SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh tích cực học môn Tập làm văn ở lớp 3
lượt xem 12
download
Mục tiêu của đề tài là Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh về phân môn Tập làm văn lớp 3 ở Trường Tiểu học hiện nay. Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ học tập làm văn ở lớp 3 với dạng bài: Nghe- kể lại chuyện; kể hay nói, viết về một chủ đề.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh tích cực học môn Tập làm văn ở lớp 3
- MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH TÍCH CỰC HỌC MÔN TẬP LÀM VĂN Ở LỚP BA PHẦN I: MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề tài Ở Tiểu học, môn Tiếng Việt có vai trò nền tảng cho học sinh trau dồi, phát huy vốn ngôn ngữ, rèn cho học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt. Thực tế cho thấy khả năng sử dụng từ, đặt câu, viết văn của học sinh là không đều nhau. Với chương trình giảng dạy hiện nay môn Tập làm văn được đổi mới với nhiều thể loại: miêu tả, kể chuyện, thuật, tranh luận trao đổi, xây dựng chương trình hoạt động, làm một số văn bản hành chính (đơn từ), biên bản. Điều này giúp học sinh tiến bộ về nhiều mặt, về khả năng vận dụng, sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt. Tuy nhiên, việc dùng từ ngữ đặt câu, viết văn của các em còn nhiều hạn chế. Các em sử dụng dấu câu còn lúng túng, sai vị trí cho nên khi đọc câu văn của các em trở nên khó hiểu và tối nghĩa. Việc giao tiếp của các em với thầy cô và bạn bè diễn ra tương đối tự nhiên. Nhưng khi gặp một vấn đề nào đó trong việc phải có từ ngữ, hình ảnh mới về một chủ đề nào đó đang tìm hiểu thì các em lúng túng ngay. Đối với học sinh lớp Ba việc diễn đạt ý, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn của các em còn rất yếu do vốn từ ngữ còn hạn chế. Nhiều học sinh lo l ắng, s ợ s ệt khi h ọc ti ết T ập làm văn. Học sinh không chủ động nắm bắt kiến thức, thiếu tự tin trong m ỗi ti ết h ọc, ảnh h ưởng đến quá trình học tập ở các lớp học cao hơn. Vấn đề trên là mối trăn trở của tôi và rất nhiều giáo viên đứng lớp. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm giúp học sinh tích cực học môn Tập làm văn ở lớp Ba”. Với hi vọng giúp học sinh biết viết được các bài văn, đoạn văn có những từ ngữ, hình ảnh sinh động, lưu loát và đúng theo chuẩn kiến thức kĩ năng của môn Tiếng Việt, tự tin trong học tập, hoàn thành nhiệm vụ học tập, tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn. I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. a. Mục tiêu của đề tài. Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh về phân môn Tập làm văn lớp 3 ở Trường Tiểu học hiện nay. Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ học tập làm văn ở lớp 3 với dạng bài: Nghe kể lại chuyện; kể hay nói, viết về một chủ đề. Tìm hiểu các bài tập làm văn lớp 3 đã hình thành và rèn luyện cho học sinh các kỹ năng: quan sát các sự vật, hiện tượng và trình bày lại kết quả học 1
- tập bằng lời nói, bài viết,... vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống, góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh kĩ năng sống như: ham học hỏi, tìm hiểu, khám phá để biết về môi trường xung quanh các em; yêu thiên nhiên, con người, quê hương đất nước; tôn trọng bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và văn hoá gần gũi với cuộc sống xung quanh các em. b. Nhiệm vụ của đề tài. Tìm hiểu thực trạng dạy và học phân môn tập làm văn lớp 3 hiện nay của lớp 3C trong trường tiểu học TH Tây Phong và tìm ra những biện pháp tháo gỡ những khó khăn của giáo viên và học sinh. Đưa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn để đạt được kết quả tốt trong việc dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 3 I.3. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 3C của Trường TH Tây Phong và tập thể giáo viên khối 3 năm học 2014 – 2015 I.4. Phạm vi nghiên cứu. Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc: giúp học sinh tích cực học môn Tập làm văn ở lớp Ba. Đề tài này tôi đã nghiên cứu và áp dụng qua thực tế giảng dạy tại các lớp khối 3 nơi tôi đang công tác hiện nay I.5. Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp: + Phương pháp điều tra. + Phương pháp thu thập thông tin. + Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận. + Phương pháp phân tích, tổng hợp. PHẦN II : NỘI DUNG II.1. Cơ sở lí luận: Trong công cuộc đổi mới hiện nay, sự phát triển Công nghiệp hoáhiện đại hoá đất nước cần phải có những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường. Nhu cầu này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung Chương trình, phương pháp giảng dạy ở bậc Tiểu học một cách phù hợp. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “ giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, 2
- phẩm chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”. Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những ki ến th ức tổng hợp từ nhiều phân môn trong môn Tiếng Việt. Để làm được một bài văn không những học sinh phải sử dụng c ả b ốn k ỹ năng: nghe nói đọc viết mà còn phải vận dụng các kỹ năng về Tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn. Do đó Tập làm văn là phân môn có tính ch ất tích h ợp c ủa các phân môn khác. Qua ti ết tập làm văn học sinh có khả năng xây d ựng m ột văn b ản đó là bài nói, bài vi ết. Nói và viết là những hình thức giao ti ếp r ất quan tr ọng, thông qua đó con ng ười thực hiện quá trình tư duy - chi ếm l ĩnh tri th ức, trao đổi t ư t ưởng, tình c ảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng h ợp tác trong cu ộc s ống lao động . Ngôn ngữ (dưới dạng nói - ngôn b ản và d ưới d ạng vi ết văn b ản) gi ữ vai trò quan trọng trong sự phát tri ển xã h ội. Chính vì v ậy h ướng d ẫn h ọc sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ n ặng n ề đó ph ụ thu ộc r ất lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn t ập làm văn nói riêng, cụ thể tìm hiểu ở đây là chương trình t ập làm văn l ớp 3. II.1. Thực trạng Năm học 2014 2015 tôi được phân công dạy lớp 3C trường TH Tây Phong với tổng số học sinh là: 21 em. Qua khảo sát đầu năm học phân môn Tập làm văn các em đạt được như sau: ( Số bài đạt điểm giỏi: 0; khá: 2; TB: 5; yếu: 14) Số lỗi các em mắc phải thường là: câu văn chưa rõ ràng, dùng từ chưa chính xác còn lặp từ, vốn từ còn nghèo nàn, chấm câu chưa đúng vị trí. Phân môn Tập làm văn dạy theo chương trình mới có nội dung phong phú và đa dạng. Trong đó giáo viên chú trọng rèn luyện cho học sinh các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Nhằm phục vụ cho học tập và giao tiếp. Giáo viên cần có biện pháp dạy học thích hợp nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong hoạt động luyện tập thực hành, làm miệng, làm bài viết. Tuy nhiên trong thực tế dạy học ở các trường giáo viên và học sinh còn có những hạn chế sau: a. Thuận lợi, khó khăn. + Thuận lợi Giáo viên: Giáo viên luôn ý thức quan tâm, chăm chút học sinh trong từng tiết học. Với mỗi loại bài tập, giáo viên đã nghiên cứu kĩ kế hoạch bài dạy để lựa chọn và tổ chức những hình thức luyện tập sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Với mỗi tiết dạy giáo viên ®· cã sù chuÈn bÞ chu ®¸o: Ph¬ng tiÖn, tµi 3
- liÖu, hÖ thèng c©u hái tõ dÔ ®Õn khã, ë nhiÒu møc ®é kh¸c nhau, cã nhiÒu d¹ng c©u hái kh¸c nhau. Giáo viên ®· nhÊn m¹nh ®îc thÓ lo¹i v¨n, kiÓu bµi, néi dung cña ®Ò bµi và chú ý khai thác có hiệu quả ph¬ng ph¸p d¹y häc lÊy học sinh lµm trung t©m... Bên cạnh đó, giáo viên luôn động viên khuyến khích, khen gợi ở học sinh trí tưởng tượng, óc sáng tạo. Từ đó kích thích được sự tìm tòi ham học hỏi ở học sinh, hình thành thói quen học tập tốt phân môn Tập làm văn. Để giúp học sinh viết được những bài văn hay, ý tưởng phong phú, sáng tạo giáo viên luôn chú trọng rèn kĩ năng nói cho học sinh vì học sinh nói tốt sẽ trình bày bài viết tốt. Qua các phương tiện thông tin đại chúng: xem đài, đọc sách báo, tài liệu… giáo viên thường xuyên được tiếp cận với việc đổi mới phương pháp. Học sinh: Nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng rất phong phú; kênh hình Sách giáo khoa được trình bày đẹp, phù hợp tâm sinh lí lứa tuổi các em. Học sinh đã nắm vững kiến thức, kĩ năng dùng từ đặt câu, kĩ năng kể chuyện, miêu tả từ các lớp dưới. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn lớp ba. + Khó khăn Tập làm văn là phân môn khó so với các phân môn khác của môn Tiếng Việt, vì vậy việc dạy – học ở phân môn này có những hạn chế nhất định. Trong việc rèn kĩ năng nóiviết cho học sinh, giáo viên có đầu tư nghiên cứu mục tiêu các tiết dạy để lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp từng đối tượng học sinh, nhưng sự đầu tư chưa sâu nên hiệu quả dạy học phân môn Tập làm văn chưa cao. Phần mở rộng vốn từ của giáo viên còn hạn chế. Khả năng diễn đạt ngôn ngữ chưa được trau chuốt: giáo viên còn “ bí từ” khi giảng; kiến thức bài còn bó hẹp hoàn toàn trong sách giáo khoa và chỉ biết hướng dẫn học sinh những kiến thức có trong sách giáo khoa chưa chú trọng chốt nội dung khi dạy xong một tiết học, một chủ đề,...khi dạy cho học sinh về một chủ đề nào đó giáo viên chỉ có hướng dẫn học sinh hiểu nội dung các câu hỏi ở sách giáo khoa và trả lời bằng miệng sau đó yêu cầu học sinh viết về chủ đề đó. Do vậy mà hiệu quả của giờ dạy chưa cao, học sinh ch ưa được rèn kĩ năng nói, kĩ năng viết, đặc biệt là những học sinh yếu. Đây là vấn đề đòi hỏi giáo viên phải có biện pháp thích hợp để tạo được hứng thú cho học sinh yêu thích học môn Tập làm văn. Học sinh lớp 3 vốn ngôn ngữ của các em chưa nhiều , các em còn mải chơi nhiều hơn học,việc tiếp thu bài còn thụ động, hơn thế nữa nội dung kiến 4
