intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Nâng cao nhận thức và thực hành của học sinh trường THCS Lý Thường Kiệt trong phòng chống bệnh Sốt xuất huyết, năm học 2017-2018

Chia sẻ: Trần Thị Tan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:60

105
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là So sánh kiến thức, thái độ và thực hành của học sinh trước và sau khi triển khai truyền thông phòng bệnh Sốt xuất huyết tại trường THCS Lý Thường Kiệt, Thành phố Nam Định năm học 2017 - 2018. Đề xuất một số khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống dịch bệnh Sốt xuất huyết có sự tham gia của Học sinh THCS trong năm học 2018-2019.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Nâng cao nhận thức và thực hành của học sinh trường THCS Lý Thường Kiệt trong phòng chống bệnh Sốt xuất huyết, năm học 2017-2018

  1. PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO  TP NAM ĐỊNH TRƯỜNG THCS LÝ THƯỜNG KIỆT (TÊN CƠ QUAN, ĐƠN VỊ CHỦ QUẢN) SÁNG KI ẾN KINH NGHI (TÊN CƠ QUAN ÁP D ỤNG SÁNG KIẾN) ỆM NÂNG CAO NHẬN THỨC VÀ THỰC HÀNH CỦA HỌC SINH  TRƯỜNG THCS  LÝ THƯỜNG KIỆT  TRONG PHÒNG  CHỐNG BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT, NĂM  HỌC 2017­ 2018 BÁO CÁO SÁNG KIẾN           (Tên sáng kiến) Tác giả:................................................................... Tác gi Trình độả : Phạm Thị Hà  chuyên môn: ........................................... Trình đ Chứ ộ chuyên môn:Cử nhân tiếng Anh c vụ:................................................................. Chức vụ:Phó Hiệu trưởng  Nơi công tác:................................................................... Nơi công tác:Trường THCS Lý Thường Kiệt  1 Nam Định, tháng 5 năm 2018
  2.   THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1.  Tên   sáng  kiến:  “Nâng  cao nhận  thức  và  thực  hành  của học  sinh   trường THCS Lý Thường Kiệt trong phòng chống bệnh Sốt xuất huyết,   năm học 2017­2018” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:  Y tế học đường 3. Thời gian áp dụng sáng kiến:   Từ ngày 15 tháng 12  năm 2017 đến ngày 30  tháng 4  năm 2018 4. Tác giả:  Họ và tên: Phạm Thị Hà Năm sinh: 05/11/1978 Nơi thường trú: 3/186 Đường Văn Cao – P. Năng Tĩnh – TP Nam  Định Trình độ chuyên môn: Cử nhân Tiếng Anh Chức vụ công tác: Phó hiệu trưởng Nơi làm việc:Trường THCS Lý Thường Kiệt Điện thoại: 01234.175.911 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến:  90 % 5. Đồng tác giả: Họ và tên: Lại Tuấn Anh Năm sinh: 1971 Nơi thường trú:Thành phố Nam Định Trình độ chuyên môn:Ths Y khoa Chức vụ công tác: Trưởng Khoa Kiểm soát Bệnh truyền nhiễm Nơi làm việc: Trung tâm Y Tế Dự Phòng­ tỉnh Nam Định Điện thoại: 090.219.12.08 2
  3. Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến:  10% 6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:  Tên đơn vị:Trường THCS Lý Thường Kiệt – TP Nam Định Địa chỉ: Số 25 – Phan Đình Giót –Phường Năng Tĩnh – TP Nam Định Điện thoại: 0228.3868.493 3
  4. BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:  Bệnh Sốt xuất huyết là bệnh truyền nhiễm gây dịch lưu hành trên địa  bàn Phường Năng Tĩnh và Phường Văn Miếu, hàng năm trên địa bàn phường  ghi nhận trung bình 10 bệnh nhân mắc  Sốt xuất huyết. Tuy nhiên năm 2017  dịch bệnh  Sốt xuất huyết  đã bùng phát tại TP Nam Định và Phường Năng  Tĩnh và Phường Văn Miếu là một trong 5 đơn vị  có số  mắc Sốt xuất huyết  cao nhất của Thành phố. Biểu đồ 1: Phân bố bệnh nhân mắc  Sốt xuất huyết­ tỉnh Nam Định năm  2017 1
