SKKN: Một vài kinh nghiệm giúp học sinh yếu kém học tốt môn Toán
lượt xem 13
download
Mục đích của giải pháp là tìm được một phương pháp tối ưu để trong quỹ thời gian cho phép hoàn thành được một hệ thống kiến thức theo qui định, nhằm lấp đầy các chỗ hổng kiến thức của học sinh và từng bước nâng cao thêm về mặt kỹ năng trong việc giải các bài tập Toán cho học sinh. Từ đó phát huy và khơi dậy khả năng sử dụng có hiệu quả kiến thức vốn có của học sinh, đồng thời thu hút, lôi cuốn các em ham thích học môn Toán nhằm hạ thấp tỉ lệ học sinh yếu kém môn Toán, đáp ứng những yêu cầu về đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học hiện nay cũng như trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Một vài kinh nghiệm giúp học sinh yếu kém học tốt môn Toán
- MÔ TẢ GIẢI PHÁP Tên sáng kiến: Một vài kinh nghiệm giúp học sinh yếu kém học tốt môn Toán Mã số: ...................................... I. Tình trạng giải pháp đã biết Qua thực tế giảng day va tìm hi ̣ ̀ ểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn đến học sinh học yếu đó là: Trươc hêt do cac em mât kiên th ́ ́ ́ ́ ́ ức cơ ban (do nhiêu nguyên nhân) cho ̉ ̀ ́ ́ ợ hoc Toan, nghe đên môn Toan đa “choang”; nên cac em co tâm ly s ́ ̣ ́ ́ ́ ̃ ́ ̣ ́ Môt sô em l ươi hoc, thiêu s ̀ ̣ ́ ự chuân bi chu đao dung cu hoc tâp dân đên ̉ ̣ ́ ̣ ̣ ̣ ̣ ̃ ́ ́ ược cac ki năng cân thiêt trong viêc hoc va viêc giai quyêt cac bai không năm đ ́ ̉ ̀ ́ ̣ ̣ ̀ ̣ ̉ ́ ́ ̀ ̣ tâp Toan; ́ ̣ ́ ́ ́ ưc tim toi, sang tao trong hoc tâp không co s Môt sô em thiêu y th ́ ̀ ̀ ́ ̣ ̣ ̣ ́ ự phân ́ ́ ươn lên, co thoi quen ch đâu v ́ ́ ơ đ ̀ ợi lười suy nghi hay d ̃ ựa vao giao viên, ban be ̀ ́ ̣ ̀ ̣ hoăc xem l ơi giai săn trong sach giai môt cach thu đông. ̀ ̉ ̃ ́ ̉ ̣ ́ ̣ ̣ Ý thức học tập của một số em chưa cao, phương pháp học tập chưa phù hợp. Vì thế dẫn đến chất lượng học tập của học sinh chưa tốt nên hầu hết các em sợ học, mà đặc biệt là môn Toán vì đối với các em đây là một môn học khô khang và khó học; Do kinh tế gia đình khó khăn nên điều kiện học tập thiếu thốn về cả vật chất cũng như thời gian, ngoài giờ đến lớp các em còn phải giúp đỡ cha mẹ các công việc gia đình, không có thời gian để tự học dẫn đến kết quả học tập bị hạn chế; Sự quan tâm cua môt sô phu huynh đôi v ̉ ̣ ́ ̣ ́ ơi con em con han chê. Đăc ́ ̀ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ưng phu huynh cua hoc sinh yêu kem không bao gi biêt co nh ̃ ̣ ̉ ̣ ́ ́ ờ kiêm tra sach v ̉ ́ ở ̉ ̣ ̣ ̉ ̀ ương. cua cac em, pho thac viêc hoc cua cac em cho nha tr ́ ́ ́ ́ ̀ Một số học sinh do hoàn cảnh gia đình nên phải sống với ông bà, xa cha mẹ. Hoặc có một số học sinh được cha mẹ nuôn chiều, đòi gì được đó không quan tâm đến việc học của con em mình; Sự phat triên bung nô cua công nghê thông tin cung v ́ ̉ ̀ ̉ ̉ ̣ ̀ ơi internet v ́ ơi cac ́ ́ ̣ ̣ dich vu vui chơi giai tri hâp dân đa lôi cuôn cac em. ̉ ́ ́ ̃ ̃ ́ ́ II. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến 1. Mục đích của giải pháp Sở dĩ tôi chọn đề tài này là vì mong muốn tìm được một phương pháp tối ưu để trong quỹ thời gian cho phép hoàn thành được một hệ thống kiêń
- thưc theo qui đ ́ ịnh, nhằm lấp đầy các chỗ hổng kiến thức cua hoc sinh và t ̉ ̣ ừng bước nâng cao thêm về mặt kỹ năng trong việc giải các bài tập Toán cho học sinh. Từ đó phát huy va kh ̀ ơi dậy khả năng sử dụng co hi ́ ệu quả kiến thức vốn có của học sinh, đồng thời thu hút, lôi cuốn các em ham thích học môn Toán nhằm hạ thấp tỉ lệ học sinh yếu kém môn Toán, đáp ứng những yêu cầu về đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học hiện nay cũng như trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. 2. Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp so với giải pháp đã, đang được áp dụng Tổng hợp, phân tích rõ đặc điểm của từng học sinh để chọn phương pháp dạy học cho phù hợp và từ đó có định hướng giải pháp phù hợp hơn; Giáo viên bộ môn cần tập trung bổ trợ kiến thức cho một đến hai HS yếu kém trong giờ học chính khóa sau một thời gian nếu HS có tiến bộ thì chuyển sang HS khác; Giáo viên dạy lớp phải lập sổ theo dõi tình hình học tập của từng em và theo dõi thường xuyên ở mỗi buổi học; Nếu trong quá trình giảng dạy học sinh đã tiến bộ, kiến thức đã đảm bảo thì giáo viên chuyển sang học sinh khác; Tổ chức kiểm tra kiến thức các em dưới nhiều hình thức và có khen thưởng kịp thời để động viên sự tiến bộ của các em. Đồng thời giáo viên tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa thông qua các tiết giáo dục ngoài giờ lên lớp, thực hành ... để học sinh thấy được “cái đẹp” của môn Toán; Trong tiết dạy giáo viên nên tổ chức từ một đến hai trò chơi học tập để học sinh tham gia nhằm tạo sự ham thích học Toán ở học sinh; Lưu ý trong ti ết dạy giáo viên luôn quan tâm, chú ý, “lôi kéo” các học sinh học ch ưa t ốt “vào cuộc” bởi việc tham gia các trò chơi, các câu hỏi “vừa sức”, hoặc bài tỏ ý kiến về một vấn đề nào đó, hoặc chỉ ra các lỗi sai của m ột bài giải ...; Giáo viên bộ môn cùng với GV chủ nhiệm kết hợp với phụ huynh thông qua sổ theo dõi tình hình học tập của học sinh gửi về phụ huynh hàng tuần để phụ huynh nắm và kết hợp giáo dục có hiệu quả hơn; Kết hợp với ban tư vấn học đường để giáo dục về ý thức học tập của các em cũng như về đạo đức đối với các học sinh chưa ngoan. 3. Mô tả chi tiết bản chất của giải pháp 3.1. Chọn học đối tượng sinh học 2
- Thông qua k ết qu ả h ọc t ập t ừ h ọc b ạ ho ặc s ổ g ọi tên ghi điể m, tham kh ả o thêm ý ki ế n c ủ a giáo viên đã tr ự c ti ế p gi ả ng d ạ y h ọ c sinh c ủ a năm h ọ c tr ướ c; Lựa chọn từ một vài bài kiểm tra ở đầu năm giáo viên nhận xét, phê và sửa kỹ cho học sinh. Giáo viên lập sổ theo dõi cụ thể từng học sinh được chọn phụ đạo nhưng phải theo dõi cả quá trình học tập. 3.2. Tìm hiểu nguyên nhân học sinh yếu kém môn Toán Sau khi đã chọn đối tượng học sinh học, công việc tiếp theo là xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch; Tìm hiểu nguyên nhân gây ra sự yếu kém môn Toán ở học sinh; Phân loại đối tượng học sinh từ đó lựa chọn các biện pháp phù hợp và lập kế hoạch khắc phục hiện trạng yếu kém đó; Thực hiện kế hoạch khắc phục yếu kém trong học sinh về môn Toán; Rút kinh nghiệm trong công tác giảng dạy đối tượ ng học sinh yếu kém Toán. 3.3. Định hướng phương pháp, cách thức thực hiện Trên giờ chính khóa giáo viên tranh thủ thời gian ôn tập cho các học sinh yếu kém, hệ thống các kiến thức liên quan trong điều kiện có thể: + Trong tiết luyện tập gọi các em giải các bài tập đơn giản, phù hợp, nêu các kiến thức có liên quan; + Nếu HS khác lên bảng giải bài tập thì GV đến bên HS yếu kém để hướng dẫn và chỉ ra các kiến thức đã vận dụng. Thường xuyên hướng dẫn các em trong các bài tập; + Tập trung ở thời gian hướng dẫn về nhà, cho các dạng bài tập tương tự mà các em đã giải được ở lớp hướng dẫn thật cụ thể và chi tiết. Động viên khuyến khích các em làm bài. Ngoài ra còn dành thời gian phụ đạo vào đầu tháng 10. Thời gian phụ đạo là 2 tiết/ tuần; Từng lúc sau mỗi phần ôn tập kiến thức thì tiến hành kiểm tra để đánh giá kết quả của từng học sinh để định hướng cho việc phụ đạo tiếp theo; Ngoài ra giáo viên còn phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh để có cách thức, phương pháp giảng dạy hợp lý: + Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn ví dụ như các em bị thiếu thốn sách vở đồ dùng học tập. Ngoài các buổi đến lớp các em phải phụ giúp gia đình không có thời gian để học tập. Sau khi tìm hiểu biết được hoàn cảnh của các em tôi đã có ý kiến đề xuất lên ban lãnh đạo nhà 3
- trường có thể miễn giảm cho các em một phần nào các khoản đóng góp có thể được, giảm bớt gánh nặng về vật chất cho các em. Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các em đó trong học tập. Ngoai ra nh ̀ ư cha mẹ đi làm ăn xa, hay những trường hợp có những cú sốc về tình cảm trong gia đình mà các em bị ảnh hưởng, có một số em phải ở với ông bà bị thiếu thốn về tình cảm và sự chăm sóc của cha mẹ... Thông qua học sinh và phụ huynh tôi thường xuyên trò chuyện thân mật riêng với các em, động viên an ủi để các em có thể vượt qua cơn khủng hoảng về tinh thần, góp phần nào giúp các em trở lại trạng thái cân bằng về tình cảm và tập trung vào việc học tốt hơn; + Với đối tượng học sinh yếu kém do lười học. Tôi trực tiếp trò chuyện riêng với các em, phân tích cho các em hiểu mặt tốt, xấu và sự liên quan đến tương lai của các em. Bên cạnh đó tôi còn giới thiệu các em đến với ban tư vấn học đường nhờ các giáo viên trong ban này giáo dục tư vấn các em để các em hiểu rõ hơn về việc học. Về mặt chuyên môn, tôi tăng cường công tác kiểm tra việc học và làm bài về nhà (vưa s ̀ ưc v ́ ơi cac em), trong các gi ́ ́ ờ học tôi khuyến khích cho các em phát biểu, gọi các em lên bảng và có lời khen kịp thời, cho điểm khuyến khích, động viên các em, giúp các em tự tin và hứng thú học tập hơn. Sau khi tạo được tâm thế thoải mái về tinh thần trong học sinh thì việc tiếp theo đóng vai trò quan trọng và quyết định. Đó chính là thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm giúp các học sinh yếu kém có điều kiện về mặt kiến thức để theo kịp yêu cầu chung của những tiết học trên lớp, tiến tới có thể hoà nhập vào việc dạy học đồng loạt. ́ ức Toán học của học sinh là một hệ thống kiến thức liên tục Kiên th từ khi các em bắt đầu đi học cho nên việc giải một bài toán nói chung, cũng như làm một bài toán số học nói riêng vừa phải tiếp tục công việc trước đó, vừa phải hoàn thành nhiệm vụ của lớp nối tiếp sau, nên ở mỗi giai đoạn, giáo viên phải vừa xây dựng kiến thức mới, vừa có kế hoạnh nhắc lại các kiến thức làm nến tảng. Để tiết học trên lớp có kết quả thường đòi hỏi những tiền đề nhất định về trình độ kiến thức, kỹ năng sẵn có của học sinh. Đối với diện học sinh yếu kém thì thiếu hẳn tiền đề này. Vì thế cần giúp nhóm học sinh này có đủ tiền đề đảm bảo trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp đạt hiệu quả; Trước hết, tôi nghiên cứu kỹ nội dung chương trình, vạch rõ khối lượng tri thức và những kỹ năng cần thiết như những tiền đề xuất phát thông qua SGK, SGV, chuẩn kiên th ́ ức ...; Sau đó, phân tích những tri thức kỹ năng có sẵn ở học sinh ở mức độ nào (qua quá trình tìm hiểu, quan sát ở học sinh trên lớp, qua các bài kiểm tra ...); Tiếp đến, tôi tập trung vào việc tái hiện những tri thức và tái tạo những kỹ năng cần thiết một cách tường minh thông qua việc cho học sinh ôn tập những tri thức, kỹ năng trước khi dạy nội dung mới; 4
- Có hệ thống câu hỏi từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với từng đối tượng học sinh, đặc biệt là tạo mọi điều kiện cho các em yếu kém có cơ hội phát biểu ý kiến của mình, với những câu hỏi thích hợp; Các yêu cầu mà giáo viên đặt ra phải vừa sức với học sinh đại trà, dành nhiều thời gian để các em có thể tự tìm ra lời giải; Chú trọng vào việc phân dạng các bài tập, nhằm giúp học sinh nắm được phương pháp giải đặt trưng của mỗi dạng, hình thành được mối liên hệ có tính hệ thống giữa các dạng bài tập; Giáo viên cần nghiên cứu kỹ về hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi ý trong quá trình soạn giảng, phải vừa sức, kích thích được óc tư duy, sáng tạo của học sinh; Qua tìm hiểu thực tế cho thấy: Kiến thức có nhiều “lỗ hổng” là một “bệnh” phổ biến của học sinh yếu kém Toán. Vai trò của việc đảm bảo trình độ xuất phát là cần thiết nhưng chỉ để phục vụ cho nội dung sắp học. Còn việc lấp lỗ hổng về kiến thức kỹ năng là nhiệm vụ cần thiết nhưng mang tính tổng quát không phụ thuộc ý đồ chuẩn bị cho một bài học cụ thể nào sắp tới; Trong quá trình dạy học người thầy cần quan tâm phát hiện những lỗ hổng về kiến thức, kỹ năng của học sinh. Tìm ra những “lỗ hổng” điển hình đối với học sinh yếu kém mà ở trên lớp vì điều kiện thời gian chưa khắc phục được để có kế hoạch tiếp tục giúp đỡ; Trước hết phải làm cho các em hiểu rõ đề bài: Đề bài cho biết cái gì? Yêu cầu cái gì? Nếu học sinh không hiểu đề bài thì không thể tiếp tục quá trình giải toán để đưa lại kết quả đúng được. Để rèn một kiến thức hay kỹ năng nào đó thì số lượng bài tập cùng mức độ, cùng thể loại đối với các em yếu kém cần nhiều hơn bình thường. Do đó giáo viên cần chú ý gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại. Thông thường khi ra bài tập cho đối tượng học sinh yếu, kém không nên ra quá nhiều và khó, các dạng bài tập phải vừa sức với các em đặc biệt là có kiểm tra, chấm, chữa và cho điểm để động viên, khuyến khích các em; Được bước đi theo từng bậc thang vừa sức với mình, các em yếu kém sẽ tự tin hơn, không còn cảm giác bị hụt hẫng và sợ ngã. Sự tự tin giúp các em có thể tự leo hết các nấc thang dành cho mình. Từ đó dần dần chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng cơ bản cần thiết. Các bậc thang dù có thấp song sự kiên trì và nghị lực mới là điều quan trọng giúp các em vượt qua tình trạng yếu kém hiện tại; Hướng dẫn cho học sinh có phương pháp học tập tích cực và khoa học, có sổ tay toán học nhằm tích lũy những kiến thức cơ bản và quan trọng, đặc biệt là phải nắm vững các phương pháp đặc thù của một bài toán. Một thực tế vẫn xảy ra thường xuyên là học sinh không biết cách học như thế nào cho có hiệu quả. Các em do không có kỹ năng học tập nên thường chưa học 5
- kỹ, thậm chí chưa hiểu lý thuyết đã lao vào làm bài tập, đọc chưa kỹ đề đã đặt bút vào làm bài, trong khi làm bài các em thường vẽ hình cẩu thả, viết nháp lộn xộn...Vì thế việc hướng dẫn các em phương pháp học cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Trước hết cần nói rõ yêu cầu cơ bản của việc học Toán: Phải nắm vững lý thuyết trước khi làm bài tập; Trước một bài tập cần đọc kỹ đầu bài, vẽ hình rõ ràng, viết nháp cẩn thận; Sau khi học xong một chương cần giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức (tốt nhất là bằng bảng hoặc bằng sơ đồ tư duy). Tóm tắt lý thuyết cơ bản và các công thức quan trọng cũng như cách giải một số dạng toán cơ bản và dán vào góc học tập; Tổ chức các trò chơi thông qua việc tìm đáp số của một bài toán, tạo không khí sôi nổi, thoải mái trong giờ học, kích thích các hoạt động của học sinh; Thông qua các bài học hay bài tập giáo viên cần tăng cường giáo dục thực tế nếu có để các em thấy được toán học đã vận dụng vào thực tế cuộc sống như thế nào, toán học quan trọng với cuộc sống chúng ta ra sao. Ví dụ như sau bài: Ứng dụng thực tế của tam giác đồng dạng mà chúng đã đo được chiều cao của vật và khoảng cách giữa hai địa điểm, cũng với yêu cầu như thế ta lại giải quyết được kiến thức của lớp 9 sau bài ứng dụng thực tế các tỉ số lượng giác của góc nhọn...; Bên cạnh đó việc liên hệ kiến thức toán vào các môn học khác cũng không kém phần quan trọng. Ví dụ như sau khi học về tỉ lệ xích ở lớp 6 cho học sinh thấy liên quan đến môn Địa lí ...; Tạo điều kiện cho các em tham gia thực hành ngoài trời, tô ch ̉ ức cho các em tham gia các giờ học ngoại khóa, tạo cho các em cảm giác tự do, thoải mái trong giờ học giúp các em hứng thú để đat k ̣ ết quả tốt hơn. Nhưng để làm được những điều trên, cần có một quá trình luyện tập lâu dài, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các khối lớp, ca hai phía giáo viên và ̉ học sinh, cần có sự thống nhất trong mọi hoạt động. Mặt khác, đòi hỏi giáo viên phải biết nắm bắt được mặt mạnh ở mỗi em, gợi ý, hướng dẫn các em theo cách gần gũi và hiểu được ý đồ của các em nhằm tạo cho các em cảm giác thoải mái trong giờ học. III. Khả năng áp dụng của giải pháp Sáng kiến kinh nghi ệm m ột vài kinh nghi ệm giúp học sinh yếu kém học tốt môn Toán đang trình bày nói chung không nặng tính lí luận mà chủ yếu đi vào thực tế giảng dạy. Do đó, mọi giáo viên làm công tác giảng dạy hầu như đều có thể áp dụng ngay trong công việc của bản thân tại 6
- bất kì đơn vị nào, hoặc rút tỉa trong đó một vài điểm mà mình tâm đắ c để thực hiện. Trong quá trình thực dạy, qua t ừng ti ết, t ừng bài, từng học kì, từng năm học, bằng kinh nghi ệm th ực t ế c ủa mình có thể khái quát thành những vấn đề mang tính cụ thể hơn để thực hiện. IV. Hiệu quả lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp Với những kinh nghiệm trên tôi đã áp dụng vào thực tế công tác giảng dạy trong các năm qua. Với cách làm này các em rất hứng thú và yêu thích môn Toán hơn, tự tin hơn trong học tập và bản thân người viết đã thu được một số kết quả như sau: Năm học Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém 2017 2018 32,88% 32,88% 27,40% 6,85% 0% V. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu: Không có. VI . Tài liệu kèm theo: Không có. 7
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
SKKN: Một vài suy nghĩ giúp học sinh lớp 4 rèn kỹ năng cảm thụ Văn học
37 p | 989 | 173
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong phần “Sinh sản ở động vật ” môn Sinh học 11 cơ bản
28 p | 369 | 115
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy kỹ thuật và nội dung môn Đá cầu nhằm tạo tính tích cực chủ động cho học sinh
17 p | 590 | 103
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm sử dụng đồ dùng thí nghiệm có hiệu quả trong giảng dạy Vật lý lớp 7
14 p | 532 | 98
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm dạy tập viết lớp 1
12 p | 490 | 69
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm để hướng dẫn học sinh khai thác và sử dụng có hiệu quả biểu đồ khí hậu trong giảng dạy Địa lí 7 ở trường trung học cơ sở
16 p | 424 | 69
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả một tiết dạy - học môn Địa lý 8 theo phương pháp đổi mới
26 p | 373 | 67
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm đổi mới phương pháp giảng dạy môn Địa Lý
7 p | 253 | 56
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2
18 p | 271 | 46
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 học tốt phần học âm
7 p | 213 | 24
-
SKKN: Một vài biện pháp giúp giáo viên phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua hoạt động kể chuyện.
11 p | 221 | 20
-
SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh phát huy vai trò tự học nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử cấp THCS
22 p | 129 | 15
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm giải quyết các tình huống sư phạm thường gặp trong công tác chủ nhiệm
29 p | 125 | 11
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong phần " Sinh sản ở động vật" môn Sinh học 11 cơ bản
28 p | 115 | 8
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm giúp học sinh học tốt phân môn Lịch sử lớp 4
21 p | 62 | 4
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn đá cầu cho học sinh trường THCS Lê Đình Chinh
18 p | 70 | 4
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi về một số dạng toán có chứa dấu giá trị tuyệt đối
30 p | 51 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn