  để chuẩn bị nhiều mẫu cho học sinh họat động theo nhóm, tổ hoặc cũng có thể  yêu cầu học sinh cùng chuẩn bị mẫu, chuẩn bị mẫu riêng ở nhà mang đi.  Ví dụ : Bài 3, lớp 3 : “Vẽ quả”, Trong lớp học có từ 30 em trở lên ngồi trong  một phòng học bàn ghế kê sát nhau theo một hướng lên bảng, nếu bày mẫu một  quả trên bảng thì những học sinh ngồi cuối lớp hoặc bàn dưới sẽ không thể  thấy rõ được mẫu, như vậy sẽ vô hiệu khi giáo viên hướng dẫn quan sát nhận  xét. Ở bài này do quả nhỏ, quan sát khó cho nên giáo viên có thể chuẩn bị 3, 4  mẫu và bày mẫu theo nhóm, theo tổ giúp học sinh quan sát và vẽ hiệu quả hơn.  Hay với bài 11 lớp 3 : “Vẽ cành lá” ngoài việc giáo viên chuẩn bị một số mẫu  cành lá phục vụ cho hoạt động quan sát, nhận xét thì cần yêu cầu học sinh  chuẩn bị mẫu cành lá riêng. Vì cành lá nhỏ, cần đặt gần thì khi vẽ mới quan sát  kĩ và vẽ chi tiết được. Giáo viên cần chuẩn bị thêm một số mẫu tương tự, hoặc mẫu đối lập với mẫu  chính thức để học sinh so sánh, nhận xét nhanh chóng và dễ dàng hơn. Ví dụ : Ở bài 7 lớp 3 “vẽ cái chai”, ngoài vệc chuẩn bị một mẫu chính thức thì  giáo viên cần chuẩn bị thêm một số chai cũng có hình dáng khác để học sinh so  sánh, tìm được đặc điểm riêng của mẫu cái chai chính thức. Giáo viên phải chuẩn bị cho khả năng thị phạm tốt bởi vì, học sinh rất thích khi  giáo viên minh họa bảng đẹp. Chuẩn bị tốt khả năng này bài giảng của giáo viên  sẽ rất hấp dẫn và đạt hiệu quả cao. Khi giáo viên giảng tới cách vẽ phần nào  thì minh họa ngay bước đó đồng thời bám sát hình với mẫu thực, việc đó sẽ  giúp học sinh dần hình thành ý thức một cách có hệ thống. Chú trọng việc chuẩn bị dụng cụ để bày mẫu như : Giá để mẫu, khăn trải ;  Chuẩn bị chỗ ngồi cho học sinh, nếu có điều kiện thì kê bàn theo cữ U để tất cả  các học sinh đều được quan sát mẫu dễ dàng ; chuẩn bị cho hướng ánh sáng  chiếu một chiều vào mẫu. Cần chuẩn bị những tranh quy trình các bước hướng dẫn cách vẽ cụ thể, một  số hình vẽ về cách sắp xếp mẫu, sắp xếp khung hình chung đẹp và chưa đẹp.  Tất cả đều thể hiện to, rõ ràng trên giấy khổ lớn có gắn nam châm lá phía sau  để học sinh dễ quan sát, dễ gắn lên bảng. Ngoài ra giáo viên chuẩn bị đầy đủ  đồ cùng cho phần trò chơi, các phần hướng dẫn riêng biệt về quan sát hay  hướng dẫn cách sắp xếp hình...Việc chuẩn bị này giúp giáo viên thao tác các  bước trên bảng rất linh họat, tiết kiệm được nhiều thời gian, giáo viên không bị  lúng túng.  Chuẩn bị trực quan tốt giúp học sinh hình thành khái niệm mẫu vẽ một cách  nhanh nhất, đơn giản nhất, hiệu quả nhất.  Chuẩn bị phương pháp giảng dạy :  GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    8    ====                   Trường TH Krông Ana 
  9. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu Chuẩn bị và kết hợp linh hoạt các phương pháp như : Phương pháp trực quan ;  phương pháp so sánh ; gợi mở ; vấn đáp và luyện tập để phù hợp với bài giảng,  gắn liền với thực tiễn. Để phương pháp của mình chuẩn bị có hiệu quả thì giáo  viên cần dự kiến được các tình huống dạy học. Đối với học sinh tiểu học, cần dạy cho các em phương pháp quan sát đối tượng  (rèn luyện tri giác, thị giác) và thể hiện đối tượng (rèn luyện kỹ năng thể hiện),  đồng thời giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Dạy vẽ theo mẫu có quy trình chung,  cụ thể là cách quan sát nhận xét mẫu thật, cách tiến hành bài vẽ. Các bài đầu  cần dạy kỹ để học sinh nắm được những yêu cầu chung, rèn luyện thói quen  học tập. Những bài tiếp theo chỉ nêu đặc điểm của mẫu, còn phần lớn thời gian  dành cho thực hành. Học sinh tự quan sát và vẽ theo cách nhìn, cách nghĩ và cảm  thụ của riêng mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Không áp đặt hay bắt  buộc các em vẽ theo một khuôn mẫu. Để giúp học sinh vẽ theo mẫu tốt, bước  đầu cần hình thành cho các em thói quen quan sát tinh tế, biết cách phân tích vật  mẫu, biết sử dụng cách dựng hình cơ bản và vẽ đậm nhạt.  Cần phải đơn giản hoá những cụm từ mang tính chuyên môn tối thiểu như “bố  cục”, “khung hình”, “khung hình chung”, “tỉ lệ”. Giải thích căn kẽ để học sinh  làm quen và dần hiểu qua các hoạt động theo hệ thống các bài để tạo thành thói  quen cho học sinh. Có thể chuẩn bị theo những gợi ý sau : “Bố cục” nên giải  thích đơn giản đó là sự sắp xếp hình vẽ vào trang giấy, bố cục đẹp là sự sắp  xếp hình vẽ cân đối, bố cục lệch, xấu là sự sắp xếp hình vẽ trên trang giấy  chưa hợp lý ; Tỷ lệ ta có thể hiểu đơn giản là chiều cao so với chiều ngang,  xem các chiều này hơn kém nhau bao nhiêu lần, từ đó giữ được tỷ lệ chuẩn của  mẫu khi vẽ sẽ không bị sai lệch.  Ví dụ : Mẫu vẽ cái bình đựng nước có tỷ lệ chiều cao bằng hai lần chiều  ngang, như vậy hình vẽ có to bằng bao nhiêu đi nữa thì chúng ta vẫn phải  hướng dẫn học sinh vẽ chiều cao của cái bình đựng nước bằng hai lần chiều  ngang, có như vậy hình vẽ mới cân đối, cái bình đựng nước sẽ không bị thấp  quá hay không bị cao quá hay chúng ta nói là “tỷ lệ” của bài vẽ cân đối  Tương tự như vậy, “khung hình” là hình vẽ bên ngoài của vật mẫu, hiểu đơn  giản, cụ thể như một khối hộp nằm ngoài bao kín vật mẫu tạo thành một khung  hình bao quanh.  Ví dụ : Lớp 3, bài 11 “Vẽ cành lá”. Khi hướng dẫn về phần khung hình, giáo  viên giải thích : “khung hình” là hình vẽ bên ngoài của cành lá, hiểu đơn giản,  cụ thể như một khối hộp nằm ngoài bao kín vật mẫu tạo thành một khung hình  bao quanh. Đến bài 18 “Vẽ lọ và hoa” giáo viên chỉ vào khung hình hỏi : “Ta gọi  hình vẽ bên ngoài của cái lọ này là gì?”. Khi học bài 23 “vẽ cái bình đựng nước”  giáo viên chỉ cần hỏi “Khung hình của mẫu bình đựng nước này là hình gì” lúc  đó học sinh sẽ hiểu và trả lời ngay được. Như vậy giáo viên đã tạo cho học sinh  được khái niệm về các từ mang tính chuyên môn đặc biệt thường được dùng ở  các lớp sau. GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    9    ====                   Trường TH Krông Ana 
  10. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu Giáo viên không đòi hỏi, không bắt buộc tất cả học sinh làm bài như nhau và  tuân thủ một cách máy móc, rập khuôn theo cái chung. Học sinh tuy vẽ cùng một  mẫu nhưng sản phẩm sẽ rất khác nhau về nét, về hình, về mầu, về cách bố  cục, cách nhìn, cách hiểu, cách cảm nhận của mỗi học sinh khác nhau sẽ tạo ra  những sản phẩm có nhiều vẻ khác nhau. Vì thế dạy học Mĩ  thuật nói chung và  dạy vẽ theo mẫu  nói riêng không đơn giản là dạy và học kĩ thuật vẽ mà còn  phải kết hợp với dạy và học cảm thụ thế giới quan xung quanh. Bắt buộc, gò ép  học sinh trong học Mĩ  thuật sẽ dẫn đến khuôn mẫu, đồng điệu. Phương pháp giảng dạy của giáo viên cần phát huy được tính tích cực, sự độc  lập suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của học sinh. Đây cũng là tư tưởng chủ đạo của  phương pháp dạy học Mĩ  thuật nói chung và daỵ vẽ theo mẫu nói riêng. Kết  quả cuối cùng của việc dạy là kiến thức phải đến với người học. Hơn nữa, học  sinh phải là người chủ động tiếp nhận kiến thức. Vì thế giáo viên không chỉ  quan tâm đến phương pháp dạy của giáo viên mà còn phải chú ý tới phương  pháp học của học sinh. Do đó, khi Dạy­Học vẽ theo mẫu giáo viên còn cần phải  chú ý những đặc điểm sau : + Tạo được không khí học tập tốt để học sinh háo hức chờ đón bài học. + Tạo điều kiện cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi những vấn đề mà giáo viên giảng  giải. + Tổ chức bài học sao cho học sinh tham gia vào quá trình nhận thức một cách  tự giác. + Động viên khích lệ nhằm giúp học sinh làm bài bằng khả năng và cảm xúc  riêng. Để chuẩn bị phương pháp dạy học tốt thì việc sắp xếp, tổ chức giờ dạy thông  qua giáo án, qua kế họach giảng dạy tiết vẽ theo mẫu đó một cách rõ ràng, cụ  thể là cần thiết. Các bài vẽ theo mẫu ở lớp 3 đã được sắp xếp theo cấu trúc  đồng tâm nên khi chuẩn bị giáo án giáo viên xác định mục tiêu của từng bài dạy  cụ thể theo mạch nội dung cao dần theo chương trình để hướng dẫn cho học  sinh nắm bắt kiến thức một cách có hệ thống. Ví dụ : Bài 3 “vẽ quả”, bài 7 “vẽ cái chai”, bài 11 “vẽ cành lá”, bài 18 “vẽ lọ  hoa” thì việc quan sát, nhận xét mẫu khá đơn giản vì vậy giáo viên cần xây  dựng kế họach giảng dạy ngoài việc hướng dẫn để học sinh nắm về đặc điểm  của mẫu và cách vẽ thì giáo viên đi sâu vào giới thiệu về khung hình, đậm nhạt,  rồi giới thiệu thêm về vẽ màu đậm nhạt có pha màu đối với học sinh có năng  khiếu. Ở một số bài có mẫu phức tạp, nhiều chi tiết hơn như bài 23 “vẽ cái  bình đựng nước”, bài 30 “Vẽ cái ấm pha trà” giáo viên xây dựng mục tiêu của  bài học đi sâu vào so sánh tương quan các bộ phận. Riêng với bài 27 “vẽ lọ hoa  và quả” là bài vẽ mẫu có hai vật mẫu, các kiến thức khác đã được cung cấp,  học sinh hiểu rõ ở các bài trước giúp tiết kiệm được thời gian và lúc này giáo  viên tập trung vào hướng dẫn cho học sinh hiểu kiến thức mới về khung hình  chung và tương quan về tỉ lệ, đậm nhạt giữa hai vật mẫu. GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    10    ====                   Trường TH Krông Ana  
  11. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu Giảng dạy theo phương pháp “Thầy chủ đạo – trò chủ động”, lấy học sinh làm  trung tâm và thầy giáo là người hướng dẫn cũng được thể hiện rõ trên giáo án.  Mọi họat động của giáo viên  mang tính chất gợi mở, cũng như vậy mọi họat  động tích cực của học sinh được lập kế họach theo từng bước của tiến trình  giảng dạy. Và đặc biệt giáo viên cần chú ý tới phần minh họa bảng cũng cần  được thể hiện rõ trong giáo án theo một cột riêng  b.1.2. Sự chuẩn bị đối với học sinh. Học sinh cần chuẩn bị tốt điều kiện để tham gia vào tiết học một cách tích cực  và hiệu quả như sau : + Học sinh cần xem bài trước để tìm hiểu mẫu ở nhà hoặc mẫu tương tự, sẽ  tạo được thói quen chủ động cho học sinh. Cũng có những bài, ngoài việc quan  sát mẫu trước ở nhà, học sinh cần chuẩn bị mẫu cá nhân để giờ thực hành học  sinh làm việc một cách độc lập. Việc chuẩn bị này giúp học sinh tư duy nhanh  hơn, so sánh dễ dàng hơn và đặc biệt tiếp thu bài cũng nhanh hơn. + Việc chuẩn bị đồ dùng học tập cũng là một yếu tố rất cần thiết đối với học  sinh. Chuẩn bị được đồ dùng học tập tức là đã góp một phần lớn vào hiệu quả  của giờ dạy. Nếu học sinh không có vở dẫn tới không làm bài hoặc làm lấy lệ  và nếu thiếu màu, hoặc bút chì thì các em sẽ chờ để mượn của bạn khác dẫn  đến lớp học sẽ rất mất trật tự và ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tiết dạy. Việc chuẩn bị tốt của thầy và của trò cho bài học vẽ theo mẫu sẽ đem lại hiệu  quả cao cho tiết học và khắc phục được cách Dạy­Học cũ và lạc hậu. b.2. Hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét mẫu Hầu hết các mẫu vẽ ở lớp 3 đều là những hình vẽ đơn giản, giáo viên giới  thiệu mẫu và hướng dẫn quan sát, so sánh tối đa từ 5 7 phút thì đòi hỏi lời  giảng  của giáo viên cần cô đọng, dễ hiểu và phải thực tế.  Bày mẫu :  ­ Để học sinh chủ động hơn trong việc quan sát và nắm bắt kiến thức. Trong  các bài vẽ theo mẫu giáo viên cho học sinh tự chọn và bày mẫu rồi cho lớp tự  nhận xét. Sau đó giáo viên nhận xét, có thể sắp xếp lại mẫu và chỉ ra được như  thế nào là sắp xếp đẹp để học sinh khắc sâu và hiểu được vẻ đẹp trong nghệ  thuật sắp xếp. ­ Đối với vẽ theo mẫu, việc đặt mẫu vẽ có ý nghĩa quan trọng đến bố cục bài  vẽ đẹp hay xấu. Hiểu được điều đó, khi đặt mẫu vẽ, giáo viên cần chú ý :  + Không nên đặt xa quá so với tầm nhìn của học sinh, nếu là mẫu nhỏ thì nên  chuẩn bị nhiều mẫu để học sinh vẽ theo nhóm. Không nên đặt mẫu cao quá so  với tầm nhìn của học sinh mà phải đặt duới tầm nhìn một chút để học sinh thấy  đuợc mặt trên của mẫu  Với mẫu có 2 đồ vật trở lên :  + Không nên đặt các đồ vật thẳng hàng ngang, nên đặt đồ vật sao cho có xa, có  gần để tạo không gian.  + Không nên đặt hai đồ vật sát nhau để chúng tạo nên những đuờng nét trùng  nhau không đẹp.  GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    11    ====                   Trường TH Krông Ana  
  12. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu + Không nên đặt hai đồ vật chính giữa nhau, làm cho bố cục bài vẽ khó đẹp. +  Không nên đặt đồ vật này che khuất đúng một nửa của đồ vật kia, nên đặt  chúng che khuất nhau hoặc cách xa nhau vừa phải. ­ Giáo viên cần phải biết cách đặt mẫu như ở trên để có bố cục đẹp mắt, phù  hợp. Tuy nhiên khi nhận xét và chỉ ra cách sắp xếp mẫu giáo viên không nhất  thiết phải truyền tải hết những cách sắp xếp đó cho học sinh. Khi học sinh đặt  mẫu chưa đẹp, giáo viên chỉ nhận xét và chỉ ra chỗ chưa đẹp và sắp xếp lại  nhằm giúp học sinh định hướng và dần hình thành cho học sinh về bố cục, thẩm  mĩ. Giáo viên nên đặt nhiều mẫu gống nhau để học sinh quan sát theo nhóm. Khi  học sinh quan sát theo nhóm, học sinh sẽ nhận xét, so sánh mẫu rất hiệu quả,  khắc phục được việc học sinh không quan sát mẫu, nói chuyện và đùa nghịch.  Nhưng cái lớn nhất đạt được là học sinh đều nhận xét mẫu. Phương pháp dạy quan sát mẫu :  Việc hướng dẫn của giáo viên dạy vẽ theo mẫu cần rất cụ thể vì tâm lí lứa tuổi  học sinh tiểu học, các em chỉ nhận thức vấn đề từ cảm tính, nhìn thấy thực tế.  Vì lý do này, giáo viên cần hình tượng, cụ thể hoá mẫu vẽ thành những hình  học, những nét vẽ đơn giản, có tên, cụ thể và dễ mô phỏng.  Ví dụ : Vẽ cái chai trước hết phải hướng dẫn học sinh vẽ một hình học giống  cái chai, như hình chữ nhật. Do đó để vẽ được hình cái chai cần phải vẽ hình  chữ nhật trước.  Đối với học sinh lớp 3, các em còn nhỏ, khái niệm về Mĩ  thuật còn hạn chế  nhiều, nên giáo viên cần hướng dẫn học sinh so sánh mẫu ngoài bằng lời ra còn  bằng cả hành động (động tác).  Ví dụ : Khi hướng dẫn các em quan sát để tìm ra hình chung của mẫu giống  hình gì. Nếu giáo viên chỉ sử dụng câu hỏi không, buộc học sinh phải hình dung  khó hơn, lâu hơn, nhưng nếu giáo viên hỏi xong rồi dùng thước kẻ chặn hai  chiều, theo chiều ngang và chiều dọc. Lúc đó học sinh sẽ được cụ thể hoá hình  chung của mẫu là hình học gì? Bằng phương pháp này học sinh sẽ nhận xét  nhanh hơn và hiệu quả hơn, tỷ lệ hình dễ chuẩn xác hơn. Khi đặt câu hỏi quan sát cần sử dụng những cụm từ ít chuyên môn mà sử dụng  những cụm từ đơn giản nhưng dễ hiểu  Căn cứ vào thực tế cùng phương pháp giảng dạy cải tiến đối với phân môn vẽ  theo mẫu, tôi đưa ra một số ví dụ áp dụng nội dung đổi mới cho vấn đề hướng  dẫn quan sát nhận xét: Ví dụ : Bài 27 lớp 3 : “Vẽ lọ hoa và quả”, mục tiêu đặt ra ở bài này là học sinh  tập quan sát, so sánh, ước lượng tỷ lệ hai mẫu để tìm ra vị trí, kích thước các bộ  phận của mẫu và biết cách vẽ mẫu có 2 vật mẫu. Riêng về kĩ năng yêu cầu học  sinh vẽ được gần đúng mẫu (diễn tả được đặc điểm, tỷ lệ chính của mẫu). + Trước khi vào phần hướng dẫn học sinh quan sát nhận xét, giáo viên đặt câu  hỏi : Mẫu hôm nay vẽ có gì khác với mọi khi?. Mục đích để học sinh hiểu được  đây là một mẫu khó, đòi hỏi học bài cần tập trung cao, có tư duy so sánh, tạo  GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    12    ====                   Trường TH Krông Ana  
  13. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu không khí thích tìm tòi, khám phá của học sinh, và gây chú ý cho học sinh đối với  mẫu bày phía trước. + Quan sát khung hình chung : Giáo viên nên chuẩn bị ba miếng bìa được đục lỗ  có chiều rộng khác nhau để thể hiện khung hình chung của hai vật mẫu ở ba  hướng vị trí quan sát khác nhau. Khi giáo viên cụ thể hoá bằng cách đục lỗ  miếng bìa thì học sinh nhận xét hình rất nhanh và so sánh rất tốt bởi vì, trẻ ở  tiểu học thường cảm nhận trực quan là chính. Nếu chúng ta hướng dẫn học sinh  bằng cách chỉ vào mẫu và yêu cầu học sinh so sánh, cho biết hình chung e rằng  học sinh ước lượng, tính toán rất khó. Việc đục lỗ miếng bìa làm đơn giản ở  chỗ học sinh sẽ chỉ nhìn thấy một lỗ thủng mà trong nó (phía sau) chứa chọn  vẹn mẫu vẽ, đương nhiên khái niệm về khung hình chung hình thành rất nhanh.  + Quan sát khung hình riêng : Phần khung hình riêng học sinh đã nắm được khi  học vẽ theo mẫu ở lớp 2, nhưng ở bài này lại có tới 2 khung hình riêng, học sinh  sẽ dễ bị lúng túng khi vẽ bởi không biết đặt vị trí các khung hình đó như thế  nào. Vì vậy tôi chuẩn bị hai miếng bìa : Khi cho học sinh quan sát và nêu khung  hình riêng của từng vật mẫu xong tôi đưa lần lượt từng tờ bìa lên để mô phỏng  khung hình của từng mẫu.  + Quan sát vị trí của các vật mẫu : Đặt câu hỏi cho 3 học sinh ở 3 vị trí khác  nhau về “Ở vị trí em ngồi, quả nằm bên phải, trái hay ở giữa lọ hoa?”. Sau khi  học sinh lần lượt nêu theo từng vị trí, giáo viên tổ chức cho học sinh  đại diện ở  3 nhóm vị trí khác nhau lên. Mỗi em gắn 2 tờ bìa chỉ khung hình riêng của vật  mẫu lên  tấm bìa thể hiện khung hình chung ở vị trí mình ngồi nhìn thấy. Hoạt  động này đã giúp học sinh cùng tham gia nên các em rất chú ý quan sát, từ đó các  em dễ dàng hiểu rõ về vị trí của các vật mẫu. Ở phương pháp này mục đích cho  học sinh nhận ra mẫu vẽ sẽ thay đổi khi nhìn ở những vị trí khác nhau. + Quan sát so sánh từng phần của từng vật mẫu : Do đây là mẫu có hai vật mẫu  nên sẽ có rất nhiều chi tiết : Như miệng của lọ, vai lọ, thân, đáy lọ, cuống quả,  thân quả... Tuy nhiên học sinh đã được làm quen, đã được vẽ các vật mẫu này ở  lớp 1, 2 và ở bài 3, lớp 3 nên phần quan sát, so sánh từng bộ phận của từng vật  mẫu là không quá khó với các em. Tôi chỉ đặt các câu hỏi trong phần cho học  sinh quan sát đơn giản, dễ hiểu để học sinh tự nhận xét.  Với một số bài vẽ mẫu một vật mẫu cái ấm pha trà, cái bình đựng nước thì ở  các vị trí ngồi khác nhau sẽ thấy vật mẫu khác nhau. Có vị trí nhìn thấy cả vòi  và quai, có vị trí chỉ thấy quai và một phần vòi, có vị trí lại thấy vòi chứ không  thấy quai vì thế khi hướng dẫn quan sát giáo viên cần chú ý yêu cầu học sinh  nhận xét mẫu ở vị trí mình ngồi.  + Quan sát, nhận xét màu sắc (đậm nhạt) của vật mẫu : Đối với lớp nhỏ như  lớp 3 việc vẽ đậm nhạt chỉ là bước đầu hình thành khái niệm về đậm nhạt và  tập vẽ đậm nhạt bằng màu hoặc chì đen. Tôi hướng dẫn học sinh quan sát mẫu  để chỉ ra hướng ánh sáng chiếu vào mẫu, nhận dạng được 3 sắc độ đậm nhạt  trên từng vật mẫu (ví dụ : Trên mẫu phần bên nào là đậm nhất? phần sáng nhất  nằm ở bên nào? Còn ở giữa em thấy độ đậm nhạt như thế nào?) và so sánh  GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    13    ====                   Trường TH Krông Ana  
  14. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu được độ đậm nhạt tương quan giữa hai vật mẫu (Yêu cầu học sinh nheo mắt  nhỏ, nhìn lên mẫu. Hỏi : Em thấy vật nào đậm hơn). Cũng cần hướng dẫn học  sinh quan sát phần bóng đổ của mẫu (ví dụ : Em thấy bóng của lọ đổ về bên  nào?)  Qua ví dụ cụ thể trên chúng ta thấy để bắt đầu học vẽ nói chung và vẽ theo  mẫu nói riêng thì việc quan trọng đó là phải quan sát, nhận xét. Khi quan sát  nhận xét đầy đủ mẫu việc tiến hành vẽ của học sinh sẽ dễ dàng và ít mắc phải  lỗi sai lớn về tỷ lệ, hình dáng. Khi học sinh quan sát, nhận xét giáo viên cần đặt  các câu hỏi ngắn, đơn giản, dễ hiểu và có thể chia nhỏ câu hỏi đối với các đối  tượng học sinh yếu. Có thể nói phần hướng dẫn quan sát nhận xét là điều kiện  bất biến để hướng dẫn cho học sinh cách vẽ. b.3. Hướng dẫn học sinh cách vẽ : Hướng dẫn cách vẽ cũng chính là một lần nữa hệ thống lại các kiến thức  ở  phần quan sát, nhận xét mẫu. Hoạt dộng này giúp học sinh nắm được các   bước vẽ  và vừa phân tích vừa vẽ  minh họa để  học sinh hiểu hơn về  mẫu, về  cách vẽ cụ thể ở từng phần của mẫu. Thông qua việc giới thiệu bài vẽ của học   sinh các lớp trước để hướng dẫn thêm cho học sinh cách bố cục, hình nét, đậm  nhạt trong bài vẽ theo mẫu. b.3.1. Các bước thực hiện bài vẽ theo mẫu : Để học sinh nắm được cách vẽ, trước tiên giáo viên cần giúp các em nắm  bắt quy trình thực hiện bài vẽ  theo mẫu được thực hiện bằng các bước vẽ  cụ  thể. Tùy vào từng bài mà giáo viên giới thiệu các bước vẽ  trực tiếp hoặc gián  tiếp : + Giới thiệu trực tiếp : Có thể yêu cầu học sinh nêu cách vẽ theo mẫu mà học  sinh còn nhớ và hiểu theo cách riêng của cá nhân hoặc đưa các tranh quy trình  các bước vẽ theo mẫu lên bảng, giới thiệu hoặc cho học sinh nhìn tranh nêu các  bước. + Giới thiệu gián tiếp :  Để  học sinh nhớ  lại các bước thực hiện bài vẽ  theo mẫu đã học  ở  lớp 2 hoặc đã học  ở  những bài trước, giáo viên thực hiện  việc kiểm tra kiến thức cũ bằng cách cho học sinh chơi trò ghép các bước vẽ  theo đúng trình tự hoặc tìm bước vẽ còn thiếu. Học sinh hào hứng, tập trung suy   nghĩ tìm ra sau đó yêu cầu học sinh nêu lại các bước vẽ  và cho lớp nhận xét.  GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    14    ====                   Trường TH Krông Ana  
  15. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu Qua hoạt động này, học sinh nắm được nhanh chóng và khắc sâu về trình tự các   bước vẽ. Từ đó khi giáo viên hướng dẫn cách vẽ học sinh tiếp thu nhanh hơn. b.3.2. Hướng dẫn về bố cục (cách sắp xếp) :  Ở các lớp 1,2 học sinh đã được vẽ nhiều bài, ở các bài giáo viên đều có phần  hướng dẫn về bố cục (cách sắp xếp) nên hầu hết các em đã nắm được cách sắp  xếp hình ảnh trong tranh. Nhưng tâm lí lứa tuổi học sinh lớp 3 vẫn còn rất nhỏ  nên thường không chú ý và hay quên nên giáo viên vẫn cần phải hướng dẫn về  cách sắp xếp khi học sinh vẽ khung hình cần cân đối trong khổ giấy. Đó cũng  chính là sắp xếp bố cục trong bài.  Giáo viên cho học sinh nhận xét về bố cục khi giới thiệu một số bài vẽ của các  anh chị học sinh năm trước để học sinh hiểu được cách sắp xếp hình như thế  nào là cân đối, đẹp. b.3.3. Hướng dẫn học sinh vẽ khung hình của mẫu : Dựng khung hình chính là nền tảng cho bài vẽ. Khung hình có nghĩa là hình của  mẫu vẽ được chứa chọn vẹn bên trong khung hình ấy. Khi xác định bố cục của  bài vẽ chiếm bao nhiêu giấy tức là khung hình sẽ chiếm từng ấy. Giáo viên cần  hướng dẫn cho học sinh hiểu về cách sắp xếp và cách vẽ khung hình như sau : + Hướng dẫn vẽ khung hình kết hợp cách sắp xếp (bố cục) :  Học sinh đã nắm được khung hình của mẫu qua phần quan sát, nhận xét. Khi  hướng dẫn vẽ giáo viên chỉ cần nhắc học sinh vẽ khung hình cân đối trong khổ  giấy, khung hình có được sắp xếp cân đối thì mẫu được vẽ vào khung hình ấy  cũng sẽ cân đối và đẹp. Ví dụ : Bài 3, lớp 3 : “Vẽ quả”, giáo viên giới thiệu một số bài vẽ khung hình  quá to, nhỏ, lệch và cân đối trong khổ giấy lên bảng. Hướng dẫn học sinh quan  sát, nhận xét để các em tự nhận ra cách sắp xếp đẹp. Sau đó giáo viên chốt  “khung hình có được sắp xếp cân đối trong khổ giấy thì mẫu quả được vẽ vào  khung hình ấy cũng sẽ cân đối và đẹp”. Đến Bài 7 lớp 3 : “Vẽ cái chai”, giáo  viên chỉ cần nhắc nhở về việc khi vẽ theo mẫu muốn mẫu cái chai sắp xếp cân  đối, hài hòa trong khổ giấy ta cần vẽ khung hình to vừa, cân đối.  + Chú ý đến tỉ lệ khi vẽ khung hình :  Giáo viên vẽ khung hình của mẫu lên bảng, trong khi vẽ yêu cầu học sinh nhắc  về tỉ lệ của khung hình và nhấn mạnh cần chú ý về so sánh kích thước của  chiều ngang so với chiều dọc (tỉ lệ) của khung hình. Nếu khung hình có tỷ lệ  chuẩn thì việc mô phỏng mẫu sẽ giống thực. Khi vẽ khung hình học sinh chủ  động được tỷ lệ với trang giấy chính là chủ động được bố cục trong tranh. Ví dụ : Bài 23, lớp 3 : “Vẽ cái bình đựng nước”, giáo viên đặt câu hỏi : “Chiều  dọc của bình so với chiều ngang thì chiều nào lớn hơn?”­ “chiều dọc lớn hơn  chiều ngang” ; “lớn hơn khoảng mấy lần?” – “gấp 2 lần”. Sau đó giáo viên  nhấn mạnh “như vậy hình vẽ có to bằng bao nhiêu đi nữa thì chúng ta vẫn phải  vẽ khung hình  có chiều cao của cái bình bằng hai lần chiều ngang, có như vậy  hình vẽ mới cân đối, cái bình sẽ không bị thấp quá hay không bị cao quá”. Giáo  GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    15    ====                   Trường TH Krông Ana  
  16. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu viên vừa vẽ phác khung hình lên bảng vừa giải thích như trên. Khi vẽ nét, giáo  viên hướng dẫn cách ước lượng, so sánh chiều ngang và dọc của khung hình, cử  chỉ bằng tay để học sinh dễ hiểu. + Vẽ khung hình ở các vị trí khác nhau :  Hướng dẫn vẽ khung hình chung (mẫu có 2 vật mẫu) : Học sinh đã được học  hoạt động quan sát, nhận xét mẫu nên khi hướng dẫn vẽ, giáo viên cho học sinh  ở 3 vị trí khác nhau (theo chủ đích của giáo viên) nêu khung hình chung mà các  em thấy. Sau mỗi lần từng em nêu, giáo viên gắn từng khung hình chung ở vị trí  em đó ngồi lên bảng. Nhờ vào hoạt động này học sinh nắm được ở mỗi vị trí  khác nhau thì sẽ thấy khung hình chung khác nhau. Hướng dẫn vẽ khung hình riêng : Với một số mẫu đơn giản như : Quả, cái chai,  lọ hoa cân đối thì hầu như ở vị trí quan sát khác nhau vẫn thấy khung hình riêng  giống nhau. Nhưng vói các mẫu phưc tạp hơn như : Cái ấm pha trà, cái bình  đựng nước Ở mỗi vị trí khác nhau thì sẽ thấy khung hình của mẫu khác nhau. Ví  dụ khi quan sát cái ấm, ở vị trí 1 học sinh chỉ thấy thân và vòi, vị trí 2 thấy cả  vòi, thân và quai, ở vị trí 3 lại thấy phần quai, thân và 1 phần của vòi. Như vật  chiều ngang của cái ấm sẽ thay đổi ở các vị trí quan sát khác nhau. Do vậy  khung hình của ấm cũng sẽ thay đổi tỉ lệ. Giáo viên cần yêu cầu học sinh nêu  khung hình của mẫu ở vị trí quan sát của mình và lần lượt giáo viên gắn từng  khung hình ở vị trí em đó ngồi lên bảng hoặc gắn khung hình riêng vào hình  khung hình chung ở vị trí em đó ngồi lên. Ngay từ đầu cần phải nhắc học sinh chỉ nên vẽ khung hình bằng các nét mờ bởi  khi vẽ xong mẫu, các nét khung hình cũng sẽ phải tẩy đi. Yêu cầu học sinh  không được dùng thước để kẻ khung hình. Phân môn vẽ theo mẫu luyện tập cho  học sinh khả năng vẽ nét và đậm nhạt, trong đó vẽ nét là yếu tố rất quan trọng.  Khi tay đã vẽ luyện nét thuần thục rồi thì việc vẽ hình ở các phân môn khác  cũng sẽ tốt hơn. Chính vì vậy, giáo viên không được để các em dùng thước kẻ  hoặc compa để vẽ theo mẫu bời nếu vẽ cách đó thì nét vẽ không mềm mại,  thay vào đó là nét vẽ cứng nhắc, đơn điệu. b.3.4. Tìm và xác định vị trí của các bộ phận chi tiết trên mẫu vẽ. Phần này học sinh sẽ làm tương đối nhanh, bởi phần quan sát nhận xét giáo viên  đã hướng dẫn cụ thể rõ ràng. Như vậy, giáo viên cần tập trung hướng dẫn học  sinh một số thao tác vẽ cách dựng hình cơ bản, nét cơ bản, những thao tác này  vẫn còn nhiều giáo viên bỏ qua, hoặc xem nhẹ dẫn đến học sinh cũng vẽ đại  khái. Hướng dẫn học sinh vẽ được trục đối xứng cho bài vẽ có mẫu cân đối, đối  xứng như : Cái chai, lọ hoa, cái ấm pha trà, khi học sinh xác định được trục đối  xứng thì việc vẽ mẫu sẽ cân đối hơn. Tiếp theo giáo viên yêu cầu học sinh nêu những gì ở phần quan sát nhận xét tìm  ra và cho một học sinh lên bảng đánh dấu vị trí các bộ phận riêng lẻ của mẫu.  Cái mới ở đây là đã đưa học sinh thực sự vào hoàn cảnh có vấn đề cụ thể. Việc  cho học sinh lên xác định vị trí các bộ phận sẽ làm cho các em rất tập trung theo  GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    16    ====                   Trường TH Krông Ana  
  17. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu dõi. Như vậy vừa tạo được không khí học tập sôi nổi, vừa tập trung được nhiều  ý kiến của học sinh. Ggiáo viên quan sát, thấy được mức độ hiểu bài của lớp  học dễ hơn, kịp thời có biện pháp với những phần học sinh chưa nắm rõ.  b.3.5. Hướng dẫn học sinh vẽ phác bằng nét thẳng :  Tới phần này thì bài vẽ đã đang dần hiện bộ khung của của mẫu. Vì vậy, vẽ  phác hình mẫu là dựa trên khung hình và vị trí các bộ phận đã được xác định ở  bước vẽ trước. Để vẽ được bài giáo viên không nên hướng dẫn học sinh vẽ nét  cong giống thực ngay mà phải vẽ phác bằng nét thẳng trước.  Giáo viên cũng yêu cầu : Khi phác hình phải dùng bút chì, nhưng vẽ nhẹ tay để  tạo thành nét mờ. Một lần nữa giáo viên nhắc lại vẽ phác bằng nét thẳng chứ  không phải kẻ nét thẳng bằng thước. b.3.5. Hướng dẫn vẽ chi tiết (vẽ mô phỏng giống mẫu) :  Vẽ chi tiết tức là học sinh sẽ vẽ những gì các em quan sát, so sánh, nhận xét và  nhìn thấy trên vật mẫu. Đích cuối cùng của bài vẽ theo mẫu đối với học sinh  tiểu học là mô phỏng được mẫu. Sau các bước quan sát, dựng hình, phác hình thì  bước này có thể nói là bước hoàn thiện hình nét. Từ những nét vẽ phác trông  bản thân nó đã gần giống mẫu, giáo viên chỉ cần hướng dẫn học sinh vẽ bám  theo các nét thẳng để hoàn thiện hình. Phần này giáo viên không nên giảng áp  đặt. Các bước trước giáo viên đã minh họa bằng nét thẳng. Trên cơ sở mẫu,  giáo viên đặt câu hỏi tập trung vào các bộ phận chi tiết.  Ví dụ : Bài 18 MT3 : “Vẽ lọ hoa”, khi phác nét thẳng xong giáo viên đặt câu  hỏi : “Phần miệng của lọ và đáy của lọ là những nét gì?”. Giáo viên sẽ vẽ bảng  để minh chứng đồng thời giảng giải thêm : “Nét thẳng chỉ là nét cơ sở để vẽ nét  cong, hay nói khác là vẽ nét cong phải bám sát, dựa vào những nét thẳng, có như  vậy hình vẽ sẽ không bị méo hay lệch lạc. Trong lúc vấn đáp học sinh thì giáo viên vừa giảng vừa nhận xét và vừa minh  họa bảng. Hướng dẫn học sinh vẽ nét chi tiết xong cần phải tẩy bỏ các nét  chờm ra ngoài (nét phác) để hình vẽ gọn gàng hơn. Sau khi vẽ minh họa bảng xong, giáo viên có thể đi xuống cuối lớp, cùng học  sinh quan sát mẫu và hình minh họa để cùng tìm những chi tiết cần phải chỉnh  sửa cho giống mẫu. Cách làm này sẽ giúp cho học sinh tập trung vào mẫu và  hiểu được vẽ theo mẫu là phải quan sát mẫu và chỉnh sửa bài theo mẫu.  b.3.6. Hướng dẫn học sinh vẽ đậm nhạt : Vẽ đậm nhạt với học sinh tiểu học chủ yếu chú trọng cho đối tượng là học sinh  thuộc lớp cuối cấp như lớp 4,5. Bởi vì, vẽ đậm nhạt đòi hỏi học sinh phải có  kiến thức vững về hình rồi thì mới vẽ được đậm nhạt, nó còn thể hiện cả tình  cảm cảm thụ mẫu, cảm thụ cái đẹp. Đối với học sinh lớp 3 việc áp dụng để  học sinh hiểu và bước đầu tập vẽ đậm nhạt bằng chì hoặc màu là nền tảng  quan trọng cho các lớp sau. Do đặc diểm đó, giáo viên cũng không nên đòi hỏi  quá cao ở học sinh và cũng không nên quá coi nhẹ vấn đề này. Đặc biệt trong  quá trình giảng dạy tôi thấy, ở lớp 3 khá nhiều em, đặc biệt là những em có  năng khiếu cảm nhận mẫu và vẽ đậm nhạt rất tốt, giáo viên cũng nên định  GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    17    ====                   Trường TH Krông Ana  
  18. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu hướng và hướng dẫn cho các em vẽ đậm nhạt bằng màu, vẽ đậm nhạt bước  đầu đi sâu vào việc nhấn đậm, lấy sáng trên bài vẽ. Giáo viên cần chú ý ngay từ đầu tiết học để bày mẫu sao cho hợp với hướng  ánh sáng, đảm bảo được một bên mẫu tối, một bên sáng để học sinh quan sát  thấy được độ đậm độ nhạt trên mẫu rõ ràng. Ở tiểu học yêu cầu học sinh bước  đầu nhận biết được đậm nhạt khi vẽ theo mẫu tức là cần vẽ được ba độ đậm  nhạt : Đậm, đậm vừa, nhạt. Qua thực tế tôi thấy, hầu như học sinh chưa hiểu về vẽ đậm nhạt đặc biêt là vẽ  đậm nhạt bằng chì đen, nên học sinh còn bỡ ngỡ và chưa tự tin khi vẽ. Ở đây,  tôi mạnh dạn đưa cách hướng dẫn đậm nhạt đơn giản cho học sinh lớp 3 theo  cách “Từ ngắn đến dài”. Giải thích cho học sinh khi vẽ đậm nhạt cũng giống  như việc đan nan, đan nhiều thì sẽ dày. Dựa theo kiến thức đã học của học sinh  về vẽ đậm vẽ nhạt ở lớp 2, độ nhạt vẽ nét nhẹ tay, đan 1 lần, độ đậm vẽ mạnh  hơn, đan nhiều lần, còn độ đậm vừa ta đan nhiều lần hơn độ nhạt. Tôi thực  hiện vẽ đậm nhạt mẫu như sau : + Kéo hất các nét thẳng, các nét đều bắt đầu từ bên tối của mẫu + Kéo hất các nét xiên 1 chiều – dùng nét ngắn (H1) + Kéo hất các 1 chiều theo chiều khác – dùng nét dài hơn nét lần 1 (H2) + Kéo các 1 chiều theo chiều khác – dùng nét dài hơn nét lần 2 (H4) + Kéo hất các 1 chiều theo chiều khác – dùng nét dài hơn nét lần 3 (H4) + Tương tự như vậy cho đến hết mẫu ta có độ đậm, đậm vừa, nhạt chuyển dần  từ bên tối của vật mẫu đến bên sáng  (H5).  + Tuy nhiên. Không phải chỗ nào của mẫu cũng có độ đậm nhạt như vậy, một  số chỗ lồi, lõm ta cần điều chỉnh đậm nhạt như sau : Sau khi vẽ đậm nhạt theo  cách  “Từ ngắn đến dài” giáo viên lại tiếp tục đi xuống dưới lớp, cùng học sinh  quan sát, tìm ra những chỗ phản sáng, chỗ đậm nhất trên mẫu để chỉnh sửa trên  bài bằng cách nhấn đậm, xóa hoặc tẩy lấy sáng để hoàn thiện bài (H6).  GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    18    ====                   Trường TH Krông Ana  
  19. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu    Vẽ đậm nhạt cũng cần dựa vào chất liệu, sắc thái của mẫu để đưa các nét vẽ  đậm nhạt phù hợp. Mỗi chất liệu nhận ánh sáng khác nhau (sứ, gỗ, thạch  cao,...), màu sắc của mỗi vật thể khác nhau nên bản thân chúng có độ đậm nhạt  khác nhau. Cấu trúc của các vật thể (mặt phẳng, mặt cong, mặt nghiêng,...) tạo  ra những hình mảng sáng tối khác nhau. Do đó cần quan sát kỹ, chính xác để tìm  ra các mức độ đậm nhạt của chúng. Ngoài ra, cần chú ý và hướng dẫn học sinh  so sánh và hướng dẫn cách vẽ thể hiện tương quan về mức độ hơn kém đậm  nhạt giữa các vật mẫu. Đối với học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3  nói riêng vấn đề này hơi trừu tượng, tuy nhiên việc giáo viên vẽ bảng cách vẽ  đậm nhạt thể hiện được sắc thái, chất liệu của mẫu sẽ giúp học sinh dần hình  thành và bước đầu biết hiểu cụ thể và biết cách vẽ đậm nhạt đúng, đẹp hơn. Ví dụ :   Vẽ mẫu dạng hình trụ (các nét           Vẽ mẫu dạng mặt phẳng (các đậm nhạt thể hiện được chiều sâu, độ              nét vẽ đậm nhạt thẳng,  phẳng, đều) cong của mẫu) (H7) (H8)                        H7          H8 GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    19    ====                   Trường TH Krông Ana  
  20. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu Ví dụ : Mẫu “lọ hoa và quả” : Lọ hoa làm bằng sứ màu trắng, quả cam có màu  xanh lục đậm, khi hướng dẫn vẽ đậm nhạt cần cho học sinh so sánh đậm nhạt  giữa 2 mẫu và nhấn mạnh. Vì 2 mẫu là 2 chất liệu khác nhau, màu sắc cũng  khác nhau nên độ đậm nhạt cũng không giống nhau.                                                                            H 9 b.3.7. Hướng dẫn tham khảo bài của học sinh năm trước : Giới thiệu bài của học sinh năm trước là một nội dung quan trọng nhằm giúp  học sinh được tham khảo, thấy được cái cụ thể giúp học sinh tự tin rằng mình  cũng có thể làm được như thế hoặc hơn thế nữa. Từ đó học sinh một lần nữa  được củng cố về phần hướng dẫn cách vẽ mà giáo viên vừa thực hiện. Học  sinh hiểu rõ hơn về cách thức thực hiện và thêm tự tin khi thực hành. Một số ý kiến cho rằng, khi giới thiệu bài học sinh năm trước giáo viên nên đưa  ra tất cả các bài đều đẹp để học sinh nhìn theo, học hỏi. Tuy nhiên, tôi thấy  rằng giáo viên có thể tích hợp một số nội dung cần khác sâu cho học sinh trước  lúc vẽ bài cũng rất hiệu quả. Giáo viên chọn hầu hết các bài đều đẹp để học  sinh hứng thú, có hướng muốn vẽ được những bài đẹp. Chọn một số bài đẹp  nhưng vẫn còn mắc lỗi về cách sắp xếp hình và đậm nhạt hoặc chưa nhìn theo  mẫu nên vẽ sai vị trí của mẫu. Từ đó, học sinh rút được kinh nghiệm và khi bắt  đầu vào thực hành, sẽ không mắc lỗi sai thường gặp đó nữa.    b.4. Hướng dẫn học sinh thực hành Phần thực hành chúng ta phải dành 2/3 tiết học để các em thể hiện bài. Tùy vào  từng bài và đối tượng học sinh, giáo viên  tạo hứng thú cho học sinh khi thực  hành bằng cách tổ chức thi vẽ cả lớp, thi theo tổ, nhóm ; thi vẽ giống mẫu nhất,  thi làm họa sĩ tí hon... Việc hướng dẫn học sinh thực hành cần chú ý những nội dung như : Để học  sinh quan sát và vẽ độc lập ; giáo viên tham gia góp ý cho cá nhân học sinh. Nếu  để học sinh thực hành một cách tự do thoải mái và coi giờ thực hành của học  sinh là giờ nghỉ giải lao của giáo viên thì đó là quan niệm sai. Trong lúc học sinh  GV thực hiện : Ngô Thị Chung               ====    20    ====                   Trường TH Krông Ana  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2