  5. Biểu đồ 1 cho thấy năm 2017  tình hình dịch bệnh Sốt xuất huyết đã bùng  phát  với  số   mắc   ghi   nhận   183.287  bệnh   nhân  tại   63/63  tỉnh,  thành   phố;  30  trường hợp tử vong. Tỉnh Nam Định có số mắc đứng thứ 2 Miền Bắc: 5090 bệnh  nhân, phân bố  tại 226/229 xã, phường, thị  trấn trong đó thành phố  Nam Định có   số  mắc Sốt xuất huyết chiếm 51.3% số  mắc của toàn tỉnh và tập trung tại các   phường Văn Miếu (235 bệnh nhân), Cửa Bắc (213 bệnh nhân), Trường Thi (201  bệnh nhân); Phan Đình Phùng (155 bệnh nhân) và Năng Tĩnh (154 bệnh nhân). Biểu đồ 2: Phân bố bệnh nhân mắc Sốt xuất huyết theo địa dư tại  Thành Phố Nam Định Biểu đồ  2 cho thấy năm 2017 có   25/25 phường trên địa bàn thành phố  Nam Định ghi nhận bệnh nhân mắc Sốt xuất huyết, đây là vụ dịch lớn thứ 2 sau   vụ  dịch Sốt xuất huyết năm 1987.   Phường Văn Miếu là phường có 235bệnh   nhân mắc Sốt xuất huyết cao nhất Thành Phố.Phường Năng Tĩnh là phường có  2
  6. số  bệnh nhân mắc Sốt xuất huyết đứng thứ  5 của thành phố  Nam Định, 154  bệnh nhân được ghi nhận. Để phòng chống dịch bệnh Sốt xuất huyết một cách chủ  động và thực  hiện công văn số  3813/BGDĐT­ GDTX ngày 28/7/2017 của Bộ  GD &ĐT về  tăng cường phòng chống dịch bệnh Sốt xuất huyết tại các cơ  sở  GD & ĐT  với các nội dung:  ­ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho học sinh, giáo viên,   nhân viên nhà trường về nguyên nhân, hậu quả và các biện pháp phòng, chống  bệnh sốt xuất huyết. Giáo dục học sinh làm tốt nhiệm vụ  là cầu nối tuyên  truyền về phòng, chống dịch bệnh cho gia đình và cộng đồng. ­ Huy động học sinh, giáo viên, cán bộ, nhân viên nhà trường tham gia  tích cực vào chiến dịch diệt muỗi, diệt bọ  gậy tại nhà trường, gia đình và   cộng đồng theo hướng dẫn của ngành Y tế. Tổ  chức các hoạt động vệ  sinh   môi trường tại các trường học tại gia đình và cộng đồng. Thực hiện chỉ  đạo của Phòng GD & ĐT thành phố  Nam Định và của   UBND phường Năng Tĩnh về  việc phối hợp triển khai các biện pháp phòng  chống dịch Sốt xuất huyết tại nhà trường để nâng cao nhận thức của học sinh  về  triệu chứng, phương thức lây truyền và các biện pháp phòng chống bệnh   Sốt xuất huyết với mục tiêu học sinh có thể áp dụng các kiến thức đã tiếp thu  được tại nhà trường để  thực hiện các biện pháp phòng chống dịch bệnh Sốt  xuất huyết.  II. Mô tả giải pháp:  1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến  1.1. Khái quát chung bệnh Sốt xuất huyết Dengue 1.1.1. Lịch sử bệnh Sốt xuất huyết Dengue 3
  7.           Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là bệnh sốt cấp tính gây nên bởi bốn   tuýp vi rút Dengue. Sốt xuất huyết Dengue là bệnh dịch lưu hành  ở  các vùng  nhiệt đới, đặc biệt là  ở  châu Á, Tây Thái Bình Dương và vùng biển Caribê.  Các vụ dịch lớn xảy ra mang tính chu kì. Sốt xuất huyết  Dengue đặc trưng là  sốt hai kỳ, đau cơ, đau khớp và có ban . Sốt xuất huyết Dengue có sốc biểu  hiện lâm sàng nặng hơn, có thể gây tử vong. Đặc trưng của bệnh là sốt, xuất   huyết cấp, có thể có sốc, tỷ lệ tử vong cao và thường gặp ở trẻ em. Sốt xuất   huyết Dengue được mô tả lần đầu tiên ở Phillippin, 1953 (mặc dù hội chứng   tương tự  đã được ghi nhận  ở  Úc và Trung Quốc nhiều năm trước đó). Hiện  nay bệnh xảy ra  ở  nhiều vùng thành thị  Đông Nam châu Á và trở  thành một  trong những nguyên nhân nhập viện gây tử  vong  của trẻ  em vùng châu Á  nhiệt đới.            Bệnh Sốt xuất huyết Dengue  ở châu Á nhiệt đới đã được mang tới từ  vùng Địa Trung Hải, miền Đông Nam châu Phi vào cuối thế  kỷ  19 do buôn  bán nô lệ  qua Zanzibaz và các cảng của biển Đỏ  rồi từ  đó lan tới châu Phi.   Theo số liệu của Tổ Chức Y Tế Thế Giới, trong những năm gần đây số mắc   Sốt xuất huyết Dengue trên thế giới đang có chiều hướng gia tăng. 1.1.2. Bệnh Sốt xuất huyết Dengue ở Việt Nam Vụ  dịch Sốt xuất huyết Dengue đầu tiên xảy ra  ở  Việt Nam vào năm  1958 được Chu Văn Tường và Mihow thông báo vào năm 1959. Ở miền Nam,  dịch Sốt xuất huyết  Dengue  được mô tả  lần đầu tiên vào năm 1960 với 60  bệnh nhi tử  vong . Tháng 8 năm 1963, dịch Sốt xuất huyết  Dengue xảy ra  ở  Cái Bè, Châu Đốc, Hồng Ngự, Tân Châu và Cao Lãnh với tổng số bệnh nhân  được thông báo là 331, trong đó có 116 trẻ  em tử  vong. Trong vụ  dịch này   Halstead và cộng sự  đã phân lập được vi rút týp 2. Tiếp sau đó, vụ  dịch Sốt  4
  8. xuất huyết Dengue lớn đã xảy ra  ở  19 tỉnh, thành phố  miền Bắc năm 1969.  Từ năm 1970 đến năm 1974, dịch xảy ra lẻ tẻ ở một số điểm trong nội thành   Hà Nội với số bệnh nhân từ vài chục tới hàng trăm trường hợp phải vào điều  trị tại các bệnh viện. Trong thời gian đó dịch cũng lan ra các thành phố, thị xã,   thị trấn và cả vùng nông thôn. Bệnh Sốt xuất huyết  Dengue lưu hành rộng rãi  ở  vùng châu thổ  sông  Hồng (miền Bắc), sông Cửu Long (miền Nam) và dọc theo bờ  biển   miền  Trung. Bệnh không chỉ xuất hiện ở đô thị mà cả vùng nông thôn, nơi có véc tơ  truyền. Dịch  Sốt xuất huyết Dengue  bùng nổ  theo chu kỳ  với khoảng cách  trung bình từ 4­5 năm và vụ dịch lớn nhất mới xảy ra năm 1998 có số mắc và  chết   cao   (mắc   234.920,   chết   377).   Mức   độ   lan   rộng   của   Sốt   xuất   huyết  Dengue tùy thuộc vào sự phát triển giao thông và sự giao lưu của dân cư giữa   các vùng. Đặc biệt hơn đã ghi nhận những vụ dịch Sốt xuất huyết  Dengue tại  vùng núi xa xôi, hẻo lánh, cao nguyên biên giới phía Bắc mà điều này chưa  từng xảy ra.         Bệnh  Sốt xuất huyết Dengue ở Việt Nam phát triển theo mùa và có sự  khác biệt giữa miền Bắc và miền Nam.  Ở  miền Bắc thuộc vùng khí hậu á  nhiệt đới, bệnh thường xảy ra từ  tháng 4 đến tháng 11, những tháng khác   bệnh ít xảy ra vì thời tiết lạnh, ít mưa, không thích hợp cho sự  sinh sản và  hoạt động của Ae. Aegypti. Bệnh phát triển nhiều hơn từ tháng 6 đến tháng 10  và đỉnh cao vào tháng 7, 8, 9 và 10. ở  miền Nam và nam Trung bộ, bệnh Sốt  xuất huyết Dengue  xuất hiện trong suốt năm với tần số mắc nhiều hơn vào   từ tháng 4 đến tháng 11, đỉnh cao cũng vào những tháng 7, 8, 9 và 10. Như vậy, Sốt xuất huyết Dengue rõ ràng là một trong những vấn đề  y  tế  quan trọng liên quan đến sức khoẻ  và hoạt động đời sống của người dân   5
  9. Việt Nam hiện nay, nhất là trong điều kiện phát triển không ngừng của quá   trình đô thị hoá và gia tăng giao lưu của con người. 1.1.3. Tác nhân gây bệnh Trong thời gian dài, người ta chỉ  biết rằng các vụ  dịch Sốt xuất huyết   Dengue    do muỗi truyền liên tiếp xảy ra  ở  Trung Mỹ, vùng biển Caribê và  Đông Nam châu Á, nhưng tác nhân gây bệnh vẫn chưa được biết đến. Mãi  đến 1944, khi Sabin phân lập được vi rút  Dengue  týp 1, 2, và sau đó tháng  4/1956, tháng 5/1960 phân lập được vi rút Dengue týp 3 và 4 thì tác nhân gây  ra các vụ dịch Sốt xuất huyết Dengue mới được hiểu rõ.  Muỗi Aedes có thể bị nhiễm virút Dengue sau khi đốt bệnh nhân ở giai  đoạn nhiễm vi rút huyết sau đó vi rút nhân lên trong cơ thể muỗi và sau 8­12  ngày (trung bình 9 ngày) là muỗi có thể truyền bệnh.  1.1.4. Cơ thể cảm nhiễm  Sốt xuất huyết   gặp  ở  mọi người, mọi lứa tuổi, trẻ  em có tỷ  lệ  mắc  cao hơn. Tỷ  lệ  tử  vong trước đây cao 30­40%, trong một số  năm gần đây   giảm chỉ  còn 1%. Miễn dịch sau khi mắc bệnh tồn tại trong một thời gian   ngắn, không có miễn dịch chéo giữa các túyp vi rút. 1.1.5. Vectơ truyền bệnh  Ngay từ  ban đầu, người ta đã nghĩ đến muỗi là thủ  phạm truyền vi  rút  Dengue từ  người mắc bệnh sang người lành, nhưng mãi tới năm 1903   vấn đề  này mới được Graham chứng minh. Nhiều tác giả  nghiên cứu về  vec tơ  truyền bệnh Sốt xuất huyết Dengue và thống nhất đi đến kết luận  Sốt xuất huyết Dengue  đều được truyền bởi muỗi Ae. Aegypti và muỗi Ae.  Albopictus, trong đó Ae. Aegypti đóng vai trò quan trọng nhất .  6
  10. Những nghiên cứu tiếp theo  ở Phillippin, Inđônêsia và các đảo thuộc  Thái Bình Dương cho thấy ngoài  Ae. Aegypti,  Ae. Albopictus, một số  loài  muỗi khác như Ae. polynesiensis, Ae. scutellaris, Ae. cooki, Ae. rotumae,  Ae.   tongue, Ae. tabu...  cũng có thể là véc tơ truyền vi rút này . Năm 1964 và 1986, Tổ Chức Y Tế Thế Giới đã mở  hội thảo về   Sốt  xuất huyết Dengu  ở  Băng Cốc, Thái Lan, véc tơ  của bệnh đã được nhiều  tác giả  nghiên cứu và Ae. Aegypti được khẳng định là véc tơ  chủ  yếu, Ae.  Albopictus  đóng vai trò nhất định trong việc lưu trữ  vi rút trong tự  nhiên .  Một số  tác giả cho rằng Ae. Albopictus truyền vi rút Dengue týp 2 và 4 chỉ  gây ra  ở  người bệnh sốt với triệu chứng nhẹ. Ngược lại,  Ae. Aegypti  khi  truyền vi rút gây ra những diễn biến nặng . Trong thực tế cho thấy, sự thay   thế Ae. Albopictus bằng Ae. Aegypti ở các vùng thành phố Đông Nam châu á  liên quan đến việc xuất hiện  Sốt xuất huyết  Dengue  ngày càng thường  xuyên ở đây. Tổ Chức Y Tế Thế Giới  tổng kết tình hình ở Đông Nam châu   á và thế  giới, đã xây dựng một hướng dẫn toàn diện về  bệnh  Sốt xuất  huyết Dengue . Các chuyên gia một lần nữa khẳng định Ae. Aegypti là véc  tơ  quan trọng nhất truyền vi rút  Dengue, ngoài ra một số  loài muỗi khác  cũng tham gia truyền bệnh như  Ae. Albopictus, Aedes polinesiensis và một  số   loài   thuộc   nhóm  Scutellaris.   Trước   tình   hình   bệnh  Sốt   xuất   huyết  Dengue  ngày càng lan rộng trên phạm vi toàn thế giới, hội thảo quốc tế lần  thứ nhất về Sốt xuất huyết Dengue và chiến lược phòng chống đã được tổ  chức tại Mexico tháng 11/1992. Tại đây các chuyên gia đã đưa ra một danh  sách bổ sung các loài muỗi véc tơ của Sốt xuất huyết Dengue . Những vùng  ven rừng thuộc Đông Nam châu á, Aedes niveus cũng tham gia truyền bệnh.  Các tác giả cũng cảnh báo về khả năng truyền trực hệ vi rút  Dengue của một  số  loài véc tơ  như  Ae. mediovitatus  trong vùng Caribê các loài thuộc nhóm  7
  11. Scutellaris và 6 loài khác từ  châu Phi. Nhóm Scutellaris rất quan trọng trong  vùng Đông Nam á, các đảo thuộc Inđônêsia và Nam Thái Bình Dương. Mặc   dù trong thực tế là những loài phân cách địa lý một cách tương đối và chỉ giới   hạn ở một số đảo mà chúng là véc tơ, nhưng khả năng truyền cả 4 týp vi rút   Dengue trực hệ đã làm cho các nhà nghiên cứu Sốt xuất huyết Dengue không  thể coi nhẹ vai trò của chúng .            Ổ bọ gậy nguồn và sự sinh sản của muỗi trưởng thành bị ảnh hưởng   bởi nhiều yếu tố đa dạng và nhiều chiều, ví dụ  như  môi trường sống của   con người (ví dụ  như  sự  đa dạng của cá nhân, hộ  gia đình và môi trường  sống của cộng đồng), sinh thái học của véc tơ, và thực hành trong giám sát   véc tơ  , tuy nhiên các yếu tố  này có thể  làm tăng hoặc giảm nguy cơ  lan   truyền bệnh Sốt xuất huyết Dengue  . Yếu tố nhiệt độ (đôi khi là cả lượng  mưa) được ghi nhận có  ảnh hưởng lớn đến tỷ  lệ  mắc; tuy nhiên chưa có   bằng chứng nào cho thấy tác động của sự thay đổi thời tiết qua nhiều năm  lên sự  bùng phát dịch Sốt xuất huyết Dengue    sau khi loại trừ những  ảnh   hưởng về  sự  khác biệt thời tiết theo mùa. Nghiên cứu cũng chỉ  ra rằng sự  hiện diện của các yếu tố có tác động mạnh hơn đến việc kiểm soát sự  lan  truyền bệnh như  giữa vật chủ  và vi rút hay sự  tương tác giữa vật chủ  và  véc tơ.  Sốt xuất huyết  Dengue   là bệnh có xảy ra đối với người dân đô  thị/cận đô thị và muỗi truyền Sốt xuất huyết Dengue   sinh sản ở các dụng  cụ chứa nước nhân tạo bên trong và xung quanh nhà, do vậy, không chỉ các  yếu tố  sinh học hay sinh thái học của muỗi truyền bệnh và vi rút truyền   bệnh mà cần thiết phải phân tích nghiên cứu các yếu tố  xã hội như  môi  trường sống đa dạng của cá nhân/ hộ gia đình/ và cộng đồng (ví dụ như các  yếu tố sinh học ­ kinh tế ­ xã hội). 8
  12. Ở   Việt   Nam,   nghiên   cứu   về   véc   tơ   truyền   bệnh  Sốt   xuất   huyết  Dengue  đã được tiến hành trong nhiều năm bởi Russell và cộng sự  năm   1969, Nguyễn Trung Thành năm 1971, Vũ Thị  Phan và cộng sự  năm 1970,  1973, Vũ Đức Hương năm 1977, Vũ Sinh Nam năm 1995, 2003. Các tác giả  đều khẳng định Ae. Aegypti là véc tơ chính trong các vụ dịch Sốt xuất huyết  Dengue ở Việt Nam. Muỗi  Ae. Albopictus chỉ có mặt trong một số rất ít các  vụ dịch với chỉ số mật độ rất thấp, và cũng chưa có kết quả phân lập vi rút  Dengue dương tính từ Ae. Albopictus. Như  vậy,  ở  Việt Nam cho đến thời  điểm này Ae. Aegypti vẫn là véc tơ chính truyền vi rút Dengue trong các vụ  dịch  Sốt xuất huyết  Dengue  đã xảy ra. Để  phòng chống có hiệu quả  Sốt  xuất huyết  Dengue  cũng như  các bệnh khác do muỗi  Ae. Aegypti  truyền,  những hiểu biết đầy đủ về sinh học, sinh thái loài muỗi  này đóng một vai   trò rất quan trọng. Đặc điểm sinh thái của muỗi Ae. Aegypti và Ae. Albopictus và yếu tố  xã hội liên quan đến Sốt xuất huyết Dengue  Giống Aedes được tìm thấy ở mọi nơi trên thế giới với hơn 1000 loài.  Trong số những loài có liên quan đến y học thì Ae. Aegypti và Ae. Albopictus  được biết đến nhiều nhất bởi nó không chỉ  là véc tơ  truyền bệnh mà còn  được dùng trong nghiên cứu phòng thí nghiệm. Do vậy, Ae. Aegypti và Ae.   Albopictus  đã trở  thành đối tượng nghiên cứu của nhiều tác giả  trên thế  giới. Các tác giả  đã tổng kết và nghiên cứu về  nhiều đặc điểm của muỗi  Ae. Aegypti như hình thái giải phẫu, sinh học của các pha trong chu kỳ phát  triển, vùng phân bố  và vai trò dịch tễ  học, các dẫn liệu về  sinh học của  muỗi Ae. Aegypti và Ae. Albopictus như khả năng tồn tại của trứng, các yếu  tố kích thích trứng nở, các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của bọ gậy,   9
  13. khả năng sinh sản của muỗi... Vũ Sinh Nam, 2003  đã có kết quả tương đối  toàn diện về  sinh học, sinh thái của  Ae. Aegypti  và các biện pháp phòng  chống. Có thể tóm tắt một số đặc điểm sinh học, sinh thái của  Ae. Aegypti  như sau: Muỗi Ae. Aegypti có vòng đời biến thái hoàn toàn với  ấu trùng sống  trong nước, chu kỳ  phát triển gồm 4 giai đoạn: trứng, bọ  gậy, quăng và   muỗi trưởng thành, trong đó chỉ  có giai đoạn trưởng thành liên quan trực  tiếp tới việc truyền bệnh. Thời gian trung bình từ  trứng đến muỗi trưởng  thành trong điều kiện phòng thí nghiệm   là 8,35 ± 0,2 ngày, dài nhất 10  ngày, ngắn nhất là 7 ngày. Sự  phát triển của phôi và sức đề  kháng của trứng:  ở  25 oC, phôi Ae.  Aegypti  phát triển 2 lần nhanh hơn  ở  20  oC. Bhattacharya và Dey (1969)  nhận thấy thời kỳ phát triển phôi trong trứng Ae. Albopictus kéo dài hơn Ae.   Aegypti và đã ghi nhận về thời gian phát triển của phôi Ae. Aegypti. Kết quả  nghiên cứu của Finlay và Reed cho thấy trứng muỗi  Ae. Aegypti có sức chịu  đựng cao đối với sự khô hạn, có tới 67% ấu trùng nở từ trứng để trong điều   kiện khô 3 tháng. Tương tự, Trips, 1967 ghi nhận 7­40% trứng Ae. Aegypti  có thể sống sót sau 120 ngày ở điều kiện khô hạn. Sự  nở  của  ấu trùng và những yếu tố   ảnh hưởng đến giai đoạn này:  có nhiều nghiên cứu về  những yếu tố   ảnh hưởng đến quá trình nở  trong   thời điểm kể  từ  lúc trứng được đẻ  ra tới lúc bọ  gậy được nở  từ  trứng.  Khoảng thời gian đó, số  lượng nở  ra phụ  thuộc vào nhiệt độ  của nước và   các yếu tố hoá học có trong môi trường, lượng oxy cũng như vi sinh vật có   trong nước. Một số  tác giả  khác lại cho rằng những chất hóa học hòa tan   như  axít ascorbic đã kích thích  ấu trùng nở. Ngược lại, canxi hypochloride   10
  14. chứa 500/1.000.000 đơn vị  chlorin lại kìm hãm quá trình nở, hay trứng của   cùng một con cái Ae. Aegypti  hoặc Ae. Albopictus không nở  cùng một thời  gian. Theo Gubler, 1970, phần lớn  ấu trùng nở  từ  ngày thứ  hai và ngày thứ  ba kể từ khi con cái đẻ. Một số khác thậm chí có thể nở vào ngày thứ 44­45   đối với Ae. Aegypti và ngày thứ  100­160 đối với Ae. Albopictus. Tuy nhiên  khả năng nở của bọ gậy còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như sự khô hạn  đột ngột, hàm lượng oxy trong nước, sự  thay đổi đột ngột nhiệt độ  của  nước, các chủng muỗi có nguồn gốc khác nhau... chính sức chịu đựng khô  hạn của trứng cũng như đặc tính nở của trứng có liên quan rất nhiều đến  việc đề xuất các biện pháp phòng chống Ae. Aegypti. Sinh học của bọ  gậy, quăng đã được nhiều tác giả  đề  cập tới như  ảnh hưởng của các yếu tố môi trường khác nhau, nhiệt độ của nước, lượng  thức ăn, mật độ... lên sự  phát triển của bọ  gậy và quăng, phản  ứng của  chúng đối với nhiệt độ  và ánh sáng, sự  phụ  thuộc trọng lượng con trưởng   thành vào điều kiện sống của bọ gậy và quăng, nếu thiếu thức ăn, thời gian  phát triển của bọ  gậy kéo dài và con trưởng thành nở  ra rất nhỏ.  Kết quả  của Keirans và Fay, 1968 [30],  ở  90oF, 80oF, 70oF và 60oF, thời gian phát  triển của bọ gậy Ae. Aegypti từ tuổi 1 đến tuổi 4 kéo dài 5­9 ngày, 6­8 ngày,  10­13 ngày và > 33 ngày. Thời gian phát triển của tuổi 4 kéo dài hơn cả,  chiếm 33,3% tổng số thời gian của tất cả các giai đoạn trước trưởng thành.   Giai đoạn quăng chiếm 20,6%, tuổi 3 chiếm 17,5%, tuổi 1 chiếm 14,6%,   tuổi 2 chiếm ít nhất, 13,9%. Các tác giả cũng chứng minh 32oC là nhiệt độ  thuận lợi nhất cho sự phát triển của  Ae. Aegypti. 36oC và 14 oC là nhiệt độ  tối đa và tối thiểu để  bọ  gậy phát triển từ  tuổi 1 đến trưởng thành.  ở  9­ 10oC bọ gậy có thể sống một thời gian nhất định. Thời gian phát triển và tỷ  lệ  chết của bọ  gậy tỷ  lệ  thuận với mật độ  cá thể. Sinh học muỗi trưởng   11
  15. thành đã được nghiên cứu tương đối toàn diện. Người ta biết rõ rằng  Ae.  Aegypti xuất phát từ châu Phi rồi sang châu Mỹ, châu á vào cuối thế kỷ 19.   Loài muỗi này trở  nên thích  ứng tốt và ngày càng phân bố  sâu vào lục địa  châu á trước hết là các vùng thành thị.  Muỗi trưởng thành có mầu đen hoặc nâu đen với nhiều đốm trắng   bạc  ở thân và chân. Những đốm này tạo thành hình đàn ở mặt lưng. Bụng,  chân có các vẩy trắng và đốt cuối cùng hoàn toàn trắng .  Muỗi cái trưởng  thành giao phối (Ae. Aegypti có thể giao phối trong không gian hẹp), hút máu  người hoặc động vật (nhưng thích hút máu người hơn và thường hút máu  mạnh nhất vào lúc sáng sớm và chập tối). Muỗi cái trú đậu chủ  yếu trong   nhà (99,6%  ở thành phố, 96,9%  ở nông thôn).  Muỗi ưa nơi kín gió, trú đậu  cả  ở  nơi tối và sáng. Trong số  các gia đình có muỗi, 39,4% ở  nông thôn và  31,9%  ở  thành phố  có ổ  bọ  gậy Ae. Aegypti. Như  vậy có thể  thấy mỗi gia  đình có ổ bọ gậy Ae. Aegypti có thể cung cấp muỗi trưởng thành cho chính  gia đình họ  và ít nhất một gia đình hàng xóm. Muỗi  Ae. Aegypti  đậu nghỉ  trên các giá thể  có chất liệu bằng vải là chủ  yếu như  quần áo, chăn, màn  (68­71%), ngoài ra còn có thể  trú đậu trên các đồ  vật bằng gỗ, dây phơi...  chỉ có 1,2­3,8% đậu nghỉ trên tường. Chính vì vậy biện pháp phun hóa chất   tồn lưu trên tường để  diệt Ae. Aegypti trong các vụ dịch đã không được áp  dụng vì rất ít hiệu quả. Thời gian thực hiện chu kỳ sinh thực giảm dần theo  số  lần đẻ  của muỗi, trong đó chu kỳ  đầu dài nhất, khoảng 3,1 ngày.  Ae.   Aegypti  có khả  năng hoà hợp tiêu sinh cao. Muỗi có thể  bị  nhiễm vi rút  Dengue sau khi đốt bệnh nhân  ở  giai đoạn nhiễm vi rút huyết (từ  6 đến 8  giờ  trước, đến khoảng 3 ngày sau, khi bệnh nhân khởi phát). Cần có thời   gian để  vi rút nhân lên trong cơ  thể  muỗi, thời gian này dài hay ngắn phụ  thuộc vào nhiệt độ  của môi trường.  Trứng muỗi rời rạc nhưng được đẻ  12
  16. thành đám bám vào thành  ẩm của các dụng cụ  chứa nước. Trứng có mầu   đen, có nắp và có khả  năng vượt hạn. Muỗi Ae. Aegypti mỗi lần đẻ  trung  bình 78,6 ± 10,6 trứng, nhiều nhất 163 và ít nhất 16 trứng. Tỉ  lệ  sống sót   trung bình của muỗi Ae. Aegypti từ trứng đến mỗi trưởng thành là 59,7%, ở  điều kiện nhiệt độ 28°C, độ ẩm 80 – 87%. Bọ  gậy của muỗi  Ae. Aegypti  sống hoàn toàn trong nước, có phần  phụ  miệng kiểu nghiền, không chân và hô hấp bằng hệ  thống ống khí với  một  ống thở  nằm cuối cơ  thể. Mặc dù bọ  gậy  Ae. Aegypti bắt buộc phải  lên bề mặt nước để lấy không khí nhưng lại có khả  năng nhịn thở  rất lâu,   đặc biệt là khi mặt nước bị  khuấy động.  ở  đốt thứ 8 phía  ống thở  có một  hàng răng (khoảng 10 răng), hình dạng của các răng chính là đặc điểm phân  loại quan trọng. Bọ gậy trải qua 4 lần lột xác để trở thành giai đoạn nhộng   (quăng).  Bọ  gậy thường được tìm thấy trong các dụng cụ  chứa nước sinh  hoạt của con người như  chum vại, bể  xây, giếng... ngoài ra, các dụng cụ  phế thải, lọ hoa, bể cảnh. ở Thái Lan, đã ghi nhận có 17 loại dụng cụ chứa  nước khác nhau mà Ae. Aegypti và  Ae. Albopictus có thể  đẻ  trứng.  ở  Việt  Nam  ổ  bọ  gậy của  Ae. Aegypti  cũng rất phong phú, có nhiều chủng loại  dụng cụ chứa nước và cũng tuỳ theo từng vùng mà ổ bọ  gậy nguồn có thể  khác nhau.  ở  miền Bắc có thể  xếp thành 5 loại chính là bể  xây, phuy sắt,  chum vại sành, xô chậu và các đồ  phế  thải. Mật độ  tập trung bọ  gậy cao   nhất  ở  thành thị  là bể  xây (64,5%), tiếp theo là phuy (22,6%), chum vại  (7,6%), phế  thải (4,5%), xô tôn (0,83%),  ở  nông thôn số  bọ  gậy tập trung  trong bể  xây là 50,5%, chum vại 29,3%, phuy 11,4%, phế thải 8,6% và xô  tôn 0,27%. Xác định  ổ  bọ  gậy nguồn là cơ  sở  cho việc đề  xuất biện pháp   13
  17. thích hợp, cụ  thể  cho từng vùng, từng địa phương trong các hoàn cảnh cụ  thể. Từ những đặc tính trên, rõ ràng Ae. Aegypti có tập tính hoạt động gắn  liền với đời sống của con người và là véc tơ  chính truyền bệnh Sốt xuất  huyết Dengue. Muỗi Aedes đẻ trứng riêng rẽ vào thành, ngay phía trên mực nước của  các dụng cụ  chứa nước. Trứng muỗi  Aedes có khả  năng chịu đựng khô hạn  cao, và nở khi bị ngập nước do mưa, hoặc do con người đổ nước vào. Cả hai loài muỗi truyền bệnh Sốt xuất huyết Dengue đều đẻ trứng ở các  dụng cụ chứa nước trong và xung quanh nhà và có mối liên hệ mật thiết với nơi   ở của con người. 14
  18. Nơi sống của bọ gậy truyền bệnh Sốt xuất huyết Dengue Ổ bọ gậy chủ yếu ở trong nhà Ổ bọ gậy ở ngoài nhà • Vại sành chứa nước • Chum vại chứa nước • Bể chứa nước trong buồng tắm • Chai, vỏ đồ hộp • Bể chứa nước không có nắp đậy • Lốp xe hỏng • Lọ hoa • Phuy nước • Chậu cây cảnh • Máng nước hỏng, tắc • Vỏ chai nước ngọt • Vỏ dừa • Khay nước tủ lạnh, điều hoà nhiệt • Các đồ vật nhân tạo muỗi có thể  độ đẻ • Phuy chứa nước • Gốc tre, nứa • Dụng cụ chứa nước bằng nhựa, và • Các đồ vật khác có thể tích nước  tới 7 ngày 1.2.  Chiến   lược   và   xu   hướng     mới   trong   phòng   chống  Sốt   xuất   huyết  Dengue hiện nay.  Chiến lược phòng chống  Sốt xuất huyết  Dengue  hiện nay tập trung  giải quyết các khâu cơ bản sau: Chẩn đoán và điều trị, nghiên cứu vắc xin dự  phòng,   phòng chống trung gian truyền bệnh.  Các phác đồ  điều trị  đã được  15
  19. nâng cao, cải tiến, vì thế  tỷ  lệ  tử  vong trong các vụ  dịch Sốt xuất huyết  đã  giảm xuống đáng kể. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có loại thuốc nào đặc   hiệu dùng cho điều trị  bệnh  Sốt xuất huyết  Dengue, việc điều trị  vẫn tập  trung vào nâng đỡ thể trạng và điều trị triệu chứng . Như vậy, diệt muỗi truyền bệnh vẫn là biện pháp chủ yếu trong phòng  chống bệnh Sốt xuất huyết Dengue. Trước đây, nghiên cứu phòng trừ  véc tơ  chủ yếu dựa trên cơ sở làm giảm nguồn sinh sản, quản lý môi trường và bảo  vệ các nhân khỏi muỗi đốt tuy nhiên Sốt xuất huyết Dengue cho đến nay vẫn  là mối đe dọa, cho nên giáo dục sức khỏe cần được phát triển bắt đầu từ nhà   trường và tiếp tục đi vào cuộc sống dựa trên những thông tin đúng, đơn giản,  và sử  dụng tất cả  các phương tiện thông tin đại chúng có sẵn như  sách giáo   khoa trong nhà trường, các bài giảng, đài phát thanh, truyền hình, áp phích, tờ  rơi, trò chơi và thảo luận nhóm.  1.3.Thực   trạng   công   tác   phòng   chống   dịch   bệnh  Sốt   xuất   huyết  tại  phường  Văn   Miếu   và   phường  Năng   Tĩnh,  sự   cần   thiết   của  công   tác  truyền thông nhằm nâng cao nhận thức cho học sinh THCS trong  phòng  chống dịch bệnh Sốt xuất huyết . Trường THCS Lý Thường Kiệt nằm trên địa bàn Phường Năng Tĩnh có  40 giáo viên, với tổng số học sinh toàn trường là 545 em là con em các hộ dân  ở  hai  phường:  Năng Tĩnh và Văn Miếu (có 20 tổ  dân có con em học tại  trường).Phường Năng Tĩnh nằm  ở  phía Tây Nam Thành phố, tiếp giáp với 5  phường là Ngô Quyền, Cửa Nam, Trần Quang Khải, Văn Miếu và phường  Trần Đăng Ninh có diện tích tự  nhiên là 79,3 ha, có 3.087 hộ  dân với 11.432  khẩu được tổ chức thành 32 tổ dân phố thuộc 11 đường phố.  16
  20. Về  giáo dục­ đào tạo:Trên địa bàn phường có 3 trường Trường THCS  Lý Thường Kiệt, Trường Tiểu học Hồ Tùng Mậu  và  trường Mầm non số 1. Về y tế: Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia; cán bộ y tế có 5 đồng chí, trong   đó có 1 bác sỹ  và 4 y sỹ, công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho Nhân dân   được thực hiện tốt nên đã hạn chế  được tình trạng vượt tuyến trong khám  chưa bệnh. Công tác vệ  sinh phòng  dịch được đảm bảo nên không có dịch  bệnh lớn xảy ra trên địa bàn. Trong những năm qua bệnh Sốt xuất huyết thường xuyên lưu hành trên  địa bàn hai Phường  Năng Tĩnh và Văn Miếu. Phường Năng Tĩnh  với số mắc   trung   bình   10   ca/năm   trong   giai   đoạn   2011­2016.   Năm   2017   trên   địa   bàn  phường đã ghi nhận 154 ca mắc Sốt xuất huyết , đứng thứ  5 của thành phố  còn phường Văn Miếu năm 2017 có 235 ca mắc Sốt xuất huyết đứng đầu   toàn Thành Phố Nam Định. Theo báo cáo của Trạm Y tế nguyên nhân chủ yếu  dẫn đến dịch bệnh  Sốt xuất huyết  là do chỉ  số  muỗi truyền bệnh  Sốt xuất  huyết và số ổ bọ gậy tại các khu dân cư  luôn ở mức cao vì vậy khi có bệnh   nhân mắc Sốt xuất huyết  thì khả năng lây lan và bùng phát thành dịch là rất   lớn và khó kiểm soát. Trong những thời gian vừa qua Trạm Y tế đã tham mưu  với UBND phường Năng Tĩnh và phường Văn Miếu tổ  chức triển khai đồng   bộ nhiều biện pháp chủ động trong công tác phòng chống dịch  Sốt xuất huyết  tại cộng động như: truyền thông, tổ chức các chiến dịch Vệ sinh môi trường  diệt bọ  gậy, thành lập các đội xung kích phối hợp với các các cán  bộ  Y tế  đến từng nhà dân tuyên truyền và vận động người dân tự giác tham gia và tìm   diệt các ổ bọ gậy tại gia đình tuy nhiên trên thực tế kết quả đạt được là chưa  cao và chưa thực hiện một cách thường xuyên, liên tục. 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2