- thức của Tập làm văn tổng hợp các kĩ năng khó , nhiều em còn ngại đọc, viết, nói, lười suy nghĩ, viết bài cho qua loa. Câu văn viết rời rạc, chưa liên kết, có câu đã đủ ý nhưng chưa có hình ảnh, các từ ngữ được dùng về nghĩa chưa rõ ràng, viết đoạn còn nghèo ý. Một số em còn mắc phải lỗi: lạc đề, chính tả, dùng từ, viết câu, lỗi trình bày,... điều đó đã làm cho một số em không tích cực khi học tiết Tập làm văn. b. Thành công, hạn chế. Thành công Sau khi thực hiện xong đề tài, tôi nhận thấy thành công lớn nhất là học sinh đã có hứng thú học tập làm văn, bước đầu có kĩ năng quan sát, tìm ý, dùng từ, đặt câu. Đa số học sinh xác định được trọng tâm của đề bài. Học sinh khá, giỏi nói, viết lưu loát, mạch lạc, dùng từ sắp xếp ý, nối kết các đoạn văn thành một bài văn hoàn chỉnh. Các em đã hứng thú trao đổi với bạn về bài văn của mình, thích học và khám phá phân môn Tập làm văn Hạn chế. Một số học sinh do vốn sống còn hạn chế nên việc tìm ý để phục vụ cho đặt câu, viết đoạn còn hạn chế dẫn đến còn ngại học môn tập làm văn. Môn Tập làm văn là một môn khó, nhiều em ngại học, lười suy nghĩ nên ở các giờ học các em còn ngại phát biểu, vốn từ ít nên viết bài qua loa cho xong, vì vậy mà viết đoạn văn còn nghèo ý. Học sinh một số em còn nhút nhát chưa mạnh dạn tự tin trong học tập. c. Mặt mạnh, mặt yếu Mặt mạnh. Học sinh đã có hứng thú trong các tiết học tập làm văn góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt nói chung. Không khí lớp học sôi nổi, các nhóm học tập trao đổi tích cực, tự giác, kĩ năng nói, viết của học sinh tiến bộ rõ rệt, các em mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp với mọi người. Mặt yếu. Sự chuyển biến của học sinh sau khi th ực hi ện đề tài chưa đạt ở mức độ tuyệt đối. Một số em vẫn mắc phải các lỗi như: vèn tõ cßn nghÌo nµn, cha n¾m ®îc nghÜa cña tõ; diÔn ®¹t cha râ ý; chưa tích cực trao đổi với bạn trong nhóm. d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động. Giáo viên còn thụ động với kiến thức ở sách giáo khoa. Đôi khi tổ chức các hoạt động trong giờ học chưa phân định được hoạt động nào là trọng tâm; hình thức tổ chức dạy học chưa phong phú và đa dạng, chưa thực sự chú trọng đến 5
- việc sử dụng đồ dùng dạy học cho các hoạt động dạy học. Một số giáo viên chưa đầu tư cho kế hoạch bài dạy do vậy những tiết học được tổ chức theo hình thức nhóm, trò chơi học tập, sắm vai …, còn mang tính hình thức “ Tổ chức cho có hình thức chứ phát huy hết hiệu quả”. Giáo viên chưa chú trọng đến việc cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh ở các phân môn khác để học sinh vận dụng vào học môn phân môn Tập làm văn. Học sinh có xu hướng học lệch, thích học Toán hơn học Tiếng Việt; một số em còn hạn chế về vốn từ nên ngại học phân môn Tập làm văn. Việc học của học sinh tất nhiên là phải phụ thuộc vào khâu tổ chức của giáo viên, giáo viên tổ chức dạy thế nào thì học sinh học theo thế đó. Với việc tổ chức đàm thoại, vấn đáp, học sinh lên lớp chỉ ngồi nghe – ghi nh ớ ki ến th ức mà thầy truyền đạt. Chính vì điều đó mà học sinh rất rụt rè, nhút nhát trong các hoạt động, nhàm chán trong việc học tập, kết quả học tập không cao, khả năng tự bộc lộ bản thân yếu, tư duy chậm... Lên lớp chỉ cần truyền thụ hết khối lượng kiến thức trong sách giáo khoa, chú ý đến nhiều về việc trình bày kiến thức của mình. Các kĩ năng sư phạm chủ yếu là giảng giải. Học sinh tập trung vào việc ghi nhớ luyện tập và làm theo. Học sinh thường làm việc đơn lẻ. Giáo viên chỉ tập trung vào việc dạy theo chương trình, sách giáo khoa ít chú ý tới sự tiếp thu của học sinh. Vấn đề kinh nghiệm trong dạy học là vấn đề tạo nên sự thành công, mang lại chất lượng giáo dục cao. Đòi hỏi phải có thâm niên dạy học nhiều, học hỏi nhiều. Không có kinh nghiệm dạy học tức là chưa có kĩ năng tổ chức, xử lí các tình huống sư phạm. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập của học sinh. Thông qua các hoạt động dạy, giáo viên có thể hỗ trợ các đối tượng học sinh theo nhu cầu khác nhau đồng thời tạo cho các em tính mạnh dạn, tự tin trong quá trình giao tiếp. Hơn 50 % học sinh có vốn từ vựng còn nghèo nàn, sự rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp diễn ra còn phổ biến.Học sinh còn lúng túng, nhút nhát, ít nói, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động nhất là các em học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ học tập. Cơ sở vật chất: M Trang thi ết b ị d ạy h ọc còn ít, không đồng bộ,tài liệu về bồi dưỡng nghiệp vụ, rèn kĩ năng dạy học vẫn chưa đồng bộ, nội dung còn chung chung. e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra. Tập làm văn là phân môn thực hành và rèn luyện tổng hợp bốn kỹ năng, có tính chất tích hợp các phân môn khác trong môn Tiếng Việt. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản nói hoặc viết và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục theo chương trình của Bộ. Bản thân tôi đã áp 6
- dụng vào lớp 3C Trường Tiểu học Tây Phong và chia sẻ kinh nghiệm của mình tới đồng nghiệp. Thông qua trao đổi, tranh luận các em có thể chia sẻ cho nhau những gì mình biết được, học được và cách học của mình cho bạn bè. Để thực hiện được điều đó thì giáo viên cần phải biết hình thức đặc trưng của môn học. Biết được tầm quan trọng và ích lợi của môn Tiếng Việt cùng các môn học khác có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh b ốn k ỹ năng: “Nghe Nói Đọc Viết” . Tập làm văn là phân môn thực hành và rèn luyện tổng hợp bốn kỹ năng đó, có tính chất tích hợp các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, là giúp học sinh tích cực tham gia ý kiến và có cơ hội trao đổi với các bạn khác để cùng học, khám phá và phát triển tư duy. Các kĩ năng giao tiếp về mặt xã hội và một số kĩ năng sống được phát triển. Thông qua các hoạt động học các em có thể tự diễn đạt bằng lời và chia sẻ các ý tưởng của mình với những người khác trong việc phát triển các kĩ năng ngôn ngữ, qua đó các em có thể giúp đỡ lẫn nhau. Thông qua hoạt động nhóm, giáo viên có thể hỗ trợ các đối tượng học sinh theo nhu cầu khác nhau đồng thời tạo cho các em tính mạnh dạn, tự tin trong quá trình giao tiếp. Học sinh được làm việc nhiều dần dần tự tin hơn. Điều quan trọng nhất vẫn là làm thế nào để có hiệu quả, biến những lý thuyết trên thành các hoạt động cụ thể, mang tính thường xuyên. Khuyến khích, động viên học sinh tự học, tự tìm tòi, giúp các em chiếm lĩnh tri thức và tự rút ra kết luận phù hợp với bài học để vận dụng kiến thức đã học vào nói, viết khi giao tiếp trong th ực t ế cu ộc s ống . Giáo viên phải hiểu rõ tính tích hợp giữa các phân môn trông môn Tiếng Việt như: tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và câu, tập viết,... để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn. Qua hệ thống câu hỏi, giáo viên giúp học sinh bày tỏ được thái độ, tình cảm, ý kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song với quá trình đó, giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để học sinh rút ra câu trả lời đúng nhất phù hợp với tình huống đó, và tạo cho học sinh cách ứng xử hay. Giao viên lưu ý dạy tập làm văn là dạy tích hợp lồng ghép phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn Tập Làm Văn lớp 3. Dạy học theo quan điểm giao tiếp. Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kĩ năng diễn đạt thông qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng ngày với thầy, cô, cha mẹ, bạn bè, và mọi người xung quanh. Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo viên tạo cho học sinh nhiều cơ h ội th ực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như phương pháp dạy truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia 7
- vào các hoạt động học tập, tích cực sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh thông qua phân môn Tập Làm Văn đảm bảo đạt được hiệu quả tối ưu. Giáo viên chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Giáo viên cần hướng cho các em cách chon lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh diễn đạt sao cho dễ hiểu, sinh động. Có như vậy người nghe đọc sẽ dễ dàng hình dung, tưởng tượng, nắm bắt được sự việc, nhất là tình cảm của các em muốn thể hiện qua bài nói, bài viết. Người nghe, người đọc tuy không trực tiếp nhìn diện mạo của nhân vật, xem bối cảch của sự việc qua hình ảnh miêu tả, so sánh cùng với những tình cảm, thái độ, sự đánh giá của các em. Giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng từ, giọng kể, lời nhân vật, nói viết thành câu. Động viên khuyến khích học sinh tự học, học theo phương pháp tự tìm tòi. Giáo viên tổ chức, phối hợp linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Dạy học hướng tập trung vào học sinh, học sinh coi học là chủ thể hoạt động, tổ chức các hoạt động giúp các em chiếm lĩnh tri thức và rút ra kết luận phù hợp với bài học. Như vậy qua tiết học này, học sinh mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài luyện nói của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình thành cho các em cách ứng xử linh hoạt trong cuộc sống. H ọc sinh rèn kĩ năng quan sát, nói viết, rút ra những nét điển hình, đặc trưng của từng vùng miền, thấy được vẻ đẹp đáng yêu, đáng tự hào của mỗi vùng miền, từ đó hình thành nuôi dưỡng tình cảm gắn bó, yêu thương, ý thức giữ gìn, xây dựng quê hương đất nước. Ngoài ra, mỗi giáo viên cần chú trọng vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, khơi dậy ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ văn học và có nhu cầu thể hiện, bày tỏ cảm thụ đó với người khác. Như vậy mỗi bài nói bài viết sẽ chính là tâm hồn tình cảm của các em, các em sẽ thêm yêu văn, yêu cái hay cái đẹp, yêu Tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Qua đó các em đã tiến bộ rất nhanh, hứng thú tích cực hơn khi vào tiết học tập làm văn, đến cuối kì I 98% học sinh của lớp đã nói viết được hoàn chỉnh một đoạn, một bài văn lớp 3 đạt chuẩn kiến thức kĩ năng. Học sinh năng khiếu văn ngoài viết văn tốt các em còn làm thơ, sáng tác những mẩu chuyện ngắn vui, hóm hỉnh ( 3 em). Để đạt được kết quả trên bản thân tôi đã tận tụy, gần gũi và quan tâm, chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh. Đặc biệt chú ý đến đến học sinh còn mắc nhiều lỗi trong một tiết học, một bài văn để sửa cho các em kịp thời đồng thời luôn động viên khích lệ các em khi các em tiến bộ, chú trọng rèn kĩ năng 8
- nói, viết câu đúng, có cảm xúc, hình ảnh trong tất cả các môn học, với những học sinh có năng khiếu tôi đã phát hiện và bồi dưỡng vốn từ, kĩ năng dùng từ, viết câu,… cho các em ngay trong từng hoạt động của tiết học và dành thời gian soạn thảo thêm các đề bài mở rộng để bồi dưỡng kiến thức nâng cao cho các em. II.3. Giải pháp, biện pháp a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Trang bị kiến thức cho học sinh luôn chú trọng việc lồng ghép kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt: Khích lệ học sinh tích cực sáng tạo, chủ động trong học tập, biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành một bài văn hoàn chỉnh đáp ứng yêu cầu đạt chuẩn kiến thức kĩ năng môn học. Phân môn Tập làm văn là phân môn khó trong môn Tiếng Việt. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập học sinh với vốn kiến thức hạn chế, phạm vi giao tiếp hẹp nên các em còn rụt rè, nhút nhát ngại giao tiếp, ngại nói vì sợ sai. Vì vậy để khắc phục được các tình trạng trên tôi xin nêu ra một số giải pháp để khắc phục những hạn chế trong khi dạy Tập làm văn để tiết Tập Làm Văn ở lớp ba thực sự đạt hiệu quả. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: b.1. Dạy học chú trọng : Tích hợp lồng ghép. Khi dạy Tập làm văn tôi luôn tìm hiểu để rõ tính tích hợp kiến thức giữa các phân môn; Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tốt môn Tập làm văn. Các bài được biên soạn theo chủ điểm ở tất cả các phân môn. Ví dụ: Dạy chủ điểm “Tới trường” khi dạy các môn Tập đọc kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập viết, Chính tả tôi chú trọng hướng học sinh theo chủ đề. Khai thác nội dung các bài học để cung cấp cho học sinh vốn t ừ v ề ch ủ đề tới trường, rèn cho học sinh tính cẩn thận khi viết bài. Cụ thể khi dạy bài Tập đọc “Nhớ lại buổi đầu đi học” tôi khai thác nội dung bài theo các câu hỏi sau: + Điều gì khiến tác giả nhớ đến kỷ niệm của buổi tựu trường? + Trong ngày đến trường đầu tiên vì sao tác giả thấy cảnh vật xung quanh đang có sự thay đổi lớn? + Những hình ảnh nào trong bài nói lên sự bỡ ngỡ rụt rè của đám học trò mới tựu trường? + Em hãy kể ngắn gọn về ngày đầu tiên đi học của em. Qua đó tôi định hướng cho học sinh thấy ý nghĩa của ngày đầu tiên đi học, nhớ lại ngày đầu 9
- tiên đi học của mình từ đó có cơ sở để chuẩn bị cho tiết Tập làm văn “ Kể lại buổi đầu em đi học” cùng với chủ đề này thì phân môn Luyện từ và câu cũng cung cấp cho các em những từ ngữ về trường học, hi ểu nghĩa các từ ngữ. Qua đó học sinh có thêm vốn từ để trao đổi giao tiếp trong học tập và trong cuộc sống. Khi dạy các phân môn: Tập đọc, Chính tả, Tập viết Luyện từ và câu có nội dung phù hợp tiết Tập làm văn sắp học; giáo viên cần dặn dò hướng dẫn học sinh quan sát tìm hiểu kĩ đối tượng cần nói đến và ghi chép cụ thể hình ảnh, hoạt động ấy vào vở ghi chung ...; với những sự vi ệc ho ặc ho ạt động các em không được chứng kiến hoặc tham gia, giáo viên khuyến khích các em quan sát qua tranh ảnh, sách báo, trên tivi,…hoặc hỏi những người thân hay trao đổi với bạn bè. Ngoài ra ở các chủ điểm tôi còn rèn luyện cho học sinh cách sử dụng dấu câu, giúp học sinh hiểu cấu tạo câu và sử dụng trong quá trình giao tiếp. Khi được trang bị những kiến thức cơ bản như th ế, học sinh s ẽ có những ý tưởng độc lập từ đó các em có thể trình bày được bài văn chân thực, sinh động và sáng tạo. Trong việc trang bị kiến thức cho học sinh, giáo viên không nên áp đặt các em vào một khuôn mẫu nhất định, như: chỉ định học sinh phải quan sát một bức tranh, một sự vật, con người hay m ột công việc cụ thể như thế sẽ hạn chế năng lực sáng tạo của các em. Như vậy việc dạy tích hợp tất cả các phân môn sẽ tạo đà cho học sinh học tốt phân môn Tập làm văn. b.2. Tạo không khí lớp học sôi động, hào hứng. Tổ chức trò chơi học tập Tổ chức hoạt động theo nhóm Tổ chức dạy học ngoài trời Tạo hứng thú học tập bằng việc xây dựng môi trường thân thiện giữa thầy và trò, trò và trò. Ở tất cả các tiết dạy nói chung và tiết Tập làm văn nói riêng tôi luôn chuẩn bị kỹ bài trước khi lên lớp, thuộc lòng nội dung, câu chuyện cần kể có điệu bộ, cử chỉ hấp dẫn lôi cuốn học sinh ngay từ những phút đầu. Khi lập kế hoạch bài dạy tôi luôn trăn trở, tìm tòi để sáng tạo ra hình thức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của lớp nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt động học tập một cách chủ động tích cực. Có thể tổ chức các hình thức dạy học linh hoạt tạo không khí học tập thoải mái như : thảo luận nhóm, đôi bạn học tập, tiếp sức, đóng vai, vận dụng các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi để học sinh có cơ hội thi đua cạnh tranh lành mạnh qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức tích cực, tự giác theo hình thức “ Học mà chơi chơi mà học”. Ví dụ 1: Đề bài: Nói về quê hương em (BT2TV3 Tập1 Tr 92) 10
- 1. Chuẩn bị: Phiếu học tập a..Hoàn thành bảng dưới đây Tên bài đọc Quê hương là... Chi tiết làm em xúc động nhất Giọng quê ...................................... .............................................................. hương ...................................... .............................................................. Quê hương ..................................... ............................................................... ..................................... .............................................................. Đất quý, đất ..................................... ............................................................. yêu ..................................... ............................................................. Vẽ quê ..................................... ............................................................... hương ..................................... .............................................................. Chõ bánh ..................................... .............................................................. khúc của dì ..................................... .............................................................. tôi b.Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu em rất đồng ý. Qua các bài đọc trên em thấy quê hương: + Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình. + Là nơi mình sinh ra và lớn lên. + Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm. + Là cái gì đó mà khi xa mình thấy nhớ thương. c. Các em hãy nghĩ về quê hương mình: Quê em ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? Cảnh vật đó có gì đáng nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào? 2. Cách tiến hành: Hoạt động 1: Giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thông tin ý tưởng để nói. Trước hết giáo viên phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học sinh hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm) Giáo viên treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự nêu kết quả bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, giáo viên bổ sung hoàn thành bài tập. Hoạt động 2: Học sinh tập trung động não nghĩ về quê hương đã xác định trong khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến quê hương mà mình đang nghĩ tới. 11
- Giáo viên treo bài tập c (ghi sẵn ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để kích thích học sinh hồi tưởng. Học sinh làm vào giấy nháp; Giáo viên đồng thời gọi hai em làm vào bìa phụ ghi vào khung chủ đề cụm từ “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưư ý HS chỉ ghi từ hoặc cụm từ) Ví dụ: ngôi nhà vườn bách thú thành phố con sông Quê hương em cây đa, giếng nước nông thôn đường phố nhà cao tầng Hoạt động 3: Học sinh đánh số thứ tự các ý mình vừa tìm được, giáo viên hướng dẫn các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3. Giáo viên bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh trung bình và yếu để giúp các em điều chỉnh. Hoạt động 4: Học sinh nhìn sách của mình và nói : Cho hai em nói mẫu trước lớp Ví dụ: Em sinh ra và lớn lên ở nông thôn. Quê hương em thật là đẹp. Ở đó có cây đa cổ thụ che bóng rợp cả một vùng. Giếng nước trong veo. Trước mặt ngôi nhà em là con sông quê hương. Em rất thích tắm mình dưới con sông ấy khi mùa hè đến. Em yêu quê hương của mình. Hoặc: Em và gia đình sống ở thành phố. Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà cao tầng. Trên đường phố, mọi người và xe cộ đi lại tấp nập. Ngày nghỉ, em thường được bố mẹ dẫn đi xem vườn bách thú, được ngồi trên lưng chú voi con. Cảm giác của em lúc đó rất là thích. Em yêu quý nơi này. Cả lớp nhận xét, giáo viên bổ sung. Hoạt động 5: Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). Giáo viên bao quát lớp đặc biệt lưu ý giúp học sinh yếu. Hoạt động 6: Học sinh nói thể hiện trước lớp: Giáo viên gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp .Nếu là học sinh yếu, giáo viên cho học sinh nhìn sách để nói. 12
- Tổ chức cho học sinh thể hiện mở rộng c ảm xúc về quê hương mình. Khuyến khích học sinh tự tìm đặt thêm câu hỏi mở rộng. Giáo viên nhận xét chung. Học tiết Tập làm văn trong không khí lớp học sôi nổi, thoải mái, khiến học sinh mạnh dạn tự tin, khi nói. Từ đó rèn cho các em có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá trước đông người thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, thái độ yêu ghét, trân trọng hay phê phán để các em trở nên mạnh dạn tự tin trong học tập và giao tiếp. b.3. Tăng cường luyện tập thực hành Học sinh được học hai buổi trên ngày nên những tiết luyện Tiếng Việt ,tôi luôn tăng cường cho học sinh học phân môn Tập làm văn để các em có cơ hội thể hiện mình. Trong những tiết học này tôi luôn hướng dẫn và tạo điều kiện cho tất cả học sinh rèn kĩ năng nói trong nhóm, nói trước lớp, đặc biệt là học sinh yếu được nói cho cô, bạn khá giỏi nghe. Các em sẽ nói về các bài học thuộc chủ đề đã học. Tôi luôn tạo không khí gần gũi để học sinh được thể hiện những hiểu biết bằng lời nói một cách tự nhiên. Từ đó tôi sẽ có kế hoạch sửa chữa những lỗi sai của học sinh ngay khi nói. Khen ngợi kịp thời để học sinh yếu cảm thấy không mặc cảm khi tham gia nói trước lớp. Do vậy học sinh nắm vững kiến thức và làm tốt dạng bài tập viết. Ví dụ: khi giới thiệu về tổ em, học sinh nói: ‘ Tổ em bạn nào cũng chăm ngoan, riêng bạn Lan học giỏi Toán lại hát hay như chim Sơn ca” ; hoặc nói về người lao động trí óc, học sinh nói: “Cô giáo em có mái tóc dài, đen mượt như nhung”. Trí tưởng tượng, liên tưởng ở học sinh lứa tuổi này rất hồn nhiên ngây thơ và ngộ nghĩnh, cho nên để rèn luyện kĩ năng này cho học sinh, giáo viên có thể chuẩn bị những câu, đoạn văn hay cho học sinh tham khảo, học hỏi làm phong phú thêm vốn kiến thức cho các em. Khi học sinh viết bài ở lớp và ở nhà, tôi dành thời gian chữa bài viết của học sinh ngay tại lớp giúp học sinh có cơ hội nhận xét bài của bạn và tự rút kinh nghiệm sửa chữa bài viết của mình. b.4. Sử dụng tranh ảnh và đồ dùng dạy học Trong dạy học ở tiểu học , sử dụng tranh ảnh và đồ dùng dạy học là rất cần thiết không thể thiếu. Chính vì vậy trong mỗi tiết học, tôi chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng, nắm vững nội dung của từng tranh, cách sử dụng từng loại đồ dùng. Khai thác triệt để nguồn tranh trong sách giáo khoa và tranh được cấp phục vụ cho giảng dạy. Ví dụ: Khi dạy tiết Tập làm văn “ Nghe – kể: Dại gì mà đổi. Điền vào giấy tờ in sẵn” Bài tập 1: Nghe và kể lại câu chuyện Dại gì mà đổi. 13
- b.5. Tổ chức trò chơi học tập Tôi cho học sinh quan sát tranh minh họa sách giáo khoa và hỏi: Bức tranh vẽ gì? ( Hai mẹ con một cậu bé đang ngồi nói chuyện). Giáo viên kể chuyện Sau khi tôi kể chuyện, cho học sinh tìm hiểu truyện theo các câu hỏi gợi ý. Tôi cho học sinh nhìn tranh kể lại câu chuyện theo nhóm như vậy học sinh sẽ có điểm tựa để nhớ nội dung câu chuyện.… Ngoài ra tôi còn sưu tầm thêm tranh ảnh, làm đồ dùng phục vụ tiết dạy đặc biệt là các mẫu đơn từ, bảng phụ ghi các câu hỏi gợi ý. Như vậy tôi mới làm chủ được thời gian, học sinh có thời gian luyện tập thực hành thể hiện mình trong mỗi tiết học. c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp Giáo viên có năng lực chuyên môn, nắm chắc các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, thường xuyên tìm tòi nghiên cứu khi lập kế hoạch bài dạy. Ở mỗi đề tài của loại bài Tập làm văn, giáo viên cần cho học sinh tự xác định rõ yêu cầu các bài tập. Giúp học sinh tự xác định đúng yêu cầu bài tập để khi thực hành các em sẽ không chệch hướng, đảm bảo đúng nội dung đề tài cần luyện tập. Với những kinh nghiệm mà tôi nêu trên, tôi đã áp dụng có hiệu quả rõ rệt ở trường Tiểu học Tây Phong và đều có thể áp dụng được để dạy học phân môn Tập làm văn ở các trường Tiểu học. d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các giải pháp, biện pháp trên đều có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, do vậy cần được phối kết hợp sử dụng thì mới giúp học sinh chủ động, tích cực học môn Tập làm văn ở lớp Ba. Với mỗi chủ đề của bài Tập làm văn nếu học sinh trình bày đủ nội dung theo gợi ý đã cho thì bài văn của các em xem như hoàn chỉnh. Nhưng để có một đoạn văn mạch lạc rõ ràng, ý tưởng liên kết chặt chẽ nhau thu hút được người đọc; giáo viên cần giúp các em biết viết đoạn văn có mở và kết đoạn, biết dùng từ liên kết câu, dùng câu liên kết đoạn một cách hợp lí và sáng tạo. e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Nhờ áp dụng các biện pháp hợp lý, phù hợp với đặc điểm tình hình của lớp, trường của địa phương nên chất lượng giáo dục của lớp 3C trong năm học này không ngừng được nâng cao, cả về chất lượng mũi nhọn (HS năng khiếu môn Tiếng Việt) và chất lượng đại trà. Tôi xin thống kê kết quả thu được qua các năm học và cuối học kì I như sau: Nội dung khảo sát Kết quả đạt được (tỉ lệ %) 14
- 20142015 20122013 20132014 (Học kì I) Biết viết câu, dùng từ hợp lí 68.7 % 70.5% 74.2% Biết nói, viết thành câu 67.5% 68.8% 68.9% Biết dùng từ, câu văn có hình 48,6% 49.4% 50.20% ảnh Biết trình bày đoạn văn 64.5% 65.7% 69.8% Bài viết đạt trung bình trở lên 83.7% 85.4% 92.4% 4 . Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. Kết quả thu được sau khi khảo nghiệm: Khi thực hi ện đề tài vào giảng dạy tôi nhận thấy bản thân mỗi giáo viên có nhận thức cao hơn trong công tác của mình, chất lượng của học sinh có tiến bộ rõ rệt. Khi thực hiện đề tài đã được các đồng nghiệp hỗ trợ và đồng tình thực hiện. Giá trị khoa học: Đề tài được áp dụng cho công tác giảng dạy ở trường tiểu học nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và chất lượng giáo dục toàn diện học sinh. Vì vậy mỗi giáo viên phải đổi mới, tạo ra những hình thức và phương pháp dạy học mới cho các tiết học Tập làm văn nói riêng và các tiết học khác thu hút các em thích học và tự giác học, thật sự ham mê học tập, tự tin, mạnh dạn trước đông người. Học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh và chắc đem lại một chất lượng dạy học mới. Trong môi trường dạy học lấy học sinh làm trung tâm, năng lực của giáo viên sẽ được nhân lên nhiều lần song trong môi trường đó cũng đòi hỏi giáo viên phải cố gắng cao, phải có những kiến thức và kỹ năng mới, phải tự học, tự nghiên cứu nhiều tài liệu bổ sung kiến thức hiểu biết cho mình. PHẦN III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Để giúp học sinh tích cực học môn Tập làm văn chúng ta cần: Dạy học Tập làm văn theo phương pháp tích hợp các phân môn trong môn Tiếng Việt; Biết kết hợp mối quan h ệ ch ặt ch ẽ v ề yêu cầu kiến thức phân môn Tập làm văn của các khối lớp. Trong giảng dạy giáo viên có đầu tư nghiên cứu sâu, phối hợp tổ chức linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Giáo viên có ý thức tự học tự rèn; tham khảo các tài liệu, tạp chí, văn bản có liên quan đến chuyên môn và các dạng bài khó. 15
- Giáo viên dành thời gian bồi dưỡng và phụ đạo cho học sinh môn Tiếng Việt. Động viên, khuyến khích học sinh tự học, tự tìm tòi; tận tâm sửa chữa sai sót cho học sinh, hướng dẫn học sinh ghi chép vào sổ tay vở nháp. Học sinh có thói quen đọc sách báo, truyện phù hợp lứa tuổi, tập ghi chép sổ tay những từ ngữ, câu văn hay các em đọc được. Học sinh tự tin, mạnh dạn phát biểu trong các hoạt động học tập, có kĩ năng trong giao tiếp ứng xử. Đề tài là cơ sở để giáo viên nghiên cứu và thực hiện trong giảng dạy phân môn Tập làm văn. Giúp giáo viên từng lúc san bằng trình độ học sinh trong lớp học; giúp học sinh tự tin hơn trong học tập, trong giao tiếp để các em hoàn thành nhiệm vụ học tập và tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn. Đây là cơ sở làm nền tảng cho các em học tốt phân môn Tập làm văn ở các lớp cuối cấp Tiểu học Dưới sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự giác học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Vận dụng kiến thức cũ để chiếm lĩnh kiến thức mới. Với sự gần gũi nhiệt tình của giáo viên, học sinh sẽ yêu trường, yêu lớp hăng say học tập. Từ đó chất lượng dạy và học được nâng cao góp phần xây dựng một nền giáo dục thân thiện và hiệu quả. 2. Kiến nghị Đối với giáo viên: Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn Tiếng việt ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần có ý thức nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng nhiều biện pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh. Đối với Tổ chuyên môn của nhà trường cần có các buổi sinh hoạt chuyên môn có chất lượng để giáo viên có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trên đây là một kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã thử nghiệm thành công tại đơn vị để góp phần nâng cao chất lượng dạy, học phân môn Tập làm văn lớp 3. Rất mong ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp để tôi tiếp tục hoàn thiện bản thân và giảng dạy tốt hơn nữa trong những năm tiếp theo. Xin chân thành cảm ơn. Băng ADRênh, ngày 30 tháng 01 năm 2015 Ng ười vi ết 16
- Dương Thị Liên TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tiếng Vi ệt l ớp 3 t ập 1, 2 2. Bồi dưỡng năng lực Tiếng Việt lớp 3. Tác giả: Võ Thị Hoài Tâm. 3.Bồi dưỡng văn Tiếng Việt 3. Tác giả: Nguyễn Thị Kim Dung Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh 4. 35 bộ đề văn Tiếng Việt 3. Tác giả: Nguyễn Thị Kim Dung Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh 17
- NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN …………………………………………………………………………… ………...................................................................................................... .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
SKKN: Một số kinh nghiệm trong việc đổi mới phương pháp dạy học phân số ở lớp 4
17 p | 1656 | 495
-
SKKN: Một số kinh nghiệm trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24 - 36 tháng ở trường mầm non
22 p | 1571 | 293
-
SKKN: Một số kinh nghiệm giúp trẻ thích nghi với môi trường ở trường mầm non (2012-2013)
21 p | 1405 | 181
-
SKKN: Một số kinh nghiệm về phương pháp khi tiến hành một số thí nghiệm hóa học ở THCS
19 p | 763 | 148
-
SKKN: Một số kinh nghiệm về phương pháp giải hệ phương trình bậc hai hai ẩn
0 p | 711 | 109
-
SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh khắc phục những sai lầm thường gặp khi giải toán lớp 5- phần Số học
23 p | 635 | 100
-
SKKN: Một số kinh nghiệm nhằm phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24 - 36 tháng
9 p | 1082 | 97
-
SKKN: Một số kinh nghiệm dạy tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam trong chương trình THPT
11 p | 1027 | 90
-
SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm ở trường Tiểu học
22 p | 750 | 73
-
SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm
26 p | 465 | 73
-
SKKN: Một số kinh nghiệm giúp cháu sớm thích nghi với trường, lớp mầm non (2013-2014)
8 p | 363 | 61
-
SKKN: Một số kinh nghiệm xã hội hóa giáo dục trong việc xây dựng và phát triển cơ sở vật chất trường Mầm non thị trấn Sông Đốc
10 p | 267 | 53
-
SKKN: Một số kinh nghiệm giúp trẻ làm quen với âm nhạc
8 p | 529 | 52
-
SKKN: Một số kinh nghiệm dạy bài thực hành trong chương trình Sinh 8
8 p | 592 | 51
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 học tốt phần học âm
7 p | 218 | 24
-
SKKN: Một số kinh nghiệm giúp trẻ tiếp cận công nghệ và ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy
12 p | 239 | 23
-
Kinh nghiệm giúp HS nhanh học thuộc lòng trong môn Tập đọc lớp 2
11 p | 450 | 22
-
SKKN: Một số kinh nghiệm dạy và học có hiệu quả, giúp học sinh tự tin trong học tập cho học sinh lớp 5
13 p | 159 | 16
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn