ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN VĂN THÔNG

SO SÁNH

TỤC NGỮ VIỆT VÀ TỤC NGỮ LÀO

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN VN THÔNG

SO SNH

SO SÁNH

TỤC NGỮ VIỆT VÀ TỤC NGỮ LÀO

Chuyên ngành: Văn học dân gian

Mã số: 62 22 36 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. GS.TS. Nguyễn Xuân Kính

2. PGS.TS. Lại Phi Hùng

HÀ NỘI - 2009

MỤC LỤC

1 2 7 8 8 10 10 10 14 18 19 24 24 29 31 32 33 39 39

39

39 43 55 55 59 60

68

68 70 73 78 87

94

Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Cấu trúc luận án Chương 1: Tổng quan văn hoá - xã hội Việt Nam - Lào 1.1 Mối quan hệ lịch sử - xã hội Việt Nam - Lào 1.1.1. Sơ lược lịch sử - xã hội nước Lào 1.1.2. Mối quan hệ lịch sử - xã hội Việt Nam - Lào 1.2. Mối quan hệ văn hoá Việt Nam - Lào trong bối cảnh Đông Nam Á 1.2.1. Về địa lý và tự nhiên 1.2.2. Văn hoá - tộc người 1.2.2.1. Mối quan hệ giữa các tộc người 1.2.2.2. Mối quan hệ văn hoá Việt Nam - Lào trong bối cảnh Đông Nam Á 1.2.2.3. Về ngôn ngữ 1.2.2.4. Về chữ viết 1.2.2.5. Phật giáo ở Việt Nam và Lào Chương 2: So sánh nội dung tục ngữ Việt và tục ngữ Lào 2.1. Trình bày sự giống nhau và khác nhau 2.1.1. Tục ngữ Việt, Lào thể hiện nhận thức, trí thức về tự nhiên, thiên nhiên; phản ánh quê hương, đất nước 2.1.1.1. Thể hiện nhận thức, trí thức về tự nhiên, thiên nhiên 2.1.1.2. Phản ánh quê hương, đất nước 2.1.2. Đúc kết kinh nghiệm về sản xuất, chăn nuôi 2.1.2.1. Đúc kết kinh nghiệm về sản xuất 2.1.2.2. Đúc kết kinh nghiệm về chăn nuôi 2.1.3. Phản ánh các mối quan hệ gia đình, xã hội 2.1.4. Phê phán giai cấp thống trị và khẳng định những phẩm chất tốt đẹp, chế giễu những thói hư, tật xấu 2.1.4.1. Phê phán giai cấp thống trị 2.1.4.2. Khẳng định những phẩm chất tốt đẹp, lối sống trọng tình 2.1.4.3. Chế giễu những thói hư, tật xấu 2.1.5. Phản ánh văn hoá ẩm thực của nhân dân 2.1.6.Tục ngữ Việt phản ánh thực tế người Việt chịu ảnh hưởng Nho giáo 2.1.7. Tục ngữ Lào phản ánh thực tế người Lào chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo 2.1.8. Hiện tượng trái nghĩa trong tục ngữ Việt 2.2. Giải thích sự giống nhau và khác nhau 2.2.1. Sự giống nhau 2.2.2. Sự khác nhau

100 107 107 112

116 116 116 125 150 161 165 167 167 178 181 181 183 184 184 185 186 189 192 195 213

Chương 3: So sánh nghệ thuật tục ngữ Việt và tục ngữ Lào 3.1. Trình bày sự giống nhau và khác nhau 3.1.1. Ngữ nghĩa 3.1.2. Kết cấu 3.1.3. Vần 3.1.4. Nhịp 3.1.5. Lối tỉnh lược 3.1.6. Lối nói 3.1.6.1. Các hình thức tu từ trong tục ngữ 3.1.6.2. Hiện tượng “nói ngược” trong tục ngữ Lào 3.1.7. Từ ngữ 3.1.7.1. Tục ngữ Việt sử dụng nhiều phương ngữ 3.1.7.2. Tục ngữ Việt ảnh hưởng của tiếng Hán và văn hoá Hán 3.1.7.3. Tục ngữ Lào sử dụng nhiều tiếng Pali - Sanskrit 3.2. Giải thích sự giống nhau và khác nhau 3.2.1. Sự giống nhau 3.2.2. Sự khác nhau Kết luận Danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án Tài liệu tham khảo Phụ lục

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các vấn đề

được mô tả, phân tích và tổng kết trong luận án này là trung thực và chưa từng

Nguyễn Văn Thông

được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.

BẢNG CHÚ GIẢI VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

GS Giáo sư Nghĩa đen Ngđ

PGS Phó Giáo sư Nghĩa bóng Ngb

TS Tiến sĩ Ngắt đoạn //

VS Viện sĩ Tục ngữ TN

Nxb Nhà xuất bản Ngắt ý /

H Hà Nội Thành ngữ ThN

BK Bản khác Nghiên cứu sinh NCS

Db Dị bản Trước công nguyên TCN

Sđd Sách đã dẫn ĐVTG Đơn vị trung gian

tr Trang xb Xuất bản

Tp Thành phố ĐHQGHN Đại học Quốc gia Hà Nội

TK Thế kỷ ĐHTHHN Đại học Tổng hợp Hà Nội

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài Người Lào có câu xú pha xít1 “Mạy huồm co po huồm xược” (Đay

chung dây, cây chung khóm). Quan hệ Việt Nam - Lào như tre chung một

bụi, như đay chung một dây. Hai nước liền kề nhau về địa lý và có quan hệ

bang giao thân thiết lâu đời vì cùng nằm trên bán đảo Đông Dương thuộc

vùng Đông Nam Á.

Cho nên, bên cạnh những điểm khác nhau như là sự tất yếu xuất phát

từ bản sắc dân tộc, nền văn hoá hai nước nói chung, tục ngữ hai nước nói

riêng có những điểm tương đồng như là bản chất chung trong quá trình sáng

tạo folklore nhân loại cũng như sự giống nhau do những điều kiện lịch sử,

địa lý tự nhiên và những quan hệ giao lưu văn hoá mang lại. Nghiên cứu sự

giống nhau và khác nhau này, về chính trị, sẽ góp phần khẳng định tính độc

lập của mỗi dân tộc; đồng thời, những yếu tố về địa lý, lịch sử, xã hội giống

nhau giữa hai nước cũng tạo nên những nét giống nhau trong mối bang giao

thân thiết giữa hai dân tộc; về khoa học, không chỉ giúp cho những người

quan tâm hiểu biết thêm về tục ngữ mỗi nước, hiểu rõ hơn những nét đẹp

truyền thống trong tâm hồn và tính cách của chính mình và của người bạn

láng giềng mà còn góp phần làm sáng tỏ sự giống nhau kỳ lạ, đến từng chi

tiết của một bộ phận tục ngữ hai dân tộc. Qua đó, về lý luận, sẽ góp phần làm

rõ hơn bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc; về thực tiễn, cũng góp phần quảng

bá nền văn hoá của mỗi nước và thúc đẩy mối quan hệ láng giềng truyền

thống Việt Nam - Lào ngày càng phát triển.

1

1 Khái niệm xú pha xít của người Lào đồng nghĩa với khái niệm tục ngữ và khái niệm thành ngữ của người Việt, tức là trong xú pha xít có hai bộ phận, một bộ phận là thành ngữ, bộ phận còn lại là tục ngữ.

Qua một số năm chiến đấu, công tác ở Lào và nhiều năm dạy tiếng

Việt cho người Lào, tác giả luận án đã đi điền dã và thu thập được một số lượng đáng kể những câu tục ngữ Lào2, đã cảm nhận được một phần tâm

thức của người Lào trên mảnh đất thân yêu của họ. Chúng tôi cũng đã công bố một số công trình khoa học và bài viết nhất định về nó3.

Về tục ngữ của người Việt, trong giới nghiên cứu văn hóa, văn học dân

gian, đã có nhiều công trình, bài viết với một lực lượng khá hùng hậu và đã

đạt được những thành tựu đáng kể. Còn nghiên cứu so sánh tục ngữ Việt với

tục ngữ Lào trên cả hai phương diện nội dung và hình thức là một đề tài hoàn

toàn mới. Do vậy, việc so sánh tục ngữ Việt, Lào là một việc làm cần thiết.

2. LÞch sö vÊn ®Ò nghiªn cøu

Từ xa xưa, văn học dân gian Lào đã bắt đầu phát triển với những câu

chuyện kể, những bản trường ca, những câu thơ Lào hùng tráng mà mượt

mà, những câu tục ngữ Lào thâm thúy mà bóng bẩy, trong đó có công đóng

góp vô cùng to lớn của đội ngũ sư sãi và “mỏ lăm” (nghệ sĩ dân gian) Lào.

Sư sãi Lào đã góp phần phát triển đạo Phật ở Lào và cũng là những người

đáng được ghi tên trong văn học Phật giáo; còn các “mỏ lăm” (nghệ sĩ dân

gian) Lào lại là những người có những đóng góp quan trọng đối với nền văn

học dân gian Lào.

Lùc l-îng nh÷ng ng-êi lµm c«ng t¸c s-u tÇm,

biªn so¹n, ®¸nh gi¸, giíi thiÖu v¨n häc d©n gian

Lµo nãi chung, tôc ng÷ Lµo nãi riªng ë Lµo tõ tr-íc

®Õn nay cßn rÊt máng vµ ch-a có nhiều thµnh tùu. Từ những

2

2 Xem Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt - Lào và Từ điển thành ngữ và tục ngữ Lào - Việt (Phần phụ lục luận án) do tác giả luận án sưu tầm, biên soạn. 3 Xem Danh mục những công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án ở tr. 192.

năm 1940, khi Lào còn bị Pháp xâm lược, Ma hả Xi La Vị La Vông và nhóm

những người bạn trí thức Tây học của ông đã sưu tầm, biên soạn, trích đăng

thành sách ngoài một số truyện thơ có nguồn gốc Ấn Độ, còn có ca dao, tục

ngữ (sau này đã được tái bản nhiều lần). Đó là những công trình sưu tầm,

biên soạn và giới thiệu tục ngữ rất đáng quý. Năm 1987, cuốn Văn học Lào

dày 527 trang, một công trình hợp tác giữa Uỷ ban Khoa học Xã hội Lào với

Viện Nghiên cứu Đông Nam Á trực thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt

Nam in tại Nhà xuất bản Quốc gia Lào (Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư

phạm Viêng Chăn in lại theo hình thức rônêô năm 1989), là một công trình

đầu tiên ở Lào nghiên cứu dài hơi, tương đối có hệ thống, có độ tin cậy khoa

học về văn học Lào từ trước đến nay. Do phải giới thiệu một cách khái quát

về văn học Lào, nên phần giới thiệu và nghiên cứu tục ngữ Lào còn quá sơ

lược. Vài chục năm nay, Chính phủ Lào đã dành sự quan tâm đặc biệt cho

công tác giữ gìn, phát triển nền văn học truyền thống của dân tộc. Người Lào

đã đưa văn học dân gian Lào nói chung, tục ngữ Lào nói riêng vào chương

trình giáo dục phổ thông và đại học. Do vậy, đã có người sưu tầm, biên soạn

tục ngữ Lào thành những tập từ điển mini mỏng, gồm vài chục câu đến vài

trăm câu. Cuốn Văn học phổ thông [186] của nhiều tác giả Lào, giới thiệu

một cách sơ lược tình hình văn học Lào, trong đó có văn học dân gian dành

cho học sinh hệ phổ thông trung học Lào của Nxb Giáo dục Thể thao và Lễ

nghi, xuất bản năm 1982; cuốn Câu thơ dân gian Lào [189] của Bò Xẻng

Khăm, Xúc Xạ Vàng, Bun Khiển, được biên soạn chung, gồm nhiều phần,

trong đó phần tục ngữ gồm một số câu mới được sưu tầm, biên soạn không

theo chủ đề hoặc tiêu chí nào; cuốn Tục ngữ cổ truyền Lào [187] của Ma hả

Xi La Vị La Vông, 63 trang, gồm năm phần (xuất bản lần đầu năm 1996, in

2000 cuốn) do Đa Ra Căn Nạ Nha giới thiệu, riêng phần tục ngữ có 450 câu

3

(sách được tái bản lần thứ ba, năm 2000, do Công Đươn Nẹt Thạ Vông giới

thiệu, in 3000 cuốn) bao gồm những câu tản mạn, không sắp xếp theo cách

làm truyền thống; cuốn Từ thông dụng và tục ngữ Lào [190] của Xi Ri Xu

Văn Na Xỉ, xuất bản năm 2000, 62 trang, gồm bốn phần, riêng phần tục ngữ

Lào mới chỉ được dịch và đối chiếu từ 235 câu tục ngữ Anh; cuốn Tục ngữ

dân gian Lào [191] của Đuông Chăn Văn Na Bu Pha xuất bản năm 2005

cũng được biên soạn với cấu trúc tương tự,... Gần đây, Lăm Phon Xay Xa Na

đã làm luận văn tốt nghiệp đại học với đề tài Tìm hiểu tục ngữ Việt và xú pha

xít Lào về văn hoá ẩm thực, 1999 [137] mới chỉ so sánh tục ngữ hai nước ở

một khía cạnh của nội dung.

Ở Việt Nam, văn học dân gian Lào nói chung, tục ngữ Lào nói riêng

chưa được nhiều người Việt Nam biết đến, vì đội ngũ những người làm công

tác sưu tầm, nghiên cứu chúng ở Việt Nam chưa đông, việc giới thiệu chúng

với độc giả Việt Nam cũng mới được khởi động. Đinh Việt Anh [1], trong

chương 2 viết về văn học dân gian Lào, ngoài phần khái quát chung, tác giả

lần lượt khảo cứu từng thể loại, trong đó tục ngữ Lào được nghiên cứu một

cách thận trọng, khoa học nhưng còn sơ lược. Trong số không nhiều nhà

folklore Lào phải kể đến Nguyễn Năm với một số bài viết trong sách hoặc

trên các tạp chí chuyên ngành. Cuốn Hợp tuyển văn học Lào [140] dày 511

trang, do Nguyễn Năm giới thiệu khắc hoạ bức tranh chung về tình hình văn

học Lào qua các thời kỳ nhưng chưa nêu được đặc điểm của từng thể loại.

Nguyễn Đình Phúc, tác giả cuốn Xú pha xít và lời nói giao duyên Lào [138],

lần đầu tiên sưu tầm, dịch nghĩa 691 câu tục ngữ Lào sang tiếng Việt, giới

thiệu, bình giảng sơ lược ở một vài khía cạnh của nội dung mà chưa đi sâu

tìm hiểu toàn diện nội dung và nghệ thuật tục ngữ Lào. Trong công trình tập

thể Văn học Đông Nam Á [131], Lại Phi Hùng đã nhận diện một cách rất

khái lược tục ngữ trong mối tương quan thể loại của nền văn học Lào nói

4

chung, văn học dân gian Lào nói riêng. Những năm gần đây, một số tác giả

người Việt cũng góp thêm những tiếng nói nhằm giới thiệu tục ngữ Lào ở

Việt Nam. Trịnh Đức Hiển có bài “Sơ bộ tìm hiểu luật hiệp vần và vần trong

xú pha xít Lào” [55] và bài “Một số hình thức thể hiện tính hình tượng trong

xú pha xít Lào” [56]; tác giả luận án có bài: “Tìm hiểu tư tưởng Phật giáo ở

Lào qua mảng xú pha xít Lào về văn hoá ứng xử” [4] và bài “Phong cách ăn

uống của người Lào” [6]. Ngoài ra, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường

Tìm hiểu tục ngữ Việt và xú pha xít Lào [14] và hai đề tài cấp Đại học Quốc

gia Hà Nội: Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt - Lào [16] và Từ điển thành

ngữ và tục ngữ Lào - Việt [17] của tác giả luận án không chỉ tìm hiểu, so

sánh một số khía cạnh của tục ngữ hai nước mà còn đối sánh nghĩa trong

quan hệ đối ứng của chúng. Luận văn thạc sĩ: Tìm hiểu tục ngữ Việt và xú

pha xít Lào về Văn hoá ứng xử [2] và các bài: “Tìm hiểu mảng tục ngữ Việt

và xú pha xít Lào về văn hoá ứng xử” [3], “Về hiện tượng “nói ngược” trong

tục ngữ Việt và xú pha xít Lào” [8], “Tìm hiểu lối nói của người Việt và

người Lào qua tục ngữ” [12] “Tìm hiểu một số kiểu hiệp vần trong tục ngữ

Việt và Lào” [13], “Tìm hiểu một số kiểu kết cấu so sánh của tục ngữ Việt và

tục ngữ Lào” [18] của tác giả luận án, đã góp thêm tiếng nói về một số khía

cạnh của tục ngữ, làm phong phú thêm mảng văn học so sánh ở Việt Nam.

Ngoài ra, còn nhiều tác giả biên soạn, nghiên cứu, so sánh, đối chiếu tục ngữ

Việt với tục ngữ một số nước trên thế giới để thấy được cái hay, cái đẹp của

tục ngữ Việt. Trước hết, phải kể đến các tập từ điển, luận văn, bài viết so

sánh, đối chiếu tục ngữ Việt với tục ngữ nước ngoài. Đó là các cuốn từ điển

đa ngữ như: Tục ngữ Nga - Anh- Pháp - Việt [7] của Lê Đình Bích, Trần

Quỳnh Dân; Tục ngữ, thành ngữ trên thế giới [23] của Lê Du, Lê Hải; Tục

ngữ các nước trên thế giới [57] của Vương Trung Hiếu; Tục ngữ Anh - Pháp

- Việt [99] của Nguyễn Gia Liên; Tục ngữ ta đối với tục ngữ Tàu và tục ngữ

5

Tây [170] của Nguyễn Văn Tố; Tục ngữ Anh - Pháp - Việt và một số thành

ngữ danh ngôn [178] của Lê Ngọc Tú; Từ điển thành ngữ tục ngữ Pháp -

Anh - Việt [181] của Thanh Vân, Nguyễn Duy Nhường, Lưu Hoài...Và sau

đó là các cuốn từ điển song ngữ như: Tục ngữ Nga - Việt [8] của Lê Đình

Bích; Tục ngữ và câu đố Đức - Việt [71] của Lương Văn Hồng; Từ điển

thành ngữ - tục ngữ Việt - Pháp [96] của Nguyễn Lân,... Ngoài một vài cuốn

dành một lượng trang ít ỏi tìm hiểu một cách sơ lược tục ngữ hoặc thành ngữ

- tục ngữ trên một số khía cạnh, còn phần lớn chỉ là những cuốn từ điển song

ngữ hoặc đa ngữ mà chưa có được những câu tục ngữ đối ứng, chưa phân

tích đầy đủ các mặt nội dung và hình thức của chúng. Các cuốn từ điển đối

chiếu tục ngữ Việt với tục ngữ một số nước đồng văn như: Từ điển thành

ngữ - tục ngữ Hoa - Việt [79] của Nguyễn Văn Khang; Tục ngữ Nhật - Việt

[167] của Nguyễn Thị Hồng Thu; Từ điển thành ngữ tục ngữ Hoa - Việt

[175] của Lê Khánh Trường, Lê Việt Anh... cũng được trình bày tương tự.

Năm 2005, luận án tiến sĩ Ngữ văn với đề tài Tìm hiểu văn hoá ứng xử Nhật

Bản qua Kôtôwaza, có so sánh với tục ngữ Việt Nam [168] của Nguyễn Thị

Hồng Thu lấy tục ngữ Nhật làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu nhưng có so

sánh với tục ngữ Việt Nam. Tuy còn chưa thật nhiều nhưng những công

trình, bài viết nói trên cũng đã góp thêm cho mảng văn học so sánh ở Việt

Nam một không khí học thuật mới.

Nhìn chung lại, khi nghiên cứu văn học dân gian Lào nói chung, tục

ngữ Lào nói riêng, các tác giả Việt Nam và Lào mới chỉ xem xét một cách

đơn tuyến, tách rời; cách tiếp cận chưa đặt trong tư duy bối cảnh, nghĩa là

chưa đặt sự so sánh tục hai nước trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á để tìm

ra những điểm tương đồng và dị biệt không chỉ trong tục ngữ mà còn cả

trong giao lưu, tiếp biến văn hoá giữa các dân tộc đó. Chưa có những công

trình nghiên cứu so sánh, đối chiếu nội dung tư tưởng, nghệ thuật và thi pháp

6

của tục ngữ Việt và tục ngữ Lào do vấn đề nghiên cứu chúng theo phương

pháp này còn mới. Bởi vậy, thành tựu của việc so sánh tục ngữ Việt và tục

ngữ Lào đang còn trong giai đoạn khởi đầu, kết quả thu được chưa nhiều.

3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích của luận án

Theo tương đối luận, giữa các nền văn hoá không có sự hơn, kém mà

chỉ có sự giống và khác nhau. Do vậy, chúng tôi sẽ không đi tìm sự hơn kém

giữa tục ngữ Việt với tục ngữ Lào mà thống kê, phân tích, so sánh nội dung

và nghệ thuật của hai hệ thống tục ngữ Việt và Lào để phát hiện sự tương

đồng và khác biệt, chỉ ra nguyên nhân của sự giống nhau và khác nhau, qua

đó làm rõ bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc trong bối cảnh Đông Nam Á.

Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ còn góp phần để nhân dân hai

nước Việt Nam - Lào không chỉ hiểu nhau hơn mà còn góp phần quảng bá

nền văn hóa của mỗi nước và thúc đẩy mối quan hệ láng giềng truyền thống

Việt - Lào ngày càng phát triển.

3.2. Đối tượng nghiên cứu của luận án

- Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận án là 16.098 câu tục ngữ của

người Việt trong bộ Kho tàng tục ngữ người Việt (2 tập) [90] do Nguyễn

Xuân Kính chủ biên;

- Phần tục ngữ Lào gồm 691 câu trong cuốn Xú pha xít và lời nói giao

duyên Lào [138] của Nguyễn Đình Phúc cũng là đối tượng nghiên cứu chủ

yếu của luận án;

Tuy nhiên, nếu lấy 16.098 câu tục ngữ Việt (một lượng câu quá lớn) để

so sánh với 691 câu tục ngữ Lào (một lượng câu còn rất hạn chế) thì sự

chênh lệch về tư liệu là rất lớn. Để khắc phục sự “khập khiễng” khó tránh

khỏi này, cách tốt nhất là, “khuôn” chúng lại ở những nội dung cơ bản và

7

hình thức chủ yếu, thông qua những tỷ lệ so sánh có tính chất tương đối.

3.3. Phạm vi nghiên cứu

- Thuật ngữ “tục ngữ Việt” mà chúng tôi đề cập đến trong luận án

đồng nghĩa với “tục ngữ cổ truyền” của người Việt (người Kinh);

- Khái niệm “tục ngữ Lào” trong luận án tương đương với “tục ngữ cổ

truyền” của người Lào Thay (Lào Lùm).

Như trên đã nói, nội dung phản ánh của tục ngữ Việt và tục ngữ Lào là

vô cùng phong phú, nghệ thuật của chúng cũng rất đa dạng. Do vậy, chúng

tôi không tìm hiểu, so sánh chúng theo “diện” mà theo “điểm”, ở một số nội

dung cơ bản và hình thức chủ yếu.

4. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu ngôn ngữ của một dân tộc là nhằm giải mã tâm thức dân

tộc đó thông qua hệ thống các tín hiệu ngôn ngữ trong bối cảnh văn hoá. Vì

vậy, trong luận án này, ngoài việc tiếp thu thành tựu nghiên cứu của các tác

giả đi trước, chúng tôi không chỉ sử dụng những kiến thức chuyên ngành mà

còn tiếp cận đến những tri thức liên ngành và đa ngành từ nhân học, văn hoá,

khảo cổ học, dân tộc học, văn học, địa lý, lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội…

Ngoài hai phương pháp khảo cứu chính là thống kê và so sánh, chúng

tôi còn sử dụng một số phương pháp bổ trợ khác là phương pháp điền dã,

phương pháp mô tả, phương pháp phân tích tổng hợp cùng một số thao tác

cụ thể khác.

5. Cấu trúc luận án

Mở đầu

Chương 1: Tổng quan văn hoá - xã hội Việt Nam - Lào.

Chương 2: So sánh nội dung tục ngữ Việt và tục ngữ Lào.

Chương 3: So sánh nghệ thuật tục ngữ Việt và tục ngữ Lào.

8

Kết luận

Chương 1 nhằm cung cấp một bức tranh toàn cảnh mang tính khái quát

về đất nước, con người Lào và quan hệ Việt Nam - Lào từ xa xưa, nhận diện

đặc trưng văn hoá hai nước từ cái chung đến những nét riêng để có cơ sở giải

thích kết quả so sánh nội dung và nghệ thuật tục ngữ hai nước ở hai chương

sau.

Ở chương 2, chúng tôi so sánh nội dung tục ngữ hai nước trên các bình

diện: môi trường tự nhiên và xã hội, quê hương xứ sở, kinh nghiệm sản xuất

và chăn nuôi, quan hệ gia đình xã hội, phê phán thống trị và các thói hư tật

xấu. Qua đó, chúng tôi chỉ ra sự giống nhau; đồng thời, tập trung phân tích

các bình diện có những nét khác nhau khá rõ ràng. Đó là tục ngữ Việt nói

đến văn hoá ẩm thực đậm đặc và sâu sắc, văn hoá đậm ảnh hưởng Nho giáo

của người Việt và văn hoá đậm ảnh hưởng Phật giáo của người Lào. Sau đó,

tác giả luận án tìm hiểu lý do dẫn đến sự giống và khác nhau đó.

Trong chương 3, NCS so sánh ngữ nghĩa, kết cấu, vần, nhịp, tỉnh lược,

lối nói, ngôn ngữ...; đồng thời, giải thích nguyên nhân sự giống nhau và khác

9

nhau ấy.

Chương 1 TỔNG QUAN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM - LÀO

1.1. Mối quan hệ lịch sử - xã hội Việt Nam - Lào

1.1.1. Sơ lược lịch sử - xã hội nước Lào

Thời phong kiến, xã hội Lào thuộc chế độ quân chủ tập quyền. Đây là

thời kỳ dài nhất trong lịch sử nước Lào và cũng là thời gian chủ yếu để ra đời

những câu tục ngữ cổ truyền. Lịch sử nước Lào còn thấp thoáng hình ảnh và

chiến tích của các vị vua, những người mà tên tuổi còn được lưu giữ qua các

truyền thuyết và kỳ tích. Nói một cách khác, các truyền thuyết Lào còn lại

đều thấy thấp thoáng hình ảnh những ông vua trong lịch sử nước Lào.

Ở Lào, có ba vị vua được ghi danh trong lịch sử nước Lào dưới hình

thức huyền thoại và truyền thuyết. Người thứ nhất là Khún Bu Lôm, người

mở đầu cho các dòng họ vua Lào được phản ánh trong truyền thuyết Khún

Bu Lôm, Khún Bu Lo. Theo dã sử, Khún Bu Lôm từ phía Bắc xuống giành

quyền làm chủ đầu tiên vùng Mường Xoa (Luông Pha Băng ngày nay), vốn

là nơi có cuộc gặp gỡ lịch sử tất yếu giữa người Khạ (Lào Thơng) và người

Lào - Thay (Lào Lùm) đến đây sinh sống. “Nị than” (truyền thuyết) Khún Bu

Lôm, Khún Bu Lo cũng tương tự như huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ

của người Việt. Người Lào coi Khún Bu Lôm là thánh Tổ của dân tộc Lào,

người mở đầu cho lịch sử Lào từ thế kỷ thứ VIII mà Xiêng Đôông Xiêng

Thoòng (Luông Pha Băng) được chọn làm kinh đô.

Người thứ hai được ghi danh trong lịch sử Lào là Chậu Phà Ngừm

(1316 - 1371). Năm 1353, với uy quyền và tài năng của mình, Phà Ngừm đã

lên ngôi vua, lấy Luông Pha Băng làm kinh đô. Năm 1356 ông đem quân

đánh dẹp các mường ở phía Bắc và quay về Xiêng Đôông Xiêng Thoòng

10

(Kinh đô Luông Pha Băng) rồi tiếp tục hành quân tiến về Viêng Chăn, đánh

dẹp các mường ở đó và thống nhất quốc gia Lạn Xạng làm một vào năm

1357. Phà Ngừm đã thống nhất quốc gia Lạn Xạng và tổ chức lễ mừng chiến

thắng khai sinh quốc gia Lạn Xạng tại Viêng Chăn. Trong buổi lễ long trọng

đó, ngoài việc tuyên dương công trạng quân đội, tổ chức lại bộ máy chỉ huy

cai trị hành chính theo các mường, Phà Ngừm đã có một “Lời huấn thị” lịch

sử, còn được ghi trong chính sử mà người Lào coi như là bản hiến pháp đầu

tiên của mình.

Người thứ ba có ảnh hưởng sâu sắc đến đất nước Lào là vua Sệt Tha

Thi Rạt (1534 -1572). Phải đến năm 1553, nghĩa là 200 năm sau, vì lý do địa

lý chính trị đối với các vương hầu phía Nam và để tránh sự dòm ngó đặc biệt

của quân Miến Điện, quốc vương Sệt Tha Thi Rạt mới là người tiếp tục thực

thi những ý tưởng của Phà Ngừm, thiên đô từ Luông Pha Băng xuống Viêng

Chăn (cách 210 km), mang theo tượng Phật bằng ngọc bích (cao 0,70 cm),

cho xây “Vắt Pha kẹo” (Chùa ngọc) để an vị tượng Phật đó, đồng thời dựng

“Thạt Luổng” (Tháp lớn) năm 1566, lưu giữ xá lợi là một sợ tóc (hay một

đốt xương?) của Đức Phật. Vua Sệt Tha Thi Rạt băng hà trong một cuộc thân

chinh dẹp loạn người Khạ ở phía Nam năm 1572. Sau đó là thời kỳ hỗn

quan, hỗn quân vô chính phủ của nước Lào. Mãi đến nửa đầu thế kỷ XVII

mới tái lập được sự ổn định dưới triều vua Sou Ri NaVong Sa (1637 -1694),

một đại vương của nước Lào trị vì hơn 50 năm, người có công lớn trong việc

giữ được sự ổn định lâu nhất của quốc gia Lạn Xạng. Dưới triều đại Sou Ri

NaVong Sa, Viêng Chăn là trung tâm Phật giáo lớn, nơi sư sãi các nước

Khơme, Phù Nam hay Xiêm (Thái Lan) đến tu học. Từ đó đến nay, Viêng

Chăn luôn là thủ đô, một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của nước Lào.

Sự kiện thống nhất quốc gia Lạn Xạng của Phà Ngừm (1357) và sự kiện dời

đô của Sệt Tha Thi Rạt (1553) là hai biến cố lớn có ảnh hưởng sâu sắc không

11

chỉ về chính trị mà còn đến đời sống văn hoá, văn học Lào hơn cả. Giờ đây,

vương quyền đã gắn chặt với một biểu tượng mới bao trùm lên tất cả các

mường là ông Phật.

Trong số ba vị vua anh minh và có nhiều chiến tích nói trên thì Chậu

Phà Ngừm để lại nhiều dấu ấn sâu đậm nhất. Trong Historie du Laos

francais, Paul de Boulanger coi Phà Ngừm là một vị vua tài giỏi về quân sự,

luôn luôn ở trong hàng quân. Không lúc nào sợ hãi (...) Phà Ngừm cũng đã

dùng sức mạnh hoặc chỉ bằng uy danh của mình đã khuất phục tất cả các dân

tộc ở bán đảo Đông Dương trừ hai nước Việt Nam và Campuchia. Vị hoàng

đế vĩ đại đó là người sáng lập thật sự nước Lạn Xạng thống nhất. Đó là một

nhân vật kỳ lạ và phi thường, không ngờ lại xuất hiện trong lịch sử một dân

tộc vốn yêu chuộng trật tự và yên ổn... Bằng nhiều cách, Phà Ngừm đã quy

tụ được thủ lĩnh của các địa phương, các vùng miền, từ những đồng bằng

phía Tây, những thung lũng và núi non phía Bắc đến những cao nguyên phía

Nam gắn kết lại dưới một cái tên chung: nước Lạn Xạng. Đất nước Lào xuất

hiện theo bước chân chinh phạt của người anh hùng dân tộc Phà Ngừm để

bước vào một giai đoạn lịch sử mới đầy náo động mà trước đó là cả một thời

kỳ dài phát triển gần như âm thầm. Phà Ngừm yêu cầu vua Khơme cử hai

mươi ba nhà sư, ba nhà bác học mang theo tượng Phật, kinh sách, cây bồ đề

sang Lào. Cùng đi còn có các thợ lành nghề về rèn, nấu đồng, đúc tượng,

kim hoàn. Vua Khơme còn tặng vua Lào một số nhạc cụ. Như vậy, tuy là

gián tiếp nhưng Lào đã tiếp nhận mạnh mẽ văn hoá Ấn, gần gũi về văn hoá

với các nước láng giềng phía Tây và Đông Nam Á như Thái Lan, Miến Điện,

Khơme. Tuy nhiên, ảnh hưởng văn hoá của các nước này tới Lào hãy còn

hạn hẹp, bởi văn hoá Ấn - Phật lúc này vẫn còn do những nhà sư và những

người từ Khơme mang đến nên chỉ loanh quanh ở kinh đô mà thôi. Mặt khác,

truyền thống Mường Xoa tuy được nâng lên thành truyền thống toàn quốc

12

nhưng chưa kịp được hội nhập vào nền văn hoá chung. Văn hoá Ấn - Phật

tuy thế, cũng còn xa lạ và chưa gắn kết được với truyền thống dân gian bản

địa.

Từ thuở Phà Ngừm lập quốc gia Lạn Xạng thế kỷ XIV (1357), các tộc

người từ các mường dần quy tụ lại, hướng về Mường Xoa, tức kinh đô

Luông Pha Băng. Từ đó, mỗi dân tộc và bộ tộc đã từng bước xây dựng cuộc

sống văn hoá riêng của mình, gia nhập vào đại gia đình các bộ tộc Lào: từ

cách thức dựng nhà ở (nhà sàn), việc xây dựng các hệ thống mương phai đưa

dẫn nước vào đồng ruộng đến những lời ca, điệu múa, tiếng hát, những đám

tang, đám cưới, lễ hội truyền thống đều mang những dáng vẻ riêng.

Vào giữa thế kỷ XIV, sau khi lên ngôi (1353), Phà Ngừm đứng ra

thống nhất các mường cát cứ, chia rẽ trước đây thành quốc gia Lạn Xạng

thống nhất để hình thành một nhà nước tập quyền (trên cơ sở một nền nông

nghiệp lúa nước cổ truyền) có cơ cấu ruộng rẫy với một hệ thống thuỷ lợi

(mương - phai - lái- lịn) mềm dẻo và thích nghi với điều kiện tự nhiên, khác

với hệ thống mương phai của Đại Việt (kết hợp với hệ thống đê điều đồ sộ ở

miền Bắc và kênh rạch chằng chịt ở miền Nam).

Như vậy, sự kiện Phà Ngừm lên ngôi (năm 1353) và lập ra quốc gia

Lạn Xạng thống nhất (năm 1357) đã mở ra một thời kỳ mới của lịch sử quốc

gia dân tộc và lịch sử văn hoá văn học Lào. Có thể coi đây là một cột mốc

quan trọng khi xem xét những chặng đường lớn của văn hoá văn học Lào.

Cư dân Lào Thay ngoài thể nghiệm mô hình kinh tế - xã hội lúa nước

như nói trên còn tổ chức xã hội hai cấp: bản - mường. Người đứng đầu mỗi

bản là “phò bản” (bố bản). Bộ máy quản lý còn đậm dấu ấn “dân chủ công

xã” với chế độ già làng. Ruộng đất thuộc về của công do ông “phò bản” là

người đại diện (“Đìn ạt nha, na phò bản”: “Đất của quan, ruộng làng của

trưởng bản”) (TN Lào). Vì có sự phân quyền trong quản lý đất đai nên hình

13

thành chế độ bóc lột, xã hội phân chia thành đẳng cấp quý tộc và bình dân.

Trong mỗi bản gồm nhiều gia đình hạt nhân (từ gia đình lớn mẫu hệ trong

công xã thị tộc phân nhỏ thành gia đình nhỏ phụ hệ trong công xã nông

thôn). Mỗi bản đều có ma làng (phỉ bản) do thầy mo (thầy cúng) đảm nhiệm.

Thầy mo cũng là người nhưng vì được học hành, nắm được phép thuật nên

hiểu được tiếng nói của thế giới ma (phỉ).

Nhiều bản hợp lại thành một mường, do một người đứng đầu gọi là

“chậu mường” (chủ mường) hình thành những cơ cấu quyền lực của nhà

nước. Bản nơi ông chủ mường sống người Thái gọi là bản Chiềng (bản lớn

nhất mường) được đặt làm trụ sở ở trung tâm của mường để làm chức năng

hành chính và văn hoá. Trụ sở này được xây thành bao quanh gọi là viêng.

Trong quá trình tích hợp xã hội lớn hơn mường, người ta vẫn dùng từ

mường để chỉ các vương quốc, thậm chí một quốc gia như mường Lào,

mường Thái với cấu trúc ba cấp: bản, mường, mường luổng (mường lớn).

Người đứng đầu mường lớn được gọi là chậu xi vít (vua) dựa trên quan hệ

huyết thống đã lập bộ máy trung ương tập quyền cai quản từ trên xuống

dưới.

1.1.2. Mối quan hệ lịch sử - xã hội Việt Nam - Lào

Theo Nguyễn Hào Hùng [127, tr.97], quan hệ Việt Nam - Lào đã có từ

thời cổ trung đại. Nhưng mối quan hệ này được phản ánh trong các văn bản

là rất muộn so với sự thật lịch sử.

Cho đến ngày nay, cư dân sống hai bên dãy Trường Sơn còn lưu

truyền truyền thuyết Quả bầu mẹ xa xưa về nguồn cội của mình. Trời làm

nạn hồng thuỷ khủng khiếp, từ trong quả bầu có hàng loạt người chui ra.

Những ai sang phía Đông thì trở thành người Việt, sang phía Tây trở thành

người Miến, xuống phía Nam thành người Khơme, còn ở lại đó là người

14

Thái, người Lào, người Khạ (Lào Thơng).

Theo Truyện cổ Ba Na (Nxb Văn học, 1965, tr.2), chàng Léo (Lào) đã

vượt Trường Sơn sang Việt Nam phối hợp với chàng Ngọc để tiêu diệt xà

tinh. Truyện Ca Phúc (Truyện dân gian Lào, Nxb Văn hoá, 1962) của người

Lào lại khắc hoạ hình tượng một chàng trai Việt, vốn cùng quê hương của

chàng Ngọc sang Lào tìm diệt quỷ quái Thao Xun. Các câu chuyện trên đã

ngợi ca tình nghĩa anh em Việt - Lào qua những hình tượng tiêu biểu của văn

học dân gian. Như vậy, văn học dân gian cũng có thể được coi là nguồn tư

liệu quan trọng và phong phú trong việc phản ánh tình đoàn kết Việt Nam -

Lào.

Tuy nhiên, cũng thật khó khăn khi đi tìm sự kiện lịch sử và thời điểm

đầu tiên ghi nhận mối quan hệ Việt - Lào. Như trên đã nói, thư tịch ghi chép

được là rất muộn so với sự thật lịch sử. Nhiều sự kiện lịch sử qua đi rất lâu

sau này mới được ghi chép lại.

Qua các bản dịch sau này về Dư địa chí của Nguyễn Trãi (TK XV),

Vân đài loại ngữ, Phủ biên tạp lục, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn (TK

XVIII) và một số nguồn sử liệu khác, có thể thấy quan hệ buôn bán, giao lưu

giữa người Lào và người Việt có từ rất sớm. Sách Dư địa chí đã so sánh y

phục của những tộc người sống vùng biên giới Cao Lạng (Việt Nam) và

Quảng Tây (Trung Quốc) “giống như người Lào”; Vân đài loại ngữ cho

rằng, gỗ bạch đàn của Lào đã có mặt trên thị trường Việt Nam từ thời Trần;

người Lào thường mang trâu bò sang khu vực phía Tây Nghệ Tĩnh để bán;

Nguyễn Trãi đã kể tên những mặt hàng khá phong phú và nổi tiếng của Lào

như tê giác, voi, sáp trắng, vải chiên, chiêng đồng tốt nhất cũng có mặt ở

Việt Nam. Chiêng đồng giống như trống đồng của Việt Nam, được người

Lào coi là đồ quốc phẩm dùng trong việc bang giao hoặc để trao đổi. Nhiều

dân tộc ít người vùng Tây Nguyên (Việt Nam) còn giữ được những chiếc

15

chiêng Lào dùng đánh trong những ngày hội của buôn làng. Lê Quý Đôn còn

cho biết nguồn gốc của cây thuốc hút mà người Việt Nam mang về trồng và

hay dùng được du nhập từ Lào nên gọi là cây thuốc Lào.

Nguyễn Hào Hùng [127, tr.95], khi trích dẫn một số nguồn sử liệu của

Nguyễn Trãi và Lê Quý Đôn nói trên đã cho rằng, người Việt Nam sớm có

những nhận xét về người Lào như “người Lào thuần hậu chất phác”, trong

giao dịch buôn bán thì “họ vui lòng đổi chác”. Nguyễn Trãi đã từng nhận xét

“tiếng Lào là tiếng họng”, còn y phục thì người Lào lấy vải cuốn vào mình

như áo cà sa nhà Phật.

Những tư liệu lịch sử trên đây là một trong rất nhiều bằng chứng nói

lên mối quan hệ mật thiết hàng ngày giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân

Lào. Nhìn chung, “trong thời kỳ cổ trung đại, nhân dân Việt Nam và nhân

dân Lào đã có quan hệ đi lại và trao đổi hàng hoá vật phẩm với nhau. Người

Việt Nam đã biết đến nhiều mặt hàng nổi tiếng của Lào như các sản vật tự

nhiên, sừng voi, tê giác, lông chim, sáp trắng, quế, sâm…thường dùng vào

việc cống phẩm hoặc các vật dụng do người Lào sản xuất như vải, chiêng

đồng” dùng trong việc mua bán [127, tr.92 - 94].

Các tài liệu ghi chép về các sự kiện lịch sử đã qua đều cho rằng, mối

quan hệ Việt - Lào có từ thời cổ trung đại. Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô

Sĩ Liên (TK XV) ghi lại sự kiện “giao hiếu” đầu tiên (năm 1067) của những

bộ lạc Lào giáp Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh (Việt Nam) với nước Đại Việt dưới

thời Lý Thánh Tôn. Sau này, sách Đại Nam chính biên liệt truyện (quốc sử

triều Nguyễn) cũng cho sự kiện “thông hiếu” năm 1067 này là sự kiện mở

đầu.

Từ xa xưa, người Việt Nam đã gặp gỡ và liên hệ với các bộ tộc Lào ở

khu vực lân cận. Năm 1075 Lý Thường Kiệt đã đánh tan quân Tống, sau đó

kịp thời chấn chỉnh cương giới, trong đó có biên giới phía Tây. Nhờ đó,

16

người Việt Nam có sự cảm thông với các bộ tộc Lào. Cuộc kháng chiến

chống quân Nguyên dưới thời Trần của Việt Nam cũng dựa vào tuyến phòng

thủ phía Tây của Lào. Khi Hồ Quý Ly cướp ngôi vua Trần, đất nước bị nhà

Minh xâm lược, nhiều nhà yêu nước cũng chạy sang đất Lào lánh nạn.

Ngay sau khi lên ngôi (1353) và lập ra quốc gia Lạn Xạng (1357), vua

Phà Ngừm (1316- 1371) đã gửi tặng phẩm đến vua Đại Việt để mở đầu cho

sự xác lập mối bang giao giữa hai nước. Lê Thái Tổ đã cử nhiều tướng lĩnh,

nghĩa quân thông thạo tiếng Lào sang Lào mua sắm voi, ngựa, lương thực để

tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Minh, đồng thời dựa vào sự giúp đỡ

của các tù trưởng và nhân dân Lào vùng biên giới truy đuổi quân Minh trốn

chạy sang Lào. Vua Lào còn sai tù trưởng Mãn Sát cùng nghĩa quân và voi

chiến sang giúp Lê Lợi chống lại quân Minh. Khi nhà Mạc chiếm ngôi nhà

Lê, Nguyễn Kim cùng nhiều triều thần khác đã chạy sang trú ngụ trên đất

Lào (Sầm Nưa).

Đến thời vua Sệt Tha Thi Rạt (1534 - 1572) mối quan hệ hữu hảo giữa

Lạn Xạng với Đại Việt vẫn tiếp tục được duy trì thông qua cuộc hôn nhân

giữa nhà vua với công chúa Ngọc Hoa (con vua Lê Anh Tôn) năm 1564.

Nhờ chính sách đối ngoại khôn khéo này, Vương quốc Lạn Xạng trong suốt

nửa sau thế kỷ XVI đã ba lần đánh bại quân A Vạ (Miến Điện) xâm lược.

Sang thế kỷ XVII, dưới triều vua Sou Ri Na Vông Xa (1637 - 1694),

quan hệ Lạn Xạng với Đại Việt không ngừng được củng cố. Khi nhà vua

băng hà, Lạn Xạng xảy ra rối ren, cháu nội của nhà vua đang cư trú ở Việt

Nam đã đề nghị vua Đại Việt giúp đỡ, kéo về Viêng Chăn ổn định trật tự.

Đến 1713, Lạn Xạng bị chia cắt thành ba mường lớn thì nhân dân đã vùng

dậy chống lại áp bức xã hội và liên kết với Đại Việt để tăng cường sức mạnh.

Nhưng sự kiện quan trọng nhất trong quan hệ Việt - Lào đầu thế kỷ

XIX phải nói đến những hoạt động của nhà yêu nước Chậu A Nụ (Chiêu A

17

Nỗ) trên đất Việt Nam gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân Xiêm của

nhân dân Lào. Ngay sau khi lên ngôi (1805), Chậu A Nụ, quốc vương Viêng

Chăn đã nối lại mối bang giao thân thiện với Việt Nam. Nhân dân vùng

mường Xiềng Kôm (nay thuộc Kỳ Sơn, Nghệ An) còn lưu truyền nhiều câu

chuyện về những hoạt động của ông và sự tiếp tế của nhân dân Việt Nam cho

nghĩa quân Lạn Xạng.

Qua nghiên cứu những tài liệu và sự kiện lịch sử trên đây, cho phép đi

tới một số nhận định dưới đây về quan hệ Việt - Lào thời kỳ cổ trung đại:

a) Do điều kiện tự nhiên và quan hệ láng giềng gần gũi, quan hệ Việt

Nam - Lào hình thành từ rất sớm, có thể nói ngay từ khi xuất hiện những cư

dân Việt Nam và Lào trên khu vực địa lý lịch sử này;

b) Trong qúa trình dựng nước và giữ nước của từng dân tộc cũng như

trong giao lưu về kinh tế và văn hoá, không chỉ các nhà nước phong kiến hai

nước quan hệ với nhau mà nhân dân hai nước cũng thường xuyên liên hệ với

nhau, ủng hộ và giúp đỡ nhau một cách tự phát, nhất là những cư dân khu

vực vùng giáp biên giới hai nước.

c) Trong quá trình phát triển mở mang bờ cõi, người Việt không có

hướng di chuyển về phía Tây mà Nam tiến. Dãy Trường Sơn trở thành biên

giới tự nhiên, nên nhìn chung trong quan hệ Việt Nam - Lào không có vấn đề

chiếm đất.

1.2. Mối quan hệ văn hoá Việt Nam - Lào trong bối cảnh Đông

Nam Á

Khi nghiên cứu nền văn hoá các nước Đông - Nam Á nói chung, tục

ngữ Việt và tục ngữ Lào nói riêng với tư cách là những sản phẩm văn hoá

tinh thần của các dân tộc đang cư trú ở các quốc gia, chúng tôi phân tích một

số thành tố của văn hoá Việt Nam và Lào như: địa lý, ngôn ngữ, tín ngưỡng,

18

tôn giáo, phong tục tập quán, nhà cửa, nghệ thuật,...

1.2.1. Về địa lý và tự nhiên

Xét về mặt địa lý, Việt Nam và Lào cùng nằm trên bán đảo Đông

Dương thuộc vùng Đông Nam châu Á (Lào nằm ở 13º55’- 22º30’ vĩ Bắc,

100º05’- 107º37’ kinh Đông; Việt Nam nằm ở 8º27’- 23º23’vĩ Bắc, 102º8’-

109º27’ kinh Đông). Lào có đường biên giới chung với Trung Quốc (505

km) và Myanma (236 km) ở phía Tây Bắc, với Campuchia (435 km) ở phía

Đông Nam, với Việt Nam (2130 km) ở phía Đông, với Thái Lan (1835 km) ở

phía Tây. Còn Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc về phía Bắc (1281 km),

với Campuchia về phía Tây Nam (1120 km), với Vịnh Thái Lan về phía

Nam, với Vịnh Bắc Bộ và biển Đông về phía Đông (3260 km), với Lào về

phía Tây (2130 km). Diện tích tự nhiên của Việt Nam lớn gần gấp rưỡi Lào (Việt Nam: 329.600 km2, Lào: 236.800 km2). Địa hình hai nước rất đa dạng,

đều có đồng bằng, rừng núi và cao nguyên (rừng núi và cao nguyên chiếm

đến 3/4 diện tích lãnh thổ mỗi nước).

Theo sự phân chia của các nhà dân tộc học thì Đông Nam Á có năm

cảnh quan:

- Một là, cảnh quan sườn núi cao với mô hình canh tác rẫy dốc;

- Hai là, cảnh quan cao nguyên với mô hình canh tác rẫy bằng;

- Ba là, cảnh quan thung lũng với mô hình canh tác ruộng - rẫy;

- Bốn là, cảnh quan đồng bằng châu thổ với mô hình canh tác ruộng -

vườn;

- Năm là, cảnh quan duyên hải và đảo với mô hình kết hợp và khai

thác biển.

Ở Lào có ba cảnh quan đầu, còn Việt Nam có đủ cả năm cảnh quan nói

trên. Nói cách khác, Việt Nam và Lào cùng có chung ba cảnh quan đầu

nhưng khác nhau là Lào không có hai cảnh quan cuối. Mô hình tiêu biểu của

19

người Lào là mô hình thung lũng với những cánh đồng dọc theo sông Mê

Kông như: Viêng Chăn, Luông Nặm Thà, Chăm Pa Xắc, Khăm Muộn. Mô

hình tiêu biểu của người Việt là vùng đồng bằng châu thổ với hai châu thổ

lớn: đồng bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.

Cao nguyên vùng Tây Nguyên bạt ngàn cây cà phê, cao su, chè; vùng

Trung du phía Bắc Việt Nam cũng mênh mông rừng cọ, đồi chè. Ở Lào, có

cao nguyên Mường Phuôn, Bô Lô Ven. Lào là một nước dường như bị khép

kín, không có biển, nhưng Việt Nam có tới 3.260 km bờ biển và hơn 3.000

hòn đảo. Cuộc sống của một bộ phận cư dân vùng biển và hải đảo Việt Nam

gắn liền với biển khơi với những hoạt động đánh bắt hải sản và vận tải biển.

Vì vậy, con người ở đây ưa phóng tầm mắt nhìn ra khơi xa không có bến bờ

nên đã kích thích các giác quan của họ, nhất là thị giác và thính giác. Người

vùng biển thích màu sắc, âm thanh. Trái lại, Lào lại là ngã tư đường của mọi

cuộc tiếp xúc giao lưu với các nước trong khu vực trên đất liền một cách

thuận lợi.

Việt Nam và Lào đều có mạng lưới sông ngòi dày đặc gắn cư dân hai

nước với những hoạt động ở vùng sông nước và nghề chài lưới. Đây không

chỉ là nguồn lợi lớn về kinh tế mà còn là hệ thống giao thông đường thuỷ

thuận tiện. Hệ thống sông ngòi chằng chịt đó đã góp phần hình thành ở mỗi

nước những đồng bằng phì nhiêu, màu mỡ. Sông Đà, sông Đa Nhim của Việt

Nam, sông Phà Ngừm của Lào và một số sông suối khác còn mang lại cho mỗi nước trữ năng thuỷ điện đáng kể4. Dòng Mê Kông5 không chỉ tạo nên

20

những vựa lúa, vựa cá cho người dân các nước mà nó chảy qua mà còn là nơi 4 Việt Nam 20 triệu kw, Lào 12,4 triệu kw (dẫn theo Mai ngọc Chừ [13, tr.18]). 5 Dòng Mê Kông (dài 4350 km) bắt nguồn từ Trung Quốc (đoạn chảy trong Trung Quốc chiếm gần một nửa độ dài, 1650 km), chảy qua Myanma và Thái Lan (dài 1.864 km), chảy dọc theo nước Lào, qua Campuchia (dài 453 km), chảy vào miền Nam Việt Nam (dài 231 km) gọi là sông Cửu Long, tiếng Lào gọi là Mè Nặm Khoỏng, có nghĩa là sông Mẹ rồi đi ra biển Đông.

kết nối, giao thoa giữa các nền văn hoá trong khu vực; đồng thời tạo cho khu

vực này những đặc trưng của nền văn hoá sông Mê Kông. Qua bao đời nay,

tầm quan trọng hàng đầu của sông Mê Kông vẫn luôn luôn được khẳng định,

bởi nó đưa lại nguồn lợi kinh tế và tạo nên trục giao lưu kinh tế - văn hoá

chủ yếu của cả nước Lào và vùng Nam bộ Việt Nam. Các dòng sông, ngọn

suối của hai nước không chỉ là nguồn nước tự nhiên cần thiết đối với đời

sống hàng ngày của các cư dân mỗi nước ngay từ buổi đầu tiền sử của họ mà

còn đã từng đưa những đoàn người đông đúc đi khai phá bản mường và lánh

nạn trong các cuộc chiến tranh trước đây. Sông suối, kênh rạch cũng là

những yếu tố tạo cho hai nước Việt Nam - Lào những nét văn hoá rất đặc

trưng của vùng sông nước. Tục cầu mưa, lễ cầu Mẹ nước, tục té nước, tục

lấy nước thờ của người Thái, người Lào và một số dân tộc ở Việt Nam cũng

bắt nguồn từ mục đích chính là xin nước cho cây cối để mùa màng bội thu.

Vì vậy, theo các nhà khảo cổ học, việc đóng bè mảng và thuyền để đi lại trên

sông suối, kênh rạch có từ rất sớm. Sông suối còn là nơi diễn ra những ngày

hội bơi thuyền (bơi chải) ở cả hai nước đầy hào hứng và sôi nổi. Theo

Nguyễn Năm, “người Lào đã sinh sống trên một vùng đất tạo nên do sự đối

lập thống nhất: sông suối - núi rừng. Đặc điểm này đã để lại những dấu ấn

sâu sắc trong nền văn hoá văn học dân tộc” [140, tr.7].

Dãy Trường Sơn, người Lào gọi là dãy Phu Luổng (dài 1100 km)

không chỉ là chiến luỹ của nhân dân Lào và Việt Nam trong các cuộc chiến

tranh chống kẻ thù mà còn là biên giới tự nhiên vững chãi, tạo ra hai vùng

khí hậu khác biệt giữa hai nước. Dải Trường Sơn chắn ngang biên giới phía

Đông của nước Lào có tác dụng ngăn cản cũng như điều hoà ảnh hưởng của

các trận cuồng phong từ biển Thái Bình Dương đổ vào Lào nên khác với

Việt Nam, Lào không bị những trận bão biển khủng khiếp như Việt Nam.

21

Khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm của Lào mang tính lục địa với hai mùa

tương phản nhau rất rõ rệt (mùa mưa và mùa khô). Còn ở Việt Nam, cạnh

khí hậu nóng, ẩm, gió mùa, một điều kiện tự nhiên thuận lợi, lại luôn bị đe

doạ bởi thiên tai và khí hậu khốc liệt, không bị bão lụt thì cũng hạn hán hoặc

những đợt gió Lào nắng, nóng gần như suốt mùa hè hàng năm từ sườn Tây

Trường Sơn (Lào) thổi sang khu vực các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà

Tĩnh. Cùng với sông suối, rừng ở Việt Nam và ở Lào với những thảm thực

vật hết sức phong phú cũng gắn bó không thể thiếu với cuộc sống của nhân dân hai nước. Có thể nói, hầu hết các tỉnh của Lào6 đều có núi, có rừng (vì

rừng núi chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ). Rừng không chỉ luôn là biểu tượng

được gắn trên quốc huy mà còn là nơi nương tựa, là niềm tin, niềm tự hào và

nguồn sống của mỗi người dân Lào. Ở Nam Lào, rừng chen lấn với đồng

bằng, tạo nên một màu xanh ngút ngàn của thiên nhiên nhiệt đới. Ở miền

Trung Việt Nam, rừng lan ra tận biển; một số nơi rừng còn xen lẫn với đồng

bằng. Như vậy, rừng mãi mãi giữ một vị trí đặc biệt trong đời sống của nhân

dân Việt Nam và của nhân dân các bộ tộc Lào. Rừng núi cũng là nơi che chở

họ trong các cuộc lánh nạn hoặc chiến tranh.

Lào là nước duy nhất ở Đông Dương không có biển và đường xe lửa.

Vì thế, sông nước lại càng quan trọng trong đời sống văn hoá của nhân dân

Lào, bởi sông nước vốn không chỉ là một yếu tố không thể thiếu được trong

đời sống con người và của bất kỳ nền văn minh nông nghiệp lúa nước nào

mà còn là một tiềm năng, đưa lại nhiều nguồn lợi lớn cho con người. Ngoài

sông Mê Kông, Lào còn có một hệ thống sông ngòi chằng chịt, hình thành

các sông nhánh ở miền Bắc và miền Nam Lào. Nếu như hệ thống sông nhánh

22

6 Theo thống kê ngày 01/3/2005, ở Lào hiện có 18 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chưa kể đến 16 tỉnh thành với 20 triệu dân do thực dân Pháp- Anh toa rập cắt của Vương quốc Lào ký ráp vào đất Thái Lan. Còn ở Việt Nam, hầu hết các tỉnh, thành đều có rừng, có núi (tập trung nhiều nhất ở phía Bắc).

phía Bắc Lào bắt đầu từ chữ “Nậm” (có nghĩa là nước hoặc sông) như ba con

sông bắt nguồn từ cao nguyên Mường Phuôn chảy qua Việt Nam: sông Nậm

Mạ (sông Mã), Nậm Sằm (sông Chu), Nậm Nơn (sông Lam) thì các sông

phía Nam Lào lại bắt đầu bằng chữ “Xê” (cũng có nghĩa là nước hoặc sông)

như: Xê Băng Phay, Xê Băng Hiêng, Xê Đôn, Xê Công. Theo các nhà dân

tộc học, đây được coi là một tiêu chí để phân biệt lãnh thổ của cộng đồng tộc

người trên đất Lào. Mối giao lưu giữa Lào với các nước trong khu vực chủ

yếu được thực hiện trên đất liền hoặc đường thuỷ. Có thể nói, sự kết hợp núi

rừng - sông suối đã tạo nên phức hợp văn hoá của các cư dân Lào.

Những đặc điểm địa hình và khí hậu nói trên đã giúp cho người Việt

Nam và người Lào ở vùng thấp có cây lúa nước với phương thức gieo mạ và

cấy, tạo nên những đồng bằng phì nhiêu, rộng lớn (các đồng bằng sông

Hồng, sông Cửu Long của Việt Nam; Viêng Chăn, Khăm Muộn, Luông Nặm

Thà, Chăm Pa Xắc của Lào) với những bãi bồi phù sa màu mỡ. Ở vùng núi

và cao nguyên có các lối canh tác rẫy dốc, rẫy bằng, ruộng - rẫy hoặc trồng

trọt theo phổ rộng (đa loài nhưng mỗi thứ một tý), từ đó hình thành nông

nghiệp làm vườn với việc trồng rau củ, làm rẫy với cây lúa cạn theo phương

thức gieo thẳng tạo nên loại hình nương rẫy có tính thâm canh. Hình thành

một phức thể canh tác trồng lúa được phân bố theo địa hình từ cao xuống

thấp: rẫy, ruộng - rẫy, ruộng - nương, ruộng - vườn. Đồng bằng đóng vai trò

chủ đạo trong nền văn hoá lúa nước. Vì vậy, các quốc gia cổ đại đều ra đời ở

đồng bằng và tộc người chủ thể bao giờ cũng chiếm lĩnh đồng bằng (dẫn

theo Phạm Đức Dương [29, tr.10]).

Như vậy, xét về mặt tự nhiên, Việt Nam có đầy đủ cả ba yếu tố: đồng

bằng, núi và biển với một phức thể văn hoá gồm ba yếu tố: văn hoá đồng

bằng, văn hoá núi, văn hoá biển. Yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng đóng

23

vai trò chủ đạo. Trong khi đó, theo địa lý hiện tại thì nước Lào chỉ có đồng

bằng và miền núi mà không có biển nhưng không vì thế mà Lào lại thiếu đi

yếu tố văn hoá biển. Xưa kia, chắc chắn văn hoá biển đã thẩm thấu vào Lào.

Các đặc điểm tự nhiên đó tạo ra các vùng văn hoá đặc trưng của mỗi nước.

Nói cách khác, các yếu tố địa - văn hoá nói trên đã làm nên bức tranh đa

dạng sắc màu tuy còn rất sơ lược về đất nước Việt Nam và đất nước Lào.

1.2.2. Văn hoá - tộc người

1.2.2.1. Mối quan hệ giữa các tộc người

Việt Nam và Lào đều là hai quốc gia đa dân tộc. Lào hiện có 49 bộ tộc chính với số dân 5.622.000 người7, trong đó dân tộc chủ thể là người Lào

hiện chỉ chiếm 56% dân số với 1,6 triệu người; một vương quốc một thời

rộng lớn nay chỉ là một quốc gia nhỏ bé bị phân cắt vì có tới 20 triệu người

Lào (Lào Y sản) của 16 tỉnh bị cắt cho Thái Lan theo Hiệp ước Pháp - Xiêm

ngày 03/10/1893 hiện cư trú ở Đông Bắc Thái Lan. Còn Việt Nam có 54 dân tộc với số dân khoảng 86 triệu người8.

Như trên đã nói, nước Lào là nơi giao thoa của nhiều luồng chuyển cư

của nhiều bộ tộc cho nên “bức tranh tộc người ở đây đan xen, chồng chéo,

nhiều lớp, xáo qua trộn lại, rất khó bóc tách rạch ròi” [29, tr.16]. Căn cứ vào

nhân chủng, ngôn ngữ học, người ta chia 49 bộ tộc Lào nói trên thành bốn

nhóm chính: Nhóm Lào - Thái (8 bộ tộc), nhóm Môn - Khơme (31 bộ tộc);

nhóm Hoa - Tạng (8 bộ tộc), nhóm H’mông - Miêng (2 bộ tộc).

Trong quan hệ giữa các bộ tộc ở Lào và các dân tộc ở Việt Nam, trước

hết là ở sự gần gũi, tương đồng về ngôn ngữ giữa các dân tộc ở hai nước.

Ngôn ngữ của người Phu Nọi ở Lào có nhiều nét tương đồng, gần gũi với

người Hà Nhì, Phù Lá, La Hủ, Si La ở Việt Nam (nhóm ngôn ngữ Tạng -

24

7 Theo thống kê của Mặt trận Dân tộc Tổ quốc Lào ngày 01/3/2005. 8 Theo số liệu điều tra dân số tháng 4 năm 2009.

Miến); người Lào cùng nói tiếng Thái tương tự như người Tày Nùng, Sán

chay, Giáy, Bố y, Lự, La Ha ở Việt Nam (Ngữ hệ Thái).

Nhưng dựa vào địa dư cư trú, 49 bộ tộc Lào nói trên được người Lào

chia thành ba nhóm dân tộc chính trong tương quan nơi cư trú, tập quán, văn

hoá với các dân tộc khác ở Việt Nam. Đó là người Lào Lùm (Lào đồng

bằng), Lào Thơng (Lào giữa) và Lào Xủng (Lào vùng cao). Nhưng tất cả đều

là Lào.

a) Nhóm tộc người Lào Lùm

Nhóm tộc người Lào Lùm (Lào, Thái) nói ngôn ngữ Lào -Thay tức là

cộng đồng người Lào quen sống ở vùng thấp vừa có đồng bằng vừa có rừng

núi, cơ cấu kinh tế ruộng - rẫy, đại diện cho mô hình kinh tế - xã hội lúa

nước vùng thung lũng, gồm 8 phầu (tộc người) trong đó, tộc người nói tiếng

Lào Thay đóng vai trò chủ thể (chiếm 70% dân số cả nước Lào). Nhóm này

cùng với cư dân Lào Thơng nói ngôn ngữ Môn - Khơme (Môn - Khóm) xây

dựng mái nhà chung quốc gia Lạn Xạng thuộc văn hoá lúa nước. Theo các

cứ liệu khảo cổ học, người Lào Lùm có mặt ở Lào ít nhất từ thiên niên kỷ

thứ I trước công nguyên. Theo Nguyễn Năm, Mường Xoa là trung tâm tập

hợp tất cả các mường của người Lào - Thay ở rải rác lưu vực sông Mê Kông.

Người Lào Lùm sống tập trung chủ yếu ở phía Tây nơi có nhiều đồng bằng

phì nhiêu màu mỡ dọc hai bên sông Mê Kông. Mô hình kinh tế - xã hội lúa

nước của họ được hình thành rất sớm, khá thống nhất và bền vững. Ngoài ra,

người Lào Lùm còn làm nghề chài lưới, trồng tỉa hoa màu, chăn nuôi gia súc,

dệt vải… Đời sống văn hoá của người Lào Thay khá phát triển và là hạt nhân

của nền văn hoá dân tộc sau này. Bởi vậy, trong thế kỷ XIV vai trò chủ thể

của người Lào Thay không chỉ được xác nhận ở Mường Xoa mà còn ở các

25

mường khác trên đất nước Lạn Xạng thống nhất.

Ở Việt Nam, có một bộ phận không nhỏ nói tiếng Lào Thay phân bố

chủ yếu ở vùng Đông Bắc (Tày Nùng) và Tây Bắc (Thái), kéo dài vào miền

núi Bắc Trung bộ, đến ranh giới các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh (chiếm khoảng

5% dân số cả nước). Người Tày chiếm số lượng đông nhất (khoảng 70% cư

dân nói tiếng Lào Thay), sau đó đến người Nùng rồi đến tộc người Thái.

Người Cao Lan, Sán Chỉ, Giáy, Bố Y cũng nói tiếng Lào Thay. Nhưng gần

gũi với người Lào Lùm về mặt địa lý - sinh hoạt - truyền thống - bản sắc văn

hoá là người Kinh ở đồng bằng châu thổ sông Hồng và người Thái ở vùng

Tây Bắc Việt Nam. Điều này lý giải tại sao nguồn tục ngữ của người Lào

Lùm (ở Lào) và người Việt (ở Việt Nam) có nhiều điểm giống nhau, thậm

chí trùng hợp nhau đến từng chi tiết.

b) Nhóm tộc người Lào Thơng

Nhóm tộc người Lào Thơng là tên gọi cộng đồng người Lào cư trú ở

vùng trung du, trước đây gọi là người Khạ hoặc Lào Cang, chủ yếu là cư dân

nói ngôn ngữ Môn - Khóm, quen với cuộc sống nương rẫy trên các sườn núi

hay cao nguyên, ưa tiếng vọng trầm hùng của núi rừng, đại diện cho văn hoá

núi, gồm 31 bộ tộc. Theo Phạm Đức Dương, do làm rẫy, du canh du cư nên

bị phân nhỏ, có đến 99 tên gọi trong 19 bộ tộc (trong khi đó nhóm Lào Thay

chỉ có 45 tên gọi trong 5 bộ tộc) và ngôn ngữ rất khác nhau. Nhóm ngôn ngữ

Môn - Khóm ở Lào dân số chỉ bằng 1/3 nhóm Lào Thay. Người Lào Thơng

là cộng đồng người có nguồn gốc bản địa lâu đời hơn so với người Lào Lùm

và Lào Xủng, là tộc người gốc đã sinh sống không chỉ trên đất Lào mà còn

sống ở nhiều nước Đông Nam Á. Mường Xoa (Luông Pha Băng) là nơi cư

trú của người Lào Thơng với cuộc sống đông đúc và phồn vinh nhất nước

Lào. Vì vậy, đến thế kỷ XIV chiến thắng của Phà Ngừm cũng chính là chiến

thắng của Mường Xoa đối với tất cả các mường khác. Người Khạ hay người

26

Lào Thơng thành một bộ phận không tách rời của cư dân Lào nhưng vai trò

chủ thể, vai trò “anh cả” vẫn thuộc về người Lào Thay. Khi người Lào Lùm

đến đây đã thấy người Lào Thơng có mặt từ trước sống rải rác trên vùng

Đông và Tây dãy Trường Sơn, gần địa bàn cư trú của các dân tộc Môn -

Khơme Việt Nam. Do vậy, có sự tương đồng về cảnh quan, môi trường sinh

thái, tập quán canh tác, tư tưởng tình cảm, thị hiếu…của người Lào Thơng

với các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme ở Tây Bắc, Tây Thanh

Hoá, Nghệ An và dọc theo dãy Trường Sơn của Việt Nam. Bởi vậy, nếu có

sự tương đồng tục ngữ và văn hóa giữa cộng đồng người Lào Thơng với

người Việt trên các khu vực nói trên cũng là điều dễ hiểu. Điều đảng lưu ý

là, các tộc người nói ngôn ngữ Môn - Khơme chia thành 2 vùng Bắc và Nam

bị cắt bởi ranh giới Hà Tĩnh (vùng tiếp giáp giữa hai nước Đại Việt và

Champa xưa). Do đó, Hà Tĩnh ở Việt Nam là vùng trống về mặt dân tộc.

c) Nhóm tộc người Lào Xủng

Nhóm tộc người Lào Xủng là cộng đồng người Lào cư trú ở vùng núi

cao, ôn đới thuộc Bắc và Trung Lào, gồm các bộ tộc thuộc dòng ngôn ngữ

Hán - Tạng và H’mông - Dao. Đó là những tộc người di chuyển từ phương

Bắc xuống cách đây vào khoảng vài thế kỷ, trong đó người H’mông chiếm

đa số. Theo các tài liệu khảo cổ học của Xôranh và Prômagiê, của Madơlen

Côlaini, từ năm 1935 - 1938 và những kết quả nghiên cứu của các tác giả

khác, đến thế kỷ thứ XVIII người Lào Xủng mới từ phía Bắc xuống sống chủ

yếu ở vùng núi cao thượng Lào (phía Bắc), nghĩa là người Lào Xủng mới

đến sống ở Lào khoảng 2 - 3 thế kỷ trở lại đây. Phương thức canh tác chủ

yếu của người Lào Xủng là làm nương rẫy, ruộng bậc thang, hái lượm, trồng

tỉa hoa màu và trồng cây thuốc phiện. Người Lào Xủng sống theo lối vừa

định canh, vừa du canh, du cư nên trình độ canh tác còn lệ thuộc hoàn toàn

27

vào tự nhiên. Thực tế ấy đã chi phối cốt cách, văn hoá, đời sống…của người

Lào Xủng là ít nhiều ảnh hưởng của văn hoá du mục như giỏi săn bắn và họ

có nhiều nét tương đồng với người H’mông, người Dao ở Việt Nam.

Nền văn hoá Lào thống nhất là sản phẩm của quá trình cộng cư và hoà

hợp văn hoá giữa ba khối dân tộc trên. Bản sắc văn hoá Lào biểu hiện trong

sự trao đổi và sự kết hợp hài hoà những phẩm chất gần gũi của các cư dân

sống ở vùng rẻo cao và những cư dân sống ở vùng thung lũng ven chân núi

hay đồng bằng ven sông, trong đó như lịch sử đã chỉ rõ khuynh hướng quy tụ

về thung lũng, đồng bằng cũng như địa vị chủ thể của thung lũng đồng bằng

(Lào Lùm) ngày càng được khẳng định.

Sau khi điểm qua thành phần các bộ tộc trong đại gia đình các dân tộc

Lào (và Việt Nam), chúng ta có thể rút ra một số nhận xét dưới đây:

Hai nước Việt Nam và Lào cùng nằm trên bản đảo Đông Dương, cùng

gồm nhiều thành phần dân tộc có quan hệ cội nguồn với nhau. Ở mỗi nước,

các dân tộc cư trú đan xen, sống hoà đồng và đoàn kết trải dài trên một địa

bàn rộng lớn từ Bắc xuống Nam. Tính chất phong phú, đa dạng đó thể hiện

rõ trên bình diện dân số, nguồn gốc, văn hoá, địa bàn cư trú…Nếu như toàn

Đông Nam Á có bốn dòng ngôn ngữ tộc người:

- Ngôn ngữ Tạng - Miến;

- Ngôn ngữ Tày - Thái;

- Ngôn ngữ Nam Á;

- Ngôn ngữ Nam Đảo

thì ở Việt Nam có đủ cả bốn dòng ngôn ngữ nói trên, còn ở Lào chỉ có ba

dòng đầu.

Trên bình diện sinh hoạt văn hoá, ngôn ngữ, nhân chủng, ở mỗi nước,

có nhiều nét đồng nhất và mối quan hệ khá gần gũi giữa các dân tộc. Nói

cách khác, tuy có những điểm khác nhau về thời gian có mặt, về tên gọi dân

28

tộc, nơi cư trú, trình độ sản xuất, số dân, bản sắc văn hoá nhưng ở mỗi nước,

các nhóm dân tộc đều sống chung trên cùng một quốc gia thống nhất, cùng

chung một cội nguồn dân tộc (qua các truyền thuyết Quả bầu mẹ của người

Lào, người Dao; bọc trăm trứng của Lạc Long Quân và Âu Cơ của người Việt)9. Dù là người Lào Lùm, Lào Thơng hay Lào Xủng, tên riêng từng bộ

tộc và tên chung dân tộc không tách rời nhau - tất cả đều là Lào. Mọi người

Lào, dù Lào Thơng, Lào Xủng hay Lào Lùm đều coi nước Lào là của họ;

người Việt và cả 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam đều sinh ra từ bọc trăm

trứng, đều là con Rồng cháu Tiên.

1.2.2.2. Mối quan hệ văn hoá Việt Nam - Lào trong bối cảnh Đông

Nam Á

Trong quan hệ giữa Việt Nam và Lào, giữa các nước Đông Nam Á, từ

xa xưa, đất Lào đã là ngã tư giao thông, chốn dừng chân, nơi lưu trú của

nhiều cư dân thuộc các bộ tộc khác nhau. Do vậy, cư dân Lào có điều kiện

tiếp xúc, giao lưu với các cư dân khác trong vùng. Còn người Việt tiếp giáp

với biển nên có điều kiện giao lưu, tiếp xúc với những quốc gia đến từ đường

biển và chịu sự tác động của những yếu tố văn hoá biển.

Trong quan hệ hai nước Việt Nam - Lào, từ xa xưa, lịch sử hai nước đã

có các cuộc di chuyển cư dân tự nhiên, nhất là cư dân trên các vùng biên

giới. Bởi vậy, có hiện tượng hình thành từ lâu đời những vùng cư trú của

29

9 Chúng ta đều biết, “Chuyện quả bầu” (“Mạc nặm tàu”) là câu chuyện phổ biến khắp Đông Nam Á tiền sử. Hiện nay đã tìm thấy khoảng 130 dị bản. Nguyễn Tấn Đắc cho rằng, dù có nhiều dị bản nhưng rút lại cũng chỉ có ba mô típ chủ yếu: thứ nhất là bầu sinh ra người, biểu tượng quả bầu - mẹ, huyền thoại về nguồn gốc loài người; thứ hai, đại hồng thuỷ - hai anh em ruột nhờ quả bầu mà thoát chết và lấy nhau đẻ ra loài người, biểu tượng quả bầu- thuyền, huyền thoại về nạn lụt hay sự băng hoại về chế độ hôn nhân thị tộc. Thứ ba, bầu - con là sự hồi tưởng lại huyền thoại bầu - mẹ sau trận lụt. Nếu như phần lớn dị bản ở các nước Đông Nam Á thuộc mô típ thứ hai, thì ở Lào các dị bản đều thuộc loại quả bầu - mẹ (mô típ thứ nhất).

nhóm cư dân nào đó có cùng ngôn ngữ văn hoá trên suốt dải biên giới Lào -

Việt. Ngoài ra, sức ép của các cuộc bùng nổ dân số dẫn đến các nhu cầu đi

tìm vùng đất mới để định cư; để trốn chạy ách áp bức bóc lột nặng nề; tập

quán sống du canh du cư; sự tranh chấp giữa các tập đoàn thống trị... cũng

tạo ra hoặc hình thành những nhóm và những đợt di dân lớn. Từ đó đã làm

thay đổi bộ mặt phân bố cư dân và các mối quan hệ giữa các tộc người trong

vùng. Tuy nhiên, sự di chuyển cư dân khá đặc biệt Lào - Việt Nam, Việt

Nam - Lào chủ yếu lại do vị trí địa lý của hai nước quyết định. Từ thời trung

đại, tù trưởng Nhọt Chăm Căm thuộc tộc người nói tiếng Lào - Thay đã từ

đất Lào đến đất Mường Xang (Mộc Châu) lập nghiệp. Có tài liệu truyền

miệng còn truyền lại quy ước cống nạp sản vật của các mường Lào lệ thuộc

cho Mường Xang, vốn là một mường lớn lúc đó. Mường Khoỏng nộp rượu

cau, mường Hồm nộp cá tươi, mường Hẳng nộp bọ vừng dưới ruộng (mường

Hồm, mường Hẳng thuộc đất Lào, mường Khoỏng thuộc đất Bá Thước, Việt

Nam). Sau này, dòng họ quý tộc Lò Khăm cũng từ Mường Bua, Mường Xà

(Lào) thiên cư đến Quan Hoá (Thanh Hoá) lập nghiệp. Khi có tang ma, dòng

họ này đều cúng đưa linh hồn người chết về Lào. Thậm chí trong những

ngày tết, những người con dâu trưởng còn búi tóc, mặc váy theo kiểu người

Lào nhằm nhắc nhở mọi người hãy nhớ đến nguồn cội của mình. Ngoài ra,

nhiều cuộc di dân tị nạn tránh sự đàn áp từ các cuộc khởi nghĩa nông dân thất

bại thời phong kiến hoặc do thần phục phụ thuộc vào chính trị hay cống nạp

diễn ra ở vùng biên giới hai nước thuộc khu vực Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh

Hoá, Lai Châu, Hoà Bình. Vì vậy, các cuộc di dân ở các vùng biên giữa Việt

Nam và Lào đã làm cho bức tranh phân bố cư dân vùng biên giới giữa hai

nước thêm đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên, cũng từ lâu đời đã diễn ra cuộc

sống hoà đồng, xen kẽ, hoà bình và hữu nghị của một bộ phận cư dân hai

30

nước, nhất là đối với nhóm cư dân nói tiếng Lào Thay. Người Lào và người

Việt sống trên vùng biên sinh hoạt, chợ búa, qua lại thăm hỏi nhau như một

lẽ tự nhiên. Thậm chí, họ xây dựng gia đình cũng tự nhiên như những người

cùng trong một nước. Biên giới không còn là sự cách trở trong tình yêu mà

như một chiếc cầu hữu nghị, một chứng nhân lịch sử cho mối quan hệ giao

lưu văn hoá Việt - Lào để cùng tiếp nhận qua lại những ảnh hưởng văn hoá

của nhau. Từ đó, mối quan hệ văn hoá giữa cư dân các vùng di dân, nhất là

cư dân nói tiếng Lào - Thay ở hai nước là mối quan hệ hữu hảo.

1.2.2.3. Về ngôn ngữ

Một điều dễ nhận thấy là, sự phong phú, đa dạng và phức tạp của bức

tranh ngôn ngữ Đông Nam Á nói chung, của hàng chục ngôn ngữ khác nhau,

đan xen vào nhau đang tồn tại ở Việt Nam và ở Lào nói riêng. Điều này tạo

nên một đặc điểm đáng chú ý là, một ngôn ngữ có thể tồn tại ở nhiều quốc

gia, nhiều quốc gia có thể dùng chung một ngôn ngữ. Bởi vậy, có một bộ

phận người Việt và người Lào cùng nói chung một ngôn ngữ cũng là điều

không có gì lạ.

Ở Việt Nam có bốn dòng ngôn ngữ: Nam Á, Nam Đảo, Tày Thái và

Tạng Miến, trong đó tiếng Việt đóng vai trò ngôn ngữ quốc gia và là tiếng

mẹ đẻ của người Việt. Ở Lào chỉ có ba dòng ngôn ngữ là Nam Á, Tày Thái

và Tạng Miến, trong đó tiếng Lào đóng vai trò ngôn ngữ quốc gia và là tiếng

mẹ đẻ của người Lào.

Bức tranh ngôn ngữ tộc người giữa hai nước là khá gần gũi và có cùng

quan hệ cội nguồn và tiếp xúc. Theo kết quả nghiên cứu của Maspero,

Haudricourt và gần đây là Phạm Đức Dương thì tiếng Việt là ngôn ngữ pha

trộn với hai ngôn ngữ chủ đạo: ngôn ngữ Môn - Khơme đóng vai trò cơ tầng

và ngôn ngữ Thái đóng vai trò cơ chế. Vì thế, xét về mặt nguồn gốc thì tiếng

Việt gắn với tiếng Môn - Khơme, nhưng xét về mặt loại hình thì tiếng Việt

31

vận hành giống tiếng Thái, tiếng Lào. Do đó, tiếng Việt và tiếng Lào có mối

quan hệ tiếp xúc rất lâu đời (khi nhóm Lào - Thái chưa tách nhau) và cùng

một loại hình với cấu trúc CVC có thanh điệu. Vì vậy, giữa hai ngôn ngữ có

rất nhiều yếu tố cùng gốc và cấu tạo rất giống nhau. Sự khác nhau chủ yếu là

tiếng Lào là một ngôn ngữ đơn tiết có cấu trúc CVC, có thanh điệu, âm tiết

trùng với hình vị và từ nhưng lại vay mượn rất nhiều từ Pali và Sanskrit vốn

là một ngôn ngữ biến hình đa tiết; trong khi đó, tiếng Việt vay mượn tiếng

Hán vốn cùng loại hình. Sự khác nhau đó làm cho tiếng Lào trở thành ngôn

ngữ có nhiều từ đa tiết và mỗi âm tiết đều không có nghĩa, làm cho cấu tạo từ

của tiếng Lào trở nên khác biệt về mặt ngữ âm.

1.2.2.4. Về chữ viết

Chữ viết ở Đông Nam Á ra đời muộn. Ngày nay, các dân tộc ở Đông

Nam Á đều vay mượn ba thứ chữ viết:

- Chữ Hán được mọi người Việt đều dùng từ thời Bắc thuộc và sau

này, thời độc lập, người Việt vẫn dùng chữ Hán là ngôn ngữ quốc gia cho

đến thế kỷ XX. Bên cạnh đó, người Việt dùng chữ Hán để ghi tiếng Việt và

có sự biến đổi thành chữ Nôm. Chữ Nôm chưa bao giờ được dùng làm quốc

tự mà được sử dụng trong việc sáng tác thơ văn, ghi hương ước, gia phả…

- Chữ Ấn Độ (Pali - Sanskrit) được người Thái, người Lào, người

Khơme, người Miến vay mượn và chế biến thành chữ Lào, chữ Thái, chữ

Khơme.

- Chữ Latinh do các giáo sĩ phương Tây đưa vào để ghi tiếng Việt, ta

gọi đó là chữ quốc ngữ.

Để ghi được tiếng Lào bằng con chữ Ấn Độ, người Lào đã phải biến

đổi chữ Ấn Độ. Chữ Ấn Độ có nhiều phụ âm (trung, cao, thấp) nhưng không

32

có thanh điệu. Để ghi thanh điệu tiếng Lào, người ta dùng 3 loại phụ âm:

trung, cao, thấp và 2 dấu “thô” (X), “ệc” (X) để ghi 6 thanh điệu. Chữ cái

Ấn

Độ ghi âm tiết, có chút ít ghi âm tố - phụ âm đầu nhưng vào Lào cách ghi âm

tố được phát triển. Đó là cách ghi vần (thành một khối) cạnh phụ âm đầu.

Các ký tự ghi nguyên âm có thể đặt trước, sau, trên, dưới, xung quanh ký tự

phụ âm. Thanh điệu được ghi gắn với phụ âm và hai dấu. Thí dụ: p a i ghi

là į; m u ghi là À´ö¾. Cái mà người Lào quan niệm là ngữ pháp, thật ra,

đó là những quy định chính tả như cuốn ĸ-¨½¡º­ì¾¸ (“Vay nhạ còn Lào”

- Ngữ pháp tiếng Lào) của Phu Mi Vông Vi Chít [184]. Cuốn Lịch sử chữ

Lào của Ma hả Xi La Vị La Vông (1973) đi sâu nghiên cứu nguồn gốc và

quá trình hình thành chữ Lào. Hiện nay, ở Lào có hai dạng chữ từ Ấn Độ đến

Lào qua người Môn và người Khóm.

Chữ Phạn (Sanskrit) một loại chữ gãy ở miền Bắc Ấn Độ được dùng

để ghi kinh Phật Đại thừa và phái Xay Nha Xạt thuộc đạo Bà la môn. Đó là

chữ Thay Nhơ. Còn chữ Pali, loại chữ tròn được cải biến thành chữ Thặm.

Cả hai thứ chữ trên được kết hợp lại thành chữ Lào ngày nay.

Chữ Lào hiện nay với nguyên tắc ghi âm phù hợp với tiếng Lào, có

một hình thức gọn gàng, giản đơn, không bị ràng buộc bởi nguyên mẫu như

kiểu chữ Thái Lan. Nhiều tác phẩm văn học, biên niên sử, dã sử... đều được

ghi lại trên sách bằng lá cọ “bay lan”.

1.2.2.5. Phật giáo ở Việt Nam và Lào

Việt Nam và Lào là hai quốc gia đa dân tộc và đa tôn giáo, trong đó

Phật giáo là tôn giáo lớn chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội. Có thể

nói, đạo Phật có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hoá và tâm linh của

33

nhân dân mỗi nước ở những mức độ khác nhau.

Một số học giả phương Tây xếp văn hoá Việt Nam vào vùng văn hoá

Đông Á và được coi là “đồng văn” với Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên.

Hơn nghìn năm Bắc thuộc, văn hoá Việt Nam bị ảnh hưởng một cách

cưỡng bức từ văn hoá Hán, trong khi sự giao lưu văn hóa Lào - Ấn Độ gần

như là tự nhiên, bằng con đường hoà bình.

Phật giáo ở Ấn Độ được truyền vào Việt Nam rất sớm theo hai con

đường:

- Con đường Nam truyền: theo đường biển qua Si Ri Lan Ka. Đây là

con đường sớm nhất, có thể từ thế kỷ III - II trước công nguyên. Phật giáo

qua Myanma - Vân Nam rồi theo thung lũng sông Hồng vào Việt Nam.

- Con đường Bắc truyền: theo hướng đường bộ vào Trung Quốc đến

Việt Nam và các nước Đông Nam Á.

Ở Việt Nam, tư tưởng Phật giáo đậm trong dân gian và Nho giáo ảnh

hưởng chính trong cung đình. Còn Phật giáo ở Lào được xem là quốc giáo,

có ảnh hưởng rất lớn đến dân gian và cung đình. Do đó, khác với Việt Nam,

ở Lào, Phật giáo đóng vai trò chủ đạo.

Trên khắp đất nước Việt Nam và Lào, hầu hết các làng lớn của người Việt và người Lào Thay đều rợp bóng những mái chùa cong10 cùng với

những ngọn tháp trầm tĩnh.

Từ khi Phật giáo Tiểu thừa trở thành tôn giáo chính (58%) [13, tr.133],

người Lào có lệ các vua trước khi lên ngôi hoặc những người dân trước khi

đảm nhận một chức vụ hoặc công việc nào đó thường phải đi tu. Các chùa

được xây dựng thêm nhiều thay cho việc phá bỏ đền miếu. Người Lào không

chỉ thờ Phật mà còn thờ và cúng thần (thẻn)), ma (phỉ). Các loại ma (ma nhà,

34

10 Theo thống kê của Mặt trận Dân tộc Tổ quốc Lào, hiện ở Lào có 4937 chùa (thuộc Phật giáo Tiểu thừa của người Lào) và 8 chùa (thuộc Phật giáo Đại thừa chủ yếu của người Việt).

ma bản, ma mường) được người Lào Thay coi là thần bảo hộ của họ, nhưng

đạo Phật lại được coi là nền tảng tư tưởng chung của toàn xã hội. Tuy bị lép

vế so với Phật giáo nhưng địa vị của các thần, các ma vẫn không bị gạt ra

khỏi đời sống tinh thần của nhân dân Lào. Theo Nguyễn Năm, “trong chừng

mực nào đó, chính nền văn hoá gốc dân tộc vẫn là nền tảng bền chặt, nằm ở

tầng sâu, còn đạo Phật, do được nhà nước phong kiến bảo hộ, trở thành chiếc

áo khoác trùm lên trên tất cả” [140, tr.19]. Phật giáo vào Lào làm cho văn

học Phật giáo ở Lào phát triển. Từ đó, không chỉ tầng lớp tăng lữ, sư sãi am

hiểu sâu sắc kinh Phật mà nhiều tầng lớp khác cũng tiếp nhận thêm nguồn

ảnh hưởng Phật giáo từ Miến Điện đến. Một số truyện cổ dân gian được viết

bằng chữ “Thặm” trên các lá cọ như: Cham pa xì tộn (bốn cây cham pa),

Phút Xa Thên, Ma hả Vệt như những đoá hoa văn học đầu mùa đều lấy đề tài

từ văn học Phật giáo. Đến lượt mình, các truyện cổ dân gian ấy lại được lấy

làm đề tài cho các bản trường ca như: Thạo Hùng, thạo Chương, Xỉn Xay,

Nang Tèng On, Ka La Kẹt, Xu Li Vông... Có thể nói, thế kỷ XVII là thế kỷ

thịnh vượng ở Lào. Trong thế kỷ này, các bản trường ca Lào được ra đời một

cách rầm rộ và rực rỡ mà đội ngũ sư sãi và “mỏ lăm” (nghệ sĩ dân gian) Lào

là những người có công rất lớn. Sư sãi Lào không chỉ mang lại sự khởi sắc

về Phật giáo cho xã hội Lào mà còn là những người đáng được ghi danh

trong văn học Phật giáo; còn các “mỏ lăm” (nghệ sĩ dân gian) Lào lại là

những người có những đóng góp quan trọng đối với nền văn học dân gian

Lào. Người Lào Thay theo đạo Phật, vì vậy ông mo không còn giữ được vị

trí quan trọng như khi thực hành nghi lễ thờ cúng tổ tiên và các ma theo quan

niệm đa thần, bởi vì đội ngũ sư sãi đã thay thế họ trong nghi lễ Phật giáo.

Truyền thuyết Khún Bu Lôm, Khún Bu Lo không chỉ kể về huyền thoại vua

Khún Bu Lôm, người mở đầu cho các dòng họ vua Lào mà còn là nguồn tư

35

liệu quý báu để nhà sư Ma hả Thếp Luổng và vua sư Ma hả Mông Khun Xít

Thi viết bộ “Nị than” (sử thi) Khún Bu Lôm, Khún Bu Lo, dạng ban đầu còn

sơ khai của những bộ lịch sử Lào sau này. Thơ ca Lào đạt đến trình độ cổ

điển, đa dạng và phong phú cũng được dịp đua hương, khoe sắc với vần điệu

mềm mại, êm tai là phương tiện thích hợp để xây dựng những truyện thơ dài.

Có thể nói, sự kết hợp núi - rừng - sông - suối đã tạo nên những giai điệu cơ

bản và đặc trưng riêng của văn hoá văn học Lào. Vì vậy, sông suối và những

cuộc đi rừng, săn bắn luôn có mặt trong tục ngữ Lào. Còn ở Việt Nam, dưới

triều Phật hoàng đức độ Trần Nhân Tông, Phật giáo Việt Nam bắt đầu phát

triển mạnh mẽ, đã nở rộ nhiều tác phẩm đồ sộ bởi những nhà sư có học vấn

uyên thâm, trong đó có nhiều bài thơ vịnh cảnh nổi tiếng. Phật giáo cũng góp

phần ảnh hưởng sâu sắc đến việc xây dựng cốt cách đôn hậu, nhân văn của

người Việt.

Qua kho tàng văn học dân gian Lào, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của

xã hội Lào xưa kia, thấy ẩn hiện quá trình hình thành âm thầm mà sôi động

của xã hội Lào từ 1353 (thế kỷ XIV) khi đất nước Lạn Xạng ra đời cùng với

bước chân chinh phạt của Phà Ngừm. Đó cũng chính là thời kỳ tan rã của xã

hội thị tộc nguyên thuỷ để chuyển sang một hình thái nhà nước còn rất sơ

khai với các xiềng, các mường cổ đại. Từ nửa sau thế kỷ XIV và cả thế kỷ

XV là thời kỳ Lào bắt đầu xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền sơ

khai, vừa phải chống đỡ với tư tưởng ly khai của một số mường địa phương,

vừa tiếp nhận một hình thái chuyển tiếp là sự qui phục của các mường đối

với Mường Xoa. Từ đó, đạo Phật không chỉ có vai trò rất lớn trong xã hội và

đời sống của nhân dân Lào mà còn được các chế độ quân chủ sử dụng để

củng cố vương quyền. Tới thế kỷ XVI nước Lào bước vào thời kỳ xây dựng

trên quy mô cả nước. Sau 24 năm lệ thuộc vào Miến Điện, Lào vừa phải

chống chọi với các cuộc nổi dậy của một số mường phía Nam vừa xoá đi

36

những ảnh hưởng đồng hoá của quân Miến Điện. Phà Ngừm đã sớm thấy

được vị trí quan trọng và lợi thế của Viêng Chăn trong quốc gia Lào thống

nhất. Nhưng phải đến năm 1553, nghĩa là sau hai thế kỷ, vua Xệt Tha Thi

Rạt mới quyết định dời đô từ Xiêng Đôông Xiêng Thoòng (Luông Pha

Băng), một dải đất vừa chật hẹp lại nằm lệch về phía Bắc trên con đường đi

lại của quân Miến Điện về Viêng Chăn, một mường lớn, trung tâm, rộng rãi

lại dồi dào lương thực thực phẩm. Từ đây, nhiều cung điện, chùa tháp nổi

tiếng được xây dựng như Thạt Luổng (Tháp lớn) năm 1566, tháp Xỉ Khốt Ta

Boong thuộc mường Ma Rúc Khạ Nạ Khon ở tỉnh Thà Khẹc, tháp Pha Nom,

chùa Xi Xả Kệt (đầu thế kỷ XIX). Như vậy, trong nhiều năm, chùa, tháp,

cung điện ở Lào đã được xây dựng khá nhiều, không chỉ ở Viêng Chăn,

Luông Pha Băng mà còn ở nhiều địa phương khác trong cả nước.

Lào vốn là một quốc gia rộng lớn nhưng Hiệp ước Pháp - Xiêm (năm

1893) đã chia cắt 16 tỉnh và 20 triệu cư dân Lào cho Thái Lan nên ngày nay

Lào chỉ là một quốc gia nhỏ bé, bị phân tán. Lào là một nước chậm phát triển

với nền nông nghiệp tự cung tự cấp, còn dựa nhiều vào tự nhiên, khép kín

đến từng gia đình và một cuộc sống ổn định, hiền hoà mang đậm nét riêng.

Đạo Phật cũng ảnh hưởng đến tính cách của người dân Lào. Cuộc sống của

người Lào bình yên đến mức phẳng lặng, không bao giờ to tiếng với nhau,

làm gì cũng từ từ, không vội vàng, hấp tấp (“khòi khòi pay”). Đó là lối ứng

xử cân bằng, mềm mại, hài hoà, êm thấm, không có gì thái quá. Cũng mang

tính cách và văn hoá dân tộc nhưng tính cách ấy ở người Lào không giống

người Việt, người Khơme và cả người Thái. Nó hoà quyện vào nhau, thâm

nhập và hoà hợp với nhau, ít sự phân biệt, nhất là sự phân biệt giữa dân tộc

chủ thể (người Lào Lùm) với các dân tộc thiểu số khác. Tinh thần hoà hợp

dân tộc biểu hiện một cách nhất quán trong mọi mặt đời sống xã hội Lào, từ

cách ăn mặc, lối cư xử đến tín ngưỡng, tôn giáo. Người Lào không muốn

37

thay đổi hay xáo trộn, không ưa xung đột hay vũ lực mà thích đắm say trong

tiếng khèn bè, tiếng hát lăm và điệu múa lăm vông rạo rực. Người Lào thích

đông vui nhưng vừa phải, không quá ồn ào vì Lào là một nước nhỏ, dân số ít,

lại trải dài dọc sông, dọc núi, sống bên cạnh những người láng giềng lớn hơn

mình. Không có một đối sách nào mầu nhiệm hơn là người Lào phải đoàn

kết, hoà hợp dân tộc, hoà hiếu với lân bang để cùng tồn tại hoà bình.

Có thể nói, tính độc đáo của nền văn hoá Lào không những bị quy định

bởi những điều kiện môi trường, lịch sử xã hội mà còn vì người Lào cũng

như người Việt Nam hay người Thái Lan, ngay cả khi rất gần nhau, như họ

với Thái Lan, vẫn có một tâm lý khu biệt nhau. Hơn nữa, sự phát triển của

mỗi người, mỗi cộng đồng không như nhau. Mỗi dân tộc có sự đam mê riêng

nên đã để lại những di sản văn hoá, những lối ứng xử không giống nhau. Có

thể nói, so với Việt Nam, Lào là một quốc gia đất không rộng (vào loại trung

bình ở Đông Nam Á), người không đông nhưng lại giống Việt Nam ở sự đa

dạng thành phần dân tộc, đa nền văn hoá, cùng chung mối quan hệ mật thiết

từ lâu đời và những trang sử hào hùng, rạng rỡ.

Tiểu kết:

Nói chung, Việt Nam thuộc mô hình văn hoá lúa nước vùng châu thổ,

Lào là mô hình văn hoá lúa nước vùng thung lũng. Cái chung là làm ruộng

nước, cái riêng là ruộng - rẫy (Lào) và ruộng - vườn (Việt); cái chung là đa

dân tộc, cái riêng là Lào không có cư dân biển và chủ thể là người Lào, còn ở

Việt Nam có đủ cư dân núi, đồng bằng và biển do người Việt làm chủ thể.

Quan hệ Việt Nam - Lào, nói chung là hữu hảo và lâu đời nhưng tốt

đẹp nhất là từ khi có Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời và lãnh đạo từ ngày

03/02/1930. Nếu như xưa kia, người Việt coi người Lào là phên dậu hơn là

liên minh tự nhiên thì ngày nay, quan hệ hai nước được nâng lên thành liên

minh chiến đấu, tình hữu nghị đặc biệt, sự hợp tác toàn diện. Nếu như quan

38

hệ Việt Nam - Champa, Việt Nam - Campuchia, Việt Nam - Thái Lan...có

nhiều va chạm trong lịch sử thì Việt Nam và Lào ít xung đột vì không có sự

lấn chiếm đất đai (người Việt và người Lào bị ngăn cách bởi dãy Trường

39

Sơn).

Chương 2 SO SÁNH NỘI DUNG TỤC NGỮ VIỆT VÀ TỤC NGỮ LÀO

2.1. Trình bày sự giống nhau và khác nhau

2.1.1. Tục ngữ Việt, Lào thể hiện nhận thức, tri thức về tự nhiên,

thiên nhiên; phản ánh quê hương, đất nước

2.1.1.1. Thể hiện nhận thức, tri thức về tự nhiên, thiên nhiên

Trong kho tàng tục ngữ của người Việt và người Lào có một bộ phận

lớn khá quan trọng là phần tục ngữ về hai chủ đề: Giới tự nhiên, quan hệ của

con người với giới tự nhiên; con người - đời sống vật chất, đời sống xã hội

và tinh thần. Hai chủ đề này cùng phản ánh văn hoá ứng xử của con người

trong môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Nói cách khác, văn hoá ứng

xử của con người không chỉ bó gọn trong sự giao tiếp giữa con người với

con người (trong môi trường xã hội) mà còn được thể hiện trong nhận thức,

tri thức của con người về tự nhiên, thiên nhiên (trong môi trường tự nhiên).

Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ở miền Bắc; nắng

nóng, khắc nghiệt ở miền Trung; mưa, khô ở miền Nam. Mỗi miền với

những đặc điểm riêng biệt của từng vùng, thời tiết vừa hiền hoà vừa dữ dằn.

Thiên tai không còn là chuyện của trời đất mà liên quan và tác động đến

cuộc sống con người, thậm chí không ít lần đã gây ra những thảm hoạ kinh

hoàng không chỉ đẩy người dân vào cảnh “màn trời chiếu đất” mà còn cướp

đi tài sản và sinh mạng bao người. Nghề nông, nhất là nghề trồng lúa lại

càng phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, thời tiết. Do vậy, trong kho tàng

tục ngữ người Việt, có một tỷ lệ nhất định những câu nói về thời tiết với đầy

đủ các khía cạnh của nó.

Người Việt Nam, nhất là người nông dân không thể dửng dưng với các

40

biểu hiện của thời tiết mà luôn tìm hiểu, chinh phục nó. Qua quan sát, theo

dõi và nhận xét diễn biến của các hiện tượng thiên nhiên mà người lao động

đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm xem thời tiết, tổng hợp tương đối chính

xác tình hình khí hậu từng vùng, từng mùa và cả năm.

Người Việt Nam chiêm nghiệm, nhận xét các triệu chứng của tự nhiên

để dự đoán về thời tiết. Người Việt đã tích luỹ được một kho kinh nghiệm

các căn cứ dự báo hết sức phong phú về tình hình thời tiết qua mối quan hệ

giữa các hiện tượng của thiên nhiên: “Gió nam đưa xuân sang hè”, “Gió thổi

là chổi trời”, “Trống tháng bảy không hội thì chay, gió tây may không dông

thì bão”... (căn cứ vào gió); “Sao mau thì mưa, sao thưa thì nắng”, “Sao mau

thì nắng, sao vắng thì mưa”, “Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa”...

(dựa vào trăng, sao); “Mây thành vừa hanh vừa giá”, “Mây kéo ngược nước

tràn bờ”, “Vẩy mại thì mưa, bối bừa thì nắng”... (dựa vào mây); “Sương sa

hoa nở” (dựa vào sương); “Cò ăn ruộng sâu thì nắng, cò ăn ruộng cạn thì

mưa”, “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì râm”,

“Cóc nghiến răng đang nắng thì mưa”, “Cu cu tắm thì ráo, trảo trảo tắm thì

mưa”, “Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước”, “Gió bấc hiu hiu, sếu kêu

thì rét”, “Kiến dọn tổ thời mưa”, “Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa”,

“Tháng bảy kiến bò chỉ lo lại lụt”; “Ao tù vẩn đục và hôi, bọt nổi lên nước

thì trời sắp mưa”, “Chĩnh đổ mồ hôi, mưa trôi đầy đồng”, “Cỏ gà loang lổ,

trời đổ mưa ngay”, “Đá đổ mồ hôi, mưa trôi đầy đồng”, “Lá tre trôi lộc, mùa

rét xộc đến... (dựa vào dấu hiệu ở động, thực vật, đồ vật xung quanh); “Chớp

đông nhay nháy, gà gáy thì mưa”, “Cơn đằng đông vừa trông vừa chạy, cơn

đằng tây mưa dây bão giật”, “Mống đông, vồng tây, không mưa dây cũng

bão giật”, “Sấm động gió tan”, “Vồng chiều mưa sáng, ráng chiều mưa

hôm”... (căn cứ vào các hiện tượng trong khí quyển). Có khi xem các hiện

tượng thiên nhiên người nông dân cũng có thể dự báo được kết quả của mùa

41

vụ, cây trồng: “Cày ruộng tháng năm, xem trăng rằm tháng tám”. Ngược lại,

đôi khi kết quả của cây trái, mùa màng cũng cho ta những dự báo về thời

tiết: “Được mùa nhãn, hạn nước lên”, “Được mùa sim sắm xóc, được mùa

móc sắm tơi”.

Không chỉ chiêm nghiệm, nhận xét các hiện tượng về thiên nhiên, thời

tiết, người Việt còn có những hiểu biết nhất định về quy luật của tự nhiên.

Tục ngữ Việt có những câu sau: “Đã hay nắng lắm mưa nhiều”, “Đầu năm

sương muối, cuối năm gió nồm”, “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, ngày

tháng mười chưa cười đã tối”, “Không có mây sao có mưa”, “Nắng chóng

trưa, mưa chóng tối”. Con người đã biết lợi dụng hiện tượng thuỷ triều:

(“Nước lên rồi nước lại ròng”) và hướng gió: (“Thuyền ngược ta khấn gió

nam, thuyền xuôi ta khấn mưa nguồn gió may”) để phục vụ cho đời sống của

mình. Thiên tai ở Việt Nam diễn biến thất thường, khó lường. Khi mùa thu

hoạch đến, người nông dân vẫn phải chủ động phòng ngừa với tinh thần

“xanh nhà hơn già đồng”. Không chỉ phòng ngừa trước mắt: “Chớp xa chạy

trước, chớp gần, chậm bước chẳng sao”, “Ráng mỡ gà, ai có nhà phải

chống”, dân ta còn đắp đê để chống lụt lâu dài: “Đê cao chẳng quản nước

sông tràn vào”. Tuy nhiên, từ bao đời nay, nói chung, con người vẫn còn phụ

thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, vẫn phải “trông trời trông đất trông mây,

trông mưa, trông nắng, trông ngày trông đêm”, bởi cho đến bây giờ thì từ

nước phát triển cho đến nước đang phát triển trên thế giới đều nhận ra rằng,

con người tìm cách hoà điệu, thân thiện với thiên nhiên, nương theo tự nhiên

là cách ứng xử khôn ngoan nhất và duy nhất đúng trước thiên nhiên.

Thiên nhiên vốn mênh mang và bí ẩn. Những dự báo thời tiết qua

những câu tục ngữ Việt như đã trình bày ở trên mới chỉ dựa vào kinh nghiệm

thực tiễn, bằng sự cảm nhận của các giác quan mà chưa nâng thành kiến thức

khoa học có căn cứ lý luận vững chắc nên chỉ đúng với từng thời kỳ. Nhiều

42

kinh nghiệm thời tiết qua tục ngữ chỉ phản ánh được những biểu hiện cụ thể

của những quy luật tự nhiên tác động ở từng vùng, từng địa phương: “Chớp

Bàu Tró không gió cũng lụt” (Bàu Tró ở Đồng Hới), “Chớp chài đội mũ,

mây phủ Đá Bia, ếch nhái kêu lia, trời mưa như trút” (núi Đá Bia ở Phú

Yên), “Chớp Bùng thì chớ, chớp Lớ thì mưa” (Núi Bùng và núi Lớ ở Ninh

Nhất, Hoa Lư, Ninh Bình), “Chớp chợ Chè không què thì trệt” (Chợ Chè ở

Lệ Thuỷ, Quảng Bình), “Chớp Đèo Le lấy ghè đựng nước” (Đèo Le ở huyện

Quế Sơn, Quảng Nam), “Chớp gành Gà ở nhà mà ngủ, chớp Phủ Cũ không

rủ cũng đi, chớp Đề Gi dễ đi dễ chết” (thuộc Quảng Bình), “Chớp ngã Cồn

Tiên mưa liền một trộ” (thuộc Quảng Trị), “Chớp ngả Eo không nghèo chi

nước” (ở Thừa Thiên - Huế), “Cơn mưa đằng Ghềnh lấy trành hứng nước”

(ở Phú Thọ). Bởi vậy, những câu tục ngữ này mang tính địa phương, đúng ở

từng thời điểm nhất định. Đây là kết quả của sự tập hợp những quan sát được

hoặc trong quá trình lao động và khai thác tự nhiên. Dù sao, những kinh

nghiệm trực quan đã được tích luỹ ấy cũng giúp ích cho con người trong việc

hoà điệu với thiên nhiên, tổ chức cuộc sống của mình.

Trong khi đó, tục ngữ Lào chỉ có một số lượng câu rất hạn chế đề cập

đến những kinh nghiệm về thời tiết. Thí dụ: “Đẹt oọc moọc vai” (“Nắng lên

sương tan”), “Phổn tốc phạ chẹng, phổn xị lẹng phạ mựt” (“Sắp mưa trời

sáng, sắp hạn trời tối”), “Phạ xị phổn àu lôm ma ạng, phủa xị hạng àu lường

ma xày” (“Sắp mưa trời khoe gió, chồng sắp bỏ vu chuyện cho”). Tuy ít bị

thảm hoạ thiên tai hơn Việt Nam và các nước láng giềng nhưng người Lào

vẫn không quên ý thức phòng ngừa những tác hại do thời tiết gây ra: “Phòng

ngừa tốt hơn chữa chạy”. Mặt khác, hầu như tục ngữ Lào ít nói về thời tiết ở

từng địa phương hơn, nếu ta so với tục ngữ của người Việt.

Tóm lại, tuy cùng nói về chủ đề thời tiết nhưng về mức độ, người Lào

nói ít hơn người Việt rất nhiều, phải chăng vì ở Lào ít xảy ra thiên tai, các

43

hiện tượng thời tiết ít diễn biến thất thường như ở Việt Nam. Nội dung của

những câu tục ngữ Việt về thời tiết hoàn toàn khác biệt với những câu tục

ngữ Lào cùng chủ đề này, bởi điều kiện địa lý và tự nhiên cũng như khí hậu

của hai nước về cơ bản là khác nhau.

2.1.1.2. Phản ánh quê hương, đất nước

a) Phản ánh lễ hội, lễ nghi, phong tục

Ở cả hai nước, lễ hội cổ truyền diễn ra quanh năm, không vùng nào,

nơi nào là không có.

Ở Việt Nam, các lễ hội hàng năm ở vùng Kinh Bắc tuân theo một sự

biến đổi thời tiết rất chặt chẽ: “Lâm râm hội Khám, u ám hội Dâu, vỡ đầu hội

Dóng”. Có những lễ hội tưởng niệm các anh hùng dân tộc đã có công với

nước như hội Dóng ở Gia Lâm và Sóc Sơn (Hà Nội): “Ai ơi mồng chín tháng

tư, không đi hội Dóng cũng hư một đời”, hội Khám, hội Dâu ở đồng bằng

Bắc Bộ: “Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu nhớ

về hội Dóng”. Dân gian tôn xưng Bà Liễu Hạnh là Mẹ và người anh hùng

dân tộc Trần Hưng Đạo là Cha: “Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ”. Lễ

hội thật sự cuốn hút và cần thiết với người dân Việt như hội Cổ Loa ở Đông

Anh (Hà Nội): “Bỏ con bỏ cháu, không bỏ hội mồng sáu tháng giêng” hoặc

hội mang tính tâm linh như chợ cầu may đầu năm mới ở một số vùng quê

Nam Định: “Bỏ con bỏ cháu không ai bỏ hai mươi sáu chợ Yên, bỏ tổ bỏ tiên

không ai bỏ chợ Viềng mồng tám” (ở chợ Yên, chợ Viềng). Có nhiều lễ hội

độc đáo như hội chọi trâu ở Đồ Sơn: “Mồng mười tháng tám, đúng đám chọi

trâu, dù ai buôn đâu bán đâu, mồng mười tháng tám chọi trâu cùng về”. Đó

còn là những buổi chợ phiên mang đậm nét văn hoá tiêu biểu của các vùng

miền như chợ Trôi, chợ Sêu ở Hoài Đức (Hà Nội): “Bỏ con bỏ cháu, chớ bỏ

26 chợ Trôi”, “Bỏ con bỏ cháu, chớ bỏ 26 chợ Sêu”; chợ Ninh (Hải Hậu-

Nam Định): “Bỏ con bỏ cháu không bỏ 26 chợ Ninh”; chợ Hoàng (ở Nga

44

Sơn- Thanh Hoá): “Bỏ con bỏ cháu, không bỏ phiên hăm sáu chợ Hoàng”;

chợ Chìa (ở Tĩnh Gia- Thanh Hoá): “Bỏ con bỏ cháu, không bỏ phiên mùng

sáu chợ Chìa”,... Tục ngữ như cuốn sổ không chỉ ghi chép thời gian các

phiên chợ mà còn lưu giữ những nét văn hoá đặc trưng ở các chợ miền quê.

Các lễ hội ở Lào được các cư dân Lào Thay gọi là “bun”. “Bun” còn

có nghĩa là phúc, sự trùng hợp giữa quan niệm của đạo Phật (“Làm phúc

được phúc”) với lời cầu khẩn của dân gian. Người Lào Thay tự hào là chủ

nhân của những lễ hội truyền thống tốt đẹp, mang đậm nét đặc trưng của

người Lào.

Năm 1566, tháp Thạt Luổng (Tháp lớn) được xây dựng không chỉ là

một thắng cảnh đáng tự hào của người dân Viêng Chăn mà còn là nơi diễn ra

ngày hội Thạt Luổng vào dịp trăng rằm tháng 12. Từ đây, đời sống văn hoá

từ thủ đô Viêng Chăn toả về các địa phương trong cả nước Lào. Một số hội ở

Viêng Chăn cũng mang tính tiêu biểu cho cả nước… Xu hướng văn hoá địa

phương được quốc gia hoá, gia nhập vào sinh hoạt văn hoá chung của cả

nước cũng đã thể hiện. Nói cách khác, văn hoá trung tâm lan toả đến các địa

phương làm cho nhịp sống văn hoá địa phương được thu hút vào nhịp sống

văn hoá chung cả nước. Hội “Bun băng phay” (hội đốt pháo thăng thiên) gắn

với nghi lễ cầu mưa được tổ chức rầm rộ ở Phù Thay Trung Lào để cầu

mong cho nông dân gặp mưa thuận gió hoà, cầu cho quốc thái dân an. Giống

như Việt Nam, mỗi địa phương ở Lào cũng đều có những ngày lễ hội riêng

của mình, dần dần quy mô được mở rộng thành lễ hội tiêu biểu trong cả nước

như: “Bun xồng hưa” (hội đua thuyền) với những cuộc đua thuyền rộn rã

trên sông, thường gắn với hội thả đèn và lễ chào trăng nên rất được người

dân Lào ưa thích. Ngoài ra, còn có “Bun Thạt xỉ khôốt Ta boong” vào tháng

12, “Bun Thạt Pha nom”, “Bun Vát Phu” (hội chùa Đá) ở Chăm Pa Xắc vào

45

tháng 3. “Bun hốt nặm” (hội té nước) còn gọi là hội năm mới (bun pi mày) là

ngày hội lớn nhất và quan trọng nhất. Đó cũng là ngày Tết cổ truyền của

nhân dân Lào (vào các ngày 13, 14, 15 tháng tư dương lịch).

Trên đất nước Việt Nam, nhiều lễ tết cổ truyền trên khắp các vùng

miền cũng được tổ chức như lễ Nguyên tiêu tức tết Thượng Nguyên, tết

hướng Thiên cầu phúc: “Lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng

giêng”. Trong đó, tết Nguyên Đán ở Việt Nam là một lễ hội đặc biệt và

thiêng liêng. Người Việt xưa “ăn tết” và “vui tết” là chủ yếu nên mới có câu

“Đói cho chết ngày tết cũng no”, “Đói giỗ cha no ba ngày tết”, với những

nét văn hoá ẩm thực rất đặc trưng: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ, cây nêu

tràng pháo bánh chưng xanh”. Sau này, người ta mới chú ý đến việc “chơi

tết”: “Làm cả quanh năm, chơi ba ngày tết”. Khi tết đến, người Việt quây

quần, sum họp gia đình trong niềm vui đoàn tụ (“vui như tết”), còn người

Lào thường tham gia các hoạt động vui chơi tập thể hoặc lễ Phật tại các chùa

vì người Lào thường nói với nhau “khồn Lào mắc muồn” (người Lào thích

vui). Hội năm mới (bun pi mày) còn gọi là hội té nước (bun hốt nặm) của

người Lào gắn với nghi lễ nông nghiệp (cầu mưa), còn là nghi thức của Phật

giáo, nhờ nước mà con người tẩy rửa được cái xấu của năm cũ, đón nhận cái

tốt đẹp, thanh khiết của năm mới. Tết Nguyên Đán ở Việt Nam và tết năm

mới của người Lào đều có chung mục đích là cầu mùa và cầu phúc. Nhưng

người Việt tiếp thu tết Nguyên Đán của phương Bắc nên thiên về cầu phúc;

còn tết năm mới của người Lào lại thiên về cầu mùa (lễ té nước). Do đó, có

những nghi lễ giống nhau nhưng cũng có nhiều nghi lễ khác nhau.

Như vậy, lễ hội và lễ tết ở Việt Nam và ở Lào cùng có những điểm

tương đồng của cư dân trồng lúa nước tuy thời gian, không gian, mục đích và

phương thức tổ chức lễ hội mang những dáng vẻ khác nhau. Dù ở đâu thì lễ

hội cũng gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ bao gồm các nghi thức

46

tế tự để con người giao tiếp với thần linh. Phần tế tự mang đậm ý nghĩa tâm

linh, thần bí, linh thiêng, khác với thế giới trần tục của con người. Người

Việt và người Lào đều có tục xem quẻ, dùng bài khấn, bài tụng, đốt vàng mã

để cầu xin, bùa chú để trừ tà ma và các hình thức diễn xướng khác. Trong

không gian linh thiêng, con người như được hoà vào thế giới của thần linh.

Còn phần hội luôn tạo ra một không khí vui tươi, náo nhiệt (“vui như hội”)

với các cuộc thi đua sức đua tài, đua trí như đua thuyền, đấu vật, kéo co, chọi

gà, đánh cờ người, đánh đu, đốt pháo thăng thiên... lôi cuốn và thôi thúc con

người thăng hoa trong tình cảm cộng đồng. Có nơi, trong những ngày hội

còn có thêm các hình thức diễn xướng dân gian mang tính tổng hợp gồm cả

ca, nhạc, múa. Người Việt có thêm ca múa nhạc cổ truyền; người Lào Thay

có “lăm” (múa) như: lăm vông, lăm vạy, lăm loòng, lăm tơi, lăm tắt, lăm đơn

đông, lăm phơn, lăm lường... và những “lăm” có tính địa phương như: lăm

Xa La Van, lăm Xì phăn đon; đồng thời có tới dăm bảy chục điệu “khắp”

(hát dân ca) mang tính địa phương như: khắp Xầm Nưa, khắp Ngừm, khắp

Xa La Van dưới hình thức hát đối đáp hấp dẫn những chàng trai, cô gái Lào.

Có thể nói, vai trò của các nghệ sĩ dân gian (“mỏ lăm”) là đặc biệt quan

trọng trong các hình thức diễn xướng dân gian nói trên.

Các lễ hội ở hai nước đều diễn ra quanh năm, trong không khí tưng

bừng và niềm vui rộn ràng nhưng chủ yếu vào mùa xuân hoặc những lúc

nông nhàn, với mục đích chủ yếu là giao lưu, cầu nguyện và tạ ơn. Người

Việt và người Lào tạ ơn trời, Phật và cầu nguyện tổ tiên, ông bà, cha mẹ phù

hộ độ trì cho cuộc sống của cháu con. Họ cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa

màng bội thu. Tuy nhiên, thời gian, không gian, phương thức tổ chức lễ hội ở

hai nước, thậm chí ở từng vùng của mỗi nước cũng mang những sắc thái

riêng. Các ngày hội truyền thống của người Lào đều theo Phật lịch, trong khi

47

đó lễ hội của người Việt lại theo âm lịch và tập trung nhiều vào mùa xuân,

chủ yếu là tháng giêng sau tết: “Tháng giêng là tháng ăn chơi”. Nhưng tiếc

rằng, các lễ hội ở Lào rất ít được ghi lại trong những câu tục ngữ Lào.

Mỗi dân tộc trên đất nước Việt Nam có những nét văn hoá đặc trưng

của riêng mình. Trong bức tranh đa sắc màu văn hoá ấy, tục ăn trầu và uống

chè của người Việt ở châu thổ sông Hồng đã có từ ngàn xưa. Khi tiếp khách,

người Việt thường mời nước, mời trầu: “Uống nước trà tàu, ăn trầu cơi

thiếc”. Câu tục ngữ “Miếng trầu là đầu câu chuyện” cho thấy miếng trầu

không chỉ là sự khởi đầu của tình cảm mà với nam nữ thanh niên nó còn là

cội nguồn để bắt đầu một tình yêu, một lời hẹn ước: “Miếng trầu nên dâu

nhà người”. Hình tượng trầu cau có một ý nghĩa nhân bản. Đó là tình yêu

thuỷ chung và khoan dung. Chuyện kể rằng, có hai anh em rất giống nhau.

Người anh cưới vợ nhưng người vợ không phân biệt được ai là chồng mình.

Người em liền bỏ đi để anh chị sống được hạnh phúc và cuối cùng biến

thành hòn đá. Người anh đi tìm và chết, biến thành cây cau. Người vợ đi tìm

chồng và chết hoá thành cây trầu không. Quả cau ăn với lá trầu không, thêm

tí vôi sẽ cho một màu đỏ, ăn vào ấm bụng, môi đỏ. Từ đó, triết lý trầu cau trở

thành triết lý sống nghĩa tình của người Việt. Trầu cau không chỉ gắn bó chặt

chẽ và lâu đời với đời sống của người dân Việt Nam mà còn là một nét đẹp

văn hoá trong đời sống tinh thần của người Việt. Trầu cau được dùng làm đồ

sính lễ trong các đám hỏi, đám cưới, thay cho thiếp báo, lời mời trước ngày

hôn lễ. Cô gái nhận trầu tức là đã nhận lời yêu. Trầu cau thành vật trao duyên

giữa đôi trai gái, là sự giao hoà tình cảm giữa đôi bên. Miếng trầu ngày cưới

làm đắm say tình duyên đôi lứa, thêm đậm lòng bà con, khách mời đến

chung vui. Ngoài ra, tục cúng cơm mới của người Việt đồng bằng châu thổ

sông Hồng còn lưu giữ được nét đẹp tự ngàn xưa đối với ông bà tổ tiên; tục

“Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi” khi đi chợ “ra hàng” đầu năm mới

48

còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Câu “Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng

nam” nói về tập tục chọn hướng nhà theo thuật phong thuỷ của người Việt ở

Bắc bộ.

Có nhiều câu tục ngữ Việt nói về các lễ nghi, cưới hỏi, các tập tục

hàng ngày. Các câu “Con dâu về nhà mụ gia ra cổng”, “Dâu vô nhà mẹ già

ra ngõ” phản ánh phong tục trong lễ cưới ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc

bộ xưa kia. Trong các gia đình nông thôn Việt Nam, người phụ nữ được coi

là “nội tướng”, chuyên đảm trách việc nội trợ gia đình. Khi cưới con dâu về,

người mẹ chồng ôm bình vôi ra khỏi ngõ, tránh sang hàng xóm là có ý muốn

nhường quyền “nội tướng” của mình cho con dâu, là cầu mong cho gia đình

trên thuận dưới hoà. Câu “Thuyền theo lái, gái theo chồng” cũng nói về

phong tục cưới hỏi. Người con gái lấy chồng phải đi theo chồng và lo toan

mọi việc cho gia đình chồng, khác với một số dân tộc ít người khác là người

chồng về sống ở rể nhà người vợ (thí dụ người Chăm, người Ê Đê). Trong

tang ma, người Việt chuẩn bị khá chu đáo và kỹ lưỡng. Ở một số địa

phương, người cao tuổi mất đi được xem như là một sự mừng: “Trẻ làm ma,

già làm hội”. Có nơi còn đốt pháo để đưa tiễn người thân về nơi cực lạc. Tục

ngữ Việt có những câu nói về cách thức đưa tang này. Lúc đưa tang bố, con

trai phải mặc áo xô, đội mũ rơm và chống gậy tre đi sau quan tài (“cha

đưa”); khi đưa tang mẹ, con trai cũng áo xô, mũ rơm nhưng chống gậy vông

đi giật lùi phía đầu quan tài (“mẹ đón”): “Cha đưa mẹ đón”, “Bố gậy tre, mẹ

gậy vông”, “Bà gậy vông, ông gậy tre” (Câu “Cha đưa mẹ đón” còn có cách

hiểu là nói về tục dẫn dâu ở một số địa phương đồng bằng Bắc bộ. Người

con gái đi lấy chồng thường được người cha đưa về nhà chồng). Những

người là con gái, con dâu thì xoã tóc, đội mũ mấn (bằng vải xô khâu thành

chóp) có miếng vải xô che mặt: “Cha buông mẹ vén”. Có thể nói, ở Việt

Nam không đám tang nào là không có tiếng kèn, tiếng trống thảm thiết, não

49

nùng để hoà cùng hoặc thay cho tiếng khóc: “Sống dầu đèn, chết kèn trống”.

Trong tang ma, còn song hành hai quan niệm, hai cách nhìn đối lập. Một

quan niệm cho rằng, chết chưa phải là hết mà là sự tiếp tục cuộc sống ở một

thế giới khác nên việc tang ma được tổ chức như là một cuộc tiễn đưa, bởi

người Việt quan niệm “Vạn vật hữu linh” (mọi vật đều có linh hồn). Có nơi

còn cho cả cây cối để tang gia chủ. Lại có người coi cái chết là sự kết thúc

tất thảy nên việc tang ma là việc đau đớn, thương xót, đầy lưu luyến cần níu

giữ lại. Dù nghi lễ, cách thức tổ chức tang ma mỗi nơi mỗi khác nhưng tất

thảy đều thể hiện niềm tiếc thương vô hạn của người thân đối với người đã

mất, đều mong muốn linh hồn người đã khuất được siêu thoát nơi chín suối

hoặc được lên cõi niết bàn. Người Việt và người Lào cùng có phong tục

thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Ở Việt Nam, trên phạm vi cả nước, người

Việt có đền Hùng để thờ các vua Hùng và coi ngày giỗ tổ Hùng Vương là

ngày quốc lễ: “Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng

ba”. Từ lâu, ở các vùng quê, nhiều làng đã lập đền thờ các Thành hoàng của

làng, nhiều dòng họ xây dựng từ đường để thờ cúng tổ tiên. Trong mỗi nhà,

người ta lập bàn thờ ông bà, cha mẹ ở nơi trung tâm và trang trọng nhất, bởi

người Việt nghĩ: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Họ thành kính dâng

lên tổ tiên, ông bà, cha mẹ những nén hương thơm, những miếng ngon

miếng lạ trong những ngày rằm, mồng một hoặc những khi đi xa về gần. Họ

cầu khấn linh hồn tổ tiên về chứng giám và phù hộ độ trì cho con cháu. Ngày

cúng giỗ tổ tiên, ông bà, cha mẹ cũng là những ngày đoàn tụ ấm cúng, con

cháu được ăn ngon hơn, thoải mái hơn: “Trâu bò được ngày phá đỗ, con

cháu được ngày giỗ ông”. Trong những dịp ấy, người ta thường mang một số

món sang biếu hàng xóm hoặc giúp đỡ kẻ nghèo khó, bởi “Một miếng khi đói

bằng một gói khi no”. Tục thờ cúng cá Ông (hay cá voi) của ngư dân miền

biển: “Ông lên hiệu, liệu mà trốn” lại là sự kết nối những nét đẹp văn hoá

50

biển của hầu hết các nước có biển trong khu vực Đông Nam Á.

Ngoài Tết, ngày lễ Vu lan của Phật giáo vào rằm tháng bảy âm lịch là

ngày báo hiếu. Đây là ngày ghi nhớ công ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, là dịp

để xua tan hận thù, hỉ xả khoan dung. Lễ Vu lan không chỉ là ngày quan

trọng đối với tăng ni Phật tử mà đã trở thành phong tục tập quán và tín

ngưỡng dân gian, một ngày lễ đi vào đời sống tâm linh của nhiều người dân

Việt Nam. Lễ Vu lan báo ơn cha mẹ, không những cúng cho những người đã

khuất mà còn là dịp để mọi người nhìn nhận lại những việc đã làm với người

còn sống. Đây cũng là dịp để con cháu thể hiện lòng hiếu thảo và báo đáp

công ơn ông bà cha mẹ với dạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Lễ Vu lan còn

được dân gian gọi là ngày “xá tội vong nhân” hay ngày “cúng chúng sinh”,

bởi trong ngày này, những linh hồn oan khuất được xá tội để về hưởng chút

hương khói của cháu con. Ngày này, bát cháo cô hồn, tục “phóng sinh” ở

một số địa phương mang ý nghĩa nhân văn cao cả. Người ta thả chim, thả cá

để cho chúng được trở về với thiên nhiên, thoát kiếp cá chậu chim lồng.

Người ta đến với lễ hội với những mục đích khác nhau nhưng chủ yếu là để

tạ ơn trời đất, tổ tiên, ông bà, cha mẹ và cầu xin mưa thuận gió hoà, mọi sự

an lành, hỉ xả. Người Lào cũng có tục “phóng sinh”, đi “khất thực”, có chum

nước trước nhà để giúp đỡ người cơ nhỡ, kẻ nghèo khó và quyên góp cho

nhà chùa.

Tóm lại, tục ngữ phản ánh về phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng cổ truyền

của hai dân tộc Việt - Lào đã mang đến những vẻ đẹp văn hoá, những nghi lễ

cổ truyền, những âm vang truyền thống, những giá trị muôn đời, những trang

trọng ngàn xưa. Tuy nhiên, tục ngữ Lào còn thiếu vắng những câu ghi lại nét

đẹp về các khía cạnh văn hoá nói trên của người Lào.

b) Hình ảnh quê hương, đất nước giàu đẹp

Tục ngữ Việt và tục ngữ Lào đều có những câu khắc hoạ bức tranh

51

toàn cảnh, tươi tắn và đẹp đẽ về quê hương, đất nước.

Qua tục ngữ Việt, hình ảnh quê hương đất nước Việt Nam tươi đẹp

hiện lên lung linh với những luỹ tre, cây đa, bến nước, sân đình: “Cây đa cậy

thần, thần cậy cây đa”. Sự đa dạng của địa hình, lãnh thổ và khí hậu Việt

Nam đã tạo nên sự đa dạng của sản phẩm nông nghiệp vùng nhiệt đới. Tục

ngữ Việt đã giới thiệu những “của ngon vật lạ” trên khắp các miền quê.

Vùng nào cũng có những sản vật nổi tiếng: “Rượu kẻ Mơ, cờ Mộ Trạch”,

“Chè Yên Thái, gái Tiên Lữ”, “Tương Nhật Tảo, đào Nhật Tân”, “Khoai lang

Triều Khúc, bánh đúc Đơ Bùi”, “Nước mắm Kẻ Đô, cá rô đầm Sét”... Có

nhiều sản vật nổi tiếng được tục ngữ ghi lại như là những đặc điểm địa

phương. Có những món chỉ tồn tại ở một vùng: “Nhút Thanh Chương, tương

Nam Đàn”, “Bánh cuốn Thanh Trì, bánh dì (dày) Quán Gánh”. Trong tục

ngữ có nhiều địa chỉ ẩm thực của các vùng quê. Những địa danh gắn liền với

những sản vật nổi tiếng đã được liệt kê khá đầy đủ trong tục ngữ, như: “Bưởi

Đại Trà, cam Đồng Dụ, gà Văn Dú...”, như: “Rau cải làng Tiếu nấu nước

điếu cũng ngon”; như: “Dứa Hướng Đạo, gạo Long Trì”; như: “Chè Yên

Thái, gái Tiên Lữ”... Mỗi loại sản vật đều gắn với một miền quê đã đi vào

lịch sử ẩm thực của bao thế hệ người Việt Nam. Nhiều kinh nghiệm chế biến

và nấu nướng được truyền lại cho con cháu, gọi là gia truyền hoặc bí truyền.

Do đó, từ lâu ở Việt Nam đã hình thành nhiều làng nghề truyền thống: “Dưa

La, cà Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét”,

“Bánh cuốn Thanh Trì, bánh dì (dày) Quán Gánh”, “Chè vối Cầu Tiên, bún

sen Tứ Kỳ”... Nhiều gia đình đã có những người giỏi nghề nấu ăn. Tục ngữ

về ẩm thực Việt Nam mang đậm dấu ấn văn hoá ẩm thực của các vùng miền.

Tục ngữ nói về các món ngon và phong cách ăn uống của người Việt mà như

nói với ta nhiều hơn về quê hương, đất nước và truyền thống văn hoá tốt đẹp

52

ở làng quê.

Trong khi đó, hình ảnh nông thôn, đất nước Lào giàu đẹp và hùng vĩ

cũng in đậm trong tục ngữ Lào. Ở đó có những cánh đồng xanh ngút ngàn

như: Mường Sỉnh, Xay Nhạ Bu Li với những thung lũng trù phú như: Nặm

Bạc, Nặm Thà; với những rừng cam trĩu quả soi mình trên mặt nước sông lấp

loá; Và nổi bật lên là cao nguyên Mường Phuôn của Xiêng Khoảng với rừng

khôộc, rừng đào, rừng lê trĩu quả và hương thơm ngào ngạt. Con người như

đắm chìm trong màu xanh, sắc vàng của cỏ cây, hoa trái. Ở đó có Cánh đồng Chum (“Thông hảy hỉn”)11 với những bãi chum đá, một minh chứng cho nền

văn hoá cổ xưa của người Lào. Cánh đồng Chum qua các truyền thuyết Lào

không chỉ là chứng tích lịch sử mà đã trở thành cái tên riêng cho một cánh

đồng đã đi vào huyền thoại trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân

nằm trên một ngọn đồi gió lộng, xung quanh là khu rừng khoọc thưa thớt, xa xa là dãy Trường Sơn điệp trùng. Một bậc hang đá dài dẫn tầm nhìn của du khách xuyên qua hàng phi lao, thấp thoáng trong ánh bình minh bóng những chiếc chum lớn nằm nghiêng nghiêng cô độc. Cánh đồng Chum hiện ra mênh mang với những cái chum

lớn nhỏ, nằm cô độc, cái quây tụ thành nhóm…nằm ngổn ngang trên nền đất khô cằn xơ xác rộng khoảng 25 héc ta. Bản Ang là địa điểm nổi tiếng nhất với 334 chum được tìm thấy. Đa phần là những chiếc chum không có nắp, có hình dạng vuông tròn khác nhau, cái đứng hẳn trên mặt đất, cái chìm một phần thân dưới đất, có chiếc đã vỡ, thủng đáy hoặc sứt mẻ (dẫn theo Báo điện tử Vnexpress.net, ngày 11/5/2007).Có nhiều truyền thuyết về những chiếc chum đá. Có người cho rằng, đây là những bình ủ rượu mà vị vua Lào cổ đại Thạo Chương (Khun Chengung), vị anh hùng dân tộc, đã dùng để khao quân sau khúc khải hoàn. Tuy nhiên, các nhà khảo cổ học nghiêng về giả thuyết cho rằng, Cánh đồng Chum là một nghĩa trang khổng lồ, mỗi chiếc chum là một chiếc quách dùng để an táng một xác người. Một số người khác cho rằng, những chum đá này chỉ để chứa nước mưa, nước suối làm nước uống cho quân lính thời xưa.

53

11 Cánh đồng Chum là một di sản văn hoá nổi tiếng của Lào trên cao nguyên Mường Phuôn (Xiêng Khoảng). Nơi đây có hàng nghìn chiếc chum đá nặng từ 600 kg đến 1 tấn nằm rải rác trên cánh đồng dọc theo biên giới phía Bắc của dãy Trường Sơn với ba địa điểm chính là Bản Ang, Bản Lắt Sén và Bản Sua. Cánh đồng Chum tại Bản Ang

dân Lào. Ngoài ra, Lào còn là xứ xở của núi rừng. Rừng Lào là nơi hội tụ

của các loài chim muông, cầm thú. Trong đó, voi không những có giá trị lớn

về vận tải trong điều kiện núi non hiểm trở của Lào mà còn cung cấp ngà

làm hàng mỹ nghệ. Voi còn là người bạn gắn bó thân thiết từ lâu với đời

sống của nhân dân Lào. Ngay từ khi lên ngôi, Phà Ngừm đã đặt tên cho xứ

sở của hoa cham pa và những điệu Lăm vông nổi tiếng là “Lạn Xạng” (triệu

voi). Câu “Ắt Ta Pư bán vàng đổi lấy gà, Xa Ra Van bán voi đổi lấy đuốc”

nói về vẻ đẹp và sự giàu có của hai tỉnh Ắt Ta Pư và Xa Ra Van ở Hạ Lào.

Hai tỉnh này thừa voi, thừa vàng nên đã đem đổi lấy gà để ăn, lấy đuốc để

thắp sáng. Câu “Ắt Ta Pư bán vàng đổi lấy gà, Phạ Phô bán voi đổi lấy

đuốc” cũng có nội dung tương tự. Phạ Phô xưa nay vốn có nhiều voi nhưng

đất Phạ Phô lại có nhiều đá sỏi lổn nhổn nên mùa mưa mà có voi chuyên chở

thì tiện nhất. Vì vậy, người dân Phạ Phô đi mua voi ở Ắt Ta Pư trước tiên là

để dùng sau đó vì nhu cầu ngày càng lớn, lại là một nguồn lợi kinh tế nên họ

đã nuôi voi thành đàn để bán lại.

Cảnh vật thiên nhiên Lào hấp dẫn in bóng những mái chùa cong,

những ngọn tháp vừa cổ kính, vừa nên thơ. Có thể nói, đất đai, núi rừng,

thiên nhiên Lào tươi đẹp và hùng vĩ đã in đậm trong văn học Lào nói chung,

trong tục ngữ Lào nói riêng. Câu “Chết thì cũng muốn chết nhưng chỉ sợ

chết rồi lại tiếc mỏ muối” của nhân dân lao động tỉnh Phong Xa Lì (Bắc

Lào), nơi có nhiều mỏ muối lộ thiên nói về sự giàu có của tỉnh này. Ở Trung

Lào còn có nhiều loại chim muông cầm thú, có mỏ thiếc Bò Nèng, Phôn

Tựu; có cánh đồng Ma hả Xay rộng lớn, lúa vàng mẩy hạt trĩu bông, nơi quả

ngọt trái sai đã làm thắm hồng da dẻ các cô gái Lào; có đường 9 anh hùng,

qua Đông Hà (Việt Nam), sang Xa Van Na Khét, tới mường Xê Pôn thăm

cảnh đẹp của Vàng Ca Phú... Bức tranh thiên nhiên trong tục ngữ Lào thật

54

lộng lẫy, đẹp đẽ với khí hậu hài hoà, cây cối xanh tươi, bốn mùa hoa thơm

trái ngọt, chen lẫn với màu xanh của những cánh rừng “Mạc nèng” (sa nhân),

cà phê, cam, hạt tiêu, mít, dứa, sầu riêng, vú sữa, mật ong và nhiều mỏ vàng,

mỏ thiếc, mỏ bạc có trữ lượng lớn. Ở Nam Lào có nhiều rau “cạ đau”, ăn lá

khi cây chưa có hoa. Hoa “cạ đau” màu trắng luộc ăn rất ngon nhưng quả

của nó thì không ăn được. Lá “cạ đau” vị đắng nhưng ăn với lạp lại ngon:

“Đừng chê rau cạ đau đắng, khi được ăn gỏi lạp sẽ còn nghĩ rằng tiếc đó”.

Một nơi rất đẹp là “xì phăn đon” (bốn ngàn hòn đảo), với cù lao Đon

Khôông dài hơn vài chục cây số và những hòn đảo xanh biếc như ngọc bích

óng ánh khoe sắc màu. Ngoài ra, những cánh đồng lúa chín vàng tràn đầy

ánh nắng chói chang của tỉnh Chăm Pa Xắc như muốn quyến rũ khách bốn

phương tới tham quan, chiêm ngưỡng. Thêm nữa, còn có nhiều cá ống ở

Nam Lào, có mỏ muối ở Phong Xa Lì (Bắc Lào), nhiều cánh kiến ở Thượng

Lào: “Gần rừng cánh kiến chăn chẳng đỏ”... Riêng lạp, cheo, pà đẹc, những

món nổi danh ở Lào thì có ở nhiều nơi và người dân nào cũng thích: “Được

chấm cheo khen rằng cheo béo, được ăn lạp bò khen lạp bò ngon”. Cạnh đó,

những công việc lao động bình thường hàng ngày như dệt vải, phát rẫy, làm

nương, đi rừng, làm ruộng, bắt cá, xây dựng nhà cửa, tham gia các hoạt động

văn hoá khác đều được nhắc tới trong tục ngữ Lào. Có thể nói, cả ba vùng

đất: Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào với ba màu sắc tự nhiên đặc biệt khác

nhau nhưng cũng có nhiều điểm giống nhau, đó là vẻ đẹp và sự giàu có của

từng vùng miền mà ở đó có nhân dân các bộ tộc Lào đang sinh sống.

Như vậy, tục ngữ Việt và tục ngữ Lào đều phản ánh quê hương, đất

nước. Trong sự giống nhau này, có khi lại tìm thấy sự khác nhau về tần số

xuất hiện của hình ảnh được phản ánh. Ở tục ngữ Lào, hình ảnh con voi,

rừng núi và chùa chiền xuất hiện với tần số cao hơn; còn tục ngữ Việt phản

55

ánh về sông nước và con cá nhiều đơn.

Các chỉ số thống kê về các hình ảnh được phản ánh trong tục ngữ ở

Phụ lục 1 (tr.213) cho thấy, số câu tục ngữ Lào nói về voi nhiều hơn Việt

(Lào 5,21%, Việt 4,13%), sau đó là chùa (Lào 4,83%, Việt 3,12%), hình ảnh

rừng núi (Lào 5,04%, Việt 4,35%) nhiều hơn hình ảnh sông nước (Lào

2,75%, Việt 3,42%); còn tục ngữ Việt nói về sông nước và kinh nghiệm về

sông nước nhiều hơn tục ngữ Lào (Việt 3,42%, Lào 2,75%); con hổ được tục

ngữ Lào nói nhiều hơn tục ngữ Việt (Việt 2,10%, Lào 2,64%), (Hình 1).

Hình 1: Hình ảnh trong tục ngữ

6

5.21

5.04

4.83

4.35

5

3.42

4

2.75

3.12

2.64

4.13

3

TN Việt

2.10

TN Lào

2

1

0

Voi

Chùa

Rừng núi

Hổ

Sông nước

Sở dĩ tục ngữ người Lào nhắc đến voi nhiều hơn tục ngữ Việt bởi vì

voi là động vật biểu tượng cho nước Lào hùng vĩ, bởi Lào được mệnh danh

là xứ sở của voi rừng và nhiều cây cỏ, chim muông, cầm thú (Lạn xạng: triệu

voi). Còn người Việt nói nhiều đến cá bởi Việt Nam có hệ thống sông ngòi,

kênh rạch chằng chịt và biển, hồ rộng lớn. Tuy nhiên, khi ca ngợi vẻ đẹp và

sự giàu có của quê hương đất nước, tục ngữ hai nước hiếm khi vượt ra khỏi

mảnh đất quen thuộc của làng quê để có một cái nhìn bao quát, rộng lớn hơn.

2.1.2. Đúc kết kinh nghiệm về sản xuất, chăn nuôi

2.1.2.1. Đúc kết kinh nghiệm về sản xuất

56

Gần 80% người Việt Nam và người Lào là cư dân nông nghiệp nên tục

ngữ nói về công việc nhà nông (làm ruộng) chiếm đa số trong mảng tục ngữ

Việt và Lào nói về lao động sản xuất. Theo nhịp điệu tuần hoàn của thời tiết,

một năm người nông dân miền Bắc Việt Nam và ở Nam Lào thường trồng

lúa vào hai vụ: vụ chiêm và vụ mùa. Họ còn phải “trông trời, trông đất, trông

mây...”, bởi thời tiết có ảnh hưởng và tác động không nhỏ đến kết quả của

mùa vụ và cây trồng. Tuy nhiên, thời vụ và kinh nghiệm kỹ thuật canh tác ở

mỗi nước lại có những nét riêng do đặc điểm thời tiết và địa hình quy định.

Ở Việt Nam, nhiều câu tục ngữ đã ghi lại những kinh nghiệm sản xuất,

trong đó nghề nông, nghề trồng trọt, chăn nuôi còn phụ thuộc rất nhiều vào

thời tiết. Có loại thời tiết ích lợi cho loại cây này nhưng rất hại cho loại cây

khác: “Gió đông là chồng lúa chiêm, gió bấc là duyên lúa mùa”, “Gió heo

may mía bay lên ngọn”, “Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”... Cùng một hiện tượng

thời tiết mà loại cây này được mùa, còn loại cây khác lại mất mùa: “Được

mùa cau đau mùa lúa”, “Được mùa nhãn vãn mùa cau”, “Được mùa dưa sưa

mùa lúa”, “Được mùa quéo, héo mùa chiêm”, “Được mùa xoài, còi mùa

lúa”. Bởi mỗi loại cây trồng có những nhu cầu về thời tiết và dinh dưỡng

khác nhau. Có những kinh nghiệm mà tục ngữ đưa ra chỉ phù hợp với từng

vùng, không mang tính phổ biến, bởi Việt Nam là nước đa dạng về địa hình

nên một hiện tượng thời tiết mang lại lợi ích cho vùng này thì lại gây bất lợi

cho vùng khác: “Được mùa Nam Ngạn, khốn nạn mọi nơi”. Mỗi loại cây

trồng cũng chỉ thích ứng với từng thời gian, mùa vụ mà thôi: “Tháng ba dâu

trốn, tháng bốn dâu về” (về trồng dâu); “Tháng chạp mà cấy mạ non, thà

rằng công ấy ẵm con ở nhà” (một kinh nghiệm canh tác); “Chiêm khô bầu,

mùa sầu rơm”, “Tháng giêng trồng trúc, tháng lục trồng tiêu”, “Tháng mười

có sấm, cấy trên nấm cũng được ăn”... Đôi khi mùa vụ ảnh hưởng trực tiếp

đến chất lượng vật nuôi, cây trồng: “Ếch tháng ba, gà tháng bảy” hoặc đến

57

chất lượng của món ăn: “Mùa hè cá sông, mùa đông cá biển”. Bởi vậy,

những kinh nghiệm trồng lúa, chăm bón, chọn giống, thu hoạch lúa của hai

vụ nói trên được phản ánh khá rõ trong tục ngữ. Các câu “Chiêm cập cợi,

mùa đợi nhau”, “Chiêm cấy to tẽ, mùa cấy nhẻ con”, “Chiêm thối cỏ, mùa nỏ

đất”, “Chiêm xấp xới, mùa đợi nhau”, “Chiêm yên gốc, mùa trốc rễ”, “Lúa

chiêm là lúa bất nghì, cấy trước trỗ trước chẳng thì đợi ai”, “Lúa chiêm lấp

ló đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”... nói về đặc tính sinh trưởng

của các loại lúa trong từng vụ. Tục ngữ còn đi vào những kỹ thuật cụ thể

hơn, từng công đoạn của mỗi vụ như: “Hòn đất nỏ một giỏ phân”, “Nhai kỹ

no lâu, cày sâu lúa tốt”, “Nhất cày ải, nhì vãi phân” về kinh nghiệm cày bừa;

“Cơm quanh rá, mạ quanh bờ”, “Tốt giống, tốt má, tốt mạ, tốt lúa” về cách

chọn giống; “Nhặt hàng sông, đông hàng con”, “Lúa chiêm thì cấy cho sâu,

lúa mùa thì gẩy cành dâu mới vừa”, “Mạ chiêm đào sâu chôn chặt, mạ mùa

vừa đặt vừa đi”, “Mạ úa cây lúa chóng xanh, gái dòng chóng đẻ sao anh

hững hờ”, “Lập thu mới cấy lúa mùa, khác nào hương khói lên chùa cầu

con”, “Tua rua thì mặc tua rua, mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền”,

“Mùa hơn đêm, chiêm hơn sương” về kinh nghiệm cấy lúa theo từng thời vụ,

từng loại đất, loại mạ; “Một lượt tát, một bát cơm”, “Người đẹp vì lụa, lúa tốt

vì phân” về kinh nghiệm chăm bón lúa; “Nhất nước nhì phân, tam cần, tứ

giống” về vai trò của nước, phân, sự chuyên cần và giống... Ngoài ra, còn có

một số câu tục ngữ nói về kinh nghiệm và kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi,

đánh cá... như các câu “Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen” (kinh nghiệm trồng

khoai), “Ao sâu tốt cá” (kinh nghiệm nuôi cá), “Tôm đi chạng vạng, cá đi

rạng đông” (kinh nghiệm chài lưới), “Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”, “Tạnh trời

mây kéo về non, hẹn cùng cây cỏ chớ còn mong mưa”... (ảnh hưởng của nắng

mưa đối với cây trồng). Nhiều kinh nghiệm mà tục ngữ đưa ra có thể đem áp

dụng vào sản xuất nông nghiệp. Nhưng cũng còn có những kinh nghiệm

58

không đúng, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau. Câu “Chiêm bớt ra, mùa tra

vào” (1) và câu “Chiêm cấy to tẽ, mùa cấy nhẻ con” (2) phổ biến hai kinh

nghiệm cấy lúa vụ chiêm và vụ mùa trái ngược nhau. Theo chúng tôi, câu (2)

đúng với kỹ thuật trồng lúa của người nông dân đồng bằng Bắc bộ vì vụ

chiêm cấy vào tháng giêng âm lịch, mùa khô, có ải, cây lúa đẻ nhánh và sinh

trưởng nhanh, cần cấy ít mạ. Còn vụ mùa cấy dầm (tháng 6 âm lịch), năng

suất thấp hơn nhưng gạo lại ngon hơn.

Tục ngữ Lào cũng có những câu đúc kết kinh nghiệm trong nghề nông.

Đó là kinh nghiệm về gieo mạ: “Đườn hốc hạy vàn cạ, đườn hạ hạy pèng

thảy” (“Tháng sáu hãy gieo mạ, tháng năm hãy sửa cày”); là sự đầu tư cho

sản xuất cũng cần thiết như đầu tư cho kinh doanh: “Hết na dà pheng cạ, pay

khạ dà pheng thưn” (“Làm ruộng đừng tiếc mạ, đi buôn đừng tiếc vốn”); là

kinh nghiệm be bờ giữ nước: “Hết na bò ti hày, liệng cày bò hì hằng” (“Làm

ruộng không be bờ, nuôi gà không đậy ổ”). Họ đánh giá cao giá trị thổ

nhưỡng của những thửa ruộng ở góc làng bởi đó là những mảnh đất phì

nhiêu, màu mỡ: “Khăm thò hủa mả bò thò na tin bạn” (“Vàng bằng đầu chó

sao bằng ruộng xó làng”). Qua thực tế sản xuất, người nông dân Lào rút ra

kết luận không những cho công cuộc làm ăn sinh sống mà cho cả cuộc đời

nữa: “Muốn làm rẫy phải tìm dao, muốn làm ruộng phải tìm cày”. Và người

nông dân Lào cũng thấy những khâu cốt yếu trong nghề nông là nước, phân,

cần, giống như người Việt nên mới có câu “Na đì thảm hả khậu pục, lục đì

thảm hả phò hả mè” (“Ruộng tốt tìm hỏi lúa giống, con tốt tìm hỏi cha mẹ

chúng”) hoặc các câu “Dạc hụ na ngam hạy bờng nò cạ, dạc hụ mạ đì hạy

bờng nham lèn” (“Muốn biết ruộng đẹp hãy nhìn mầm mạ, muốn biết ngựa

hay hãy xem lúc chạy”), “Ruộng tốt vì phân, ấm chỗ vì con gái nhiều, ruộng

tốt vì mạ, dao sắc vì đá mài, ruộng tốt vì bờ, lợn béo vì người nuôi đảm” nói

về vai trò của phân, của mạ, của việc be bờ giữ nước, giữ chất màu trong sản

59

xuất nông nghiệp. Những câu tục ngữ Lào nói trên minh chứng cho chúng ta

thấy rằng, Lào là một nước nông nghiệp trồng lúa nước, có phương thức

canh tác giống Việt Nam và nhiều nước Đông Nam Á khác.

2.1.2.2. Đúc kết kinh nghiệm về chăn nuôi

Tục ngữ hai nước cũng có những câu đúc kết những kinh nghiệm về

chăn nuôi. Đối tượng quan tâm của tục ngữ Việt khi nói về nghề chăn nuôi

không tản mạn mà tập trung vào kinh nghiệm chăn nuôi đàn gia súc, gia

cầm. Bởi vậy, kinh nghiệm chọn giống để chăn nuôi phải xuất phát từ cách

lựa chọn những bộ phận cụ thể như mõm, chân, tai, mắt, đuôi, bụng... của vật

nuôi: “Đực chuộng phệ, sề chuộng chõm” (chọn lợn), “Lang đuôi thì bán,

lang trán thì cày” (chọn trâu), “Gà đen chân trắng mẹ mắng cũng mua, gà

trắng chân chì mua chi giống ấy” (chọn gà), “Mắt bánh rán, trán bánh

chưng, lưng tôm càng” (chọn chó), “Đực cụp, cái xoè” (chọn chim câu),

“Đực dài, cái vuông” (chọn kén tằm), “Bò đẻ tháng năm nỏ bằm thì hui”

(chọn bò giống),... Tục ngữ Lào cũng có những câu phổ biến kinh nghiệm

chọn voi giống: “Lược xạng hạy bờng hảng” (“Chọn voi hãy xem đuôi”),

“Xem voi hãy xem đuôi, xem cô nàng hãy xem mẹ, hãy xem cho cặn kẽ, xem

tới cụ kỵ ông bà”. Những kinh nghiệm đó đã được kiểm chứng qua thực tiễn

sản xuất của nhiều thế hệ người Việt Nam và Lào nên được áp dụng tương

đối phổ biến trong nông nghiệp. Người nông dân coi đó như là “cẩm nang”

về sản xuất và chăn nuôi của mình. Kinh nghiệm ấy dần dần được phổ biến

rộng rãi, được nhiều người áp dụng rồi trở thành tri thức dân gian về lao

động sản xuất của nhân dân. Do vậy, đến lượt mình, tục ngữ đóng vai trò

hướng dẫn kỹ thuật sản xuất. Từ đó, kinh nghiệm sản xuất cũng được tích

luỹ và phát triển theo sự phát triển của trình độ sản xuất của xã hội tuy còn

rất chậm .

Tục ngữ về lao động sản xuất còn phản ánh tập quán lao động lâu đời

60

của nông dân Việt Nam và Lào trong hoàn cảnh hai nước nông nghiệp còn

thô sơ, lạc hậu về kỹ thuật. Kho tri thức mà tục ngữ có được chủ yếu là do sự

trải nghiệm hàng ngày của nhân dân. Di sản tục ngữ mà hai dân tộc còn lại

“tuyệt đại đa số là của người nông dân lao động, phản ánh lối sống, in dấu lối

nghĩ, tiêu biểu cho lối nói của người dân lao động” [22, tr.183].

2.1.3. Phản ánh các mối quan hệ gia đình, xã hội

Như trên đã trình bày, hai chủ đề của tục ngữ (giới tự nhiên, quan hệ

của con người với giới tự nhiên; con người - đời sống vật chất, đời sống xã

hội và tinh thần) phản ánh văn hoá ứng xử của con người trong quan hệ với

tự nhiên, thiên nhiên; đồng thời cũng phản ánh rất tập trung quan hệ của con

người trong môi trường xã hội, không hạn chế riêng trong việc giao tiếp giữa

người với người, nặng về cung cách, thái độ, lời ăn tiếng nói trong gặp gỡ,

hội họp, chuyện trò.

Tục ngữ ra đời trong lao động và trong giao tiếp giữa con người với

con người. Mọi hành vi ứng xử của con người bắt nguồn từ cái gốc văn hoá

của họ. Nó lại được khơi nguồn từ truyền thống văn hoá của cộng đồng, dân

tộc mà họ đang sống. Có nhiều câu tục ngữ “biểu hiện thái độ ứng xử và tình

cảm của nhân dân đối với những vấn đề của cuộc sống” [94, tr.3]. Nhiều nét

đẹp ứng xử trong các mối quan hệ gia đình và xã hội được lưu truyền qua

các thế hệ, trở thành đạo lý, thành lối sống đã được phản ánh trong tục ngữ

cổ truyền của nhân dân hai nước.

Trước hết, tục ngữ hai nước phản ánh các mối quan hệ trong gia đình,

bởi gia đình là tế bào của xã hội. Cả tục ngữ Việt lẫn tục ngữ Lào đều đề cao

mối quan hệ vợ chồng bởi vợ chồng là hạt nhân cơ bản của gia đình: “Bà

phải có ông, chồng phải có vợ”, “Vợ chồng sống gửi thịt, chết gửi xương”.

Người Việt và người Lào đều đánh giá cao sự khéo léo của người phụ nữ nói

chung, vai trò “nội tướng” của người vợ nói riêng: “Gái ngoan làm quan cho

61

chồng” (TN Việt) và: “Nhẫn tốt vì mặt, chồng tốt vì vợ” (TN Lào). Theo

Trần Ngọc Thêm, “trong truyền thống Việt Nam, tinh thần của người nông

nghiệp định cư coi trọng ngôi nhàcoi trọng cái bếp coi trọng phụ nữ là

hoàn toàn nhất quán và rõ nét” [162, tr.43]. Vì vậy, mới câu “Xem trong bếp

biết nết đàn bà”. Tuy nhiên, ngay từ đầu, không phải người Việt Nam nào

cũng dễ chấp nhận tư tưởng tôn trọng phụ nữ. Điều đó không có gì là khó

hiểu. Nền văn hoá Việt Nam từ khi nhà Lê lấy Nho giáo làm quốc giáo, chịu

ảnh hưởng khá nhiều của văn hoá Trung Hoa nên đã du nhập tư tưởng “nam

tôn nữ ty” cùng với thuyết “tam tòng” được đề ra từ thời Hán: “Nhất nam

viết hữu, thập nữ viết vô”. Tư tưởng này ở Lào cũng không phải là không có

nhưng ít được đề cập đến trong tục ngữ Lào.

Xã hội Việt Nam xưa đã ngầm định vai trò, trách nhiệm của người vợ

trong gia đình: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Tương tự, người vợ ở

Lào xưa cũng chỉ quẩn quanh với ruộng vườn, chăm sóc và nuôi dạy con cái

để người chồng là người “làm kinh tế” cho gia đình. Do vừa phải nhọc nhằn

mưu sinh, vừa phải lo cho chồng con và gia đình nên nhận thức của nhiều

người vợ ở hai nước chưa vươn xa ra khỏi phạm vi của làng xóm.

Trước đây, đạo “tam tòng” đã trói buộc hạnh phúc của người phụ nữ

Việt Nam trong vòng cương toả của luật lệ phong kiến khắt khe. Ngay cả khi

người chồng đã mất, nhiều người vợ trẻ ở nông thôn vẫn ở vậy để “thờ

chồng”, nuôi con và phụng dưỡng cha mẹ chồng: “Ghe bầu trở lái về đông,

làm thân con gái thờ chồng nuôi con”. Có người còn coi việc thủ tiết thờ

chồng như là một biểu hiện của sự thuỷ chung. Trong đó, tiết hạnh được coi

là một trong những biểu hiện của “tứ đức” mà người vợ nói riêng, người phụ

nữ Việt Nam nói chung rất coi trọng và gìn giữ. Gia đình một vợ một chồng

hạnh phúc vẫn là ước mơ lý tưởng không chỉ của người phụ nữ Việt Nam

thời phong kiến mà còn là khát vọng của phụ nữ mọi thời. Tuy nhiên, lễ giáo

62

phong kiến đã đẩy nhiều phụ nữ nói chung, nhiều người vợ nói riêng vào

cảnh cam phận làm lẽ hoặc goá bụa. Nhưng đã có những người phụ nữ Việt

Nam phản ứng mạnh mẽ chế độ đa thê ấy: “Đói lòng ăn nắm lá sung, chồng

một thì lấy, chồng chung thì đừng” (TN Việt). Sự phản kháng ấy tuy không

nhiều nhưng quyết liệt. Người Lào cũng có câu cảnh báo về mặt dở của chế

độ đa thê nhưng bớt gay gắt hơn: “Muốn rối ren thời lấy vợ bé”. Người Lào

đi đến hôn nhân cũng không quên chọn “tông”, kén “giống” như người Việt:

“Xem voi hãy xem đuôi, xem cô nàng hãy xem mẹ, hãy xem cho cặn kẽ, xem

tới cụ kỵ ông bà”. Cũng có khi việc xem người của họ ít nhiều bị chi phối

bởi thuật tướng số: “Muốn biết lòng người hãy nhìn thân thể”. Người Lào có

kinh nghiệm chọn vợ, kén chồng rất thiết thực xuất phát từ đặc điểm cuộc

sống lắm suối, nhiều rừng ở Lào: “Nếu lấy người thấp qua suối họ không

dắt, lấy người cao leo núi họ không đợi”.

Thương yêu và tôn trọng nhau cũng là nét đẹp truyền thống của người

Lào. Tục ngữ Lào có câu “Chồng vợ này, mày tao không được nói, gọi nhau

tôi, anh cho tới trọn đời”. Từ tình yêu vợ chồng đầm ấm, biết tôn trọng và

thông cảm lẫn nhau ấy, cuộc sống hạnh phúc, giàu sang mới đến: “Chồng vợ

này, mày tao không được nói, hãy gọi anh với em, bạc trăm mới nêm đầy

túi”, “Hạnh phúc này tự ta làm ra, chẳng phải tự nhiên mà có”. Đây cũng là

lời dặn dò, khuyên bảo đối với tình vợ chồng, đã khẳng định một chân lý đẹp

đẽ mà người Việt Nam ta thường ví là “Thuận vợ thuận chồng biển Đông tát

cạn, thuận bè thuận bạn tát cạn biển Đông”. Tục ngữ Lào còn căn dặn

những người vợ trẻ phải khéo léo trong cư xử: “Có chồng hãy khéo khen, có

em hãy khéo dỗ” và nhắc nhở: “Ở cho người ta khen, đi cho người ta nhớ”.

Tục ngữ còn đưa ra những kết luận sâu sắc về sự làm gương: “Lòng không

trong sáng với gương, soi mình mà chẳng thấy gương chiếu hình. Lòng

không trong sáng với chiêng, đánh mà cũng chẳng vang rền được đâu”. Tục

63

ngữ nhắc nhở người đàn ông Lào phải luôn giữ gìn tư cách đạo đức cho thật

tốt: “Thấy vợ người coi như mẹ của ta, thấy của cải của người coi như núi

đá trai sò, thấy con gái người trông coi như em nhỏ, quan tâm tới mọi điều

đó cho đầy đủ”.

Tóm lại, tục ngữ Việt và tục ngữ Lào đều dành những tình cảm trân

trọng để nói về mối quan hệ vợ chồng, đặc biệt là vai trò không thể thiếu của

người vợ trong gia đình. Nhân dân lao động Việt Nam và Lào đã có cách

nhìn đúng đắn và nhân ái về người phụ nữ nói chung, về người vợ nói riêng.

Quan hệ giữa cha mẹ và con cái là mối quan hệ máu mủ ruột rà. Dù

sinh ra trong thời đại nào thì những đứa con lần lượt ra đời và lớn lên cũng

được bàn tay cha mẹ yêu thương, chăm sóc. Bởi vậy, mọi hành động thường

ngày của cha mẹ đều có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành nhân cách của

con cái. Cha mẹ không chỉ che chở, bảo vệ con cái mà còn là tấm gương mẫu

mực về đạo đức và lối sống cho con cái noi theo. Nói cách khác, gia đình

luôn là bến đậu, là mái ấm chở che cho con cái. Chữ “hiếu” vẫn như mạch

ngầm chảy mãi suốt cuộc đời mỗi người con. Các câu “Công cha như núi

Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ kính

cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con” (TN Việt); “Ơn bố bằng trái núi già,

ơn mẹ bằng trời và đất”, “Công cha như núi cao, nghĩa mẹ như trời đất”

(TN Lào) đều phản ánh sự biết ơn của con cái đối với cha mẹ. Tục ngữ hai

nước đều lấy những sự vật không cùng, rộng lớn để làm biểu tượng so sánh

công lao của cha mẹ đối với con cái.

Có một điều lý thú là, cả tục ngữ Việt lẫn tục ngữ Lào đều có những

câu tương tự nhau chứa đựng những tri thức nuôi dạy con cái: “Dạy con từ

thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở ban sơ mới về”, “Thương cho roi cho vọt, ghét

cho ngọt cho bùi” (TN Việt) và câu “Hắc ngua hạy phục, hắc lúc hạy tì”,

“Hắc ngua hạy phục, hắc lúc hạy xằng xỏn” (“Yêu bò hãy buộc, yêu con hãy

64

đánh”, “Yêu bò hãy buộc, yêu con hãy dạy dỗ”) (TN Lào).

Ngoài ra, tục ngữ Việt còn phản ánh quan niệm của họ về con cái mà

người Lào cũng có cùng suy nghĩ nhưng chưa được tục ngữ Lào ghi lại một

cách đầy đủ như tục ngữ Việt, chẳng hạn các câu “Đông con hơn rậm của”,

“Người là vàng của là ngãi”, “Năm con năm nhớ, mười con mười thương”.

Câu “Cá chuối đắm đuối vì con” đã mượn câu chuyện về loài cá thật cảm

động để nói về tình mẫu tử; câu “Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn” nói về

đức thầm lặng hy sinh của người mẹ cho những đứa con yêu quý của mình;

câu “Phúc đức tại mẫu” phản ánh vai trò quyết định của người mẹ trong việc

nuôi dạy con cái; các câu “Con không cha thì con trễ, cây không rễ thì cây

hư”, “Có cha có mẹ thì hơn, không cha không mẹ như đờn không dây” nói về

trách nhiệm của cha mẹ trong việc nuôi dạy con cái; các câu “Con dại cái

mang”, “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” về trách nhiệm của mẹ, của bà;

“Con ai cha mẹ nấy”, “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” về những ảnh

hưởng của cha mẹ và người lớn trong gia đình đối với con cháu. Mặt khác,

đường ăn, nết ở của con cháu lại có ảnh hưởng không nhỏ đến mọi vui buồn

của ông bà, cha mẹ: “Con khôn nở mặt mẹ cha, con dại ông bà cả họ xấu

lây”. Tục ngữ Lào lại nói nhiều và có thiện cảm hơn tục ngữ Việt về mối

quan hệ giữa con rể với gia đình vợ, trước hết là với bố vợ: “Àu lục khởi ma

liệng phò thậu, pan đạy khậu têm nhia” (“Lấy con rể về nuôi bố vợ bằng

được lúa đầy vựa đầy bồ”).

Trong quan hệ giữa cha mẹ với con cái, thì quan hệ giữa mẹ chồng với

con dâu không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái. Bởi vậy, cả tục ngữ

Việt và tục ngữ Lào đều có những câu tương đối giống nhau cùng nói về chủ

đề mẹ chồng - nàng dâu này. Các câu “Rau muống tháng chín nhịn cho mẹ

chồng ăn”, “Dâu vô nhà mẹ già ra ngõ” (TN Việt) và các câu “Lúc phạy hển

mè nhà pan phỉ hà khậu hườn” (“Con dâu thấy mẹ chồng như thấy quỷ vào

65

nhà”), “Au mè nhà ma dù cắp lúc phạy pan au khạy ma xày khing” (“Đưa mẹ

chồng đến ở với con dâu như mang cơn sốt bỏ mau vào mình”), “Au lúc

phạy ma liệng nhà, pan àu hà ma xày hườn” (“Đem con dâu ở với mẹ chồng

như mang dịch về nhà”) (TN Lào) đều phản ánh sự xung khắc mẹ chồng -

nàng dâu. Nhưng những thành kiến, ác cảm trong mối quan hệ này của người

Lào có vẻ nặng nề hơn người Việt. Dấu ấn Phật giáo ở Lào đậm nét hơn ở

người Việt nhưng điều đó cũng không thể làm cho quan hệ mẹ chồng - nàng

dâu ở Lào bớt gay gắt hơn so với người Việt. Ở người Việt, đôi khi sóng gió

nổi lên trong quan hệ giữa gia đình chồng và người con dâu: “Bố chồng là

lông con phượng, mẹ chồng là tượng mới tô, nàng dâu mới về là bồ nghe

chửi” và ngược lại: “Bố chồng là lông lợn hạch, mẹ chồng là đách lợn nang,

nàng dâu mới về là bà hoàng hậu”. Xã hội Lào xưa cũng tồn tại những mâu

thuẫn trong các mối quan hệ này nhưng rất ít được tục ngữ Lào ghi lại.

Trong các quan hệ gia đình Việt Nam truyền thống, đó đây mối quan

hệ giữa giữa dì ghẻ với con riêng của chồng, giữa bố dượng với con riêng

của vợ... không phải lúc nào cũng nồng ấm. Trong tục ngữ Việt, lối tư duy cũ

với những định kiến còn là rào cản các quan hệ đó. Những câu “Mấy đời

bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ có thương con chồng”, “Con chồng thì

khinh con mình thì yêu” nói về mâu thuẫn giữa dì ghẻ với con chồng; “Đói

thì ăn ngô ăn khoai, đừng ở với dượng điếc tai láng giềng” đề cập đến những

bất hoà giữa con riêng của vợ với bố dượng.

Tình anh chị em ruột trong gia đình là tình của những người có cùng

huyết thống, không thể tách rời: “Anh em như chân với tay”. Sự hoà thuận

trong anh chị em là cái gốc của sức mạnh và niềm hạnh phúc gia đình: “Chị

em trên kính dưới nhường, là nhà có phúc mọi đường yên vui”. Tục ngữ đưa

ra cách xử thế khi có mối bất hoà trong anh chị em: “Cắt dây bầu dây bí, ai

nỡ cắt dây chị dây em”. Bất hòa có khi lại nảy sinh giữa các chị em dâu:

66

“Chị em dâu cái đầu lúc lắc” hoặc xung đột chị dâu - em chồng: “Giặc bên

Ngô không bằng bà cô bên chồng”. Tục ngữ Lào cũng có những câu phản

ánh tình anh chị em trong gia đình như tục ngữ Việt nhưng với số lượng câu

ít hơn nhiều, chẳng hạn: “Có chồng hãy khéo khen, có em hãy khéo dỗ”.

Ngoài ra, khi đề cập đến mối quan hệ giữa các thành viên trong dòng

họ, tục ngữ còn có các câu “Chim có tổ người có tông” (TN Việt) và câu

“Chim có tổ , người có nhà” (TN Lào) về cội nguồn, tổ tông. Các câu “Chín

đời họ mẹ còn hơn người dưng”, “Máu loãng còn hơn nước lã” (TN Việt )

và câu “Máu thâm còn hơn nước lã” (TN Lào) về quan hệ gắn kết trong

dòng họ. Tuy nhiên, tục ngữ Lào nói ít hơn tục ngữ Việt về mối quan hệ này.

Mối quan hệ láng giềng, hàng xóm cũng được phản ánh qua tục ngữ

của cả hai dân tộc Việt - Lào. Người Việt và người Lào cùng nhận ra và

thấm thía sâu sắc tầm quan trọng của mối quan hệ giữa mình, gia đình mình

với láng giềng qua những câu đồng nghĩa về tình làng nghĩa xóm: “Bán anh

em xa mua láng giềng gần”, “Bà con xa không bằng láng giếng gần” (TN

Việt) và: “Anh em xa không bằng láng giềng gần”, “Bạn ở gần tốt hơn anh

em ở xa” (TN Lào). Khi tục ngữ được dùng như một phương châm xử thế,

nhân dân lao động cũng bộc lộ một phần nhân sinh quan và thế giới quan của

mình. Nói cách khác, đó là những tư tưởng trong hệ thống các quan niệm của

nhân dân về các lối ứng xử trong gia đình và xã hội.

Tính chất giáo huấn, đề cao đạo làm người, ý thức trân trọng những giá

trị truyền thống dân tộc còn xuất hiện trong các câu tục ngữ về quan hệ thầy

trò và các quan hệ xã hội khác. Nhiều câu tục ngữ Việt nói về truyền thống

“tôn sư trọng đạo” của người Việt Nam: “Có thờ thầy mới được làm thầy”,

“Không thầy đố mày làm nên”; về tinh thần hiếu học, ham hiểu biết: “Có học

mới nên khôn”. Học chữ, trước hết là học đạo làm người: “Tiên học lễ hậu

học văn”. Có biết bao tấm gương sáng về đạo học xưa nay đã được phản ánh

67

trong văn học nghệ thuật: một Cao Bá Quát (? - 1854) búi tóc lên xà nhà mà

học, một ông Châu Trí quét lá đa đốt lên mà học hẳn bởi có những những

người thầy như Chu Văn An (? - 1387), Vũ Tông Phan (1800 - 1851)...

những người thầy của muôn đời mà tục ngữ còn ghi chưa hết. Đạo lý Việt

Nam tồn tại, vượt qua âm mưu đồng hoá của ngoại bang, giữ được bản sắc

của dân tộc mình hẳn cũng bắt nguồn từ nếp sống “tôn sư trọng đạo” như

thế. Người Lào cũng đề cao đạo học nên mới có câu “Dạc pền khồn hạy hằm

hiên khoam hụ” (“Muốn nên người hãy học tập”) tương tự câu “Muốn biết

phải hỏi, muốn giỏi phải học” của người Việt. Tục ngữ Lào khuyên người ta

phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm, dám học hỏi: “Thẹn với thầy

không được hiểu biết, thẹn với người yêu không được hút thuốc lá, thẹn với

vợ không được con”. Họ học ngay từ những điều tưởng là nhỏ nhặt: “Mốc pà

đẹc hạy mì khu, chi pu hạy mì vạt” (“Túm mắm hãy có thầy, nướng cua hãy

có cách”). Câu tục ngữ Lào “Mốc pà đẹc toọng mì khu, chi pu toọng mì

xàng” (“Túm mắm phải có thầy, nướng cua phải có thợ”) đồng nghĩa với câu

“Học ăn, học nói, học gói, học mở’ của người Việt. Trong mối quan hệ của

người dân đối với vua - thầy - cha thời phong kiến, vai trò người thầy luôn

được đề cao. Từ ông vua tối cao đầy quyền uy đến những người dân bình

thường khi gặp thầy đều khoanh tay cung kính cúi chào. Người thầy đôi khi

còn được coi trọng hơn cả cha đẻ. Đó là nét đẹp ngàn đời của đạo lý Việt

Nam. Ngoài ra, trong quan hệ vua - tôi, tư tưởng “trung quân” còn được thể

hiện khá rõ trong lối ứng xử của người dân với bậc “tối thượng” trị vì đất

nước. Vua có quyền uy tối cao, bởi vua là “thiên tử” (con trời) nên tất thảy

mọi người dân đều phải tuân theo: “Ý vua là ý trời”.

Trong khi cùng phản ánh quan hệ gia đình và xã hội, khác với tục ngữ

Việt, hầu như số câu tục ngữ Lào nói về quan hệ ông bà, chú bác ít hơn.

Các chỉ số thống kê về quan hệ gia đình ở Phụ lục 1 (tr.213) cho thấy,

68

trong tục ngữ Việt và tục ngữ Lào số câu về các mối quan hệ gia đình như

sau: cha mẹ - con cái (Việt 4,93%, Lào 5,11%), ); vợ chồng (Việt 4,34%,

Lào 5,79%), ); anh chị em (Việt 2,31%, Lào 2,03%) (Hình 2).

Hình 2: Mối quan hệ gia đình

5.11

5.79

4.93

4.34

8 7 6 5

TN Việt

2.31 2.03

TN Lào

4 3 2 1 0

Vợ chồng

Cha mẹ con cái

Anh chị em

2.1.4. Phê phán giai cấp thống trị và khẳng định những phẩm chất

tốt đẹp, chế giễu những thói hư, tật xấu

2.1.4.1. Phê phán giai cấp thống trị

Cả Việt Nam và Lào đều trải qua những đêm dài của chế độ phong

kiến. Suốt chặng đường dài lịch sử ấy, bên cạnh những bậc vua sáng tôi hiền,

coi trọng việc quốc thái an dân còn không ít những bậc vua chúa khi lên nắm

quyền thường quay lưng lại với nhân dân, duy trì một đường lối cai trị hà

khắc, bất công. Tục ngữ Việt và Lào đã phê phán giai cấp thống trị bao gồm

vua quan và những tên địa chủ, chánh tổng, lý trưởng, xã đoàn, trương tuần...

ở nông thôn Việt Nam và những chậu cốc, chậu làu, lục lam, lục cuông, các

quan lại địa chủ phong kiến ở nông thôn Lào: “Cá lớn nuốt cá bé”, “Miệng

ông cai, vai đày tớ” (TN Việt), “Cá lớn ăn cá bé” (TN Lào). Chúng tự cho

mình quyền sinh quyền sát, hà hiếp, bóc lột nhân dân: “Muốn nói oan làm

quan mà nói”, “Quan nói hiếp, chồng có nghiệp nói thừa” (TN Việt), “Thóc

đầy vựa ngồi nói cũng đúng, tiền đầy túi nói cong cũng được” (TN Lào).

69

Vua quan phong kiến tìm cách cướp ruộng đất của nông dân: “Đất vua, chùa

làng, phong cảnh bụt” (TN Việt), “Đìn ạt nha, na phò bản” (“Đất của quan,

ruộng làng của trưởng bản”) (TN Lào) và làm giàu trên mồ hôi, xương máu

người lao động: “Của vào quan như than vào lò” (TN Việt). Nhân dân Việt

Nam đã gọi chúng là những tên “cướp ngày”: “Con ơi nhớ lấy câu này, cướp

đêm là giặc, cướp ngày là quan”, “Tuần hà là cha kẻ cướp”. Trong khi

người lao động phải một nắng hai sương để “đổi bát mồ hôi lấy bát cơm” thì

chúng lại “ngồi mát ăn bát vàng”. Người dân luôn bị cường hào, quan lại

phong kiến bóc lột đến tận xương tuỷ: “Kẻ ăn không hết, người lần chẳng

ra” (TN Việt), “Người ăn ăn đến mửa, người đói đói đến chết” (TN Lào). Từ

đó, mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn xã hội ở Việt Nam và Lào thời phong

kiến bùng phát ngày càng gay gắt. Người dân bị áp bức bóc lột đã vùng lên

chống lại cường quyền. Các cuộc đấu tranh giữa nông dân và giai cấp phong

kiến đã diễn ra liên tục và quyết liệt. Ở Việt Nam, tiêu biểu là cuộc khởi

nghĩa của Nguyễn Huệ (1753 - 1792), người anh hùng nông dân áo vải.

Nguyễn Huệ đánh thắng chúa Trịnh, chúa Nguyễn và trước khi hành binh ra

Bắc đánh quân xâm lược nhà Thanh đã lên ngôi hoàng đế. Ở Lào liên tiếp

xảy ra các cuộc khởi nghĩa nông dân dưới sự lãnh đạo của Chậu Anụ (1827-

1828) ở Luông Pha Băng, của Phò Cạ Đuột (1901- 1912) ở Xa Van Na Khét,

của Chậu Phạ Pắt Chay (1818 - 1822) ở Bắc Lào... Những cuộc nổi dậy của

nông dân nói trên ít nhiều đã để lại dấu vết trong những câu tục ngữ.

Tục ngữ hai nước cùng cho thấy nỗi khổ của sự đói ăn, thiếu mặc

không lo bằng nỗi khổ gần quan: “Hoàng trùng đi, vi trùng lại, gây tai gây

hại chẳng kém gì nhau”, “Gần lửa rát mặt” (TN Việt) và: “Đừng dựng nhà

gần quan, chớ dựng sàn gần đường cái” (TN Lào). Do vậy, khi thấy quan

nha, người dân không chỉ sợ hơn thú dữ: “Quan phủ đi, quan tri nhậm” (TN

Việt) và: “Voi vào ruộng chẳng bằng quan nha vào bản” (TN Lào) mà còn

70

phản ứng lại hoặc tìm cách tránh xa: “Quan cần dân trễ” (TN Việt) và “Thấy

quan và người điên phải tránh xa” (TN Lào). Thái độ ứng xử của một số bậc

anh hùng tiền bối được nhân dân kính trọng đã trở thành lẽ sống và phương

châm xử thế của nhân dân hai nước: “Chết trong còn hơn sống đục”, “Sống

đục sao bằng thác trong” (TN Việt), “Tài pền phỉ đi koà nhăng pền khọi”

(“Chết làm ma hơn sống làm nô lệ”) (TN Lào). Ở Việt Nam, Nguyễn Hữu

Cầu thua thì bị coi là “giặc”. Nếu như Nguyễn Hữu Cầu có đánh đổ được tập

đoàn thống trị đương thời thì cũng chỉ đến làm vua mà thôi, bởi thế, mới có

câu “Được làm vua, thua làm giặc” (TN Việt). Người Lào cũng có câu với

nội dung tương tự: “Xạ nạ pền nai, phai phẹ pền xặt tù” hoặc: “Xạ nạ pền

nai, pạ na xay pền xặt tù” (“Được làm vua, thua làm kẻ thù”). Một số sự kiện

và nhân vật lịch sử cá biệt hoặc sự biến đổi về chính trị và kinh tế có ảnh

hưởng lớn đến đời sống nông dân và nông thôn Việt Nam cũng được tục ngữ

ghi lại. Đó là hình ảnh một Lê Lai liều mình cứu chúa: “Hăm mốt Lê Lai,

hăm hai Lê Lợi”.

Theo Vũ Ngọc Phan, “không phải chỉ một số cá nhân trong giai cấp

phong kiến làm những điều bất lương, mà làm những điều bất lương là hành

động có hệ thống và thường xuyên của giai cấp bóc lột, do bản chất xấu xa

của giai cấp bóc lột” [136, tr.18]. Có thể nói, trong tục ngữ, tư tưởng chống

phong kiến là tư tưởng mạnh hơn cả.

2.1.4.2. Khẳng định những phẩm chất tốt đẹp, lối sống trọng tình

Nhiều câu tục ngữ còn ngợi ca những nét đẹp văn hoá truyền thống của

người Việt và người Lào. Nhiều truyền thống, đạo đức tốt đẹp đã được hình

thành trong cuộc sống và trong lao động.

Tục ngữ Việt đã khắc hoạ khá đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của văn

hoá ẩm thực người Việt. Người Việt sống có nghĩa, có tình. Họ luôn coi

trọng lời mời: “Ăn có mời, làm có khiến” và cũng đánh giá cao lời chào: “Lời

71

chào cao hơn mâm cỗ”. Trong khi ăn, người ta nâng cốc, cụng ly chúc nhau

những điều tốt lành, may mắn và nói những lời vui vẻ, dễ nghe: “Ăn vì tình

vì nghĩa không vì đĩa xôi đầy”. Khi có con cá rô, con tép, con tôm, người ta

mang phơi khô để dành chờ người đi xa về hoặc khi cả nhà cùng có mặt mới

ăn. Cái ngon không phải vì chất mà trên hết là vì tình. Người ta kiêng làm

buồn lòng nhau trước khi ăn: “Trời đánh còn tránh lúc ăn”. Sau một tuần

làm việc, mọi thành viên trong gia đình của người Việt lại trở về đoàn tụ tại

nhà vào những ngày thứ bảy hoặc chủ nhật; hoặc khi được lên chức, lên

lương, đi học hay khi tiễn biệt nhau… họ mua thêm món ăn, chế biến cầu kỳ,

gọi là ăn tươi, ăn cải thiện hoặc liên hoan. Nơi ăn thoáng đãng, sạch sẽ, đồ ăn

khô ráo, lành lặn cũng góp phần tạo nên sự ngon miệng: “Nhà sạch thì mát,

bát sạch ngon cơm”. Trong ăn uống, đôi khi không câu nệ ở bát đũa mà xuề

xoà, bình dân. Tục ngữ nói về vẻ đẹp của ăn uống mà như nói với ta về tình

đời, về lẽ sống và phép đối nhân xử thế của người Việt.

Ngoài ra, rất nhiều phẩm chất tốt đẹp khác được hình thành trong nhân

dân cũng được tục ngữ Việt ghi lại. Đó là đức cần kiệm, lo xa: “Buôn tàu,

bán bè không bằng ăn dè hà tiện”, “Của đầy kho không lo cũng hết”; là sự

cẩn trọng “Ăn có nhai, nói có nghĩ” và ý tứ: “Ăn trông nồi, ngồi trông

hướng”; là sự quý trọng con người: “Người ta là hoa đất”, “Người sống của

còn, người chết của hết”; là tình tương thân tương ái: “Lá lành đùm lá rách”,

“Thương người như thể thương thân”; là đức tính trọng danh dự: “Chết vinh

hơn sống nhục”, “Đói cho sạch, rách cho thơm”; là sự kiên trì: “Chớ thấy

sóng cả mà ngã tay chèo”, “Có công mài sắt có ngày nên kim”; là tính thiết

thực: “Ăn lấy chắc, mặc lấy bền”; là sự căn cơ: “Liệu cơm gắp mắm”; là coi

trọng lao động và tay nghề: “Ruộng bề bề không bằng có nghề trong tay”,

“Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”; là thái độ nhịn nhường: “Ăn bớt bát,

nói bớt lời”; là đạo lý sống: “Sống về mồ về mả, không ai sống về cả bát

72

cơm”... Đây cũng là biểu hiện của lối sống trọng tình của người Việt Nam.

Trên thực tế, không chỉ những giá trị tinh thần mới được đề cao mà cả những

giá trị vật chất như tiền bạc, cơm gạo cũng được coi trọng: “Có tiền mua tiên

cũng được”, “Cơm là gạo, áo là tiền”... Người Việt Nam đã tự tạo ra những

giá trị văn hoá của riêng dân tộc mình, song không vì thế lại không tiếp thu

những ảnh hưởng tốt đẹp từ những nền văn hoá khác, nhất là nền văn hoá

của các nước láng giềng. Cả những lời nói, hành vi tưởng như chỉ mang tính

hình thức nhưng lại phản ánh bản chất: “Nhờ nhời nói nên vợ nên chồng”,

“Người thì xông khói, lời nói xông hương”. Tuy còn nhiều vất vả, gian nan

nhưng người Việt Nam vẫn đặt cái tình, cái nghĩa lên trên của cải, vật chất.

Thế nhưng khi đời sống vật chất trong xã hội phong kiến đang trong tình

trạng thấp kém thì những yếu tố tinh thần kia sẽ trở nên xa vời trước nạn áo

cơm. Đặc biệt, tục ngữ còn chú ý đến mối quan hệ giữa ăn uống như là một

nhu cầu không thế thiếu: “Có thực mới vực được đạo” với những giá trị tinh

thần khác của đời sống xã hội.

Người dân Lào vốn sống hiền lành, nhân hậu. Họ luôn dạy con cháu

phải nhớ ơn công lao sinh thành dưỡng dục của ông bà, cha mẹ và biết ơn

những người đã giúp đỡ mình. Bởi vậy, tục ngữ Lào đã nhắc nhở: “Ăn đừng

quên đũa, ở đừng quên ơn”; khuyến khích sự thật thà: “Nghĩ sao nói vậy, nói

rồi đừng đổi thay”; đề cao sự thẳng thắn: “Ngay thẳng thắng gian dối”; coi

trọng sự ham hiểu biết: “Bạc đầy mâm không bằng trí khôn đầy bụng”, “Túm

mắm cũng có thầy, nướng cua cũng có kiểu”; ý thức được sức mạnh đoàn kết

cộng đồng: “Một cây rào giậu không kín”, “Chèo không đều thuyền kia

không chuyển”, “Một thanh củi nhóm bếp không cháy”; khuyên con người

hãy sống thật lòng: “Thiên đàng ở trong ngực, địa ngục ở trong tim”, hãy

tỉnh táo ứng xử trước những điều thường gặp: “Muốn rối ren thời lấy vợ bé”,

“Thức ăn để lâu hay thối, chuyện cũ chẳng nói hay quên” và giúp đỡ lẫn

73

nhau: “Nặng giúp nhau gánh, dai giúp nhau kéo”. Tục ngữ Lào chua chát

than thở: “Bạn ăn tìm dễ, bạn cùng sống chết tìm khó”; ghét thói quanh co:

“Chín lần, mười lần quanh co không bằng một lần ngay thẳng”. Tục ngữ

Lào còn chỉ ra sự khác biệt giữa biểu hiện bề ngoài với thực chất bên trong,

giữa lời nói và việc làm: “Lời nói ngọt lừ, lòng dạ chua như quả chanh”,

“Đẹp bề ngoài mà hôn chẳng thơm”. Người Lào coi trọng nội dung nhưng

cũng không coi nhẹ hình thức: “Gà đẹp vì lông, người đẹp vì điểm trang”. Ta

có thể tìm thấy trong tục ngữ Lào một kho báu về những nét đẹp văn hóa và

những kinh nghiệm đời sống. Qua thực tiễn và sự trải nghiệm, người Lào đã

đúc kết được kho kinh nghiệm vô cùng phong phú của nhân dân: “Đoàn kết

là nguồn gốc của hạnh phúc, chia rẽ là nguồn gốc của cái chết” (về đoàn

kết); “Nắm phân tốt hơn nắm rắm” (về tính thiết thực). Những lời khuyên

mà tục ngữ Lào đưa ra thường là những bài học mang tính giáo huấn sâu sắc:

“Mất đừng vội khóc, được chớ vội cười”. Những phẩm chất tốt đẹp đó của

người Lào đã được lưu giữ qua nhiều thế hệ.

Tóm lại, cả tục ngữ Việt lẫn tục ngữ Lào đều không chỉ phản ánh lối

sống của nhân dân mà còn góp phần xây dựng và định hướng lối sống cho

thời đại.

2.1.4.3. Chế giễu những thói hư, tật xấu

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của người Việt Nam và người

Lào, những phẩm chất cao đẹp nhất đã từng được phát lộ, trở thành truyền

thống, thành vốn liếng quý báu của cả hai dân tộc. Đó là tinh thần độc lập tự

cường, lòng yêu nước thiết tha, tính thông minh, cần cù, lòng nhân ái,

thương người như thể thương thân. Trải qua bao biến thiên của lịch sử,

những phẩm chất này vẫn được phát huy, gìn giữ. Tuy vậy, trong cuộc sống

hàng ngày, không thể không có những điều “chướng tai gai mắt” đang diễn

ra xung quanh. Đó cũng là những mảng tối chiếm một tỷ lệ nhất định trong

74

văn học nghệ thuật nói chung, trong tục ngữ Việt và tục ngữ Lào nói riêng.

Trong giao tiếp hàng ngày, người Việt Nam như được lớn lên trên cái

nền văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình. Tục ngữ Việt đã phản

ánh cuộc sống của nhân dân với tính đa dạng, nhiều chiều của nó. Những câu

tục ngữ Việt phản ánh mặt tích cực, mặt bản chất tốt đẹp của nhân dân Việt

Nam chiếm một số lượng khá lớn. Nhiều nét đẹp truyền thống của nhân dân

đã được hun đúc và giữ gìn qua nhiều thế hệ và trở thành di sản văn hoá từ

ngàn đời nay. Tuy vậy, không phải con người lúc nào cũng hoàn hảo, cuộc

sống lúc nào cũng toàn bích và nhất thành bất biến: “Nhân vô thập toàn”. Xã

hội nào mà chẳng có người tốt, kẻ xấu: “Nước có khi trong khi đục, người có

kẻ tục kẻ thanh”.

Tục ngữ đã song hành cùng truyện cười, ca dao, vẽ lên bức tranh với

nhiều gam màu tối, rung lên những nốt nhạc buồn của hiện thực cuộc sống:

“Ăn mày đòi xôi gấc”, “Ghen vợ, ghen chồng không nồng bằng ghen ăn”,

“Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”, “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà

trong nham hiểm giết người không dao”...

Tục ngữ Việt không chỉ phản ánh những nét đẹp truyền thống của con

người mà quan trọng hơn, còn dành một vị trí đáng kể để nhắc nhở những gì

chưa tốt trong một bộ phận cư dân. Cái xấu trong xã hội luôn rình rập, muốn

kéo con người ra khỏi ngôi đền của cái thiện. Cái xấu xuất hiện trong mọi

khía cạnh của đời sống, trên những phạm vi và mức độ khác nhau. Người

dân đau xót trước thói dửng dưng, thờ ơ, ích kỷ: “Cháy nhà hàng xóm bình

chân như vại”; buồn phiền trước thái độ cực đoan, yêu - ghét theo cảm tính,

còn nhiều định kiến: “Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông ty họ

hàng”. Tục ngữ cười chê bọn phàm ăn tục uống, coi miếng ăn làm trọng: “Ăn

vi thủ, ngủ vi tiên”, “Ăn không biết trở đầu đũa”; nhắc nhở kẻ uống rượu,

uống bia say đến mất tự chủ: “Rượu vào lời ra”. Số đó tuy không nhiều,

75

không phổ biến nhưng vẫn là điều nhức nhối bấy nay vì nó dễ là khởi nguồn

của tội ác. Vậy nên “rượu bất khả ép” chứ không phải “ép bất khả từ” để

tránh cảnh “rượu chè cờ bạc”. Người ta gọi những kẻ nghiện rượu là “bợm

nhậu”, là “nát rượu” hay “sâu rượu”. Người say bia, say rượu dễ gây cho xã

hội và người khác những hậu quả khôn lường.

Những thói hư, tật xấu của con người lộ diện ở mọi lứa tuổi, mọi thời

điểm với nhiều cung bậc. Tục ngữ chỉ tên những thói hư của từng loại người,

từ đám thư sinh “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm” đến lũ thầy bói, thầy toán

“sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi”. Ngoài ra, những loại người ham danh,

hám lợi: “Có tiếng hơn có miếng”; những kẻ lợi dụng: “Ăn bớt ăn xén, xé

mắm còn hòng mút tay” cũng bị tục ngữ điểm danh.

Như vậy, tục ngữ đã điểm mặt, chỉ tên từng thói xấu, đồng thời cũng

liệt kê khá chi tiết những hành vi, tính cách thiếu văn hoá của con người. Khi

bị nhiễm những thói hư, tật xấu ấy, con người sẽ quẩn quanh với những toan

tính cá nhân hẹp hòi. Có thói xấu lúc đầu chỉ là những hiện tượng cá biệt, lẻ

tẻ nhưng có lúc thành nguy cơ, thành phổ biến, thành những căn bệnh trầm

kha.

Tục ngữ Việt nói về những cái dở, cái nhược điểm của con người, của

xã hội nhằm “cảnh tỉnh” con người, xây dựng một đời sống văn hoá đẹp đẽ

trong mỗi con người, trong xã hội và hướng con người tới những điều chân,

thiện, mĩ. Tục ngữ nói về cái chưa tốt nghiêm khắc mà không đao to búa lớn.

Tục ngữ giúp con người nhận ra cái đúng và cái sai, lẽ hay và điều dở, cái tốt

và cái xấu... để tự hoàn thiện mình. Cái tốt phải được nhân lên, cái không

đẹp phải bị loại bỏ.

Ở Lào, cũng có một bộ phận tục ngữ cùng mang nội dung phê phán

những hiện tượng tiêu cực trong nhân dân trên tất cả các khía cạnh của đời

sống nhưng sự gay gắt đã giảm hơn nhiều so với tục ngữ Việt. Tục ngữ Lào

76

nhắc nhở mọi người không nên đưa chuyện: “Ăn cơm mình đừng nói chuyện

người”; khuyên người ta đừng nên nói những điều không có: “Điều không có

đừng nên nói”; răn con người không được a dua: “Thấy voi ị chớ ị theo”,

“Thấy voi to cũng muốn to bằng voi”. Tục ngữ cảnh tỉnh mọi người không

nên nhẹ dạ, cố chấp: “Tin lòng người, khổ lòng mình” và dặn dò: “Không

khéo nói mất đạo lý, không khéo leo bị ngã cây, không khéo khóc người ta

cười cho đấy”. Cuộc sống luôn biến đổi, có thành, có bại, có được, có mất:

“Mất đừng vội khóc, được chớ vội cười”.

Nhân dân Lào sống hiền lành như cây cỏ quê hương, nhưng lại rất “dị

ứng” trước những thói hư tật xấu. Khi đưa ra những lời khuyên, tục ngữ Lào

thường sử dụng các từ có ý nghĩa phủ định: đừng, không nên, chớ, không...để

tăng thêm sự nhẹ nhàng, tế nhị, giúp người nghe dễ tiếp thu, sửa chữa. Nhiều

câu tục ngữ Lào đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh trước những cái xấu.

Tác giả dân gian đã mỉa mai, chế giễu những hành vi ứng xử tiêu cực. Những

câu tục ngữ kiểu này được gọi là “thụ pha xít”. Tục ngữ Lào phê phán lũ

hoạn quan nịnh thần: “Quan hoạn qủa khị ca”. Quả “khị ca” (quả cứt quạ) là

loại quả to bằng quả trứng ngỗng, màu đỏ, có vị đắng, không thể ăn được.

Khi vua khen quả “khị ca” ngọt thì bọn nịnh thần cũng hùa theo nói ngọt.

Nhân dân còn chế giễu loại người chỉ đẹp mã bề ngoài nhưng bên trong thì

xấu: “Bên ngoài nhẵn như quả trứng gà, bên trong như quả cà vị ngái”; nhắc

nhở những người nóng vội: “Châu chấu chưa đủ sức búng cũng búng, chim

rủ rỉ chưa đủ sức bay cũng bay”; chê bai những người ngộ nhận: “Đất sét

dính đầu gà nhỏ, đừng ngộ nhận gọi là mào”; cảnh tỉnh những kẻ mau quên

ơn: “Được mới quên cũ, được rùa quên chó, được cá quên chài, được vải

quên khăn, được sau quên trước”; giễu cợt những cô gái không chồng mà

chửa: “Chín trước ương”; mỉa mai kẻ hão huyền: “Vịt muốn có mào đậu

chung với gà, gà lại muốn có răng nhai rơm như trâu”; lên án thói ích kỷ:

77

“Mình qua lọt là tốt rồi”; tấn công thói giả dối: “Lời nói ngọt lừ lòng dạ

chua như chanh”; vạch mặt bọn bóc lột: “Cá lớn nuốt cá bé”; chỉ ra nguồn

gốc của căn bệnh lười nhác: “Vàng vọt là tại người lười, sinh ra bệnh tật tại

người ngồi không”... Câu “Lá sen che cứt voi” nhằm phê phán một việc làm

không đúng chỗ. Người Lào hay dùng lá sen để gói xôi hoặc gói hoa thờ

Phật, tổ tiên, ông bà. Đem những thứ dùng trong chốn linh thiêng để làm một

việc bậy bạ là hành động cần phê phán.

Tục ngữ Việt đã lý giải nguyên nhân xuất hiện những thói hư, tật xấu

nói trên là do nghèo đói mà ra: “Đói sanh kẻ dữ”, “Cơ hàn khởi đạo tâm”,

“Đói ăn vụng, túng làm liều”, “Bần cùng sinh đạo tặc”. Cũng có người cho

rằng “nhàn cư vi bất thiện”, khi nhàn rỗi, con người dễ sinh hư đốn. Đôi khi

cũng có thể do tính hẹp hòi, tâm lý thua kém dẫn dắt mà ra. Khi giải thích

mối quan hệ không mấy tốt đẹp giữa mẹ chồng và nàng dâu và các mối quan

hệ gia đình không cùng huyết thống khác qua những câu tục ngữ Việt và tục

ngữ Lào, có người cho rằng do “khác máu tanh lòng” hoặc do định kiến khắt

khe của người đời. Quả thật, mẹ chồng và nàng dâu vốn thường hay mâu

thuẫn, đôi khi chỉ là những chuyện nhỏ nhặt, không đâu. Ngay cả những

người mẹ chồng tốt cũng vấp phải những nếp suy nghĩ ăn sâu đã trở thành

định kiến nói trên. Người con dâu thường sống trong sự xét nét, ác cảm của

mẹ chồng. Cả hai, người mẹ và người con dâu đều cảm thấy người con trai

(hay người chồng) đã không dành trọn tình cảm cho mình nữa. Khi con trai

lấy vợ, người mẹ đã thấy người con trai dành nhiều tình cảm yêu thương vợ

(tức con dâu của bà) nên bà cảm thấy đứa con mà bà yêu thương xưa kia, do

bà “độc chiếm” nay chuyển sang yêu thương người khác là vợ anh ta. Ngược

lại, người vợ đang được chồng chiều chuộng yêu quý nay thấy chồng quý

trọng, gần gũi mẹ đẻ của mình (tức mẹ chồng của cô) mà sinh ra oán trách

chồng không dành trọn tình yêu thương cho vợ. Chúng tôi cho rằng, nguyên

78

nhân cơ bản cũng chỉ là vì bản tính ghen tỵ mà ra. Chính điều ghen tỵ đó làm

cho người con trai (người chồng) trở nên khó xử trong quan hệ giữa một bên

là mẹ và một bên là vợ: “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”. Những

người con, người chồng tốt luôn dành trọn vẹn niềm kính yêu cho cha mẹ và

sự yêu thương cho vợ con. Họ không bao giờ tự đặt câu hỏi “mẹ hay vợ?”

bởi vì cả mẹ lẫn vợ đều có vị trí riêng trong trái tim họ. Ngày nay “dân trí”

đã được nâng cao, cả người Việt và người Lào đều có cách nhìn nhân ái hơn

nên đã góp phần làm thay đổi định kiến khắt khe của người đời về các mối

quan hệ mẹ chồng - nàng dâu, chị dâu - em chồng... Do vậy, những xung đột

gay gắt trong các quan hệ đó không còn mang tính phổ biến nữa.

Hai dân tộc Việt - Lào đã trải qua quá nhiều cơ hàn, đau khổ. Những

năm mất mùa, giáp hạt từng để lại “dấu ấn” khó phai trong lịch sử. Đói quá

thì không thể “sạch”, rách quá cũng khó có thể “thơm” được. Nhưng xét đến

tận cùng căn nguyên, đó không hẳn chỉ là sản phẩm của một thời đói kém,

của không công ăn việc làm mà còn là hậu quả của nền sản xuất tiểu nông

cũng như ý thức bên trong của mỗi con người. Nhưng nguyên nhân chủ yếu

của những tiêu cực nêu trên trước hết vẫn là do hậu quả của nền sản xuất

nhỏ, manh mún, do tập quán lạc hậu và cả những định kiến của thói đố kỵ cổ

hủ. Trong khi nói đến những biểu hiện tiêu cực, tục ngữ Việt và tục ngữ Lào

không “vơ đũa cả nắm” mà hướng con người tới những điều tốt đẹp và

khẳng định lối sống tích cực, lối sống trọng tình, một biểu hiện bản sắc văn

hoá của mỗi dân tộc; không phải tục ngữ miệt thị hoặc phỉ báng đồng bào

mình và càng không phải “vạch áo cho người xem lưng”.

2.1.5. Phản ánh văn hoá ẩm thực của nhân dân

Trong kho tàng văn học dân gian của người Việt và người Lào, tục ngữ

phản ánh mảng chủ đề về văn hoá ẩm thực chiếm vị trí quan trọng, bởi ăn

79

uống không chỉ là nhu cầu thiết yếu hàng ngày của con người: “Mẻ không ăn

cũng chết” mà còn là một biểu hiện của lối sống, của nhiều nét văn hoá trong

mỗi thời đại, mỗi con người, mỗi cộng đồng, quốc gia, dân tộc.

Tục ngữ Việt đã dành khá nhiều câu ghi lại một cách cụ thể tính đa

dạng về thành phần, cơ cấu món ăn trong thực đơn bữa cơm hàng ngày của

người Việt. Người Việt ăn ngày ba bữa: “Giàu cơm ba bữa, khó cũng đỏ lửa

ba lần”. Người ta gọi bữa ăn là bữa cơm hoặc ăn cơm vì cơm vẫn là thành

phần chủ yếu trong bữa ăn: “Cơm tẻ là mẹ ruột”. Vì lương thực, trước hết là

gạo tẻ luôn được coi là mặt hàng chiến lược nên người nông dân còn ăn độn

ngay cả những lúc được mùa: “Được mùa chớ phụ ngô khoai, đến khi thất

bát lấy ai bạn cùng”. Dù giàu hay nghèo, thực đơn của bữa ăn người Việt

không thể thiếu được món ăn mặn: “Mắm mặn chết giòi” và bát nước chấm:

“Cơm chắm mắm chườm”. Từ những món nhà nghèo như món cà ghém:

“Thịt cá là hương hoa, tương cà là gia bản” đến những món bình dân nhưng

cần thiết như món tương ở Bần: “Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần”;

món nhút ở Thanh Chương: “Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn”; món

dưa cải muối vừa chín tới: “Dưa chua chấm mắm, dưa đắng chấm tương”;

món mắm tép kho tương: “Đẹp như tép kho tương”; món canh, nhất trong

những ngày nắng nóng: “Ăn cơm có canh, tu hành có vãi”... luôn có mặt

trong bữa cơm của mọi gia đình. Cá đôi khi được sử dụng vì cá giầu chất

đạm và dinh dưỡng nên người ta ăn được nhiều cơm: “Có cá đổ vạ cho

cơm”; thịt cũng được dùng để chế biến thành nhiều món ngon: “Thịt mỡ ăn

cặp với cà, lá mơ tam thể ăn với thịt gà chấm tương”. Người Việt Nam rất

nghiện rau: “Giàu nghèo cũng phải ăn rau, ốm đau cũng phải uống thuốc”.

Người Việt gọi bữa cơm (dù là thịnh soạn) một cách khiêm tốn là “cơm rau”

hay “cơm dưa muối”. Thiếu rau bữa cơm cũng trở nên vô vị, nhạt nhẽo: “Ăn

cơm không rau như nhà giàu chết không kèn trống”. Ngoài ra, còn có các

80

món bún bò nổi tiếng khắp kinh thành Huế: “Bún bò giò heo”; món bánh dày

hoặc bánh cuốn được làm từ gạo: “Bánh dầy nếp cái con gái họ Ngô”, “Bánh

cuốn Thanh Trì, bánh dì Quán Gánh”. Các tác giả Vũ Bằng, Thạch Lam, Vũ

Ngọc Phan... đã có nhiều trang viết rất hay về văn hoá ẩm thực của người

Việt xưa.

Nhìn lại ngần ấy món dân dã trong thực đơn của người Việt bình dân

cũng đủ thấy tính đa dạng, phong phú và hấp dẫn của cơ cấu bữa cơm gia

đình Việt Nam. Như vậy, “quanh miếng ăn” cũng có bao điều muốn nói, vì

đó không chỉ là sự đa dạng của cơ cấu bữa ăn mà còn ở sự da dạng các lối

ăn. Tục ngữ Việt Nam không chỉ nói đến người Việt Nam ăn gì mà còn phản

ánh người Việt Nam ăn như thế nào.

Biết cách ăn uống không chỉ là nét đẹp văn hoá trong sinh hoạt hàng

ngày của người Việt Nam mà còn là một nghệ thuật lâu đời được đúc kết,

giữ gìn và phát triển thành văn hoá dân tộc. Người Việt không chỉ giỏi trong

pha chế đồ ăn, đồ uống mà còn sành điệu trong việc thưởng thức nữa.

Với đa dạng vùng lãnh thổ và khí hậu, việc ăn uống của người Việt

Nam, mùa nào thức nấy: “Mùa hè cá sông, mùa đông cá biển”. Mùa hè,

người ta thường dùng những thứ mát, lạnh, mùa đông thường dùng đồ nóng

sốt hoặc rượu có nồng độ cao. Yêu cầu đó không chỉ được thể hiện qua sự đa

dạng của đồ uống, của thành phần bữa uống mà còn được biểu hiện qua khẩu

vị, sở thích và thói quen.

Rượu đã đi vào cuộc sống người Việt hàng ngàn năm, cách thưởng

thức rượu của mỗi giai tầng xã hội cũng không giống nhau. Có hàng trăm

loại rượu, mỗi loại rượu lại được dành cho từng đối tượng riêng. “Tửu

lượng” của người Việt không nhiều nhưng rượu lại gần gũi với đời sống ẩm

thực của họ. Một số tên tuổi lớn trong làng văn nghệ như: Tản Đà (1889 -

1939), Nguyễn Tuân (1910 - 1987), Trần Huyền Trân (1913 - 1989), Nguyễn

81

Sáng (1923 -1988), Nguyên Hồng (1918 - 1982), Lưu Trọng Lư (1912 -

1991), Văn Cao (1923 - 1995) đã “bầu rượu túi thơ” đi tìm cảm hứng nghệ

thuật và vì có rượu mà có thêm nhiều sáng tác nổi tiếng.

Uống rượu phải có bạn tâm giao hoặc phải cụng ly để thể hiện cái tình

với nhau: “Rượu ngon không có bạn hiền, không mua không phải không tiền

không mua”. Trước đây người đàn ông lý tưởng, ngoài cầm, kỳ, thi, hoạ thì

phải biết uống rượu: “Trai vô tửu như kỳ vô phong”. Người Việt gọi những

bữa rượu vui sum họp là “chén rượu suông” hay “chén rượu nhạt”. Rượu chủ

yếu dùng để giải quyết tâm trạng. Rượu còn được dùng trong các đám cưới,

đám hỏi, trong giỗ, tết, liên hoan và làm quà biếu.

Cà phê trước đây không quen thuộc với đời sống người bình dân. Tục

ngữ hầu như chưa có câu nào nói về văn hoá cà phê nhưng lại có nhiều câu

nói về văn hoá chè: “Uống nước chè tàu, ăn trầu cơi thiếc”. Các các sản

phẩm từ chè đang chiếm lĩnh đời sống ẩm thực Việt Nam. Chè cũng không

thể thiếu được trong lễ cưới hỏi, được dùng để tiếp khách hoặc làm quà

biếu…Người Việt Nam mời nhau uống trà không phải đơn thuần là để giải

khát, mà là “để biểu hiện một phong độ văn hoá thanh cao, một sự kết giao

tri kỷ, một tấm lòng ước mong hoà hợp, một sự tâm đắc của những người

cùng đối thoại” [162, tr.358]. Người Nghệ An có tục mời nhau uống chè tươi

(chè xanh) vì họ coi trọng tình làng nghĩa xóm. Các câu “Nước khe chè núi”

nói về nước dùng pha trà; “Rượu trên be, chè đáy ấm” nói về cách uống trà;

“Chè Quán Tiên, tiền Thanh Nghệ”, “Chè Yên Thái, gái Tiên Lữ” nói về

những địa chỉ chè nổi tiếng. Có nhiều câu tục ngữ nói về cách thưởng thức

chè ngon: “Trà chuyên nước nhất, hương dồn khói đôi”, “Chè ngon khan cổ,

thuốc ngon lắm đờm”… Uống trà đã tạo ra một sự thư giãn, bởi “Người Việt

Nam không chỉ uống chè bằng miệng, mà uống bằng đủ năm giác quan...;

không chỉ uống bằng năm giác quan mà còn uống bằng cả tâm hồn” [162,

82

tr.358]. Người ta ăn uống cốt để thưởng thức cái ngon của món ăn chứ không

tham nhiều. Người Việt tránh tai tiếng vì miếng ăn, bởi “miếng ăn quá khẩu

thành tàn”.

Như vậy, tính đa dạng của “văn hoá ăn” và “văn hoá uống” không chỉ

ở đa dạng thành phần các món ăn, đồ uống mà còn là sự đa dạng trong lối ăn,

cách uống. Đặc trưng này do sự đa dạng về vùng lãnh thổ và phong cách

quyết định.

Mỗi người, mỗi địa phương, mỗi dân tộc đều có phong cách ẩm thực

khác nhau, tạo nên bản sắc văn hoá ẩm thực riêng. Tính tổng hợp cũng là

một trong ba đặc trưng cơ bản của văn hoá ẩm thực Việt Nam.

Cách ăn tổng hợp của người Việt Nam tác động vào đủ các giác quan.

Một mâm cơm dọn ra bao giờ cũng gồm nhiều món. Bất kỳ bát cơm nào,

miếng cơm nào của người ăn cũng là một quá trình tổng hợp các món ăn

(khác với cách ăn lần lượt đưa ra từng món của người phương Tây). Nhiều

món là sự tổng hợp của nhiều thứ trộn lẫn, không chỉ là sự tổng hợp của

nhiều chất liệu mà còn được pha trộn và mang đủ mùi - vị - sắc màu... Chúng

tổng hợp lại với nhau, bổ sung lẫn nhau tạo cho món ăn có đầy đủ thành

phần. Trong đó, hương và vị là hai yếu tố cực kỳ quan trọng tạo nên sự hấp

dẫn của món ăn. Tục ngữ Việt còn nói về các thức ăn có tác dụng loại trừ

nhau, cái này làm mất, làm giảm hoặc làm tăng thêm tác dụng của cái kia:

“Đậu nành, đu đủ, của chua, có tính rã thuốc chớ cho uống cùng”. Khi ăn

chay hay khi phải ăn kiêng thì người Việt cũng biết nên hoặc không nên ăn

những thứ gì để cân bằng âm dương trong cơ thể: “Thịt gà, cá chép, ba ba,

trong bấy nhiêu thứ liệu mà phải kiêng”... Các món ăn được chế biến tổng

hợp nhằm “cộng hưởng” mùi - vị làm thích hợp với khẩu vị hoặc làm giảm

đi mùi tanh, vị chát của món ăn. Mắm phải thả vỏ quýt: “Thả vỏ quýt ăn

mắm ngấu”; thịt lợn thì phải kèm hành: “Thịt không hành như canh không

83

mắm”. Món thịt trâu thì phải có tỏi mới ngon: “Thịt trâu không tỏi như ăn

gỏi không rau mơ”. Món mộc tồn là món ăn ngon: “Sống trên đời ăn miếng

dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không”, song không có riềng, mẻ,

mắm tôm để nấu và mắm tôm vắt chanh sủi bọt để chấm thì cũng vô vị. Thịt

gà luộc phải có lá chanh thái nhỏ, vì thế mới có câu “Con gà cục tác lá

chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi, con chó khóc đứng khóc ngồi, bà ơi

đi chợ mua tôi đồng riềng”. Tấm bánh chưng ngày tết là một sản vật cổ

truyền không thể thiếu được trong mỗi gia đình Việt Nam: “Thịt mỡ dưa

hành câu đối đỏ, cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh”. Như vậy, tính tổng

hợp của tấm bánh chưng không chỉ được thể hiện qua sự hỗn hợp về chất

liệu (gạo, thịt, đậu...), tạo ra sự tổng hợp về các chất (đạm, béo, đường...) mà

còn là sự tổng hợp của các mùi, vị và màu sắc. Một thế giới quan sơ khai

(trời tròn đất vuông) đã sản sinh ra tấm bánh chưng vuông vắn, đồng dạng

với hình chữ “điền”, bởi đất, ruộng là nơi con người sinh sống.

Tính cộng đồng cũng là một đặc trưng nổi bật của văn hoá ẩm thực

Việt Nam. Cách ngồi ăn theo mâm hoặc theo bàn cũng phản ánh tính cộng

đồng trong ẩm thực của người Việt. Người Việt không thích ăn một mình:

“Ăn một mình đau tức, làm một mình cực thân”. Tính cộng đồng trong ăn

uống còn được thể hiện ở niềm vui sum họp. Thú uống rượu cần của đồng

bào miền núi hay của các dân tộc vùng Tây Nguyên là một bản hợp ca của

tính cộng đồng. Mỗi người một cần ngồi xung quanh choé rượu, vít cần

xuống mà uống hoặc chuyền tay nhau cùng uống chung một cần. Các món

khác thì có người ăn, người không, còn cơm và nước chấm thì ai cũng phải

dùng đến: “Thịt cá là hương hoa, tương cà là gia bản”, “Cơm tẻ là mẹ

ruột”,...Tuy nhiên, quan niệm của các dân tộc về việc này lại không giống

nhau. Riêng với người Việt thì từ cơ cấu bữa ăn đến lối ăn đều bộc lộ rất rõ

84

dấu ấn của truyền thống văn hoá nông nghiệp lúa nước.

Như vậy, một bộ phận tục ngữ Việt đã phản ánh rất rõ ba đặc trưng của

văn hoá ẩm thực người Việt. Đó là đặc trưng đa dạng (đa dạng thành phần,

cơ cấu món ăn, đa dạng phong cách), đặc trưng tổng hợp và cộng đồng.

Tục ngữ Lào cũng đề cập đến văn hoá ẩm thực của người Lào nhưng

đơn giản hơn người Việt. Theo Lăm Phon xay xa na [137], văn hoá ẩm thực

của đa số người lao động Lào bắt nguồn từ những món ăn truyền thống dân

dã của họ. Cheo, pà đẹc, lạp… là những món cơ bản, rẻ tiền và dân dã được

người Lào ưa chuộng và hay dùng hàng ngày. Món lạp, gỏi, ma phia là

những món đặc sản của người dân Lào. Tuy nhiên, cuộc sống thiếu thốn đến

lạp, cheo và pà đẹc cũng không đủ để ăn và cũng trở thành mơ ước đối với

nhiều nông dân Lào: “Đạy chặm chèo nhoọng và chèo nua, đạy kin lạp ngua

nhoọng và lạp ngua xẹp” (“Được chấm cheo khen rằng cheo béo, được ăn

lạp bò khen rằng lạp bò ngon”). Người Lào còn có thói quen ăn uống sạch

sẽ, vệ sinh: “Thịt không thành miếng nước khô đừng để vào mâm, thức ăn

không đáng cắn đừng ăn, sẽ lâm râm sôi bụng”. Người dân Lào có thói quen

ăn cay, ăn nóng: “Lúc nóng ăn ngay, lúc say hãy múa”. Ớt là một trong

những thứ không thể thiếu trong bữa ăn của người Lào. Ớt được dùng cho

mọi đối tượng, không kể trẻ hay già, trai hay gái. Ở các vùng nông thôn Lào,

người nông dân còn thường ăn gỏi cá, thịt bò và “khậu niểu” (cơm nếp).

Ngoài ra, người Lào còn có thói quen ăn nếp. Họ thường thổi xôi để ăn hàng

ngày. Mỗi người sẽ có một “típ khậu” (cái hộp nhỏ đan bằng nan tre) để

đựng xôi coi như một xuất ăn. Một gia đình thường có thêm vài típ xôi to

chung phòng khi típ của người nào thiếu thì cho thêm. Típ xôi nhỏ đủ cho

mỗi người. Khi có khách, người ta sẽ dùng một “típ khậu” riêng cho khách.

Khách nam ăn cùng với ông chủ, khách nữ ăn với bà chủ (một số gia đình

nông thôn Việt Nam hiện giữ tục lệ này). Người Lào ăn nhẹ nhàng và từ tốn,

85

tay nắm xôi vắt chặt, gọn gàng đủ lượng để nhai chứ không ăn “phồng mang

trợn mắt” hoặc nhồm nhoàm. Người Lào thường chấm xôi với những thứ

khác. Vì bữa cơm chủ yếu là ăn xôi, do đó phần lớn người Lào có thói quen

ăn bốc. Đừng tưởng ăn bốc là thiếu vệ sinh và không lịch sự mà điều quan

trọng là để giải quyết mối quan hệ giữa cộng đồng và cá nhân: típ xôi chung,

bát cheo chung, làm thế nào để không ảnh hưởng đến người khác?. Vì vậy,

người Lào trước khi ăn phải rửa tay. Khi bốc xôi, họ vắt một vắt lớn, nhưng

khi ăn họ véo ra một miếng xôi đủ đưa vào miệng, họ chấm cheo rồi ăn luôn

chứ không cầm cả nắm xôi lớn chấm vào bát cheo rồi chấm đi chấm lại

nhiều lần. Thỉnh thoảng khi có nhiều món ăn hay khi có khách người ta mới

dùng đến đũa. Xong bữa, bao giờ trên mâm cơm hoặc trong típ xôi cũng thừa

một ít chứ không khi nào ăn hết để có nghĩa là bữa đó không thiếu cơm.

Ngoài ra, người Lào còn có thói quen ăn canh như người Việt, nhất là món

canh khoai phải được nấu nhừ: “Ăn canh khoai nước không nhừ còn thấy

miếng, gắp được miếng rồi lại là miếng ngứa”. Trước khi rời mâm cơm,

người Lào thường chắp tay vái biệt để cảm ơn và xin phép dừng bữa. Đây là

những nét văn hoá truyền thống riêng của người Lào được lưu truyền qua

nhiều thời đại và qua nhiều thế hệ. Ở Lào có nhiều loại rượu: rượu cần, rượu

thuốc, rượu nếp cẩm, rượu sa thô... nhưng người Lào chủ yếu dùng rượu

trắng. Rượu trắng được làm bằng gạo nếp. Hầu như tất cả đàn ông Lào đều

biết uống rượu và gia đình nào cũng có vài vò rượu cất giữ trong nhà, nhưng

người Lào lại kiêng uống rượu vào lúc sáng sớm, bởi: “Uống rượu sáng tinh

mơ như sờ đầu hổ”. Nhiều phụ nữ Lào cũng biết uống rượu nhưng uống

không nhiều. Rượu được dùng hàng ngày và dùng nhiều nhất khi bữa ăn có

thịt, lạp, gỏi, ma phia... Người ta dùng rượu trong dịp lễ hội, khi thờ cúng

hoặc làm quà biếu... Rượu Lào thường có nồng độ cao nên uống dễ say, bởi

khi say người ta dễ bốc đồng. Tục ngữ Lào cũng có một câu tương tự như

86

câu “Rượu vào lời ra” của người Việt để nói về vấn đề này: “Rượu vào

miệng khó khăn không có” (“Lậu khậu pạc khoam nhạc bò mì”). Khi không

có đồ nhắm người Lào thường uống rượu suông mà vẫn vui và uống được

nhiều miễn là những người cùng uống có cái tình thân thiết với nhau. Người

Lào thường rót rượu ra một chén, cốc hoặc bát rồi lần lượt chuyền nhau uống

cho đến hết vòng, hết lượt. Cứ người này uống một chén xong rồi lại rót tiếp

đến người khác. Mỗi lần uống thường là “bạt điêu” (100%) mà ít khi nhâm

nhi. Trong bữa ăn, bữa nhậu, chủ nhà thường rót rượu trước mặt khách và

uống trước khách rồi sau mới rót mời khách: “Chậu hườn pha khậu, chậu

lậu pha kin” (“Chủ nhà thì vào nhà trước, chủ rượu thì uống rượu trước”).

Tại sao chủ nhà lại rót rượu cho mình trước và lại uống trước khách? Phải

chăng là để chứng minh rằng mình hiếu khách và khách không nên lo nghĩ gì

về độc tố của rượu, bởi vì chủ nhà đã uống trước rồi. Đây là một cách thể

hiện tấm lòng với khách của người Lào.

Tóm lại, tuy cùng đề cập đến những kinh nghiệm và nét đẹp truyền

thống trong văn hoá ẩm thực của nhân dân nhưng tục ngữ hai nước lại khác

nhau về mức độ và đối tượng phản ánh. Tục ngữ Việt nói nhiều đến cá hơn

Lào vì người Việt có biển rộng, sông hồ, kênh rạch chằng chịt, lắm tôm,

nhiều cá. Thịt trâu, thịt bò không phải là món chính nhưng người Việt nói

đến trâu nhiều hơn người Lào vì người Việt coi “con trâu là đầu cơ nghiệp”

của người nông dân. Người Lào ít bàn đến văn hóa ẩm thực hơn người Việt

không phải người Lào không có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, nhất là

trong văn hoá ẩm thực mà vì người Lào không chú trọng ghi lại những kiến

thức và kinh nghiệm ấy bằng tục ngữ. Hơn nữa, thói quen ăn uống của người

Lào cũng có những điểm khác biệt so với người Việt. Người Lào ăn uống

“gọn nhẹ”, đơn giản hơn người Việt, vì người Lào ăn nếp là chính. Ăn nếp

đơn giản, có thể ăn khô mà không cần canh hoặc những món ăn đi kèm khác.

87

Cơm nếp ăn ít, trèo núi không nặng bụng mà lại no lâu, xôi dẻo để được lâu

và mang đi nương, đi ruộng dễ dàng. Trong khi đó, người Việt thường ăn

cơm tẻ kèm với canh và nhiều món ăn khác (dẫn theo Phạm Đức Dương,

[29, tr.343 - 349].

Các chỉ số thống kê về các hình ảnh được phản ánh trong tục ngữ ở

Phụ lục 1 (tr.213) cho thấy, số câu liên quan đến văn hoá ẩm thực là nhiều

nhất, trong đó ăn được nói nhiều hơn cả (Việt 8,97%, Lào 6,56%), sau đó là

cá (Việt 5,07%, Lào 2,27%), bò (Việt 2,32%, Lào 1,92%), trâu (Việt 2,25%,

Lào 1,75%). (Hình 3).

Hình 3: Hình ảnh liên quan đến văn hoá ẩm thực

8.97

6.56

5.07

Tục ngữ Việt

Tục ngữ Lào

2.25

2.27 2.32

1.92

1.75

9 8 7 6 5 4 3 2 1 0

1st Qtr

Ăn

Trâu

2.1.6. Tục ngữ Việt phản ánh thực tế người Việt chịu ảnh hưởng

Nho giáo

a) Trong nghìn năm Bắc thuộc và trong cả 10 thế kỷ quân chủ độc lập,

nền văn hoá Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ,

trung đại, trong đó hệ tư tưởng Nho giáo đã in dấu ấn tư tưởng trong một bộ

phận người Việt. Căn cứ vào ngày sinh, tháng đẻ, Trần Đoàn, một nhân vật

Đạo gia kiêm Nho gia, tự là Đồ Nam, hiệu là Hi Di, đời Tống sơ (thời Trung

Hoa cổ đại) đã tổng hợp các kiến giải về lý thái cực của vũ trụ, lấy tướng số

mà xét sự vận chuyển của trời đất, suy diễn ra hành động của vạn vật rồi áp

88

dụng các hệ quả của nó vào nhân tướng học đến giải đoán tâm tình, vận số

của con người, mở đầu cho Lý - Số và Tướng số học. Chính ông đã tìm ra

nguyên tắc viết nên lá số tử vi nhằm tìm hiểu số phận con người. Trước đó,

“Kinh dịch” của Khổng Tử, một tác phẩm thành văn tối cổ của Trung Hoa cổ

đại đã đề cập đến thuyết Âm dương Ngũ hành.

Mảng tục ngữ về tử vi, tướng - số tuy chiếm một tỷ lệ không lớn trong

kho tàng tục ngữ cổ truyền của người Việt nhưng đã phản ánh khá rõ một số

quan niệm về nhân sinh của họ do sự tác động, chi phối bởi quan niệm của

một số nhà chiêm tinh học Trung Hoa cổ đại.

Xem bói thực chất là một phương tiện của khoa học dự đoán dựa trên

những luận điểm của thuyết tử vi. Cùng với thuyết tử vi, nhân tướng học

cũng là một khoa học theo nguyên lý Âm dương Ngũ hành, có thể dựa vào

một nét đặc điểm nào đó trên cơ thể con người mà xét đoán về tính cách,

phẩm chất hoặc dự báo về tương lai của mỗi người. Vậy, tử vi và thuyết “Tài

mệnh tương đố” có ảnh hưởng gì đến đời sống tâm linh người Việt Nam nói

chung, đến tục ngữ cổ truyền người Việt nói riêng ?.

Theo những kiến giải trong “Kinh dịch” (gồm Âm dương, Bát quái và

Ngũ hành) vạn vật không đứng yên mà luôn vận động theo nguyên tắc Âm

dương thuận hoà, nếu không sẽ sinh ra hung hiểm bất thường.

Quan niệm của những người theo thuyết định mệnh có một điểm

chung, cho dù là của ngày xưa hay ngày nay, của người này hay người khác,

đó là niềm tin cho rằng, cuộc đời con người được an bài bởi mệnh trời:

“Sống chết có số, giàu sang do trời”, “Bôn ba chẳng qua số phận”, “Sống

chết có số”, “Tránh trời không khỏi số”, “Trăm đường tránh chẳng khỏi số”.

Đạo Phật quan niệm “Sống gửi thác về”, có nghĩa là cuộc đời hiện tại

chỉ là sự gửi gắm tạm thời, còn khi mất đi mới là cuộc sống thực sự của mỗi

người. Bởi thế, dân gian cho rằng, có kiếp trước, kiếp sau: “Khó giàu muôn

89

sự tại

Trong lịch sử loài người không phải không có những nhà tiên tri hay

chiêm tinh học đã có những dự đoán tương đối chính xác những sự kiện lớn

xảy ra trong tương lai. Khác với những người bói dịch, họ là những bậc vĩ

nhân, có tầm “nhìn xa trông rộng” như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm,

Chủ tịch Hồ Chí Minh,...

Dân gian tin rằng, con người thành bại, giàu sang hay nghèo hèn đều

do định mệnh. Có những người quá may mắn trong đường đời, không vướng

phải chông gai, cứ đi là đến, bởi họ tốt số: “Tốt số hơn bố giàu”. Có số tốt thì

cũng có số xấu: “Số giàu trồng lau ra mía, số khó trồng củ tía ra củ nâu”.

Có số giàu thì cũng có số nghèo: “Số giàu tay trắng cũng giàu, số nghèo chín

đụn mười trâu cũng nghèo”. Qua những biến số của đời sống, dựa trên các

sao và sự tương tác qua lại giữa chúng, tử vi đã đưa ra những nhận định về

số phận và tính cách con người. Tục ngữ Việt ảnh hưởng của trào lưu tư

tưởng này khá rõ nét: “Khó giàu muôn sự tại trời, nhân sinh ai cũng kiếp

người mà thôi”. Theo triết lý bói toán trong lịch Can, Chi của phương Đông,

người Việt lấy mười hai con giáp (Tý: con chuột, Sửu: con trâu, Dần: con hổ,

Mão: con mèo, Thìn: con rồng, Tỵ: con rắn, Ngọ: con ngựa, Mùi: con dê,

Thân: con khỉ, Dậu: con gà, Tuất: con chó, Hợi: con con lợn) làm biểu trưng

cho vòng quay thời gian. Theo truyền thuyết, vào một ngày đầu năm, đức

Phật cho gọi tất cả các thú rừng đến để đặt tên năm bằng tên của mỗi con vật,

nhưng không hiểu vì sao mà chỉ có 12 con thú xuất hiện. Đầu tiên là con

chuột, lần lượt sau đó là các con: trâu, hổ, mèo, rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ, gà,

chó, lợn. Từ đó, ai sinh năm nào thì được gọi tên ứng với con vật xuất hiện

năm đó. Dân gian cho rằng, cuộc đời con người sướng hay khổ, vất vả hay

an nhàn là tuỳ vào cuộc đời của con vật mà mình cầm tinh. Bởi thế, tục ngữ

mới có câu “Số ăn mày cầm tinh bị gậy”. Tục ngữ quan niệm, nước có vận

90

nước, người có vận người: “Vận đỏ trồng lau ra mía, vận đen trồng củ tía ra

củ nâu”. Người Việt quan tâm và giữ gìn mọi mặt khi đến chu kỳ “năm xung

tháng hạn”, bởi theo họ, đến “năm tuổi” thì không bị chứng nọ cũng tật kia.

Đến chu kỳ “bốn chín chưa qua, năm ba đã tới” hoặc “sáu mươi mốt chưa

qua, bảy mươi ba đã tới” (là năm đại hạn), sự mất mát còn lớn hơn nhiều.

Những lúc ấy tâm lý lo sợ thường trực, buộc người ta phải chú ý kiêng kỵ và

bảo toàn bản mệnh. Đó là thời kỳ tương khắc (có báo điềm gở) theo hoạt

động của ngũ hành. Người ta tránh, hay đúng hơn là kỵ tuổi của những người

thuộc nhóm tứ hành xung (dần, thân, tỵ, hợi). Nhưng khi ở thời kỳ tương

sinh (có báo điềm lành), con người cứ tự do tung hoành mà thần may mắn

vẫn luôn mỉm cười với số phận của họ. Nhiều người Việt tin vào thuyết nhân

quả của nhà Phật: “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.

Dân gian quan niệm, mỗi người có một cung mệnh, một lá số tử vi

khác nhau, đều đã được “lập trình”; cũng có nghĩa là mọi thứ liên quan đến

con người (cả tiền vận lẫn hậu vận) đều đã được sắp đặt từ trước, là do trời

quyết định: “Tử sinh hữu mệnh phú quý tại thiên” (nghĩa là “Sống chết có số,

giàu sang do trời”)… Sau này, khoa tử vi đã tổng hoà được những tinh hoa

của bói dịch, nhân tướng học, thiên văn học của Trung Hoa cổ đại.

b) Trong tướng học Á Đông, thanh (chỉ tất cả nét tướng tốt của con

người) và trọc (chỉ tất cả những gì hợp tiêu chuẩn mà thái quá, bất cập) là hai

ý niệm vô cùng súc tích và căn bản để giải đoán quý tiện cát hung, thành bại,

thọ yếu và chi phối hết các nét tướng của con người. Theo đó, tục ngữ người

Việt đã đưa ra những nhận xét cảm quan về tính cách con người qua nét

tướng cơ thể hoặc nét tướng tinh thần như: sắc diện, giọng nói, cử chỉ, cấu

trúc cơ thể, thần khí… trong đó, thần, khí, sắc là ba yếu tố được tục ngữ xem

như là những căn cứ ứng dụng quan trọng. Trong con người, khí là thứ nhựa

sống vô hình, thần là những gì hiện ra nơi đầu mày cuối mắt, còn sắc là màu

91

sắc hiện ra trên làn da. Từ dung nhan, tướng mạo và bằng trực giác, dân gian

đưa ra những xét đoán về con người trong mối liên hệ giữa nội dung và hình

thức một cách khái quát: “Trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo

miếng lòng mới ngon”.

Nhiều người Việt tin vào những gì tục ngữ nói về tướng mạo con

người, chẳng hạn, câu “Những người thắt đáy lưng ong, vừa khéo chiều

chồng lại khéo nuôi con” (dựa vào mông) và câu “Lưng chữ cụ vú chữ tâm”

(dựa vào lưng) để đoán về đường ăn, nết ở và sinh con đẻ cái của người phụ

nữ. Ngoài ra, các câu “Con gái giống cha giàu ba đụn, con trai giống mẹ khó

lụn tận xương” (qua hình dáng, nét mặt), “Đàn bà mắt lươn hai chồng, đàn

ông mắt diều hai vợ” (qua con mắt), “Đàn bà lanh lảnh tiếng đồng, một là

sát chồng hai là hại con” (qua giọng nói), “Đàn ông rộng miệng thì tài, đàn

bà rộng miệng điếc tai láng giềng” (qua cái miệng), “Thâm dưa thù khú,

thâm vú thì chửa” (qua đôi nhũ hoa), “Hồng diện đa dâm thuỷ” (qua nét

mặt)… đã đưa ra những tiên lượng về tính tình, phẩm chất, trạng thái, tâm

sinh lý… của con người qua một bộ phận cơ thể. Nhân tướng học cho rằng,

người ta có quý tướng, thanh nhàn, nho nhã hay không trước hết hãy xem

qua bàn tay, vầng trán, dái tai, cặp mắt hoặc dáng đi. Quan niệm đó không

phải là tất cả và cũng không thể nói lên tất cả, đôi khi chỉ đúng với trường

hợp này mà không đúng với những trường hợp khác. Cái mà tục ngữ nhìn

thấy chỉ là bề nổi. Nhiều điều về bản chất lại “lặn sâu”, rất khó được nhận

biết từ dáng vẻ bề ngoài.

Nhưng có người lại phủ nhận sự tồn tại của số mệnh và cho rằng, tất cả

hoạ phúc con người do chính hành động của con người tạo thành. Khi con

người bị dồn nén vào những tình huống “ngàn cân treo sợi tóc” thường nảy

sinh một ý chí mãnh liệt và bật ra một sức mạnh thần kỳ để bứt phá và vươn

lên. Nhiều câu tục ngữ Việt đã không ngần ngại vạch trần những trò “buôn

92

thần bán thánh” của các thầy tướng, thầy số, thầy bói. Dưới con mắt của một

bộ phận người dân, thầy bói chỉ là những người bịp bợm: “Thầy số đoán mò,

thầy bói nói dựa” hoặc giả dối: “Bói ra ma quét nhà ra rác”; còn thầy tướng,

thầy số cứu mình còn chẳng được thì chẳng thể cứu được ai: “Thầy mạnh

thầy chữa người ta, đến khi thầy ốm thì ma chữa thầy”. Vì vậy, nhiều người

không nghe và không tin vào họ: “Nghe thầy bói đói rã họng”.

c) Như vậy, ta thấy, nhiều người không tin vào lá số tử vi, nhưng vẫn

còn có người tin, thậm chí quá tin vào số phận và ngủ yên trong số phận. Dù

sao, hai dạng tâm lý đối lập nói trên vẫn đang còn song hành trong dân gian.

Do vậy, đã có hai góc nhìn khác nhau trong dân gian. Một cách nhìn đề cao

qúa đáng vai trò của tử vi, coi tử vi có thể giải thích được tất cả về số mệnh

và những bí ẩn của đời người. Chỉ cần nhìn vào lá số tử vi đã được mã hoá

và sơ đồ hoá là có thể biết mọi việc cả trong quá khứ và tương lai. Bởi vậy,

dân gian tin những câu tục ngữ về tử vi và tướng- số như là tiêu chí để có thể

tiên liệu được mọi biến cố, kết luận chính xác về cốt cách, nhân phẩm, tâm

tính, gia đình, bè bạn, quan trường, tài sản… của con người. Đây là quan

niệm sai lầm.

Một cách nhìn khác cho rằng, bản mệnh con người cũng rất phức tạp,

thật khó mà phán đoán chính xác, không thể tìm được một chuẩn của tử vi.

Họ cho rằng, xem bói toán, tướng- số chỉ là sự bịp bợm. Những thầy tướng,

thầy số còn “bịp” được cũng là do sự “nhẹ dạ cả tin” và thiếu hiểu biết của

người đời. Đây là quan niệm của những người yêu thích sự rõ ràng trong

khoa học. Theo họ, những câu tục ngữ về số mệnh thấm đẫm tư tưởng mê tín

dị đoan hoặc nói xằng bậy để lừa đảo bằng những tà thuật không minh bạch.

Đây cũng là những nhận định vội vàng.

Tâm lý tin tưởng thần thánh đâu đó vẫn còn ngự trị trong đời sống một

bộ phận không nhỏ người dân các vùng nông thôn, vì có những việc lạ lùng

93

xảy ra thật khó tin, đến hôm nay vẫn chưa thể lý giải được. Đôi khi chúng

được khúc xạ nhiều chiều và nhuốm màu huyền bí. Theo Dương Trung

Quốc, vào thời điểm năm 2007, chúng ta không còn ở thời kỳ chủ nghĩa vô

thần thô mộc nữa. Chúng ta tin rằng có đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh

ấy là một phần giá trị của đời sống thực, nó giúp cho đời sống thực tốt hơn

bằng những nguyên lý mang tính đạo đức. Có một sự thật cần thừa nhận là,

đời sống tâm linh trong nhân dân đang trỗi dậy mạnh mẽ và cần được tôn

trọng. Người dân có quyền bày tỏ niềm tin của mình trước những vấn đề

mang tính tâm linh, tín ngưỡng.

Nhìn chung lại, tử vi là môn khoa học dự đoán cho rằng, mỗi người có

một cung mệnh, một lá số khác nhau, đều đã được “lập trình”. Nhân tướng

học đã đưa ra những nhận xét cảm quan về tính cách con người qua nét

tướng cơ thể hoặc nét tướng tinh thần. Hiện trong dân gian còn song hành

tồn tại hai dạng tâm lý, hai góc nhìn đối lập: Một quan niệm coi tử vi và

thuật tướng - số có thể giải thích và kết luận chính xác được về mọi mặt của

con người. Lại có người xem bói toán, tướng- số là mê tín dị đoan, là bịp

bợm. Bởi thế, có nhiều người không tin nhưng cũng có người tin vào tử vi và

tướng- số. Thực ra, để xem chuẩn một lá số tử vi nào đó là một điều bất khả

thi. Nó đúng với người này mà không đúng với người khác hoặc chỉ đúng

trong từng trường hợp chứ không thể là chuẩn chung cho mọi đối tượng

được, bởi chúng là một hàm số có quá nhiều biến số tương tác lẫn nhau, vô

cùng phức tạp và không có lời giải thấu triệt. Tuy nhiên, với tính chất khoa

học thần bí và hư ảo của tử vi và tướng - số, tục ngữ về tử vi và tướng - số

trở thành một đối tượng nghiên cứu khá thú vị.

Khác với một bộ phận tục ngữ Việt chịu ảnh hưởng rất đậm nét tư

tưởng Nho giáo nói trên, tục ngữ Lào có một số câu rất hạn chế liên quan

đến tử vi và tướng - số như: “Có phúc uống thuốc độc cũng không chết”,

94

“Xem người hãy nhìn mặt, xem vải hãy nhìn diềm”. Nhưng mảng tục ngữ về

tử vi, tướng- số của người Việt đã cho thấy sự ảnh hưởng khá đậm nét tư

tưởng Nho giáo (qua một số nhà chiêm tinh học Trung Hoa cổ đại) của một

bộ phận người Việt.

2.1.7. Tục ngữ Lào phản ánh thực tế người Lào chịu ảnh hưởng tư

tưởng Phật giáo

Người Lào có câu tục ngữ “Phần xăng tồ, dà ngô xăng tọp” (“Người

ghen ghét ta ta đừng ghen ghét lại”) thấm đẫm tinh thần Phật giáo, bởi nhân

dân Lào đã lấy Phật giáo làm quốc giáo. Vì vậy, Phật giáo không chỉ tác

động đến quan niệm của người dân mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến mọi mặt

của đời sống, xã hội Lào.

Trước khi thống nhất đất nước, ở Lào đã có nhiều tín ngưỡng và tôn

giáo khác nhau. Đến năm 1353 lần đầu tiên vua Phà Ngừm đã có công hợp

nhất các mường vốn luôn bị chia rẽ và tranh chấp trước đây thành quốc gia

Lạn Xạng thống nhất. Cũng từ đó Phà Ngừm đã lấy Phật giáo làm quốc giáo.

Điện thờ ở Mường Xoa được Phà Ngừm đưa lên làm điện thờ chung cho cả

nước Lạn xạng mới ra đời. Đây là biểu hiện sự chiến thắng về mặt văn hoá

của Mường Xoa đối với các mường khác. Mặt khác, điện thờ này cũng chỉ

thờ thuần thần Lào mà chưa có bóng dáng của vị thần Ấn Phật vốn đang chế

ngự điện thờ của nhiều nước lân cận. Từ đấy, Phật giáo cũng phát triển

nhanh chóng trong những triều đại sau và đã góp phần tạo nên nền tảng vững

chắc cho chế độ quân chủ chuyên chế trên cơ sở thống nhất vương quyền và

thần quyền. Sự tiếp nhận ấy đã chứng tỏ đạo Phật từ trước đã cắm sâu và

rộng rãi trong xã hội Lào. Có thể nói, trên khắp đất nước Lào, nhất là hầu hết

các làng lớn của người Lào Lùm đều thấp thoáng những mái chùa cong cổ

kính, trong đó có những ngôi chùa nổi tiếng như Vắt Sỉ sa kệt, Vắt Pha kẹo,

Vắt Ông Tự, Vắt Xi Mương, Vắt Mày, Vắt Xiêng Thông,... Riêng thủ đô

95

Viêng Chăn ngày nay có trên ba mươi ngôi chùa với hàng ngàn tăng lữ, với

ba ngọn tháp cao vút, uy nghi như: tháp Thạt Luổng (Tháp lớn), Thạt Đăm

(Tháp Đen), Thạt Khảo (Tháp Trắng). Thạt Luổng (Tháp lớn) được xây dựng

từ năm 1566 toạ lạc ngay trung tâm thủ đô Viêng Chăn không chỉ là công

trình văn hoá hấp dẫn khách tham quan du lịch mà còn là một công trình

Phật giáo linh thiêng thu hút nhiều tín đồ hành hương về lễ Phật. Trên đỉnh

tháp là hình quả bầu huyền thoại khởi nguyên của cộng đồng người Lào. Đó

cũng là nơi các vị vua trước đây thờ Phật. Đông đảo quần chúng, nhất là các

bà, các chị (những người không được đi tu và những người lớn tuổi thì tu tại

gia. Còn nhân dân Lào ngày nay thờ Phật trong tâm và đi lễ Phật tại chùa. Ở

Viêng Chăn lớn nhất phải kể đến “Vắt Pha kẹo” (Chùa Ngọc). Đó là một

ngôi chùa nằm ở ven sông Mê Kông đang là nơi thu hút sự quan tâm của

nhiều du khách từ khắp nơi trong nước và cả người nước ngoài. Nhưng đối

với người dân Lào “Vắt Sỉ sa kệt” (chùa Tượng) nằm giữa rừng dừa mới là

chùa linh thiêng nhất, bởi ở đó có tới hàng vạn pho tượng Phật khác nhau, từ

những bức tượng Phật cỡ chỉ bằng ngón tay út đến những ông tượng bằng

đồng đen cao trên ba mét. Đây cũng là nơi người ta dẫn nhau đến thề bồi mỗi

khi có hiềm khích, nghi kỵ lẫn nhau, bởi lời thề đó được coi là lời thề linh

thiêng nhất. Ngoài ra còn có “Vắt Ông Tự” (chùa Ông Tự), một ngôi chùa

gắn liền với phong tục “Bun Băng Phay” (hội pháo thăng thiên) của người

nông dân cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu. Có thể nói, khắp

các bản mường Lào đều có những ngôi chùa. Những ngôi chùa ở Lào thường

có dáng vẻ kiến trúc, hoa văn độc đáo và màu sắc rực rỡ. Chùa Lào không

chỉ là nơi diễn ra các hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo mà còn là nơi trú ngụ

của những kẻ lỡ đường, nơi sinh hoạt văn hoá của dân làng. Đó vừa là nơi

thực hành nghi lễ, nghe giảng kinh Phật vừa là trường dạy chữ, dạy kiến

thức, dạy nghề, chữa bệnh và cũng là nơi tổ chức các hoạt động vui chơi,

96

biểu diễn ca múa nhạc trong những dịp lễ tết cổ truyền. Nhiều người Lào

trước khi trở về với đời thường đã qua một thời gian đi tu ở chùa hoặc được

học Phật học trong các trung tâm đào tạo của Phật giáo. Đội ngũ sư sãi ở Lào

khá đông và có vai trò quan trọng: “Bố mẹ là cánh tay phải, sư sãi là cánh

tay trái”. Họ thường đảm trách việc dạy văn hoá ngoài chức năng truyền

giảng kinh Phật. Nhà sư có quyền hành rất lớn trong việc chăm lo đời sống

tinh thần cho nhân dân. Khi khó khăn hay gặp điều gì khó xử, người dân Lào

luôn nghĩ đến và cầu mong sự giúp đỡ của sư, của Phật: “Khi khó nghĩ tới

thầy, khi chết nghĩ tới Phật”. Do đó, sư sãi được toàn xã hội trọng thị. Khi

gặp họ, từ vua cho đến dân thường đều chắp tay trước ngực cung kính cúi

chào. Trong những ngày bun (hội), sư sãi còn được nhân dân trong vùng mời

lên kiệu rước đi. Vua Lào trong thời kỳ phong kiến có quyền tối cao trong

việc cai trị dân. Vậy mà trước khi lên ngôi, vua cũng phải đến tu ở một chùa

nào đó. Ngày “bun” (hội), vua cũng tham gia vào mọi sinh hoạt văn hoá bình

thường như dân chúng. Trong thời kỳ phong kiến, Phật giáo ở Lào cũng đã

góp một phần rất quan trọng trong sự nghiệp giải phóng đất nước, xây dựng

một tinh thần nhân bản cho con người. Những hành vi tôn giáo đã được sử

dụng để củng cố vương quyền. Có thể nói, tư tưởng từ bi, hỉ xả, bác ái của

đạo Phật đã thấm vào mỗi người dân Lào và chi phối hành vi ứng xử của họ.

Những câu tục ngữ Lào thấm đượm những lời giáo huấn đạo Phật được gọi

là “phụt thạ pha xít”. Lời của các phật tử khuyên nhau theo tinh thần nhà

Phật được gọi là “pha vạ cạ pha xít”. Niềm tin tôn giáo và những giáo lý đạo

Phật có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tâm linh của người Lào. Nhiều

điều răn trong kinh Phật được nhà sư truyền giảng và mọi người dân phải

tuân theo. Như vậy, tư tưởng chính của Phật giáo là “đạt tới cõi niết bàn dần

dần bị lu mờ và thành khái niệm trừu tượng, siêu hình. Trong khi đó các

quan niệm về luân hồi và nhân quả lại chiếm vị trí hàng đầu và liên quan đến

97

quy phạm đạo đức” [128, tr.35]. Một cuộc sống đầy đủ, sung sướng hơn ở

kiếp sau luôn là niềm mơ ước của mọi tín đồ đạo Phật. Nhiều người dân lao

động Lào rất muốn làm việc phúc, vì họ tin rằng, làm được điều ấy thì sau

khi chết họ sẽ được lên thiên đàng: “Làm phúc được lên thiên đàng, làm tội

lội xuống chết trương vạc dầu, người khác chia cho thấy đâu, mình làm tốt

xấu thấy mau thôi mà”. Họ tin rằng, kẻ gây tội sẽ bị trừng trị: “Tội đền bù

bằng tội”. Đối với nhiều tăng ni, phật tử Lào, thiên đàng và địa ngục chẳng

phải ở đâu xa lạ mà ở ngay giữa cõi trần: “Thiên đàng trong ngực, địa ngục

trong tim” (“Xạ vẳn nay ôốc nạ rốc nay chày”). Thiên đàng cho người tốt,

địa ngục cho kẻ phạm tội. Muốn được lên thiên đàng không có cách nào

khác là phải có những hành vi đạo đức tốt được thể hiện qua từng cách ứng

xử hàng ngày. Bởi vậy, theo họ, cuộc sống kiếp sau phụ thuộc vào sự tu nhân

tích đức ở kiếp trước. Từ đó họ sống hiền lành, làm nhiều điều thiện để hy

vọng kiếp sau sẽ được đền bù: “Hết bun đạy bun, xạng bạp đạy bạp” (“Làm

phúc được phúc, gây tội đền tội”). Theo họ, chỉ với cuộc sống chân tu mới từ

bỏ được mọi sắc dục, ham muốn, để giữ cho thân mình được thanh tịnh:

“Khát vọng ham mê sắc dục ở đời, nói lời phung phí hàng ngày là tốt à, ta sẽ

kiếu mà lánh xa, bỏ ra đi làm Phật”. Con người phấn đấu không mệt mỏi

trong vòng luân hồi sinh tử cho đến khi hoàn toàn trong sạch thì mới thoát

được khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy mà thành Phật: “Xấu bụng là ma, tốt bụng

là phật”, “Khi khó nghĩ tới thầy, khi chết nghĩ tới Phật”...

Vì sao người Lào lại hồ hởi tiếp nhận Phật giáo và Phật giáo có ảnh

hưởng đến đời sống văn hoá và con người Lào đến như vậy ? Câu trả lời chỉ

có thể tìm ở lịch sử Lào nói chung cũng như quá trình hình thành, phát triển

và những ảnh hưởng của Phật giáo ở Lào nói riêng.

Lịch sử Lào là lịch sử mà nhân dân phải liên tục tiến hành các cuộc

đấu tranh chống giặc giã và chống chọi với thiên nhiên vì cuộc sinh tồn. Khi

98

vua Phà Ngừm, vị anh hùng dân tộc của nhân dân Lào, người có công hợp

nhất các mường Lào luôn bị chia rẽ trước đây thành quốc gia thống nhất

quanh Mường Xoa (Luông Pha Băng) với cái tên Lạn xạng vào năm 1353,

nhân dân Lào đã suy tôn Người là ông vua lập nước của mình. Cũng từ thời

đại Phà Ngừm, Phật giáo trước đây tồn tại còn sơ khai và lẻ tẻ bắt đầu được

coi là quốc giáo. Từ đây, nhân dân Lào tiếp thu được nhiều hơn những gì

phù hợp với thế giới quan của họ. Người Lào có tín ngưỡng thờ và cúng ma

(phỉ) và tục lệ thờ và cúng thần (thẻn). Do vậy, tục ngữ có nhiều câu nói đến

ma: “Xấu bụng là ma”, “Nhiều ma tốn gà”, “Khiêng ma đổ vào nghĩa địa”.

Không phải sau khi Phật giáo Tiểu thừa vào Lào trở thành quốc giáo, nhân

dân Lào mới có những quan niệm ứng xử thắm đượm tinh thần đạo đức nhà

Phật. Những điều kiện lịch sử và xã hội với những nét đặc trưng riêng của

Lào là cơ sở hình thành những giá trị tư tưởng và tính cách con người Lào.

Có thể nói, đạo Phật là một nhân tố quan trọng đã ảnh hưởng đến nhân cách,

tâm tư và tình cảm của người Lào. Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, người

Lào đã được các nhà sư cầu phúc. Khi được sinh ra, bố mẹ lại rước sư đến

tụng kinh và buộc chỉ cổ tay. Con trai đến 11- 12 tuổi được cha mẹ gửi vào

chùa xin tu làm tiểu để học đạo lý, chữ nghĩa. Khi đến tuổi trưởng thành thì

làm lễ xuất tục, vào chùa làm sư. Ngày cưới cũng được sư sãi chọn ngày

lành tháng tốt, rước sư đến vảy nước phép, buộc chỉ cổ tay, chúc mừng và

căn dặn. Khi mất còn được nhà chùa quan tâm lo liệu đám tang chu đáo. Nhà

sư đến làm lễ cầu siêu cho người quá cố và cùng tang chủ đưa người chết

đến nơi làm lễ hoả táng. Trong lễ an táng dó, nhà sư thường làm chủ lễ, sau 3

ngày nhà sư đưa tro đã được hoả táng về chùa để xây tháp. Ngày giỗ, nhà sư

đến tụng kinh, cầu phúc cho người qua đời được an nghỉ vĩnh hằng trên thiên

đường. Có thể nói, chùa ở Lào như một “nhà văn hoá” của cộng đồng làng

99

bản; cuộc sống của người Lào từ khi “cất tiếng khóc chào đời” đến khi

“nhắm mắt xuôi tay” đều gắn liền với chùa chiền, với lễ hội nhà chùa, với

những phong tục tập quán cổ truyền của dân tộc.

Nền kinh tế của Lào chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp tự cấp, tự túc.

Người Lào quen làm ruộng nước và trồng lúa nếp từ lâu đời. Tập quán thích

ăn nếp cũng từ lâu đã trở thành nét văn hoá ẩm thực độc đáo của người Lào.

Có thể nói, sự kết hợp núi - rừng - sông - suối đã tạo nên phức hợp văn hoá

Lào. Rừng, núi, sông ngòi, đất đai, đạo Phật và nền sản xuất nông nghiệp còn

chậm phát triển đã hun đúc nên lối sống, lối nghĩ của người Lào. Bên cạnh

dòng văn học Phật giáo, nhân dân Lào còn có dòng văn học dân gian phong

phú. Đặc biệt, từ khi chữ Pali - Sanskrit, chữ của nhà Phật dùng để ghi chép

các kinh kệ trên lá cọ và ngọn gió Phật giáo của văn hoá Ấn Độ thổi vào đất

Lào thì văn học dân gian Lào đã phát triển với một sắc thái mới. Mặt khác,

đạo Phật ở Lào đã tồn tại và không ngừng hướng thiện. Nói cách khác,

những tư tưởng từ bi, hỉ xả của đạo Phật đã kéo con người vào trong ngôi

đền của cái thiện. Do đó, văn học Phật giáo cũng như tục ngữ Lào luôn

hướng tới mục đích chân, thiện, mĩ. Đạo Phật, lời dạy của Phật và của sư sãi

được coi là những viên ngọc quý, từng là nơi xây dựng, gửi gắm đức tin và

hy vọng của quần chúng nhân dân. Người Lào đã dựa vào đạo Phật để đấu

tranh chống lại các thế lực tàn ác. Mặt tích cực của tư tưởng Phật giáo qua

những câu tục ngữ đã khẳng định nhiều giá trị của đạo Phật trên con đường

phụng sự chúng sinh theo phương châm đạo pháp và dân tộc. Nhiều giá trị

Phật giáo đã chảy trong huyết quản của người dân Lào qua hàng ngàn năm.

Nó giúp con người sống nhân ái, từ bi; xây dựng một tính cách nhân bản cho

con người, hoàn toàn phù hợp với đạo lý truyền thống của nhân dân Lào.

Người dân Lào sống trong lòng quốc gia và quốc giáo. Họ dùng tiền đóng

100

góp của các đệ tử để xây dựng, tu bổ lại chùa và làm những việc công ích

khác như cứu trợ người nghèo, giúp đỡ trẻ mồ côi. Niềm tin tôn giáo mạnh

mẽ đã củng cố tinh thần “thiệp kế độ sinh” của người Lào.

Như vậy, các ngôi chùa ở Lào thường có công dụng đa năng. Chùa

không chỉ là nơi thực hành nghi lễ, giảng giải kinh Phật mà còn là nơi diễn ra

các ngày hội, là nhà trường dạy chữ, dạy nghề, là nơi chữa bệnh. Người dân

Lào đến chùa là để đắm mình trong không khí sôi nổi của những lễ hội, học

hành, của những cuộc giao lưu, vui chơi giải trí; đến chùa là để học những

điều răn, để tu nhân tích đức theo tinh thần hỉ, nộ, ái, ố của đức Phật từ bi.

Đến chùa bên cạnh sự thanh thản vô hình trong lòng mỗi người là còn để

chiêm ngưỡng vẻ đẹp hữu hình của kiến trúc và cảnh quan của chùa.

Trong khi đó, tục ngữ Việt cũng có những câu ảnh hưởng triết lý Phật

giáo: “Ở hiền gặp lành”, “Phật tại tâm”. Đức tin của người Việt không phải

ở “tam giáo đồng nguyên” mà tập trung ở tục thờ cúng tổ tiên, bởi ngoài đạo

Phật Đại thừa xuất hiện khá sớm, đức tin ấy giúp người Việt sống cân bằng

giữa đạo và đời. Người dân đến chùa để cầu nguyện, hướng tới những điều

thiện để tìm về một cõi thảnh thơi trong tâm hồn. Chùa Việt thường mang vẻ

trầm mặc, thanh vắng, khác hẳn với không khí nhộn nhịp của chùa Lào.

Tóm lại, cả tục ngữ Việt và tục ngữ Lào đều có những câu ảnh hưởng

tư tưởng Phật giáo, nhưng dấu ấn đạo Phật giáo trong tục ngữ Lào đậm nét

hơn tục ngữ Việt, bởi vì người Lào lấy Phật giáo làm quốc giáo.

2.1.8. Hiện tượng trái nghĩa trong tục ngữ Việt

Trong Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Cao Huy Đỉnh

xếp tục ngữ vào loại “văn học đúc rút kinh nghiệm thực tiễn” [41, tr.242-

243]. Theo ông, tục ngữ vừa mang tính văn học nghệ thuật (được thể hiện

qua hình ảnh, âm điệu và tình cảm) vừa phi văn học nghệ thuật (được thể

hiện qua những triết lý, những kinh nghiệm và khoa học thực hành). Còn Bùi

101

Văn Nguyên và Đỗ Bình Trị thì cho rằng, tục ngữ không chỉ là đúc rút kinh

nghiệm thực tiễn mà còn là “phương pháp suy luận của nhân dân, một

phương pháp luận lý hình thức đáng chú ý” [119, tr.210]. Theo Nguyễn Thái

Hoà, các nhà nghiên cứu văn học đã dựa vào “mặt mạnh của góc độ văn học

là phân chia hai bình diện nội dung và hình thức và nghiên cứu rất sâu, miêu

tả, phân loại tỉ mỉ các bình diện này trong tục ngữ” [63, tr.15]. Nhưng

Nguyễn Thái Hoà cho rằng, sự tách bạch trên cũng gây ra sự “không thống

nhất về phương diện phân định thể loại, về đường ranh giới trung gian giữa

thành ngữ và tục ngữ, tục ngữ và ca dao” [63, tr.16]. Theo tác giả, hai

chuyên ngành ngôn ngữ học và văn học cùng tập trung nghiên cứu tục ngữ

theo các tiêu chí riêng của mình.

Trong xã hội có người tốt, kẻ xấu. Cuộc sống hằng ngày đan xen giữa

cái hay và cái dở, điều tốt và cái xấu. Cái hay, điều tốt đang nảy nở ngày một

thêm nhiều nhưng cái dở, điều xấu cũng đang len lỏi trong mọi ngõ ngách

của cuộc sống và trong mỗi con người. Cuộc sống không xuôi chiều mà luôn

biến động phức tạp, có các mặt đối lập để phát triển và đi lên. Trong thực tế

và trong tiếng Việt đã hình thành những cặp chủ đề trái nghĩa: đẹp - xấu, lớn

- nhỏ, trẻ - già, đắt - rẻ, mạnh - yếu, khôn - dại, thiện - ác, cẩn thận - cẩu thả,

khiêm tốn - kiêu căng, hiểu biết- dốt nát, vô tư - lo lắng, rộng lượng - ích kỷ,

siêng năng - lười nhác, sự sống - cái chết... (dẫn theo Nguyễn Việt Hương

[77]). Những cặp từ trái nghĩa hoặc những cặp chủ đề đối lập đó cùng với

cặp khái niệm “trái - phải” là sản phẩm của triết lý âm - dương, vốn bắt

nguồn từ nền văn hoá nông nghiệp lúa nước, bởi trong đời thường, chúng ta

đã từng gặp những điều đối lập. Nhấn mạnh và đề cao điều hay lẽ phải, nét

bản chất của cuộc sống và con người, song tục ngữ cũng không quên đề cập

đến những thói hư, tật xấu của con người và xã hội. Bởi tục ngữ là một hiện

tượng ý thức xã hội, phản ánh những suy nghĩ của nhân dân về lẽ đời và

102

cuộc sống. Do vậy, trong khi phản ánh đời sống, hiển nhiên tục ngữ phải lật

cả hai mặt tương phản ấy lên. Vấn đề quan trọng là, tục ngữ hướng ta tới

việc xây dựng mặt nào và loại bỏ mặt nào.

Nếu lối “nói ngược” là một đặc điểm của tục ngữ Lào thì hiện tượng

nhiều câu tục ngữ Việt trái nghĩa nhau khi cùng nói về một chủ đề lại là một

đặc điểm đáng chú ý của tục ngữ Việt. Có nhiều cặp tục ngữ Việt trái nghĩa

khi cùng phản ánh về một hiện tượng. Bên cạnh những câu “Giàu vì bạn,

sang vì vợ”, “Phụ vợ không gặp vợ”... lại có những câu “Con là nợ, vợ là oan

gia”, “Một là vợ, hai là nợ” (về vai trò người vợ); đi với những câu “Anh em

hạt máu sẻ đôi”, “Anh em như chân với tay”... lại có những câu “Anh em

nắm nem ba đồng”, “Anh em kiến giả nhất phận”... (về tình anh em); cùng

với niềm tin: “Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành”, “Khôn ngoan chẳng lọ

thật thà, đi đâu cũng được người ta tin dùng”... lại có quan niệm: “Thật thà

là cha dại”, “Thẳng mực tàu đau lòng gỗ” (về sự thật thà, trung thực); có

cách đánh giá: “Cái nết đánh chết cái đẹp”, “Đẹp nết hơn đẹp người”... lại

cũng có nhận xét: “Xấu như ma vinh hoa cũng đẹp”, “Người đẹp vì lụa, lúa

tốt vì phân”... (về vẻ đẹp con người); ta được nghe những câu “Làm phúc

được phúc”, “Làm phúc cũng như làm giàu”, “Thương người như thể thương

thân”... nhưng cũng biết được những câu “Làm phúc phải tội”, “Trước làm

phúc, sau tức bụng”, “Thương người lại khó đến thân”... (về lối sống và tình

thương đồng loại); có câu “Ở hiền gặp lành”, lại kèm theo câu “Hiền quá

hoá ngu” (về sự hiền lành); cạnh câu “Có miếng còn hơn có tiếng”, lại cũng

có những câu “Có tiếng hơn có miếng” (về danh tiếng); có quan niệm “Lắm

con nhiều nợ, lắm vợ nhiều oan gia”, lại cũng có nhận thức “Rậm người hơn

rậm của” (về con cái); có câu “Không thầy đố mày làm nên”, lại có câu “Học

thầy không tầy học bạn” (về vai trò của người thầy).

Trong kho tàng văn hoá dân gian người Việt, có rất nhiều câu tục ngữ

103

phản ánh nhận thức của nhân dân về quy luật âm dương giao hoà, trong âm

có dương, trong dương có âm, trong rủi có may, trong hoạ có phúc, trong dở

có hay: “Mía có đốt sâu đốt lành”, “Chợ có hàng rau hàng vàng”, “Người có

lúc vinh lúc nhục, nước có lúc đục lúc trong”... Và có nhiều hơn là những

câu tục ngữ phản ánh nhận thức của nhân dân về sự chuyển hoá giữa chúng,

dương sinh âm, âm sinh dương: “Sướng quá hoá rồ”, “Yêu nhau lắm, cắn

nhau đau”, “Chắc quá hoá lép”, “Chín quá hoá nẫu”, “Hết khôn dồn ra

dại”...

Các cặp chủ đề của tục ngữ khá phong phú và đa dạng, chủ yếu phản

ánh các chiều cạnh của sự vật, hiện tượng và con người, trong đó số cặp chủ

đề liên quan đến phạm trù đạo đức chiếm khá nhiều. Do đó, trong kho tàng

tục ngữ Việt tồn tại cả một hệ thống những quan niệm, những triết lý nhân

sinh của người Việt Nam. Theo các tác giả Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ

[50, tr.56], câu tục ngữ “Cái khó bó cái khôn” (1) và câu “Cái khó ló cái

khôn” (2) không phải là hai biến thể của một câu mà là hai câu trái nghĩa

nhau. Nhiều người xem dạng thức của câu (1) là dạng chuẩn, dạng đích thực

và phủ nhận dạng thức của câu (2). Ngược lại, một số người khác lại cho

dạng thức câu (2) mới là một dạng chân chính. Câu (1) với ý nghĩa con

người bất lực, bó tay trước hoàn cảnh; còn câu (2) có nội dung ngược lại. Ở

một dạng tương tự, câu “Ngao cò tranh đấu ngư ông đắc lợi” (1) có ý nghĩa

trái ngược với câu “Trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết” (2) khi nói về sự

tranh đấu giữa hai người có ảnh hưởng đến người thứ ba. Ở câu (1) kẻ thứ ba

được lợi, ở câu (2) người thứ ba lại bị thiệt hại. Theo chúng tôi, đó là những

câu tục ngữ có ý nghĩa và cách sử dụng hoàn toàn trái ngược nhau, nói về

một vấn đề nhưng ở những khía cạnh khác nhau chứ không phải là hai biến

thể của một câu tục ngữ; không có câu nào dạng gốc, câu nào làm chuẩn cả,

104

lại cũng không phải vì sự “mập mờ” của chúng.

Trong ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, ứng với

từng môi trường cụ thể, người Việt thấy cần phải lựa chọn phương thức sống

trung hoà, thích ứng, nhất là khi chuyển từ môi trường này sang một môi

trường khác: “Đừng thái quá, chớ bất cập”, “Xấu đều hơn tốt lỏi”. Vậy thì

tại sao lại có hiện tượng này?

Người Việt có quan hệ hiếu hoà với xung quanh và với thiên nhiên.

Theo Trần Ngọc Thêm [162, tr.113], trong cuộc sống, người Việt Nam cố

gắng không làm mất lòng ai: “Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười,

ở hẹp người chê”; trong việc ăn uống cố giữ cho cơ thể được âm dương quân

bình; trong sinh hoạt, giao tiếp, cố tạo nên sự hài hoà với môi trường thiên

nhiên và con người xung quanh. Cũng có người cho rằng, người Việt Nam

sống khéo. Đó không hẳn là nhận xét không có căn cứ. Người Việt sống mức

độ, vừa phải, linh hoạt...và thiên về tình cảm: “Một trăm cái lý không bằng

một tý cái tình”. Họ đề cao lối sống trọng tình nên phương châm xử thế kiểu

trọng tình đã có ở nước ta từ lâu. Tuy nhiên, “mặt trái” của lối sống này đã

hé lộ nhiều điều hạn chế. Không phải cứ chọn cách sống lựa thời, linh hoạt,

trọng tình là tốt. Linh hoạt dễ dẫn đến tuỳ tiện, vô hiệu hoá pháp luật nhà

nước: “Phép vua thua lệ làng”. Nguyên tắc sống lấy tình cảm làm đầu là gốc

rễ của thói “một người làm quan cả họ được nhờ”, biến pháp luật thành thứ

“giơ cao đánh khẽ”, càng làm cho bệnh tuỳ tiện và coi thường phép nước

thêm trầm trọng. Người ta dễ “đi cửa sau”, có thể “linh động” khi giải quyết

công việc, nhất là đối với người thân hoặc người quen.

Mỗi lối sống có cái ưu và nhược điểm riêng của nó. Lối sống đó gắn

liền với những biến cố tư tưởng của thời đại. Có lẽ, do sống trên một dải đất

luôn bị thiên tai, giặc giã đe dọa nên người Việt Nam phải chọn một cách

sống thủ thế, giữ mình, chấp nhận sự vừa phải, cái hợp thời để trụ vững trong

105

một môi trường thiên nhiên và xã hội nghiệt ngã. Hoàn cảnh ấy đã tạo cho

người Việt Nam một khả năng thích nghi cao. Họ phải lựa thời, phải tự tìm

cách ứng xử cho phù hợp với hoàn cảnh và xã hội đương thời: “Gió chiều

nào che chiều ấy”, “Ở bầu thì tròn ở ống thì dài”, “Đi với Bụt mặc áo cà sa,

đi với ma mặc áo giấy”. Họ phải luôn biến báo cho thích hợp với từng hoàn

cảnh cụ thể, phải tự tìm lấy một lối ứng xử cho riêng mình. Nhân dân lao

động vốn hiền lành và chân thật, tôn trọng và đề cao sự trung thực, bởi đó là

phẩm chất tạo nên chân giá trị đích thực của con người. Nhưng phải sống

trong một xã hội phong kiến đầy rẫy những suy nghĩ và hành động cơ hội,

bon chen, tiêu cực thì những hành động tốt bỗng trở nên “lạ lẫm” trước con

mắt của nhiều người. Và những việc làm “khác người” đó lại bị coi là “ngớ

ngẩn”. Khi sự dối trá đã trở nên phổ biến thì những người thật thà bỗng nhận

ra rằng: “Thật thà là cha dại”. Do đó, họ không thể “dại dột” mãi như thế

được. Phải chăng đó là sự tự điều chỉnh tạm thời của con người trước hoàn

cảnh mới; đồng thời còn là phản ứng của nhân dân đối với hiện thực chứ

không thể là lối sống hoặc là chuẩn mực ứng xử chung của thời đại.

Qua những điều đã trình bày ở trên, chúng tôi rút ra một số nhận xét

sau đây:

- Đa số các câu tục ngữ Việt đều mang ý nghĩa khẳng định nhằm đúc

kết một kinh nghiệm, một cách thức ứng xử. Có những câu tục ngữ khẳng

định mặt này, đồng thời lại có những câu tục ngữ nhấn mạnh mặt kia (mặt

ngược lại) để phản ánh nhận thức, quan niệm khác nhau, thậm chí trái ngược

nhau của người dân về cùng một vấn đề trong cuộc sống. Chúng có tính chất

bổ sung lẫn nhau và thường cùng được sử dụng mà vẫn không loại trừ nghĩa

của nhau. Nói cách khác, đó là cách ứng xử không giống nhau trước một vấn

đề tuỳ theo hoàn cảnh, quan niệm, vai trò xã hội, lối sống của mỗi người.

Đây không phải là mâu thuẫn trong tư tưởng của người dân, cũng không phải

106

là biểu hiện của tính “hai mặt” trong tục ngữ Việt.

- Nhìn ở khía cạnh tích cực, hiện tượng trái nghĩa trong tục ngữ Việt

khi cùng nói về một chủ đề đã tạo cho kho tàng tục ngữ Việt Nam một nội

dung phong phú và toàn diện.

Sở dĩ có hiện tượng trên là vì tục ngữ là một thể loại ngắn gọn, dễ

thuộc, dễ nhớ nên một câu của nó không thể phản ánh hết được phạm vi rộng

lớn và nhiều chiều cạnh của một vấn đề, một thực tế của hiện thực. Ngoài ra,

trong xã hội cũ có sự đối lập giữa ước mơ, khát vọng của nhân dân về một xã

hội tốt đẹp với một hiện thực xã hội phong kiến đầy bất công và thối nát. Để

sống tốt hơn, người ta phải bon chen, giành giật cho riêng mình. Trong hoàn

cảnh ấy, người ta khó tìm được tiếng nói chung. Cuộc sống cũng không còn

chuẩn mực để con người phấn đấu. Để giữ mình, người tốt phải sống một

cuộc sống không giống ai, không theo một mẫu số chung của trào lưu xã hội

đương thời nên dễ bị người đời coi là người “gàn dở”. Phải ứng xử trong một

môi trường xã hội như thế, những người tốt buộc phải sống khác với bản

chất của mình, nếu không cuộc sống của họ sẽ bị thiệt thòi. Phản ứng cho

“hợp thời” đó thể hiện sự linh hoạt, dễ thích nghi của người Việt. Đó còn là

một hình thức phản ứng của nhân dân với hiện thực. Phản ứng đó không phải

là bản chất của người Việt, càng không phải là chuẩn mực văn hoá của thời

đại.

Do vậy, để hiểu đúng một câu tục ngữ về lối sống, chúng ta càn thấy rõ

hiện tượng trái nghĩa trong tục ngữ và không thể nhận thức nó bằng lăng

kính của một thời đại khác mà cần đặt trong bối cảnh lịch sử của nó. Mỗi

thời đại lại có một quy tắc giao tiếp và thước đo giá trị nhất định. Mỗi khi

thời đại thay đổi cũng có nghĩa là những cơ sở xã hội cũ có biến đổi thì quan

107

niệm và lối sống của thời đại mới sẽ có nhiều điều khác trước.

2.2. Giải thích sự giống nhau và khác nhau

2.2.1. Sự giống nhau

Sự giống nhau về nội dung giữa tục ngữ Việt và tục ngữ Lào là cơ bản

vì theo Hà Văn Tấn [153, tr.179], “nếu gạt sang một bên những yếu tố văn

hoá ảnh hưởng từ Trung Hoa và Ấn Độ, chúng ta sẽ thấy rằng văn hoá truyền

thống của các dân tộc sống trên đất Đông Dương hiện nay có rất nhiều nét

giống nhau... không phải lúc nào chúng ta cũng tìm được lời giải đáp rõ ràng

về nguyên nhân những hiện tượng tương đồng văn hoá đó”. Cũng theo Hà

Văn Tấn, có ba lý do giải thích nguyên nhân cho các tương đồng văn hoá nói

trên:

- Do đồng quy văn hoá, nói cách khác là do những phản ứng văn hoá

giống nhau trong môi trường tự nhiên và xã hội giống nhau;

- Do cùng một cội nguồn chung trong lịch sử;

- Do tiếp xúc và giao lưu văn hoá.

Các hiện tượng tương đồng văn hoá trong khu vực Đông Nam Á và ba

nước Đông Dương nói chung, Việt Nam- Lào nói riêng do ba loại nguyên

nhân nói trên quy định, đều đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử.

a) Nguyên nhân thứ nhất: Do đồng quy văn hoá.

Môi trường tự nhiên và xã hội Việt Nam và Lào về cơ bản có nhiều

điểm giống nhau. Cả hai nước cùng sống chung trong một mái nhà Đông

Dương, cùng dựa lưng vào dãy Trường Sơn, cùng uống chung một dòng

nước Mê Kông, cùng chịu sự chi phối bởi nhịp điệu tuần hoàn của các mùa

gắn với nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước, cùng sớm ủng hộ và giúp

đỡ lẫn nhau trong suốt các chặng đường lịch sử.

Ngay cả sự di chuyển cư dân khá đặc biệt Lào - Việt Nam, Việt Nam -

Lào và những hạn chế thuộc về lối nghĩ dựa trên kinh nghiệm được phản ánh

108

qua tục ngữ Việt - Lào không những do vị trí địa lý gần gũi của hai nước

quyết định mà còn chịu sự chi phối của thời đại phong kiến, của nền sản xuất

nhỏ, phân tán, của chế độ tư hữu, của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai

cấp. Đã có nhiều sự tương đồng về cảnh quan, môi trường sinh thái, tập quán

canh tác, tư tưởng tình cảm, thị hiếu… của từng tộc người Lào nói trên với

cư dân Tày Thái ở Việt Nam. Đây cũng là cơ sở để chúng ta có thể lý giải về

những sự tương đồng khác trong sự giao thoa và tiếp biến văn hóa giữa hai

dân tộc Việt - Lào.

Những điều kiện gần gũi về địa lý, tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử, xã

hội có nhiều tương đồng như nói ở trên đã tạo nên những phản ứng văn hóa

giống nhau của người Việt và người Lào, nhất là đối với các cư dân ở vùng

giáp biên giới Việt Nam - Lào. Như đã nói, trong nguồn tục ngữ của hai dân

tộc Việt - Lào xuất hiện những hiện tượng khá lý thú và hấp dẫn. Đó là có sự

trùng lặp hoàn toàn, giống nhau đến từng chi tiết của một bộ phận tục ngữ

Việt và tục ngữ Lào. Câu “Mắt to hơn bụng” (“No bụng đói con mắt”) (TN

Việt) hoàn toàn giống câu “Tà nhày quà thoọng” (“Mắt to hơn bụng”) (TN

Lào); câu “Đường ở cửa miệng” rất giống câu “Thang dù bòn pạc” (“Đường

ở cửa miệng”) (TN Lào). Các câu tục ngữ Việt như: “Nước chảy chỗ trũng”,

“Căng quá thì đứt”, “Nhà dột tại nóc”, “Được mới quên cũ”, “Gà ba tháng

vừa ăn, ngựa ba năm vừa cưỡi”,... đều có các câu tục ngữ Lào tương ứng:

“Nặm xị lảy pay tam hòm”, “Khềng lải măn khạt”, “Hườn hùa ma tè pe”,

“Đạy mày lưm càu”, “Cày xảm đườn phò khạ, mạ xảm pi phò khì”,... Ngoài

ra, một số dân tộc khác ở Đông Nam Á như Thái Lan, Campuchia cũng có

cách nói tục ngữ hoặc là trùng lặp hoàn toàn hoặc là tương tự như tục ngữ

người Việt. Đây là đặc trưng nổi bật thể hiện tính quốc tế của thể loại tục

ngữ. Đây còn là một khía cạnh tương đồng trong nền văn hoá người Việt và

109

người Lào cũng như các dân tộc khác.

Bên cạnh sự giống nhau đến từng chi tiết nói trên, nguồn tục ngữ của

hai dân tộc Việt - Lào còn có một bộ phận đồng nghĩa hoặc gần nghĩa nhau.

Trong những trường hợp này, nội dung và dạng thức của những câu tục ngữ

Việt và những câu tục ngữ Lào đồng nghĩa hoặc gần nghĩa đó cũng không

khác nhau là mấy, chẳng hạn, các câu “Cá lớn nuốt cá bé” (TN Việt) và “Cá

lớn ăn cá bé” (TN Lào); “Dụng nhân như dụng mộc” của người Việt và

“Dùng người như dùng gỗ” hoặc “Chọn người như chọn trứng” của người

Lào; “Cháy nhà ra mặt chuột” (TN Việt) và “Cháy rừng mới thấy mặt

chuột” (TN Lào); “Trăm hay không bằng tay quen” (TN Việt) với “Mười hay

không bằng tay quen” (TN Lào); “Kẻ ăn không hết người lần không ra” (TN

Việt) với “Kẻ ăn thì ăn đến mửa, người đói thì đói đến chết” (TN Lào);

“Treo đầu dê bán thịt chó” (TN Việt) với “Rao thịt trâu bán thịt ngựa” (TN

Lào); “Trêu chó chó liếm mặt” (TN Việt) và “Trêu chó chó liếm miệng” (TN

Lào); “Kiến tha lâu cũng đầy tổ” của người Việt và “Kiến nhỏ tha lâu cũng

đầy tổ” của người Lào,... Thoạt nghe, tưởng chúng tựa như là những biến thể

của nhau nhưng thực chất ở cả hai nước, chúng đều là những câu tục ngữ ở

dạng gốc. Sở dĩ có sự trùng hợp hoàn toàn đó, trước hết là do lối nghĩ và lối

nói của nhân dân hai nước rất giống nhau. Hiện tượng “trùng kiến” này (chữ

dùng của GS. Đinh Gia Khánh) là kết quả của những phản ứng và tiếp biến

văn hoá giống nhau đã tạo cho hai dân tộc có những câu tục ngữ giống nhau

đến từng chi tiết. Đây cũng được coi là một nguyên nhân tạo ra nhiều điểm

tương đồng giữa tục ngữ Việt và tục ngữ Lào. Sự tương đồng về nội dung đó

còn do tục ngữ Việt và tục ngữ Lào đều là một thể loại quan trọng của văn

học dân gian nên giữa chúng vẫn có những đặc điểm chung mang tính thế

110

giới về thể loại.

Như vậy, sự giống nhau trong tục ngữ của người Việt và người Lào

không phải chỉ ở những điều kiện tự nhiên - xã hội giống nhau mà còn do cả

hai dân tộc cùng nói chung một cội nguồn lịch sử.

b) Nguyên nhân thứ hai: Do cùng chung một cội nguồn trong lịch sử.

Theo kết quả của nhiều nhà nghiên cứu thuộc nhiều bộ môn, nhất là bộ

môn ngôn ngữ và dân tộc học thì nguồn gốc của tiếng Việt có quan hệ sâu

sắc với tiếng Lào, một ngôn ngữ dòng Tày Thái. Theo Phạm Đức Dương

[29] và Hà Văn Tấn [153] thì ngôn ngữ Việt Mường chung được hình thành

trong sự hoà quyện giữa cộng đồng Tiền Việt Mường (một ngôn ngữ Môn -

Khơme cổ) với cộng đồng Tày Thái cổ. Do đó, trong tiếng Việt có nhiều từ

Tày Thái và đặc biệt là về cấu tạo ngôn ngữ (từ ngữ âm, từ vựng, ngữ

nghĩa...) rất giống tiếng Lào. Vì vậy, giữa tiếng Việt và tiếng Lào có mối

quan hệ nguồn gốc. Đi xa hơn, Phạm Đức Dương đã phát hiện trong tiếng

Việt những từ chỉ mô hình văn hoá lúa nước đều có gốc chung với tiếng Tày

Thái (có cả tiếng Lào) từ cây lúa, làm thuỷ lợi, công cụ sản xuất, cách làm

sạch gạo và chế biến gạo, các loại rau, cây ăn quả... cho đến tổ chức làng -

nước (và bản - mường), lối ứng xử, các phong tục tập quán,... Nghĩa là người

Việt đã áp dụng mô hình văn hoá lúa nước của người Tày Thái (trong đó có

Lào), đã thể nghiệm thành công ở vùng thung lũng đưa xuống vùng đồng

bằng châu thổ sông Hồng. Vì lẽ đó, mô hình lối sống của hai dân tộc Việt -

Lào là rất giống nhau. Vì vậy, tiếng Lào và tục ngữ Lào với tiếng Việt và tục

ngữ Việt có nhiều điểm tương đồng do cùng một nguồn gốc sinh ra. Và đi xa

hơn thì các dân tộc ở Đông Nam Á đều có chung cội nguồn của nền văn

minh nông nghiệp lúa nước.

c) Nguyên nhân thứ ba: Do tiếp xúc và giao lưu văn hoá.

Sự tương đồng trong tục ngữ của hai dân tộc Việt - Lào không phải chỉ

111

do những điều kiện lịch sử - xã hội giống nhau mà còn do sự thâm nhập, ảnh

hưởng lẫn nhau trong quá trình giao lưu và sáng tạo văn hoá giữa nhân dân

hai nước. Truyền thuyết Quả bầu mẹ không chỉ xuất hiện ở Lào mà còn có

trong kho tàng dân gian người Dao (Việt Nam) và nhiều nước Đông - Nam

Á khác, đã giải thích một cách tự nhiên nguồn gốc anh em giữa các bộ tộc ở

Lào và sự hình thành các dân tộc ở Việt Nam như: Vân Kiều, Tà Ôi, Ê Đê,

Ba Na, Xê Đăng, Khùa, Dao, Mèo, Tày, Khơme, Lào, Thái, Kinh... Cả người

Việt lẫn người Lào đều có chung cội nguồn mô hình trồng lúa nước, chung

hình thức mướn công vốn có từ người Tày Thái. Người Việt sống với nền

văn hoá lúa nước và ứng xử với những nước cùng có chung mô hình văn hoá

này trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á.

Tập quán sống du canh, du cư thường xuyên của cư dân chuyên canh

tác nương rẫy trên địa bàn vùng biên giới, đặc biệt là những vùng đồi núi cao

là hiện tượng phổ biến. Cùng với đó là sức ép của các cuộc bùng nổ dân số

dẫn đến các nhu cầu đi tìm đất mới; sự trốn chạy ách áp bức nặng nề; sự

tranh chấp giữa các tập đoàn thống trị... cũng là nguyên nhân của những đợt

di dân lớn. Từ đó đã làm xáo trộn địa vực cư trú, làm thay đổi bộ mặt phân

bố cư dân và các mối quan hệ giữa các tộc người trong vùng. Chính trong

quá trình đó, văn hóa của các dân tộc đã thâm nhập, ảnh hưởng lẫn nhau.

Nguồn tục ngữ của hai dân tộc nảy sinh một hiện tượng tự nhiên là có sự vay

mượn lẫn nhau rồi được “Việt hoá” hay “Lào hoá” cho phù hợp với đặc điểm

riêng của mỗi nước. Cho tới ngày nay, sự cư trú xen kẽ giữa các dân tộc, và

việc một tộc người sống ở cả hai quốc gia, vẫn đang là hiện tượng của nhiều

vùng dọc biên giới Việt - Lào. Nhiều người Lào vùng Nậm U và Nậm

Khoỏng (Lào) đã sang Việt Nam cư trú để tránh sự truy nã của quân Xiêm từ

thế kỷ XVIII đã sớm hòa hợp với nhân dân địa phương. Do vậy mà có nhiều

địa danh còn tồn tại đến ngày nay như Na Lự (ruộng của người Lự), Na Lào

112

(ruộng của người Lào) ở Điện Biên. Chùa, tháp nổi tiếng như tháp Mường

Và (Tây Bắc Việt Nam) là những dấu vết văn hóa của người Lào sang làm

ăn trên đất Việt. Do quan hệ gần gũi và lâu đời nên người Việt và người Lào

đã hiểu nhau khá sâu sắc. Ở đây, quan hệ đồng tộc, thân tộc đã chi phối

mạnh mẽ các mối quan hệ khác. Bởi vậy, có hiện tượng hình thành từ lâu đời những vùng cư trú của nhóm cư dân có cùng ngôn ngữ văn hoá 12.

Sinh hoạt văn hoá vật chất của người dân hai nước có nhiều nét giống

nhau: từ xây dựng chùa chiền đến thói quen sở thích trong sinh hoạt. Người

Việt thích ăn mắm thì người Lào thích “pà đẹc” (mắm); người Việt thích ăn

gỏi thì người Lào cũng thích “kin cọi” (ăn gỏi); người Việt thích ăn nộm thì

người Lào cũng thích “kin xộm” (ăn nộm)... Thói quen thẩm mĩ của người

Việt và người Lào cũng chẳng mấy khác nhau bởi cùng bị mô hình đó cuốn

vào.

2.2.2. Sự khác nhau

Đúng như tên gọi “Lạn Xạng” (Triệu voi) của dân tộc mình từ thời Phà

Ngừm, Lào là xứ sở của voi rừng và nhiều cây cỏ, chim muông, cầm

thú khác. Địa hình, rừng núi Lào trùng điệp với khí hậu hai mùa rõ rệt: mùa

khô và mùa mưa. Vị trí địa lý đặc biệt của Lào cũng tạo cho đất nước này

những nét văn hoá rất đặc trưng. Vì không có biển nên Lào chỉ tiếp nhận một

cách gián tiếp những ảnh hưởng bên ngoài từ xa đến. Văn hoá Ấn Độ có ảnh

hưởng vào Lào nhưng người Lào cũng không tiếp nhận một cách trực tiếp.

Theo Nguyễn Năm, chất Ấn Độ trong văn hoá, văn học Lào không đậm như

113

với Miến Điện hay Campuchia. Thiên nhiên không đưa lại cho Lào những 12 Ba dân tộc: Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam cũng sử dụng ngôn ngữ Lào Thay, trong đó người Tày chiếm số lượng đông nhất (khoảng 70% cư dân nói tiếng Lào Thay), sau đó đến người Nùng rồi đến tộc người Thái. Ngoài ra, cư dân nói tiếng Lào Thái ở Việt Nam còn có người Cao Lan, Sán Chỉ, Giáy, Bố Y. Nhưng gần gũi với người Lào Lùm về mặt địa lý, sinh hoạt, truyền thống, bản sắc văn hoá là người Kinh ở đồng bằng châu thổ sông Hồng và người Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam.

nguồn lợi từ biển. Cũng vì không có biển nên sự giao lưu, buôn bán của Lào

bị hạn chế, các thành phố ở Lào không mấy phát triển. Từ đó, văn học cung

đình và văn học thành thị không rõ rệt như ở Thái Lan và Campuchia. Do

vậy, văn hoá Lào chủ yếu gắn bó nhiều với mảnh đất dân gian, trong đó tiếng

khèn, các điệu “lăm” (múa), điệu “khắp” (hát) và nguồn tục ngữ đặc biệt

phát triển. Vì vậy, biển với những đặc trưng của nó hầu như rất ít xuất hiện

trong các câu tục ngữ Lào. Lịch sử xã hội Lào đã trải qua nhiều bước thăng

trầm, đi lên từ nền sản xuất nhỏ phong kiến chậm phát triển [140, tr.90].

Trong khi đó, những điều kiện tự nhiên và xã hội Việt Nam lại có

những nét khác biệt với Lào. Việt Nam có biển rộng, khí hậu nhiệt đới gió

mùa, thuận lợi cho nền sản xuất nông nghiệp, nhất là nền nông nghiệp trồng

lúa nước. Cùng trên cơ sở một nền nông nghiệp lúa nước cổ truyền (có cơ

cấu ruộng rẫy), người Lào có một hệ thống thuỷ lợi (mương, phai, lái, lịn)

mềm dẻo, thích nghi với điều kiện tự nhiên hơn là dùng sức người, khác với

hệ thống mương phai của người Việt kết hợp với hệ thống đê điều đồ sộ ở

miền Bắc và kênh rạch chằng chịt ở miền Nam. Về mặt xã hội, tuy cùng một

mô hình nhưng người Việt khác người Lào ở chỗ, người Việt là cư dân đồng

bằng, nhịp sống gấp gáp, nhanh, dân số đông, thường xuyên bị sức ép về dân

số nên có lối ứng xử khác với người Lào đất rộng, người thưa, không bị sức

ép về mặt dân số, cứ “từ từ mà đi” (“khòi khòi pay”) không việc gì phải vội.

Hơn nữa, điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, lối nói, lối nghĩ và tâm

lý dân tộc khác nhau cũng là nguyên nhân tạo nên sự khác nhau giữa tục ngữ

Việt và tục ngữ Lào. Mặt khác, cũng có lý do thuộc về trình độ phát triển của

xã hội. Xã hội Việt Nam thời phong kiến đã có sự phân hoá giai cấp khá gay

gắt, mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng diễn ra quyết liệt. Cạnh đó, mâu

thuẫn và những hiện tượng tiêu cực trong nội bộ nhân dân không phải là

114

không có, có lúc không phải không căng thẳng và kéo dài. Tình hình này ở

Lào lại hơi khác. Trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, đất nước Lào còn

đang ở chế độ phong kiến sơ kỳ, chưa phát triển tới chế độ phong kiến tập

quyền và việc phân hoá giai cấp cũng chưa hoàn chỉnh.

Tiểu kết:

Sự tương đồng về các yếu tố địa - chính trị, địa - kinh tế, địa - văn hoá,

về nhân chủng của cư dân hai nước là những cơ sở, tiền đề tạo nên nhiều nét

tương đồng trong nội dung tục ngữ hai dân tộc Việt - Lào nói riêng, trong

nền văn hoá của hai nước nói chung. Sự giống nhau đó thể hiện khá rõ trên

các bình diện phản ánh. Tục ngữ hai nước phản ánh nhận thức, kinh nghiệm

của con người về thiên nhiên, thời tiết; ngợi ca sự giàu đẹp của quê hương,

đất nước; đúc kết những kinh nghiệm về sản xuất và chăn nuôi; phản ánh các

mối quan hệ gia đình, xã hội phong phú; phê phán những thói hư tật xấu. Sự

hấp dẫn của tục ngữ còn được thể hiện qua hiện tượng trùng lặp hoàn toàn

đến từng chi tiết của một bộ phận tục ngữ hai nước. Những điểm tương đồng

đó như là bản chất chung trong quá trình sáng tạo folklore nhân loại.

Về sự khác nhau, tục ngữ Việt nói nhiều đến văn hoá ăn uống, tục ngữ

Lào đề cập đến việc này ít hơn; tục ngữ Việt phản ánh thực tế người Việt

chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đậm nét, tục ngữ Lào phản ánh thực

tế người Lào chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo nhiều hơn. Trong khi

phản ánh các mối quan hệ gia đình, xã hội, tục ngữ Lào ít nói về quan hệ ông

bà, chú bác. Cùng phản ánh về thời tiết nhưng tục ngữ Lào nói ít hơn tục ngữ

Việt về chủ đề này. Có khi lại tìm thấy sự khác nhau ngay trong sự giống

nhau, chẳng hạn, cùng phản ánh về quê hương, đất nước nhưng rừng, voi và

chùa tháp được tục ngữ Lào nói nhiều hơn; trong khi đó, sông nước và

những kinh nghiệm về sông nước lại được tục ngữ Việt đề cập đến nhiều

hơn. Ta cũng có thể tìm thấy điểm khác nhau như là lẽ tự nhiên xuất phát từ

115

đặc thù dân tộc. Đó là những quan niệm, sở thích, thói quen hoặc kết cấu văn

hoá trồng trọt của mỗi dân tộc có những điểm khác nhau. Cư dân Lào sống ở

vùng thung lũng, làm ruộng nước, có kết cấu ruộng - rẫy (ruộng gắn với

đồng bằng, sông nước, còn rẫy gắn với núi rừng). Người Lào có sở thích ăn

nếp, uống rượu cần, thổi khèn bè, ở nhà sàn, cuộc sống từ tốn, chậm rãi

không vội vã (khòi khòi pay); người Lào thích vui (khồn Lào mắc muồn)

nhưng không ồn ào, thái quá. Trong khi đó, người Việt là cư dân làm ruộng

vùng đồng bằng châu thổ có kết cấu ruộng - vườn gắn với sông nước, kênh

rạch với cuộc sống luôn khẩn trương, vội vã.

Về mặt đức tin tâm linh, người Việt chịu ảnh hưởng của “tam giáo

đồng nguyên”, nhưng dân gian lại đậm màu sắc Phật, Lão; còn Nho giáo lo

việc tổ chức đời sống tinh thần với những trật tự được quy định và ảnh

hưởng tới tầng lớp trên, cho nên tâm lý thích bói toán, tướng số. Ngôi chùa

không chỉ gắn bó với người Lào mà còn gần gũi với cả người Việt: “Đất vua,

chùa làng, phong cảnh Bụt”. Sau này, khi đạo Nho lấn át đạo Phật (thời Lê)

thì ngôi đình Việt lại lấn át ngôi chùa để đảm nhận chức năng văn hoá thì

chùa Việt trở nên vắng vẻ hơn. Còn người Lào lấy Phật giáo làm quốc giáo

nên ảnh hưởng của Phật giáo rất đậm. Đạo Phật đem đến cho người Lào

niềm vui, lễ hội, đức tin, chữ viết...Có thể nói, đạo Phật ảnh hưởng toàn diện

đến cuộc sống của người Lào.

Tìm hiểu nội dung của tục ngữ Việt và tục ngữ Lào, chúng tôi cố gắng

đặt chúng trên cái nền tảng quan trọng ấy. Chúng tôi cũng đã cố gắng giải

116

thích nguyên nhân của sự giống và khác nhau đó.

Chương 3 SO SÁNH NGHỆ THUẬT TỤC NGỮ VIỆT VÀ TỤC NGỮ LÀO

3.1. Trình bày sự giống nhau và khác nhau

3.1.1. Ngữ nghĩa

Lẽ thường, khi nói về ngữ nghĩa của một câu tục ngữ là người ta nói

đến nội dung của chúng. Xét về ngữ nghĩa, phần lớn tục ngữ Việt và tục ngữ

Lào cũng như tục ngữ của nhiều nước khác đều có nghĩa đen và nghĩa bóng.

Nghĩa đen là nghĩa bề mặt, nghĩa cụ thể ban đầu khi người ta gọi tên

sự vật và hiện tượng. Nội dung của câu tục ngữ được toát ra từ chính bản

thân nó mà không có một ngụ ý nào khác, là sự tổng hợp ý nghĩa của từng từ

trong câu, là “tổ hợp nghĩa trên bề mặt với những yếu tố được hiện thực hoá

bằng từ” [63, tr.73]. Nghĩa đen là nghĩa gốc, còn gọi là nghĩa tường minh.

Trong các câu tục ngữ: “Kiến tha lâu cũng đầy tổ”, “Tre non dễ uốn”, “Tức

nước vờ bờ”... nếu xét về từ ngữ thì khá đơn giản. Các từ đều có nghĩa rõ

ràng, hiển minh. Hiểu theo nghĩa đen, tục ngữ mô tả những nhận xét của

nhân dân thông qua sự quan sát và cảm nhận trực tiếp của các giác quan về

đàn kiến tha mồi, về đặc tính của cây tre non, về cái bờ bị vỡ. Vì vậy, nghĩa

khởi thuỷ của tục ngữ được “toát ra từ bản thân sự vật hiện tượng do tục ngữ

ghi lại” [21, tr.25].

Nghĩa bóng của nhiều câu tục ngữ là nghĩa hàm ngôn được phát triển

từ nghĩa định danh. Từ sự quan sát trực tiếp vẻ bề ngoài của một sự vật và

hiện tượng cụ thể (nghĩa đen), các tác giả dân gian đã khái quát thành bản

chất chung cho nhiều sự vật và hiện tượng khác. Nghĩa bóng là nghĩa ẩn dụ,

thường “lặn sâu” đằng sau nghĩa bề mặt, nghĩa hiển ngôn, chẳng hạn như các

câu sau đây: “Có công mài sắt có ngày nên kim”, “Kiến tha lâu cũng đầy tổ”,

117

“Cát lâu cũng đắp nên cồn”, “Tích tiểu thành đại” (TN Việt); “Kiến nhỏ tha

lâu cũng đầy tổ”, “Nhiều cây nhỏ thành rừng”, “Trâu cày ruộng, chó ăn

cơm”... (TN Lào).

Như vậy, từ nhận thức trực quan cảm tính, con người tiếp cận đến

nhận thức lý tính, giai đoạn đầu của tư duy trừu tượng. Không chỉ dừng lại ở

những nhận xét bề nổi, tục ngữ có xu hướng đi sâu vào bên trong để phát

hiện ra bản chất sự vật, khái quát từ những hiện tượng cá biệt, cá thể, bề

ngoài của một sự vật.

Tục ngữ đã mượn những cái cụ thể để miêu tả những cái trừu tượng.

Hầu hết nghĩa bóng là nghĩa biểu tượng được suy ra từ nghĩa đen nhờ óc liên

tưởng thật vô cùng phong phú và bay bổng của con người. Đó cũng là quá

trình tạo nghĩa bóng và mở rộng nghĩa, mang lại cho câu tục ngữ những hàm

ý sâu xa.

Theo Phan Thị Đào [36], nói chung, tục ngữ tồn tại bất biến, khuôn

nào mẫu ấy, nhưng trong thực tế tục ngữ không phải nhất thành bất biến. Đôi

khi khuôn mẫu của tục ngữ bị phá vỡ (do thêm hoặc bớt một yếu tố nào đó)

để chuyển tải một nội dung, một ý nghĩa mới. Câu “Cái khó ló cái khôn” là

sự sáng tạo mới của dân gian trong quá trình tiếp nhận và mở rộng nghĩa

xuất phát từ một câu tục ngữ cổ truyền: “Cái khó bó cái khôn”. Như vậy, từ

một sản phẩm ban đầu, qua nhiều đời, nhiều địa phương mà người tiếp nhận

“tiếp tục gọt giũa hoặc bổ sung, chỉnh lý cho phù hợp với hoạt động thực

tiễn, hoàn cảnh sống và đặc điểm nhận thức, tâm lý của nhân dân mình” [36,

tr.134]. Cách nói hàm ẩn hay hàm chỉ là cách nói hình tượng mà tác giả dân

gian thường dùng với lối ví von bóng bẩy, nhiều ẩn ý. Những câu tục ngữ

nghĩa bóng thường có tính khái quát cao. Ngay trong những câu hiển ngôn,

mặc dù các từ ngữ, thành phần trong tục ngữ đã được hiển thị một cách rõ

ràng nhưng hiểu đúng nội dung của chúng cũng không phải dễ. Đôi khi

118

nghĩa còn được mở rộng, vượt ra ngoài ý nghĩa thông thường, “lặn” đằng sau

dưới những lớp nghĩa và biểu tượng trực tiếp đó. Vì vậy, nghĩa bóng của tục

ngữ lung linh, khái quát. Trong câu “Xúc còn hờm” (“chín trước ương”)

nghĩa đen ví như quả hãy còn xanh, chưa ương mà đã chín rồi. Nghĩa bóng

dùng để chê bai người con gái không chồng mà chửa.

Đều thuộc loại hình ngôn ngữ đơn âm, đa thanh, phần lớn tục ngữ Việt

và tục ngữ Lào đều có cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Các tác giả dân gian

thường lấy các hiện tượng, sự vật và sự việc trong tự nhiên (nghĩa đen) để

nói về con người và cuộc sống của con người (nghĩa bóng). Đó là các câu

“Cá không ăn muối cá ươn”, “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, “Con gà

tức nhau tiếng gáy”, “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, “Đời cua cua

máy, đời cáy cáy đào”, “Kiến tha lâu cũng đầy tổ”, “Máu loãng còn hơn

nước lã”, “Một con sâu làm rầu nồi canh”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ

cỏ”, “Trâu buộc ghét trâu ăn”, “Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”... (TN

Việt) và các câu “Châu chấu chưa đủ sức búng cũng búng, chim thỉ thỉ chưa

đủ sức bay cũng bay”, “Lúc là củ khoai lang ai cũng mó vào, khi là củ ráy

họ bỏ qua”, “Trâu già thích cỏ non”... (TN Lào). Số lượng câu tục ngữ Việt

và tục ngữ Lào có cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng chiếm một tỷ lệ đáng kể (TN

Việt 44%, TN Lào 49%).

Kho tàng tục ngữ của hai dân tộc có một bộ phận chỉ có nghĩa đen mà

không có nghĩa bóng (TN Việt 42%, TN Lào 37%). Ở tục ngữ Việt, bộ phận

đó thường là những lời khuyên răn trực tiếp hoặc đề cập kinh nghiệm về thời

tiết: “Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm”, “Nắng chóng trưa, mưa

chóng tối”; là kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp: “Tôm đi chạng vạng, cá đi

rạng đông”, “Sâu cuốn thì reo, keo cuốn thì khóc”; là những địa phương,

vùng, miền với những địa danh cụ thể: “Dưa La cà Láng, nem Báng, tương

Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét”, “Nhút Thanh Chương, tương Nam

119

Đàn”, “Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai”: “Rét tháng ba bà già chết cóng”,

“Được mùa cau, đau mùa lúa”; hoặc là những sự kiện và nhân vật lịch sử cụ

thể: “Hăm mốt Lê Lai hăm hai Lê Lợi” (TN Việt). Còn đay là các câu tục

ngữ Lào ghi lại tri thức và kinh nghiệm của nhân dân về thời tiết hoặc về con

người: “Sắp mưa trời sáng, sắp hạn trời tối”, “Con dâu thấy mẹ chồng như

thấy quỷ vào nhà”, “Tính nóng nảy sẽ đưa anh xuống thấp”, “Sắp mưa trời

khoe gió, chồng bỏ vu chuyện cho”, “Ơn bố bằng trái núi già, ơn mẹ bằng

trời và đất”, “Nghe vợ mất bà con”, “Lấy chồng tốt hơn ở vậy”. Đôi khi

những câu chỉ có nghĩa đen lại là những lời khuyên trực tiếp: “Đừng nghe lời

nhẹ, đừng lấy lời dễ”, “Đừng dựng nhà gần quan, chớ dựng sàn gần đường

cái, chỗ thiêng liêng đừng dại mà mó vào”... Những kinh nghiệm và lời

khuyên đó ít khi được diễn đạt vòng vo, bóng gió, “hai mặt” mà đi thẳng trực

tiếp vào vấn đề cần nói.

Trong các câu tục ngữ dạng này, ở hai nước, nếu xét về từ ngữ thì quá

đơn giản. Các từ đều rõ ràng, hiển minh nên nghĩa đen của chúng thường là

tổng hợp nghĩa của từng từ mang lại [63, tr.224] .

Ngoài ra, tục ngữ của hai nước còn có số lượng không đáng kể những

câu chỉ có nghĩa bóng. Trong quá trình hình thành và tồn tại, nét nghĩa gốc

(nghĩa đen) của một câu tục ngữ mờ dần, chỉ còn lại nghĩa suy đoán: “Lệnh

ông không bằng cồng bà”. Đôi khi ngay từ khi mới ra đời có câu tục ngữ đã

sống và chỉ sống với một nghĩa bóng mà thôi: “Trăm dâu đổ đầu tằm”, “Đen

đầu thì bỏ, đỏ đầu thì nuôi”, “Gieo gió gặt bão”. Những câu “Đời cha ăn

mặn, đời con khát nước”, “Giỏ nhà ai quai nhà ấy”, “Ông ăn chả bà ăn

nem”, “Rút dây động dừng”, “Tức nước vỡ bờ”, “Tre già măng mọc”, (TN

Việt) và các câu “Chân voi giẫm mỏ chim”, “Gánh thịt đi nộp cho hổ”,

“Khiêng ma đổ nghĩa địa”, “Lươn xin máu của cua”, “Thấy gà có mào vịt

cũng muốn đậu cùng gà”... (TN Lào) hầu như không được dùng theo nghĩa

120

đen mà chỉ được hiểu theo nghĩa bóng. Nghĩa đen chỉ là cái nền để nẩy sinh

nghĩa bóng. Những câu chỉ có một nghĩa bóng (nghĩa hình tượng) chiếm tỷ

lệ rất ít (TN Việt 3%, TN Lào 2%)).

Tục ngữ hai nước Việt - Lào cùng mang tính chung thể loại nên cũng

có hiện tượng đa nghĩa như tục ngữ của nhiều nước trong khu vực Đông

Nam Á. Chúng phát đi những thông điệp đa chiều, nhiều lớp nghĩa. Đây là

bộ phận tiêu biểu nhất của tục ngữ Việt và tục ngữ Lào, bởi hiện tượng đa

nghĩa của tục ngữ cũng không còn hiếm nữa. Câu “Thương chị vị em” (TN

Việt) được hiểu theo hai nghĩa, bởi chữ “vị” có nghĩa “vì”, “vị nể” hoặc

“giúp đỡ”, tuỳ trường hợp dùng:

- Ta thương cô chị bởi vì ta thương cô em nên phải thương lấy lòng cô

chị (thương em là chính).

- Nếu ta thương cô chị thì ta phải vị nể và giúp đỡ cô em để lấy lòng

nó (thương chị là chính).

Ý nói: Vì thương cái này nên phải thương luôn và giúp đỡ cái kia.

Các câu “Kiến tha lâu cũng đầy tổ”, “Có công mài sắt có ngày nên

kim”, “Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”, “Muốn ăn cá, phải thả câu dài”,

“Con biết mách mẹ sạch đầu”... (TN Việt) là những câu đa nghĩa (chiếm

11%), có thể được hiểu và vận dụng trong nhiều hoàn cảnh và tình huống

khác nhau vì khả năng khái quát rất cao của chúng.

Tục ngữ Lào cũng xuất hiện những câu đa nghĩa (chiếm 12%), bởi

chúng có thể được vận dụng vào trong nhiều cảnh huống khác nhau. Câu

“Một con cá ươn làm ươn cả giỏ cá, một cái chiêng vang vang ra cả làng”

vừa phê phán một cá nhân xấu làm ảnh hưởng không tốt đến cả cộng đồng,

vừa có ý xây dựng, khuyên răn con người trong cuộc sống hãy nên mình vì

mọi người mà làm những điều tốt đẹp. Tuy vậy, còn nhiều câu tục ngữ Lào

có thể được hiểu vận dụng trong nhiều hoàn cảnh, tuỳ theo mục đích sử dụng

121

của người nói. Câu “Pết pền phụ khày, cày pền phụ phắc, khị cạ dắc cạ đươn

pền phụ liệng, bun xị đạy kè phảy?” (“Vịt đẻ trứng, gà ấp, giun nuôi, phúc sẽ

về ai” ?) có nghĩa là nhiều người cùng làm ơn cho một người, sau này người

đó thành đạt thì không biết sẽ trả ơn ai. Tuỳ theo từng trường hợp ứng xử cụ

thể mà người nói sử dụng nó với những ý nghĩa khác nhau. Cũng có thể hiểu

rằng, công ơn của nhiều người giúp đỡ, to lớn như trời biển, biết làm thế nào

để báo đền cho được. Tục ngữ Lào có một số câu được sử dụng ở nhiều tình

huống khác nhau. Không những thế, khi nói tuỳ theo sự ngừng ngắt hay âm

sắc lời nói khác nhau có thể làm cho câu tục ngữ chuyển sang một nghĩa

khác. Chẳng hạn, câu “Đuông luổng bò mì mạy, xị àu nhẳng ma pền pà, nặm

xả mụt bò mì hỉn cọn lạn, xị pền kẹng bòn đạy ?” (“Rừng lớn không có cây,

sẽ lấy gì về làm rừng, nước mênh mông mà không có đá tảng thì sẽ thành

ghềnh ở chỗ nào” ?), lúc được hiểu như là một cách đặt vấn đề, khi được

dùng như là lời khen, lúc lại như là lời chê. Thật muôn màu muôn vẻ. Ngoài

ra, câu tục ngữ đó còn được hiểu theo các nghĩa sau đây:

- Không có cây thì không thể gọi là rừng. Nước chảy không có đá chắn

thì không thể thành ghềnh.

- Trong đùa vui trai gái, con gái mà không có con trai làm “vệ tinh”

vây quanh thì không thể gọi là con gái nữa.

- Trong quan hệ ứng xử giữa các thế hệ có sự biết ơn lẫn nhau. Nếu

ông bà mà không có cháu thì không thể thành ông bà được và ngược lại. Câu

này tương tự như câu “Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới

sinh ông” của Việt Nam.

Dù là nghĩa bóng hay đa nghĩa thì nghĩa bao trùm một câu tục ngữ vẫn

là nghĩa khái quát, vì bản chất của tục ngữ là khái quát và là một thể loại

mang tính suy lý rất cao, có thể được vận dụng được trong nhiều tình huống,

122

hoàn cảnh khác nhau.

Tục ngữ Việt và tục ngữ Lào đều có có những câu thể hiện tính quy

luật. Đó là các câu “Nước chảy chỗ trũng”, “Lá rụng về cội”, “Leo cao ngã

đau”... (TN Việt) và các câu “Khềng lải măn khạt, nhan lải măn khoọng”

(“Căng lắm nó đứt, chùng lắm nó vướng”), “Mốt tồ nọi khạm lượi cò têm

hằng” (“Kiến nhỏ tha lâu cũng đầy tổ”), “Nặm lảy hởng hỉn ngơng cò lụi”

(“Nước chảy mãi đá cũng mòn”), “Nặm xị lảy pay tam hòm” (“Nước chảy

chỗ trũng”), “Mạc mạy bò nàu cay tộn” (“Quả chẳng thối xa gốc cây”)... (TN

Lào).

Hiện tượng nhiều câu tục ngữ Việt hoặc tục ngữ Lào đồng nghĩa hoặc

gần nghĩa với nhau cũng không hiếm. Câu “Uống nước nhớ nguồn” đồng

nghĩa với các câu “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ người đào

giếng”. Các câu “Bầu leo, dây bí cũng leo”, “Cá nhảy, ốc cũng nhảy”, “Bò

đông đúc, ngựa cũng đông đúc”, “Dây lang bò, rau muống cũng bò”, “Húng

mọc, tía tô cũng mọc”, “Ngựa lồng, cóc cũng lồng”, “Mành treo, chiếu rách

cũng treo”, “Phượng hoàng đua, chim sẽ cũng đua”, “Thuyền đua, bánh lái

cũng đua”, “Voi đú, chó đú, chuột chù cũng nhảy”, “Voi đú, chó đú, lợn sề

cũng hộc”... gần nghĩa với nhau, cùng nói về sự bắt chước đua đòi vô lối.

Các câu “Nợ máu phải trả bằng máu”, “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”, “Ác

giả ác báo, hậu giả hậu lai”... có ý nghĩa tương tự nhau. Câu “Trống đánh

xuôi, kèn thổi ngược” và câu “Nước chảy xuôi, bè kéo ngược” có nội dung

chẳng khác nhau là mấy. Tuy đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với nhau nhưng

mỗi câu tục ngữ lại có những sắc thái riêng, cần được phân biệt trong sử

dụng. Tục ngữ Lào cũng xuất hiện những trường hợp tương tự, chẳng hạn,

câu “Được mới quên cũ, được rùa quên chó” đồng nghĩa với các câu “Được

cá quên chài, được vải quên khăn”, “Được chim bẻ ná, được cá bẻ cần câu”.

Hiện tượng đồng nghĩa hoặc gần nghĩa nói trên khác biệt với hiện

123

tượng “biến thể” hoặc “dị bản” trong tục ngữ. Hiện tượng “biến thể” thể của

tục ngữ xuất hiện cũng không hiếm. Tuy nhiên, để phân biệt được chúng là

một việc không đơn giản. Theo suy nghĩ thông thường, văn bản do chính tác

giả chép tay là “bản gốc” của một tác phẩm văn học đó. Thông thường, một

bài thơ cũng có thể có nhiều bản chép tay khác nhau và cũng do chính tác giả

chép ra. Có bài thơ được in ở nhiều tờ báo vào những thời gian khác nhau, có

những sửa chữa khác nhau. Thông thường thì bản sửa chữa sau thường hay

hơn bản in lần trước đó. Vì vậy, quan hệ giữa “bản gốc” và các “dị bản” rất

phức tạp và khó phân định, nhất là với những tác giả cổ, cận trung đại hoặc

những tác giả mất đã lâu. Người xưa nói “Tam sao thất bản”. Sự “thất bản”

ấy tạo nên những “dị bản”, vì những lý do sau đây:

- Do người sao chép, người đánh máy, người sắp chữ, người lên vi

tính;

- Để tránh “phạm huý” nên tác giả phải viết chệch hoặc nói chệch với

tên tục, tên thuỵ, tên hiệu của các bậc vua chúa ngày xưa;

- Quá trình chuyển văn bản từ chữ Nôm ra chữ quốc ngữ khó tránh

khỏi những sai lầm, sai sót vì chữ Nôm là chữ có thể cho phép người ta đọc

ra những âm na ná giống nhau;

- Bị cắt xén bởi lưỡi kéo kiểm duyệt của nhà xuất bản, người biên tập;

- Nhiều tác giả sau khi in lại sửa tác phẩm của mình để tạo ra những

bản khác nhau do không bằng lòng với những bản in đã có. Nhưng Thạch

Quỳ cho rằng “đến một lúc nào đó chúng ta sẽ hiểu rằng không có “bản gốc”

và các “dị bản” trong các tác phẩm văn học bởi một lý do duy nhất: Bản gốc

hay dị bản cũng đều do chính tác giả đó viết ra cả” (“Bản gốc và các dị bản”,

Văn nghệ số 45, ngày 15/11/2005, tr.11).

Ta có thể tìm thấy nhiều câu tục ngữ thật khó nhận biết đâu là dạng

gốc (dạng chuẩn), đâu là biến thể, chẳng hạn, câu “Dứt dây động dừng” và

124

câu “Rút dây sợ động dừng”; câu “Gắp than bỏ tay người” với câu “Gắp lửa

bỏ tay người”; câu “Đường ở cửa miệng” và câu “Đường đi ở miệng”... (TN

Việt) và câu “Lòng không ưng, nói tốt cũng là xấu” với câu “Lòng không

ưng, nói vui cũng thành sai”; câu “Được cưỡi voi che lọng thành hoàng tử,

chớ quên kẻ cận thần đi theo chân voi” với câu “Được cưỡi voi che lọng

xanh, chớ quên kẻ cận thần đi theo chân voi” và câu “Được cưỡi ngựa gác

chân trên yên da, chớ quên kẻ cận thần đi theo chân voi”; câu “Muốn ăn cơm

phải làm ruộng, muốn ăn cá phải vãi chài” với câu “Muốn ăn cơm phải làm

ruộng, muốn ăn cá phải đi tìm nước”... (TN Lào).

Thống kê về ngữ nghĩa ở Phụ lục 2 (tr.213) cho thấy, trong tục ngữ

Việt, những câu chỉ có nghĩa đen chiếm 42%, chỉ nghĩa bóng chiếm 3%, có

cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng chiếm 44%, hiện tượng đa nghĩa chiếm 11%

(Hình 4). Còn trong tục ngữ Lào, những câu chỉ có nghĩa đen chiếm 37%,

chỉ nghĩa bóng chiếm 2%, có cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng chiếm 49%, hiện

tượng đa nghĩa chiếm 12% (Hình 5). Điều này cho thấy, tục ngữ hai nước

hầu hết có những điểm tương đồng trên nhiều khía cạnh của ngữ nghĩa, tỷ lệ

về ngữ nghĩa của các câu tục ngữ Việt và tục ngữ Lào không khác nhau là

Hình 4: Ngữ nghĩa tục ngữ Việt

mấy.

Hình 5: Ngữ nghĩa tục ngữ Lào

Nghĩa đen 37%

Đa nghĩa 11%

Đa nghĩa 12%

Nghĩa đen 42%

Nghĩa đen+bóng 44%

Nghĩa bóng 3%

Nghĩa bóng 2%

Nghĩa đen + nghĩa bóng 49%

Nghĩa đen

Nghĩa bóng

Nghĩa đen

Nghĩa bóng

Nghĩa đen + nghĩa bóng

Đa nghĩa

Nghĩa đen+bóng

Đa nghĩa

125

3.1.2. Kết cấu

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, kết cấu tục ngữ là sự “liên kết bên

trong, là nghệ thuật kiến trúc nội dung tác phẩm” [48, tr.106]. Xác định cấu

trúc của một câu tục ngữ thật không đơn giản, bởi trong tục ngữ những hệ từ

liên kết và đôi khi cả những phần cơ bản của câu cũng bị rút gọn. Do hình

thức ngữ pháp của câu tục ngữ người Việt cũng phức tạp và nhiều vẻ nên kết

cấu của chúng thật đa dạng, mỗi dạng không chỉ ứng với một mà có thể ứng

với một loạt câu cùng loại. Vì vậy, cần mô hình hoá một số dạng kết cấu tục

ngữ nhằm khái quát hoá những đặc điểm nổi bật của chúng.

Có nhiều dạng kết cấu một câu tục ngữ. Hoàng Tiến Tựu đã dựa vào

nội dung phán đoán và hình thức ngữ pháp để cho rằng, tục ngữ có cấu trúc

một vế, cấu trúc hai vế, cấu trúc cân đối, cấu trúc lệch và cấu trúc nhiều vế

[180, tr.121], trong đó, dạng cấu trúc hai vế là dạng phổ biến nhất. Vũ Ngọc

Phan (1904 - 1987) lại phân loại tục ngữ theo nội dung hoặc theo chủ đề

[136, tr.38]. Nguyễn Thái Hoà [63, tr.25] đã chia tục ngữ theo quan hệ cú

pháp, không dừng lại ở hình thức mà thường khái quát từ nội dung rồi đưa ra

ba kiểu quan hệ cú pháp và 14 khuôn hình tục ngữ. Đó là kiểu câu có quan

hệ hạn định trực tiếp, kiểu câu có quan hệ so sánh, quan hệ qua lại, phối

thuộc mà biểu hiện phổ biến nhất là kiểu câu có quan hệ sóng đôi. Còn Phan

Thị Đào [36, tr.38] lại chia tục ngữ thành ba dạng kết cấu: kết cấu logic, kết

cấu so sánh, kết cấu đối xứng. Trong mỗi dạng kết cấu, các tác giả lại phân

thành những loại nhỏ hơn. Như vậy, các tác giả đã dựa vào các tiêu chí khác

nhau để phân loại cấu trúc tục ngữ. Do đó, các hình thức kết cấu tục ngữ Việt

cũng hết sức phong phú với nhiều kiểu câu, nhiều khuôn hình, nhiều dạng

thức.

Cấu trúc của tục ngữ Lào không phức tạp lắm. Cấu trúc tối giản nhất

126

của nó cũng phải gồm ba âm tiết, như: “Xúc còn hờm” (“Chín trước ương”).

Cấu trúc dài nhất thường gồm bốn “vắc” (bốn câu). Bốn câu này làm thành

một “bát” (một khổ). Hai câu trên và dưới liền nhau gộp lại gọi là “phương”

(nửa khổ). Một “bát” có hai “phương”: “phương cốc” là hai câu trên của khổ,

“phương pai” là hai câu dưới của khổ. Mỗi “vắc” (câu) gồm hai “tòn” (hai

nhịp). Thực ra, cả bốn “vắc” chính là bốn câu của một khổ thơ.

a) Kết cấu theo vế; kết cấu cân đối, kết cấu lệch

Kết cấu một vế là kết cấu tối giản hay một khuôn hình cơ bản bao gồm

một phán đoán hoặc một phát ngôn. Cấu trúc tối giản nhất của một câu tục

ngữ cũng phải có ba âm tiết, chẳng hạn: “Tham thì thâm”, “Cơm chấm cơm”,

“Túng thì tính” (TN Việt) và “Chín trước ương” (TN Lào).

Cấu trúc một vế của tục ngữ thường gồm những phán đoán có ý nghĩa

bổ trợ cho nhau khi nhận xét về sự giống nhau và khác nhau của nhiều sự

vật, hiện tượng hoặc là những nhận thức về sự phát triển của một sự vật,

thông qua các kiểu quan hệ so sánh không ngang bằng có tính chất lựa chọn

hoặc tương phản bằng một hệ thống quan hệ từ: hơn, khác nào, còn hơn, sao

bằng, thà... còn hơn, chẳng hạn: “Chết trẻ còn hơn lấy lẽ”, “Gái phải làm lẽ

thà chết trẻ còn hơn”, “Chết vinh hơn sống nhục” (TN Việt) và: “Nắm phân

tốt hơn nắm rắm”, “Chết làm ma hơn sống làm tôi mọi”, “Mười nói chẳng

bằng làm”, “Máu thâm còn hơn nước lã”, “Tiền đầy mâm sao bằng trí khôn

đầy bụng”, “Trâu nhà quê không bằng tôi tớ thành thị” (TN Lào).

Cũng có khi cấu trúc một vế trong quan hệ so sánh ngang bằng bằng

một hệ thống quan hệ từ: là, bằng, như, cũng như, giống như (TN Việt); và,

thò, khư, pan, cò khư (TN Lào). Đó là các câu “Vợ hiền như đũa có đôi”,

“Trai có vợ như giỏ có hom”, “Dụng nhân như dụng mộc” (TN Việt) và các

câu “Nạ đeng pan nạ cày tì” (“Mặt đỏ như mặt gà chọi”), “Lúc phạy hển mè

nhà pan phỉ hà khậu hườn” (“Con dâu thấy mẹ chống như thấy qủy vào

127

nhà”) (TN Lào). Đôi khi câu tục ngữ cấu trúc một vế mang ý nghĩa so sánh

mà không cần xuất hiện từ so sánh ngang bậc. Thí dụ: “Người ta là hoa đất”

(TN Việt) và: “Người không chết còn ngàn vàng”, “Đẹp bề ngoài mà hôn

chẳng thơm” (TN Lào).

Phần lớn tục ngữ Việt và Lào có kết cấu hai vế, trong đó có nhiều câu

cấu trúc hai vế cân đối. Cấu trúc cân đối của câu tục ngữ là cấu trúc có số âm

tiết bằng nhau ở hai vế nên đã tạo cho câu tục ngữ tính đối xứng và nhịp

nhàng: “Lấy vợ xem tông/ lấy chồng xem giống” (TN Việt) và: “Kẻ uống

rượu/ người gác thuyền”, “Thợ rèn dùng dao cùn/ thợ nồi dùng nồi vỡ” (TN

Lào). Tính cân đối tạo nên nhịp điệu hài hoà trong mỗi câu. Thí dụ các câu

“Của một đồng/ công một nén”, “Khôn đâu đến trẻ/ khỏe đâu đến già” (TN

Việt) và các câu “Dày cứt voi lọt/ thưa cứt voi vướng”, “Yêu bò hãy buộc/yêu

con hãy đánh”, “Người uống rượu/ kẻ gác thuyền”, “Xấu là phân/ tốt là

ngọc”, “Ăn đừng quên đũa/ ở chớ quên ơn” (TN Lào).

Các câu “Hay ở/ dở đi”, “Ăn lấy chắc/ mặc lấy bền”, “Đi hỏi già, về

nhà hỏi trẻ ”, “Dâu hiền hơn con gái, rể hiền hơn con trai” có hình thức kết

cấu đối nhau, vừa đối thanh (bằng - trắc, bằng - trắc, bằng - trắc, trắc- bằng);

vừa đối nghĩa (có nghĩa từ đơn vừa ngầm mang nghĩa của từ ghép): hay/ dở

= hay dở, ở/ đi = đi ở, đi/ về = đi về, già/ trẻ = già trẻ; dâu/ rể = dâu rể, gái/

trai = trai gái (TN Việt). Và các câu “Sạu đeng/ leng xịu” (“Sáng đỏ/ chiều

xanh”), “Xịn pay/ pa ma” (“Thịt đi cá về”), “Xùa và khị/ đì và kẹo” (“Xấu là

phân/ tốt là ngọc”) cũng vừa đối thanh: trắc - bằng, trắc - bằng, bằng - trắc;

vừa đối từ: sáng/ chiều = sáng chiều, đỏ/ xanh = đỏ xanh; thịt/ cá = thịt cá,

đi/ về = đi về; xấu/ tốt = xấu tốt; phân/ ngọc = phân ngọc (TN Lào). Đôi khi

lại là sự đối lập (đối ý hoặc đối lời) giữa phần nêu và phần báo. Các câu “Đó

đầu đen/ đây máu đỏ”, “Hay thì khen/hèn thì chê”, “Nhiều tiền thì thắm/ ít

tiền thì phai”, “Bán anh em xa/ mua láng giềng gần”, “Dạ trước mặt/ chửi

128

sau lưng”, “Nhà giàu cơm ngày ba bữa/ nhà khó cũng đỏ lửa ba lần”, “Khôn

cho người ta rái, dại cho người ta thương” (TN Việt) và các câu “Bên ngoài

nhẵn như quả trứng gà/ bên trong như quả cà vị ngái”, “Tội mình như núi

sao không nói/ tội người bằng vảy ốc cũng đem chê” (TN Lào) đều thuộc

loại tục ngữ đối nói trên. Phép đối của chúng theo hai bậc. Bậc thứ nhất là

đối ý, bậc thứ hai là đối lời. Ở đây, ta tìm thấy tính đối xứng trong tiếng Việt

và tiếng Lào trong quan hệ giữa các âm vị và hệ thống các thanh điệu. Ngoài

ra, tục ngữ còn có kiểu kết cấu cân đối theo kiểu bổ túc (hai vế song song).

Đó là các câu “Đói cho sạch/ rách cho thơm”, “Khéo ăn thì no/ khéo co thì

ấm”, “Đi với Bụt mặc áo cà sa/ đi với ma mặc áo giấy”, “Hương năng thắp

năng khói/ người năng tới năng thân” (TN Việt) và các câu “Ngọc không

giũa ba năm thành sỏi đá/ bà con không thăm ba năm hóa người dưng”, “Ở

gần muối ăn lá đắng/ ở gần rừng cánh kiến ăn chẳng có”, “Thợ rèn dùng

dao cùn/ thợ nồi dùng nồi vỡ” (TN Lào).

Đó còn là khuôn hình kết cấu sóng đôi ở cả hai vế. Thí dụ các câu

“Con hư tại mẹ/cháu hư tại bà”, “Ở bầu thì tròn/ ở ống thì dài” (TN Việt) và

các câu “Xem người hãy nhìn mặt/ xem vải hãy nhìn diềm”, “Muốn biết lòng

người hãy nhìn thân thể/ muốn biết quan hãy nhìn đầy tớ” (TN Lào). Có cấu

trúc sóng đôi bộ phận, cả hai thành phần kết cấu giống nhau nhưng chức

năng ngữ pháp và ý nghĩa thì khác nhau thông qua các khuôn hình kết cấu

với các từ liên kết chặt chẽ kiểu: “nào... ấy”: “Cha nào con ấy”, “Ăn cây

nào/ rào cây ấy”; “đâu... đấy”: “Vui đâu/ chầu đấy”, “Cha mẹ đặt đâu/ con

ngồi đấy”; “bao nhiêu... bấy nhiêu”: “Làm bao nhiêu/ ăn bấy nhiêu”. Chức

năng liên kết cú pháp của kết cấu tục ngữ sóng đôi có một phần câu được láy

lại để phù hợp với kết cấu toàn phần trước nó. Nói cách khác, cấu trúc sóng

đôi bộ phận có một từ hay cụm từ giống hoặc khác nhau về chức năng:

“Chọn bạn mà chơi// chọn nơi mà ở”, “Một người làm quan/ cả họ được

129

cậy// một người làm bậy / cả họ mất nhờ”, “Muốn ăn hét phải đào giun/

muốn ăn cơm phải làm ruộng” (TN Việt) và: “Muốn ăn cơm phải làm ruộng/

muốn ăn cá phải vãi chài”, “Nhiều cơm bụng căng/ nhiều chăn ngủ ấm” (TN

Lào); hoặc sóng đôi hai phát ngôn của hai vế đều có ý nghĩa tương tự nhau.

Từ hai phát ngôn trở lên liên kết với nhau tạo thành một phát ngôn phức hợp

có cùng một đề tài: “Thịt thơm vì hành/ trăng thanh vì Cuội”, “Nấu thịt

không quên hành/ nấu canh không quên tỏi” (TN Việt) và: “Nhịn lần đầu

thành người sang/ nhịn lần chín thành vàng đỏ”, “Gà đẹp vì lông/ người đẹp

vì điểm trang” (TN Lào). Cấu trúc sóng đôi phát ngôn là loại cấu trúc phổ

biến hơn. Sang chức năng biểu nghĩa của tục ngữ kết cấu sóng đôi, người

đọc chỉ cần “giải mã” một vế (một phát ngôn) là có thể hiểu được toàn bộ nội

dung của cả câu tục ngữ. Câu “Trai Cầu Vồng Yên Thế/ gái Nội Duệ, Cầu

Lim” được “giải mã” như sau: Trai Cầu Vồng Yên Thế thì tài giỏi, gái Nội

Duệ, Cầu Lim thì xinh đẹp và đảm đang.

Kết cấu lệch của câu tục ngữ là kết cấu có số âm tiết không bằng nhau

ở hai vế. Chúng lại có sự gieo vần uyển chuyển nên câu tục ngữ bỗng trở nên

trầm bổng. Thí dụ các câu “Ăn thì mau chân/ việc cần thì đủng đỉnh” (4- 5),

“Giàu cơm ba bữa/ khó cũng đỏ lửa ba lần” (4 - 6), “Cắt dây bầu dây bí/ ai

nỡ cắt dây chị dây em” (5 - 7) (TN Việt) và các câu “Gioọc mả/ mả lia pạc”

(2 - 3) (“Trêu chó/ chó liếm miệng”), “Khun phò thò phu khẩu cạ/ khun mè

thò phạ cắp phèn đìn” (6 - 7) (“Ơn bố bằng trái núi già, ơn mẹ bằng bầu trời

và đất”) (TN Lào).

Không chỉ cùng có kết cấu một vế và hai vế (hai vế cân đối và hai vế

lệch), cả tục ngữ Việt và tục ngữ Lào còn có kết cấu nhiều vế. Ta có thể dẫn

ra một số câu tục ngữ của hai nước thuộc loại này. Đó là các câu “Bố chồng

là lông lợn hạch/mẹ chồng là đách lợn lang/ nàng dâu mới về là bà hoàng

hậu”, “Gái một con trông mòn con mắt/ gái hai con vú quặt đằng sau/ gái ba

130

con chỉ đâu ngồi đấy”, “Người đẹp về lụa/ lúa tốt về phân/ chân tốt về hài/

tai đẹp về hoãn”, “Bố chồng là lông con phượng/ mẹ chồng là tượng mới tô/

nàng dâu là bồ nghe chửi” (TN Việt) và các câu “Voi đẹp ở ngà/ cá ngon ở

thịt/ hổ tốt ở vằn”, “Thẹn với thầy sẽ không được hiểu biết/ thẹn với người

yêu sẽ không được hút thuốc lá/ thẹn với vợ sẽ không có con”, “Mười biết

chẳng bằng quen/ mười con rể chẳng bằng bố vợ/ mười nói chẳng bằng làm,

“Được vợ tốt bằng được ngọc đầy sàn/ được vợ khéo bằng được ngọc chứa

chan cửa nhà/ được vợ nhõng nhẽo bằng bắt lợn đem tra vào chuồng/ được

vợ bóc lột bằng kéo gỗ đằng ngọn”, “Được vợ tốt bằng được ngọc đầy sàn/

được vợ khéo bằng được ngọc chứa chan cửa nhà/ được vợ nhõng nhẽo

bằng bắt lợn đem thả vào chuồng/ được vợ bóc lột bằng kéo gỗ đằng ngọn”

(TN Lào). Từng câu tục ngữ nói trên có thể ngắt ra được thành những câu

riêng biệt mà chức năng và ý nghĩa của chúng vẫn như nhau. Câu tục ngữ

Việt: “Người đẹp về lụa/ lúa tốt về phân/ chân tốt về hài/ tai tốt về hoãn” có

thể tách thành các câu “Người đẹp về lụa”, “Lúa tốt về phân”, “Chân tốt về

hài”, “Tai tốt về hoãn” và câu “Voi đẹp ở ngà/ cá ngon ở thịt/ hổ tốt ở vằn”

có thể ngắt thành ba câu riêng biệt: “Voi đẹp ở ngà”, “Cá ngon ở thịt”, “Hổ

tốt ở vằn”. Câu tục ngữ Lào: “Mười que nhọn chẳng bằng một cái đinh/

mười người biết không bằng một người quen/ mười con rể chẳng bằng một

bố vợ/ mười người đến nói năng không bằng một anh ngồi tán” có thể được

cắt thành những câu sau: “Mười que nhọn chẳng bằng một cái đinh”, “Mười

người biết không bằng một người quen”, “Mười con rể chẳng bằng một bố

vợ”, “Mười người đến nói năng không bằng một anh ngồi tán”.

Tuy vậy, về kết cấu, câu tục ngữ Việt và tục ngữ Lào cũng có những

điểm khác nhau. Tục ngữ Việt ở hai vế cấu trúc lệch nhau (6 - 8), lại gieo

vần đều ở âm tiết thứ sáu (của cả hai vế) có hình thức kết cấu trùng với ca

dao hoặc câu thơ lục bát. Đó là các câu “Thịt tươi thì phải xem gan/ mua bầu

131

xem cuống mới toan không nhầm”, “Đói thì them thịt thèm xôi/ hễ no cơm tẻ

thì thôi mọi đường”, “Được mùa chớ phụ ngô khoai/ đến khi thất bát lấy ai

bạn cùng”. Hình thức kết cấu kiểu này lại không tìm thấy ở tục ngữ Lào.

Đặc biệt, khi hai vế của câu tục ngữ Việt đều có bảy âm tiết thì câu tục

ngữ có kết cấu trùng với câu thơ bảy chữ: “Giàu trong làng trái duyên khôn

ép/ khó nước người phải kiếp cũng theo”, “Gái không chồng như nhà không

nóc/ trai không vợ như cọc long chân”. Nhiều câu tục ngữ Việt có hiện

tượng từ ghép được xé lẻ ra hoặc lồng nhiều cặp tiếng đôi lại với nhau tạo

nên cặp có âm điệu nhịp nhàng, tiếng nọ xoắn xuýt với tiếng kia: “Cắt dây

bầu dây bí, ai nỡ cắt dây chị dây em” (bầu bí - chị em); “Vợ chồng sống gửi

thịt, chết gửi xương” (vợ chồng - thịt xương); “Chồng như giỏ, vợ như hom”

(vợ chồng - giỏ hom); “Chim có tổ, người có tông” (tổ tông); “Lấy vợ xem

tông, lấy chồng xem giống” (tông giống); “Chị em trên kính dưới nhường”

(chị em - trên dưới); “Lệnh ông không bằng cồng bà” (ông bà - lệnh cồng).

Tục ngữ Lào hầu như không có hiện tượng này.

Tuy giống nhau ở chỗ là cùng có kết cấu một vế, hai vế; cấu trúc sóng

đôi, sóng ba, sóng tư, sóng năm như tục ngữ Việt nhưng có một điều khá đặc

biệt là, một số câu tục ngữ Lào kết cấu từ sóng sáu, sóng bảy… đến sóng

mười hai mà tục ngữ Việt hầu như không có. Các vế thuộc dạng kết cấu này

phần lớn có chức năng, ý nghĩa tương tự nhau và dài như một bài thơ. Mỗi

vế của một câu tục ngữ lại có một nội dung hoàn chỉnh, thí dụ các câu “Giạc

kin khậu hạy pục xày phạ lan hỉn/ giạc mì xịn hạy khạ phò, tì mè/ giạc hạy

mì khôn ma vè hạy khạ mù điêu căn/ giạc mì xỉ hạy non đìn cược khị phùn/

giạc mì khoam ùn hạy ạp nặm nham nảo/ giạc kin pa khảo hạy bẹc hẻ khựn

khôộc/ giạc tốc na hôộc hạy khậu vắt phăng thăm” (“Muốn ăn cơm hãy

trồng lúa vào núi đá, muốn ăn thịt hãy giết bố đánh mẹ, muốn có người ghé

thăm hãy giết bạn bè, muốn ăn cá trắng hãy ngủ đất lăn cát, muốn được ấm

132

áp hãy tắm sông khi rét”); “Nốc chắc nỉ chạc tộn mạy/ phọ và tộn mạy nặn

bò mì kìng ngà xả khả/ xạng chắc nỉ chạc thườn/ phọ và thườn nặn bò mì

mạy lày mạy bông/ hổng chắc nỉ chạc xạ/ phọ và xạ nặn bò mì đoọc bua/ phụ

nhing chắc nỉ chạc phủa/ phọ và phủa nặn hả khoam xúc hạy bò đạy”

(“Chim biết bỏ cây bay xa, vì cây chẳng có cành lá rậm rạp, voi biết bỏ rừng

đi mãi, vì rừng chẳng có trúc có mai, hạc biết bay đi khỏi hồ, vì hồ chẳng có

sen đua nở, đàn bà bỏ chồng, vì chồng không mang lại hạnh phúc cho”). Câu

“Thục nừng lúc tài xỉa/ thục xoỏng mia tài chạc/ thục xảm phạc phì noọng

pay cày/ thục xì lôông pay Thày khạ ngua tàng/ thục hạ phủa mia hàng pạ

căn/ thục hôốc pay non vên phạc phì noọng/ thục chết poọng mủ nọi pay

khải/ thục pẹt phò mè tài xẻn khít họt/ thục cạu thục bò mì mia cọt non điêu/

thục xíp thiều thang cày lôổng thang nham khằm/ thục xíp ết phổn tôốc hăm

thăng phạ hoọng/ thục xíp xoỏng chếp buột thoọng bò mì gia” (“Mười hai

điều khổ”: “khổ một, con chết mất rồi; khổ hai, vợ đã lìa đời bỏ ta; khổ ba,

tiễn bạn đi xa; khổ bốn, đi qua xứ Thái buôn bò thồ; khổ năm, chồng vợ đứt

đường tơ; khổ sáu, chỗ ngủ trưa lại nhờ bè bạn; khổ bảy, lùa lợn con mang

bán; khổ tám, bố mẹ chết ngàn thương nhớ; khổ chín, ngủ một mình không

có vợ để ôm; khổ mười, lạc đường thôn, lối xóm ban đêm; khổ mười một,

mưa rền chen sấm sét; khổ mười hai, bụng đau quặn mà chẳng thuốc thang”)

phản ánh tâm thức của người Lào nên được xếp theo thứ tự của nỗi khổ trong

cuộc đời mỗi con người. Có thể nói, kết cấu sóng mười hai ở tục ngữ Lào thể

hiện nhịp điệu chậm rãi, đều đều của cuộc sống người dân Lào.

Như vậy, tục ngữ Lào không chỉ có kết cấu sóng đôi, sóng ba, sóng tư,

sóng năm như tục ngữ Việt mà còn có kết cấu đến sóng mười hai.

b) Các kiểu kết cấu so sánh

So sánh là một thủ pháp nghệ thuật độc đáo của tục ngữ, ca dao và dân

ca. So sánh còn là lối cụ thể hoá những cái trừu tượng; nó còn làm cho lời

133

thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết. Nói cách khác, ở tục ngữ, so sánh là một

phương pháp chủ yếu trong sự diễn đạt tư tưởng và tình cảm của con người.

Tục ngữ so sánh chiếm tỷ lệ đáng kể trong nguồn tục ngữ của hai dân tộc

Việt - Lào; bởi vì cấu trúc tục ngữ là sự liên kết bên trong, là nghệ thuật kiến

trúc nội dung tác phẩm. Tuy nhiên, tuỳ từng góc độ biên soạn và nghiên cứu

tục ngữ mà các tác giả còn có những ý kiến khác nhau về cấu trúc của tục

ngữ so sánh. Có một điều dễ nhận thấy là, ý nghĩa so sánh trong tục ngữ của

người Việt và người Lào thường xuất hiện trong khuôn hình một vế, hai vế,

cũng có khi ở nhiều vế. Kết cấu trúc một vế là kết cấu tối giản gồm những

phán đoán có ý nghĩa bổ trợ cho nhau khi nhận xét về sự giống nhau và khác

nhau của nhiều sự vật, hiện tượng; hoặc là những nhận thức về sự phát triển

của một sự vật, thông qua các kiểu quan hệ so sánh ngang hàng, đồng nhất

(ngang bậc), miêu tả, lựa chọn và tương phản, bằng một hệ thống quan hệ từ:

là, bằng, như, cũng như, giống như, hơn, không bằng, khác nào, khác gì,

thà... còn hơn... (TN Việt) và: mèn (pền), thàu (thò), khư, pan, cò khư, khại

như, đằng, mưởn đằng, koà, bò thò... (TN Lào).

b1) Kiểu câu so sánh ngang bằng

 Dạng “A như B”

Trong tục ngữ Việt và tục ngữ Lào có dạng so sánh “A như B”. Đây là

dạng phổ biến nhất trong kết cấu so sánh. A là cái cần so sánh phần lớn là

tính từ hoặc động từ, B là cái dùng để so sánh. Nội dung của chúng thường

biểu hiện mức độ cao của tính chất và hành động, đưa lại cho người đọc sự

liên tưởng bằng hình ảnh. Có một điều khá lý thú là, có một bộ phận thành

ngữ tiếng Việt trùng lặp hoàn toàn với tiếng Lào, chẳng hạn, các thành ngữ:

“ác như hùm” (rất ác) của tiếng Việt giống với “hột khư xửa” (ác như hùm)

của tiếng Lào, “lạt như nước ốc” (rất lạt) của người Việt trùng khớp toàn bộ

với “chựt chang khư nặm xọ bạt” (“lạt như nước ốc”) của tiếng Lào; những

134

câu “ngọt như mía lùi” (rất ngọt), “ngu như bò” (rất ngu dốt), “nhẵn như đít

bụt” (rất nhẵn)... của tiếng Việt đều có những câu tiếng Lào tương ứng: “vản

pan nặm ọi” (“ngọt như mía lùi”); “ngô khư ngua” (“ngu như bò), “kiệng

khư cộn phụt” (“nhẵn như đít bụt”); hoặc những câu “hò như hò đò” (gọi rất

nhiều), “học như vẹt” (học thuộc lòng làu làu mà không hiểu gì), “đau như

cắt thịt” (rất đau)… của tiếng Việt lần lượt đồng nghĩa với những câu của

tiếng Lào như: “hoọng khư hoọng hưa” (“hò như hò đò”), “hiên khư nốc

khẹc” (“học như vẹt”), “chếp khư tắt xịn” (“đau như cắt thịt”),... Ngoài ra,

cái cần so sánh (A) cũng có khi là danh từ hoặc bằng kết cấu chủ vị, như các

câu “Lòng vả cũng như lòng sung”, “Lòng trâu cũng như dạ bò” của TN Việt

và câu “Nạ đeng pan nạ cày tì” (“Mặt đỏ như mặt gà chọi”) của TN Lào;

hoặc các câu “Gái gặp trai như thài lài gặp cứt chó”, “Anh em như chân với

tay”, “Đẹp như rối không mối không xong”, “Chồng như giỏ, vợ như hom”,...

(TN Việt) và các câu “Khoam pạc vản chọi chọi, chày xộm đằng mạc nao”

(“Lời nói ngọt lừ, lòng dạ chua như chanh”); “Lúc phạy hển mè nhà, pan phỉ

hà khậu hườn” (“Con dâu thấy mẹ chồng như thấy quỷ vào nhà”); “Ại noọng

khing khư tin lẹ mư” (“Anh em ruột như chân với tay”),... (TN Lào).

Trong nguồn tục ngữ của hai dân tộc Việt - Lào có một bộ phận kết

cấu so sánh dạng “A như B” giống nhau hoàn toàn đến từng chi tiết. Câu

“Xạy khồn khư xạy mạy” (“Dùng người như dùng gỗ”) (TN Lào) giống câu

“Dụng nhân như dụng mộc” (TN Việt); cách so sánh của câu “Khun phò thò

phu khẩu cạ, khun mè thò phạ cắp phèn đìn” (“Ơn bố bằng trái núi, ơn mẹ

bằng trời và đất”) của người Lào và câu “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa

mẹ như nước trong nguồn chảy ra” của người Việt không khác nhau là mấy.

Cả hai dân tộc đều lấy trời, đất, biển cả..., những khái niệm rộng lớn, không

cùng để so sánh. Lối nói bóng bẩy, nhiều hình tượng này tiếng Lào gọi là

tôông xtôi pha xít. Trong tục ngữ, giữa hai vật so sánh bao giờ cũng có một

135

mối liên hệ nội tại, một liên tưởng về ý niệm bên trong. Bằng phương pháp

so sánh trực tiếp và cụ thể hoá, cái vô hình trở thành cái hữu hình. Các câu

“Đủng đỉnh như chĩnh trôi sông” (1), “Lò dò như cò ăn đêm” (2), “Lừ đừ

như ông từ vào đền” (3) của tục ngữ Việt, những cái trừu tượng và vô hình

đều được cụ thể hoá thông qua việc lựa chọn những cái thật điển hình và đặt

nó trong một hoàn cảnh điển hình để so sánh. Cái chĩnh ở câu (1) được đặt

trong hoàn cảnh điển hình (trôi sông) nên tính “đủng đỉnh” của nó bộc lộ rõ

hơn ở hoàn cảnh khác; con cò trong câu (2) vì phải đi “ăn đêm” nên mới phải

“lò dò”. Khi “vào đền”, ông từ trong câu (3) mới “lừ đừ”, vì với ông, vào đền

chỉ là để hưởng “lộc” chứ không có việc gì phải vội cả. Các tác giả dân gian

đã chọn những hoàn cảnh điển hình để đặt nhân vật vào đó cho sát thực.

Ngoài ra, tục ngữ Việt và tục ngữ Lào còn dùng phương pháp so sánh trực

tiếp nhưng vẫn đảm bảo sự “tế nhị”, kín đáo. Đó là những câu phê phán thói

lười biếng mà không gọi tên thói xấu ấy ra, như các câu “Ăn như thợ ngoã,

làm như ả chơi trăng”, “Ăn thì ăn những miếng ngon, làm thì chọn việc cỏn

con mà làm”, “Ăn như thuyền chở mã, làm như ả chơi trăng” của người Việt

và câu “Ợn kin lèn xày, ợn xạy lèn nỉ” (“Gọi ăn chạy vào, bảo làm chạy đi”)

của người Lào. Phê phán kẻ lười biếng thì phải chọn những kiểu người ăn

khoẻ mới làm tăng thêm sự lười nhác của họ. Theo Vũ Ngọc Phan, ngoài lối

so sánh trực tiếp, tục ngữ còn sử dụng thủ pháp so sánh gián tiếp, tức nghệ

thuật ẩn dụ. Đây là một phương pháp nghệ thuật tế nhị hơn, được sử dụng ở

ca dao nhiều hơn ở tục ngữ. Tuy nhiên, ta cũng có thể tìm thấy một số câu

tục ngữ so sánh kiểu này như: “Nước chảy xuôi, bè kéo ngược”, “Tằm vương

tơ, nhện cũng vương tơ”, “Nước có nguồn, cây có gốc”, “Voi đú, chó đú,

chuột chù cũng nhảy”... của người Việt; và: “Nặm khựn hưa phu” (“Nước

lên thuyền nổi”), “Xạu đeng leng xịu” (“Sáng đỏ chiều xanh”), “Ngam tè hụp

chụp bò hỏm” (“Đẹp bề ngoài mà hôn chảng thơm”), “Kiệng tè noọc thang

136

nay pền mạc đừa” (“Chỉ nhẵn bên ngoài bên trong như quả sung”)... của

người Lào. Cạnh đó, trong một số trường hợp, thành ngữ so sánh lại là một

bộ phận hợp thành tục ngữ: “Rẻ như bèo nhiều heo cũng hết”, “Xấu như ma

vinh hoa cũng đẹp”, “Sắc như mác không bạc cũng cùn”, “Đẹp như tiên

không tiền cũng xác”. Theo Phan Thị Đào [36, tr.56], trong các câu “Trai có

vợ như giỏ có hom”, “Con có cha như nhà có nóc”, “Quân không tướng như

hổ không đầu”, về hình thức “Trai có vợ” cũng như “Giỏ có hom”, “Con có

cha” cũng như “Nhà có nóc”, “Quân không tướng” cũng như “Hổ không

đầu”; nhưng về nội dung thì đấy là những câu có nghĩa tương đương (dạng

“A giống như B). Như chúng ta đã biết, tục ngữ không chỉ phản ánh muôn

mặt của con người mà còn giúp người đọc nhận thức được những giá trị của

đời sống. Câu “Cơm không rau như đau không thuốc” đã chỉ ra sự cần thiết

của rau đối với bữa cơm của mỗi người Việt Nam; các câu “Thịt không hành

như canh không mắm”, “Thịt trâu không tỏi như ăn gỏi không rau mơ” phản

ánh những kinh nghiệm trong ẩm thực của con người. Thủ pháp liên tưởng,

so sánh trong tục ngữ rất cụ thể, sát thực tế bởi từ “như”, chứ không phải từ

“là” mang ý nghĩa đồng nhất. A là cái được nhấn mạnh, cái cần so sánh, còn

B là cái đưa đẩy, gợi hứng, cái dùng để so sánh. Tuy nhiên, tuỳ từng hoàn

cảnh cụ thể mà chức năng của chúng có thể bị thay đổi do mối quan hệ giữa

chúng chỉ mang tính tương đối. Vì vậy, câu có kết cấu so sánh dạng “A như

B” đồng nghĩa với câu dạng “A cũng như B”, “sự tương đồng giữa A và B là

sự tương đồng về hình thức còn về thực chất, chúng là những hiện tượng

khác loại” [36, tr.58]. Tuy vậy, quan hệ giữa hai vế trong câu dạng “A cũng

như B” là mối quan hệ đồng đẳng, A và B gần nhau về loại hơn, chẳng hạn:

“Lòng trâu cũng như dạ bò”, “Lòng vả cũng như lòng sung”, “Lòng bí cũng

như ruột bầu”. Tuy không có dạng “A như B” và không xuất hiện từ so sánh

nhưng những câu “Ngài khác gì tằm”, “Sống đục sao bằng thác trong”,

137

“Ruộng giữa đàng, chồng giữa làng” (TN Việt) và các câu “Tồ bò tài nhăng

khăm phăn nừng” (“Người không chết còn ngàn vàng”), “Mạc đừa xúc hựa

hặn bò vản, mạc mị mạc tạ can xẹp xọi, hụp hại tè khun kham neo pạ xợt, xổ

ngam khun khà nọi đằng nặn bò thử heng” (“Quả sung chín nhiều mà chẳng

ngọt, quả mít trông chướng mắt mà ngon lạ, hình thức xấu nhưng lại là giống

quý giá, đẹp mã mà giá trị ít như sung chẳng đáng trọng”) (TN Lào) vẫn

mang ý nghĩa so sánh. Trong một số trường hợp, thủ pháp tỉnh lược, tức bớt

bỏ đi một số từ cho gọn câu lại là lối diễn đạt kiệm lời nhất, bởi “ngắn gọn là

yêu cầu, đồng thời là đặc điểm nổi bật nhất xét về phương diện nghệ thuật

của tục ngữ” [34, tr.88]. Do đó, một số câu tục ngữ Việt và Lào đã được bớt

đi một số từ cơ bản (đương nhiên cấu trúc của chúng cũng khác dạng đi)

nhưng nội dung của chúng vẫn không thay đổi, thí dụ: “Miệng nam mô, bụng

đầy bồ dao găm”, (tuy... nhưng), “Người sống (hơn) đống vàng”. Trong các

hình thức tỉnh lược của tục ngữ kết cấu so sánh, sự giản lược cặp từ so sánh

“cũng như” vẫn làm cho nội dung các câu “Già được bát canh, (cũng như)

trẻ được manh áo mới”, “Cơm có bữa (cũng như) chợ có chiều”, “Buôn có

bạn, (cũng như) bán có phường”, “Thịt trâu không tỏi, (cũng như) ăn gỏi

không rau mơ”... mang ý nghĩa so sánh và có kết cấu dạng “A cũng như B”.

Ý nghĩa so sánh tồn tại ngay trong bản thân câu nói. Đôi khi tục ngữ còn sử

dụng hình thức so sánh gián tiếp, ẩn dụ, thí dụ: “Có trăng quên đèn”, “Tre

non dễ uốn”, “Giấy rách giữ lề”. Đối tượng nhận thức bị ẩn đi một cách kín

đáo. Những câu tục ngữ này có khả năng nói về những vấn đề trừu tượng

một cách sống động, mang lại những hình ảnh rõ rệt, hợp với lối nghĩ của

nhân dân. Nhờ liên tưởng, những hình ảnh tưởng là xa lạ bỗng trở nên gần

gũi. Nhiều câu tục ngữ so sánh gồm có hai vế, trong đó có câu có kết cấu

theo kiểu bổ túc (hai vế song song), thí dụ: “Đói cho sạch, rách cho thơm”,

“Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”, “Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc

138

áo giấy”. Nhiều khi là sự đối lập giữa phần nêu và phần báo trong các câu có

kiểu so sánh mang tính chất tương phản, chẳng hạn: “Đó đầu đen, đây máu

đỏ”, “Hay thì khen, hèn thì chê”, “Nhiều tiền thì thắm, ít tiền thì phai”, “Bán

anh em xa, mua láng giềng gần”, “Dạ trước mặt, chửi sau lưng”, “Nhà giàu

cơm ngày ba bữa, nhà khó cũng đỏ lửa ba lần”... Đó còn là khuôn hình kết

cấu sóng đôi ở cả hai vế: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”, “Chọn bạn mà

chơi, chọn nơi mà ở”, “Rau cần ăn tái, rau cải ăn nhừ”. Những hiện tượng

nói trên cũng xuất hiện khá phổ biến trong tục ngữ Lào, thí dụ: “Thức ăn để

lâu hay thối, chuyện cũ chẳng nói hay quên”, “Có chồng hãy khéo khen, có

em hãy khéo dỗ”, “Thiên đàng ở trong ngực, địa ngục ở trong tâm”... Trong

nhiều trường hợp, mối quan hệ giữa hai vế đó phản ánh phương pháp suy

nghĩ bằng liên tưởng và bằng tỷ dụ của nhân dân, thí dụ: “Mất lòng trước,

được lòng sau” (về được với mất), “Đàn bà không biết nuôi heo đàn bà

nhác, đàn ông không biết buộc lạt đàn ông hư” (về sự vụng về của đàn ông

và đàn bà), “Gái thương chồng đang đông buổi chợ, trai thương vợ nắng

quái chiều hôm” (về tình thương vợ chồng) của người Việt; và: “Khun phò

thò phu khẩu cạ, khun mè thò phạ cắp phèn đìn” (“Ơn bố bằng trái núi già,

ơn mẹ bằng trời và đất”) so sánh công lao của cha mẹ với trời đất, “Thang

noọc kiệng khư khày cày, thang nay khư mạc khửa khừn” (“Bên ngoài nhẵn

như quả trứng gà, bên trong như quả cà vị ngái”) về sự đối lập bên ngoài với

bên trong, “Tính dữ thành ma, tính hiền thành bụt” về tính hiền và dữ... của

người Lào.

Như vậy, trong nguồn tục ngữ của hai dân tộc Việt - Lào, những câu

có dạng “A như B” chiếm một vị trí đáng kể trong kết cấu so sánh. Trong kết

cấu so sánh đó, A là cái cần được so sánh, cần được nhấn mạnh lại thể hiện ý

nghĩa cơ bản của câu tục ngữ; hay nói một cách khác, trọng tâm nghĩa nằm ở

A chứ không phải ở B. Về bản chất, A và B lại là những hiện tượng khác

139

loại. Tuy nhiên, tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể và mục đích cần nhấn mạnh mà

chức năng của chúng có thể bị thay đổi, bởi quan hệ giữa chúng vốn hơi lỏng

lẻo.

Tục ngữ Việt và tục ngữ Lào không chỉ cùng có kết cấu sóng đôi như

nói ở trên ở trên mà còn cùng có cấu trúc sóng ba, sóng tư, sóng năm, thí dụ,

câu “Bố chồng là lông con phượng/ mẹ chồng là tượng mới tô/ nàng dâu là

bồ nghe chửi”; “Bố chồng là lông lợn hạch/ mẹ chồng là đách lợn lang/ nàng

dâu mới về là bà hoàng hậu” (TN Việt) và các câu “Đạy mia đì pan đạy xốp

thảy khảng/ đạy mia xàng phủa nùng phạ máy/ na heng nhày cạ xăm heng

lửa” (“Được vợ tốt bằng được lưỡi cày gang, được vợ khéo chồng choàng áo

lụa, ruộng càng to mạ cấy càng thừa”), “Nảo lôm hồm phạ/ nảo năm phạ

phỉng phay/ nảo chày du nhạc” (“Rét vì khó, đắp chăn, rét vì mưa, sưởi lửa,

rét vì lòng người, ở khó”) đều cùng có cấu trúc sóng ba; các câu “Nam mô

một bồ dao găm/ một trăm ngọn mác/ một vác dao bầu/ một xâu thịt chó”,

“Bán mít chợ Đông/ bán hồng chợ Tây/ bán mây chợ Huyện/ bán quyến chợ

Đào” của người Việt và các câu “Đạy mia xàng pan kẹo khun làng/ đạy mìa

xàng pan keo khun hươn/ đạy mia bít bươn pan cụm mủ khậu khoọc/ đạy mia

boọc loọc pan kè mạy thang pai” (“Được vợ tốt bằng được ngọc đầy sàn,

được vợ khéo bằng được ngọc chứa chan cửa nhà, được vợ nhõng nhẽo bằng

bắt lợn đem tra vào chuồng, được vợ bóc lột bằng kéo gỗ đằng ngọn”),

“Quang kin mạc khảm pọm/ phặt pay kha cộn lạ mằng/ lạ mằng khị bò đay/

xảm mự cạ tài tai” (“Con nai ăn quả me rừng, lại đi dắt đít con hươu sao,

hươu sao “ị” chẳng ra, ba ngày thỏ chết”) của người Lào cùng có cấu trúc

sóng tư. Các câu tục ngữ Việt như: “Nam mô một bồ dao găm/ một trăm con

chó/ một lọ mắm tôm/ một ôm rau húng/ một thúng rau răm”, “Đau bụng có

ngú/ đau vú diếp rừng/ đau lưng hổ cốt/ đau nhọt lá lang/ đau sang mấu

chó” và câu “năm điều khó” của tục ngữ Lào như: “Thiều thang cay giạc

140

nặm, nị cò nhạc/ puột mạn cay mỏ da/ hết na thồng nặm thuộm khạu, nị cò

nhạc/ giạc lạu bò mì kin, nị cò nhạc/ phổn tốc lin puột thoọng khị, nị cò

nhạc” (“Đi chơi đường xa khát nước, vậy cũng khó; đau lá nách xa thầy

thuốc, vậy cũng khó; làm ruộng ở cánh đồng ngập lụt, vậy cũng khó; muốn

uống rượu mà chẳng có, vậy cũng khó; mưa to đau bụng muốn “ị”, vậy cũng

khó”) của người Lào cũng đều thuộc kết cấu sóng năm. Có thể nói, kết cấu

sóng đôi, sóng ba, sóng tư, sóng năm là hiện tượng khá phổ biến trong tục

ngữ Việt và tục ngữ Lào.

 Dạng “A là B”

Tục ngữ dạng “A là B” nhằm khẳng định hoặc đồng nhất các phán

đoán khi so sánh. Tỷ dụ là một trong những phương thức tu từ có hiệu quả

của tục ngữ thuộc dạng này. Bằng thủ pháp so sánh trực tiếp, đối tượng so

sánh có mặt bên cạnh đối tượng được làm tỷ dụ hoặc đối tượng so sánh được

rõ hơn. Câu “Người là vàng của là ngãi” khẳng định giá trị của con người;

trong các câu “Thật thà là cha quỷ quái”, “Thật thà là cha dại”, sự thật thà

được đồng nhất với sự dại dột và quỷ quái. Câu “Đắt là quế, ế là củi” của

người Việt và các câu “Xùa và khị, đì và kẹo” (“Xấu là phân, tốt là ngọc”),

“Chày hại pền phỉ, chày đì pền phạ chậu” (“Xấu bụng là ma, tốt bụng là

Phật”) của người Lào đều có nội dung và dạng thức tương tự nhau.

 Dạng “A bằng B”

Trong câu tục ngữ kết cấu so sánh dạng “A bằng B” thì dạng “1A bằng

1 B” chiếm một vị trí đáng kể. Trong kết cấu dạng này, B dứt khoát hơn A

về số lượng, chẳng hạn: “Một miếng giữa đàng bằng một sàng xó bếp”, “Một

giọt máu đào hơn ao nước lã”, “Một người hay lo bằng một kho hay làm”,

“Một miếng khi đói bằng một gói khi no”... Còn “bằng” ở đây không hoàn

toàn là sự ngang bằng về số lượng mà là sự ngang bằng về tính chất. Trong

hai câu “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”, “Một miếng giữa đàng

141

bằng một sàng xó bếp”, tuy B hơn A về lượng (một sàng >một miếng; một

gói >một miếng) nhưng giá trị và phẩm chất của sự vật (miếng ăn) ở A lại

lớn hơn B, bởi chúng xuất hiện khác nhau về thời điểm (khi đói và khi no)

hoặc về vị trí (ở giữa làng và ở xó bếp). So sánh là “bằng” đấy mà ý nghĩa lại

“không bằng”, sự hơn hoặc kém đó thông qua từ phủ định “không bằng”

hoặc “hơn”, “kém”. Hai câu trên có thể được hiểu là “Một miếng khi đói hơn

một gói khi no” hoặc “Một gói khi no không bằng một miếng khi đói”; “Một

miếng giữa làng hơn một sàng xó bếp” hoặc “Một sàng xó bếp không bằng

một miếng giữa làng”. Tục ngữ Lào ít thấy kiểu so sánh dạng “1 A bằng 1B”

nhưng kiểu “A bằng B” không phải là không có: “Khun phò thò phu khẩu cạ,

khun mè thò phạ cắp phèn đìn” (“Ơn bố bằng trái núi, ơn mẹ bằng trời và

đất”). Trong tục ngữ so sánh kiểu “A bằng B”, thì những câu dạng “1A bằng

3 B” xuất hiện khá nhiều. Tục ngữ không chỉ phản ánh lối sống thời đại mà

còn in dấu lối nghĩ, lối nói của nhân dân. Cách diễn đạt bằng phương pháp tả

thực của người Việt thông qua những hình ảnh gần gũi hàng ngày đã làm cho

câu tục ngữ trở nên dễ hiểu và quen thuộc. Họ không nói “ăn cà rất độc” mà

nói “một quả cà bằng ba thang thuốc”; không nói “tiền thóc đắt hơn tiền gà”

nhưng nói “một tiền gà bằng ba tiền thóc”; không nói “sảy thai rất có hại”

mà nói “một lần sa bằng ba lần đẻ”… khi đề cập đến các tác hại. Con số 3 là

biểu trưng cho số nhiều. Chỉ một lần thôi mà tác hại hoặc lợi ích lại gấp lên

nhiều lần. Các câu “Một năm chăn tằm bằng ba năm làm ruộng”, “Một sào

nhà bằng ba sào đồng”, “Một mẹ già bằng ba rào giậu”, “Một đời làm lại

bại hoại ba đời”… (TN Việt) có ý nghĩa so sánh về những giá trị. Trong sự

so sánh ấy, số lượng ở A rất ít (thường là 1), số lượng ở B rất nhiều nhưng

giá trị ở A lại lớn hơn B nhiều lần. Chính điều lý thú này của tục ngữ Việt đã

trở nên phổ biến, trong khi tục ngữ Lào hầu như không có cấu trúc cùng loại.

Một dạng nhỏ hơn của kiểu “A bằng B” là những câu tục ngữ kết cấu

142

so sánh dạng “1A bằng n B”, trong đó n là biểu trưng cho số nhiều nhưng rất

linh hoạt; khi n là 10 ta có câu “Giàu người bằng mười giàu của”; khi n là 5

hoặc 9, ta cũng có các câu “Một đêm nằm bằng năm đêm ở”, “Một nong tằm

bằng năm nong kén, một nong kén bằng chín nén tơ”… (TN Việt); và câu

“Một con rể bằng mười bố vợ” (TN Lào). Đôi khi từ so sánh “bằng” bị giản

lược nhưng ý nghĩa của câu tục ngữ vẫn không thay đổi, chẳng hạn: “Một lần

ngại tốn, bốn lần không xong”, “Một đống khoai, hai đống vỏ”, “Một đời ta

muôn vàn đời nó”, “Một đời kiện chín đời thù” (TN Việt) và: “Hết na mốt pi,

phay mạu lạu khậu” (“Làm ruộng cả năm, cháy cả vựa thóc”) (TN Lào).

b2) Kiểu câu so sánh không ngang bằng

 Dạng “A không bằng B” hoặc “A thua B”

Trong các hình thức kết cấu so sánh không ngang bằng của tục ngữ,

dạng “A không bằng B” hoặc “A thua B” cũng chiếm một số lượng đáng kể.

Ý nghĩa cơ bản của câu tục ngữ dạng này được toát ra từ B chứ không phải

từ A. Nói cách khác, B chứa đựng nội dung chính của câu tục ngữ. Nội dung

của chúng lại hiểu theo dạng “B hơn A” hoặc “A kém B”: “Lệnh ông không

bằng cồng bà” Lệnh của bà (có tác dụng) hơn lệnh của ông; “Ruộng bề bề

không bằng có nghề trong tay”  Nghề trong tay (quý) hơn nhiều ruộng đất;

“Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông”  Bà nuôi ông (tốt) hơn con nuôi

cha; “Phép vua thua lệ làng”  Lệ làng (có uy) hơn phép vua. Đó là những

câu so sánh trực tiếp, nhưng cũng có những câu so sánh gián tiếp như: “Giặc

bên Ngô không bằng bà cô bên chồng”  Bà cô bên chồng (đáng sợ) hơn

giặc Ngô; “Giàu thú quê không bằng ngồi lê kẻ chợ”  Ngồi lê ở thành phố

(giàu) hơn sống ở nông thôn,… (TN Việt); và các câu “Ngân têm pha bò thò

phạ nha têm pun” (“Bạc đầy mâm không bằng trí khôn đầy bụng”)  Trí

khôn quý hơn tiền bạc; “Khoai bạn noọc bò thò khị khoọc nay mương”

143

(“Trâu nhà quê không bằng tôi tớ thành thị”)  Tôi tớ thành thị quý hơn trâu

nhà quê; “Xíp pạc vạu bò thò tà hển” (“Mười lời nói chẳng bằng mắt thấy”)

 Mắt thấy tốt hơn mười miệng nói (TN Lào).

Tóm lại, các câu tục ngữ so sánh dạng “A không bằng B”, “A chẳng

bằng B” hoặc “A thua B” (“B hơn A” hoặc “A kém B”) đều mang ý nghĩa so

sánh hơn, thua.

Khi nhấn mạnh đến những giá trị ở B, nội dung câu tục ngữ so sánh

dạng “Trăm A không bằng B” của tục ngữ Việt tương đồng với tục ngữ Lào

có dạng “Mười A không bằng một B”. Nội dung của chúng được hiểu “B

hơn A”. Đó là các câu “Trăm hay không bằng tay quen”, “Trăm con trai

không bằng lỗ tai con gái”, “Trăm nghe không bằng một thấy”, “Trăm đom

đóm chẳng bằng một bó đuốc”,... (TN Việt) và các câu “Xíp hụ bò thò khơi”

(“Mười hay chẳng bằng quen”), “Xíp pạc vạu bò thò tà hển” (“Mười miệng

nói chẳng bằng mắt thấy”), “Xíp mạy mẹn bò thò mư thởng” (“Mười que

khều không bằng một tay với”), “Xíp pạc vạu bò thò ta hển/ xíp ta hển bò thò

mư căm” (“Mười nói chẳng tầy mắt thấy/ mười mắt thấy chẳng tầy tay cầm”)

(TN Lào).

Người ta có thể phân chia tục ngữ so sánh kiểu “A không bằng B”

thành những dạng nhỏ hơn như “ n A không bằng B”, trong đó n được sử

dụng “thoáng” hơn. Câu “một kho vàng không bằng một nang chữ” khẳng

định tri thức quý hơn vàng bạc; còn câu “thua thầy một vạn không bằng kém

bạn một ly” lại phản ánh tâm lý không thoải mái khi thua kém bạn bè; câu

“một gàu nước tát không bằng một hạt nước mưa” đề cao giá trị của nước

mưa với cây trồng; câu “mười nói chẳng bằng một làm” đánh giá cao hành

động thực tiễn (TN Việt); và câu “chín lần mười lần quanh co không bằng

một lần ngay thẳng” (TN Lào) coi trọng sự thật thà. Lượng ở A tuy nhiều,

lượng ở B tuy ít nhưng B lại hơn hẳn A về chất, về giá trị hoặc ích lợi. Cùng

144

có dạng “10 A không (chẳng) bằng B”, nhưng ta có thể tìm thấy nhiều thí dụ

trong tục ngữ Lào hơn tục ngữ Việt, như: “Xíp mạy lẻm bò thò nừng lếc pụ,

xíp phụ hụ bò thò nừng phụ khơi, xíp lúc khởi bò thò lúc phạu, xíp phụ ma

pạc vạu bò thò chậu nằng cha” (“Mười que nhọn chẳng bằng một cái đinh,

mười người biết không bằng một người quen, mười con rể chẳng bằng một

bố vợ, mười người đến nói năng không bằng một anh ngồi tán”) “Xíp nặc pạt

bò thò băn đít, xíp phụ phít bò thò phụ thực” (“Mười bác học chẳng bằng

thần đồng, mười người sai chẳng bằng người đúng”), “Xíp xịn bò thò pa, xíp

phì noọng lung ta bò thò phò cắp mè” (“Mười thịt chẳng bằng cá, mười anh

em chú bác chẳng bằng cha mẹ”) (TN Lào). Thông qua nghệ thuật ngoa dụ,

tục ngữ nói “bằng” mà “không bằng” chính là chỗ đó.

 Dạng “A hơn B”

Tục ngữ cấu trúc so sánh kiểu “A hơn B” tương đối phổ biến. A và B

không cùng loại nhưng rất gần gũi nhau, chẳng hạn: “Tốt danh hơn lành áo”;

đôi khi A và B lại đối lập nhau: “Chết vinh hơn sống nhục”, “Xấu đều hơn

tốt lỏi”, “Dại bầy hơn khôn độc”, “Chết cả đống hơn sống một người”, “Có

miếng còn hơn có tiếng”... Cùng phản ánh văn hoá ứng xử, tục ngữ Việt và

tục ngữ Lào đều có những câu kết cấu so sánh dạng “A hơn B”. Câu “lượt

giom khộn koà nặm” (“máu thâm còn hơn nước lã”) của người Lào đồng

nghĩa với câu “giọt máu đào hơn ao nước lã” của người Việt; câu “tà nhày

quà thoọng” (“mắt to hơn bụng”) của tục ngữ Lào trùng hợp với câu “mắt to

hơn bụng” của tục ngữ Việt; câu “căn đì quà kẹ” (“phòng ngừa tốt hơn chữa

chạy”) có nghĩa tương tự câu “phòng bệnh hơn chữa bệnh”; nội dung câu

“tài pền phỉ đì koà nhăng pền khọi” (“chết làm ma hơn sống làm nô lệ”) của

người Lào chẳng khác gì câu “chết vinh còn hơn sống nhục” của người Việt;

ý nghĩa câu “tài ìm đì quà mì xi vít ít hỉu” (“chết no hơn sống đói khát”) của

145

người Lào tương đương với câu “chết no hơn sống thèm” của người Việt.

Ngoài phần lớn những câu “so sánh xuôi” như nói trên, hiện tượng “so

sánh ngược” trong tục ngữ Việt và tục ngữ Lào cũng không phải là không có.

Đây là vấn đề khá thú vị. Hiện tượng “nói ngược” này mới nghe tưởng là vô

lý nhưng sự thật nó hoàn toàn có lý. Trong những câu tục ngữ “so sánh

ngược” nghĩa thật của nó nhằm đưa ra những lời khuyên, những bài học kinh

nghiệm chí lý. Qua các câu “Trứng khôn hơn vịt”, “Con cháu khôn hơn ông

vải”, “Lạt non buộc tre già, gót chân dạy môi miệng” của người Việt và câu

“Mạy lừn pha, pa lừn họi, đếc nọi lừn phụ nhày” (“Cây hơn vòm cây, con cá

hơn xâu cá, trẻ con hơn người lớn”) của người Lào, người nói muốn nhắc

chúng ta không nên làm như vậy: con cháu đừng đòi khôn hơn cha mẹ, ông

bà; người trẻ tuổi đừng tranh khôn hơn người lớn tuổi, từng trải.

b3) Kiểu câu xếp loại, liệt kê, so sánh thứ bậc hoặc so sánh lựa chọn

dạng: “Nhất A nhì B”, “Thứ nhất A thứ nhì B” hoặc: “Thà A (còn) hơn B”,

“Thà A chẳng thà B”.

Cả người Việt lẫn người Lào đều rất thích dùng cách nói bằng tục ngữ

trong “lời ăn tiếng nói” hàng ngày. Trong tục ngữ Việt, kết cấu so sánh, kiểu

câu so sánh phân hạng hoặc theo thứ tự, bao gồm các dạng như: “Nhất A nhì

B”, “Thứ nhất A thứ nhì B” hoặc “Một là A hai là B”, trong đó A và B được

xếp theo thứ tự của sự phân hạng hoặc quan trọng. Đó là những câu phản ánh

sự đánh giá của nhân dân về muôn mặt của đời sống. Thí dụ: “Nhất kinh kỳ

nhì phố Hiến”, “Nhất cày ải nhì rải phân”; và các câu “Thứ nhất phao câu

thứ nhì đầu cánh”, “Thứ nhất cày nỏ, thứ nhì bỏ phân” hoặc “Một là vợ hai

là nợ”. Tục ngữ Lào cũng xếp các đối tượng được liệt kê tăng hoặc giảm dần

theo thứ bậc, chẳng hạn: (“Mười hai điều khổ”: “khổ một, con chết mất rồi;

khổ hai, vợ đã lìa đời bỏ ta; khổ ba, tiễn bạn đi xa; khổ bốn, đi qua xứ Thái

buôn bò thồ; khổ năm, chồng vợ đứt đường tơ; khổ sáu, chỗ ngủ trưa lại nhờ

146

bè bạn; khổ bảy, lùa lợn con mang bán; khổ tám, bố mẹ chết ngàn thương

nhớ; khổ chín, ngủ một mình không có vợ để ôm; khổ mười, lạc đường thôn,

lối xóm ban đêm; khổ mười một, mưa rền chen sấm sét; khổ mười hai, bụng

đau quặn mà chẳng thuốc thang” kết cấu sóng mười hai cũng thuộc dạng kết

cấu loại này. Trong một số trường hợp “thứ tự này chỉ mang tính ước lệ,

nghĩa là người sáng tác quan tâm đến vần vè nhiều hơn là thứ tự về mức độ

quan trọng của đối tượng được liệt kê” [36, tr.67]. Tuy vậy, sự xếp loại đó

không phải lúc nào cũng đúng, cũng khách quan mà đôi khi còn phụ thuộc

vào quan niệm của dân gian. Vì thế, cùng một sự việc nhưng trong tục ngữ

lại có những cách đánh giá, xếp loại khác nhau. Cạnh câu “nhất hay chữ, nhì

dữ đòn” còn có câu “hay chữ không bằng dữ đòn”; đi với câu “thứ nhất giặc

phá, thứ nhì nhà cháy” cũng có câu “giặc phá không bằng nhà cháy” (dạng

“Thứ nhất A thứ nhì B” và “A không bằng B”). Ngoài ra, câu tục ngữ còn

dạng so sánh chỉ bậc nhất, nghĩa là thiết lập sự so sánh không phải giữa phần

nêu và phần báo mà với những yếu tố vắng mặt hàm chỉ sự so sánh, phân

loại đó ở bậc cao nhất (hoặc tốt nhất, ngon nhất hoặc xấu nhất, dở nhất...).

Thí dụ: “Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô

đầm Sét”, “Chè Thái, gái Tuyên”, “Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một

con, gà mái ghẹ”…

Tuy giống nhau nhưng giữa chúng lại khác nhau nhau về mức độ. Tục

ngữ Việt còn có một số dạng kết cấu mà tục ngữ Lào không có. Chỉ có một

số câu tục ngữ Việt dạng “A hơn B” có thể đồng nghĩa với câu dạng “Thà A

còn hơn B” hoặc “Thà A chẳng thà B”. Thí dụ, câu “ăn vảy trốc còn hơn ăn

ốc tháng tư” đồng nghĩa với câu “thà ăn vảy trốc còn hơn ăn ốc tháng tư”.

Người Việt không nói “ốc tháng tư gầy, không nên ăn” mà nói “thà ăn vảy

trốc, chẳng thà ăn ốc tháng tư”; từ câu “Sẩy chân còn hơn sẩy miệng”, người

Việt không nói “hãy cẩn thận khi nói năng” mà nói “thà lỡ chân chẳng thà lỡ

147

miệng”; câu “Nhịn đói nằm co còn hơn ăn no vác nặng” (cấu trúc A hơn B)

được diễn đạt thành câu tục ngữ “Thà chịu đói nằm co, chẳng thà ăn no đi

mần” (dạng “Thà A chẳng thà B”). Tục ngữ Việt có nhiều cách nói dạng

“Thà A hơn B” hoặc “Thà A chẳng thà B” mang tính chất lựa chọn thật thú

vị. Người Việt nói “thà liếm môi liếm mép còn hơn ăn cá chép tháng ba” mà

không nói “cá chép tháng ba không ngon, đừng ăn”; nói “thà ăn muối còn

hơn ăn chuối chết” mà không nói “không nên ăn cá chuối chết”; nhưng câu

“Lệ làng hơn phép nước” (dạng “A hơn B”) và câu “Phép vua thua lệ làng”

(dạng “A thua B”) lại gần nghĩa với câu “Thà thiếu thuế vua hơn thua lệ

làng” (dạng “Thà A hơn B”). Ở đây, sự khẳng định hoặc lựa chọn của dạng

“Thà A hơn B” và “Thà A chẳng thà B” được nhấn mạnh, sự phủ định cũng

mang tính triệt để hơn. Nhưng câu “Thà đau ngắt chẳng thà giắt răng” (dạng

“Thà A chẳng thà B”) lại đồng nghĩa với câu “Thứ nhất đau mắt, thứ nhì giắt

răng” (dạng “Nhất A nhì B” hoặc “Thứ nhất A thứ nhì B”) mà tục ngữ Lào

không có cùng kết cấu dạng này.

Như đã nói ở trên, tục ngữ Việt dạng “A hơn B” có thể đồng nghĩa với

câu dạng “Thà A còn hơn B” hoặc “Thà A chẳng thà B”. Tục ngữ Lào cũng

có dạng “A hơn B” như tục ngữ Việt nhưng lại không có những câu dạng

“Thà A còn hơn B” hoặc “Thà A chẳng thà B” như tục ngữ Việt.

b4) Kiểu câu so sánh dạng: “như + B (mệnh đề)”

Trong nguồn tục ngữ của hai dân tộc Việt - Lào còn có kiểu kết cấu so

sánh một vế dạng (“như + B (mệnh đề”), trong đó B là cái dùng để so sánh

(thường là một mệnh đề hoặc kết cấu C - V), còn A là cái được so sánh (đã

bị ẩn đi) để người đọc ngầm định lấy nội dung. Thí dụ các câu “như hình với

bóng” đồng nghĩa với “khư hụp cắp ngàu” (“như hình với bóng”) phản ánh

quan hệ gắn bó không thể tách rời; “như lửa với nước” giống với “mưởn

phay cắp nặm” về sự khó dung hoà, một mất một còn; “như cá gặp nước”

148

tương tự như “khư pa phốp nặm” (“như cá gặp nước”) mang nội dung phát

triển khi gặp cơ hội thuận lợi; “như kiến đốt đít” giống với “khư mốt đeng

cắt cộn” (“như kiến đốt đít”) diễn đạt sự sốt ruột; “như hạn mong mưa” cũng

như “khư đẹt chờ phổn” (“Như nắng mong mưa”)…

Cả người Việt và người Lào đều hay dùng lối nói so sánh của tục ngữ

trong đời sống hàng ngày. Nghệ thuật tục ngữ không chỉ thể hiện ở thủ pháp

sinh động hoá về cách nói mà còn ở thủ pháp đa dạng hoá về hình thức diễn

đạt. Nhân dân thường sử dụng các hình thức tu từ trong tục ngữ để tăng thêm

hiệu qủa cho câu nói và tính biểu cảm cho đối tượng so sánh. Các hình thức

kết cấu tục ngữ cũng hết sức phong phú với nhiều kiểu câu, nhiều khuôn

hình, nhiều dạng thức, trong đó kết cấu tục so sánh của tục ngữ Việt và Lào

là hiện tượng khá phổ biến trong “lời ăn tiếng nói” hàng ngày của nhân dân

hai nước.

c) Về mặt cấu trúc, tất cả các tục ngữ đều có cấu trúc ngữ pháp là một

câu

Theo Phan Thị Đào [36], có nhiều loại kết cấu câu tục ngữ, nhưng chủ

yếu là những dạng kết cấu sau đây:

c1) Tục ngữ có cấu trúc là một câu đơn

Kết cấu đơn bao gồm những câu tục ngữ chỉ có phần báo là một phán

đoán đơn, trong đó có các phán đoán khẳng định toàn thể, thí dụ: “Miếng ăn

là miếng nhục”, “Lạt mềm buộc chặt” (TN Việt); “Xịn pay pa ma” (“Thịt đi

cá về”), “Pà nhày kin pà nọi” (“Cá lớn nuốt cá bé”) (TN Lào); Và phán đoán

phủ định toàn thể, ví dụ: “Không ai nắm tay thâu ngày đến tối”, “Nhân vô

thập toàn” (TN Việt); “Bò thăm bò mì khoỏng kin” (“Không làm không có

của ăn”) (TN Lào).

c2) Tục ngữ có cấu trúc là một câu phức

Kết cấu phức của câu tục ngữ gồm một câu ghép có từ hai phán đoán

149

trở lên, trong đó có câu phức cơ bản là dạng câu ghép của hai phán đoán đơn

lựa chọn, thí dụ: “Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh”,

“Khách đến nhà không gà thì vịt”. Ngoài ra, nhiều câu tục ngữ dạng phức cơ

bản được chia thành những dạng kết cấu nhỏ hơn. Đó là dạng kết cấu được

thể hiện bằng các liên từ “vừa A vừa B”, thí dụ: “Vừa đánh trống vừa ăn

cướp”, “Vừa được tiếng vừa được miếng”; dạng “Tuy A nhưng/mà/còn B”

(đôi khi được tỉnh lược thành dạng “A nhưng/mà B”), thí dụ: “Tẩm ngẩm mà

đấm chết voi” hoặc “A và B”: “No bụng nhưng đói con mắt”, “Cơm treo mèo

nhịn đói”; dạng “A nhưng/mà không B”, thí dụ: “Cây muốn lặng mà gió

chẳng dừng”, “Có vỏ mà nỏ có ruột”; dạng “Không A nhưng/mà B”, thí dụ:

“Không đánh mà đau”, “Không mó tay nhưng hay nói”; dạng “Không A và

không B”, thí dụ: “Không hẹn mà gặp, không gắp mà nên”, “Không ai giàu

ba họ, không ai khó ba đời”; dạng “Nếu/Hễ/Khi/Cứ/A thì B” (thường bị tỉnh

lược thành dạng “A (thì) B”), thí dụ: “Môi hở răng lạnh”, “Trâu chậm uống

nước đục”; dạng “Vì A nên B” hoặc dạng “Do A nên B” (thường được rút

gọn thành dạng “A thì/nên B”), thí dụ: “Bút sa gà chết”, “Có công mài sắt,

có ngày nên kim”; dạng “Không A/thì/nên/phải B” (được tỉnh lược thành

dạng “Không A thì B”), thí dụ: “Không ưa thì dưa có dòi”, “Không được ăn

thì đạp đổ”; dạng “A thì không B”, thí dụ: “Có sừng thì đừng hàm trên”,

“Cây ngay chẳng sợ chết đứng”; dạng Không A thì không B”, thí dụ:

“Không làm thì hàm không động”, “Không có lửa sao có khói”. Cạnh những

câu tục ngữ là một câu phức cơ bản còn có nhiều câu phức mở rộng hay câu

đa phức với nhiều phán đoán, cũng được chia thành những dạng nhỏ hơn. Đó

là dạng câu có từ ba phán đoán đơn trở lên, thí dụ: “Học ăn, học nói, học gói,

học mở”; dạng “A thì không B cũng C”, trong đó phép tuyển tồn tại như một

bộ phận cấu thành câu tục ngữ, thí dụ: “Con nhà tông không giống lông cũng

giống cánh”, “Ruốc tháng hai chẳng khai thì thối”; dạng “A và/mà/B thì C”,

150

thí dụ: “Trời đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa”; dạng “A nhưng/mà B và C

nhưng/mà D”, thí dụ: “To đầu mà dại, nhỏ dái mà khôn”; dạng “A thì B và C

thì D”, thí dụ: “Để một thì giàu, chia nhau thì khó”... Tương tự như tục ngữ

người Việt, trong tục ngữ Lào, ta có thể tìm được khá phong phú những câu

tục ngữ có dạng thức là một câu phức như trên, thí dụ: “Không nhuộm không

đỏ, không chữa không mới”, “Không khéo nói mất đạo lý, không khéo trèo bị

ngã cây”, “Kẻ uống rượu, người gác thuyền”…

Các chỉ số thống kê về kết cấu ở Phụ lục 3 (tr.214) cho thấy, trong tục

ngữ Việt, kiểu kết cấu hai vế chiếm 47%, một vế chiếm 38%, nhiều vế chiếm

15% (Hình 6). Trong tục ngữ Lào tỷ lệ các dạng kết cấu hai vế chiếm 51%,

một vế chiếm 23%, nhiều vế chiếm 26% (trong đó có loại kết cấu đến sóng

mười hai (chiếm 8%) (Hình 7). Cũng có thể phân tục ngữ Việt và Lào theo

dạng kết cấu câu hoặc một số kiểu kết cấu khác.

Hình 6: Kết cấu tục ngữ Việt

Hình 7: Kết cấu tục ngữ Lào

Nhiều vế 15%

Nhiều vế 26%

2 vế 47%

2 vế 51%

1 vế 38%

1 vế 23%

2 vế

1 vế

Nhiều vế

2 vế

1 vế

Nhiều vế

3.1.3. Vần

Vần là hình thức láy lại một phần hoặc toàn bộ phần vần hoặc các phụ

âm đầu, cũng có khi láy lại toàn bộ âm tiết hoặc đổi thanh. Nói cách khác,

vần là sự lặp lại những âm tiết có cùng tiêu chí thanh học nào đó, ở cuối câu

hay ở giữa câu thơ để tăng tiết tấu và sức biểu hiện của từ.

Vần trong tục ngữ là hình thức nghệ thuật tạo nên âm hưởng mượt mà

151

cho câu tục ngữ. Vần còn là chất keo gắn liền các vế của câu, tạo cho câu tục

ngữ có những kết cấu chặt chẽ. Vần còn có tác dụng liên kết ngữ nghĩa, liên

kết các vế (các phát ngôn) và cũng có thể liên kết hai phát ngôn liền lại với

nhau: “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”; “Không ai giàu ba họ, không ai khó

ba đời” (TN Việt) và: “Ngam tè hụp, chụp bò hỏm”, (“Chỉ đẹp bề ngoài mà

hôn chẳng thơm”), “Phụ kin lậu, phụ phậu hừa” (“Kẻ uống rượu, người gác

thuyền”) (TN Lào).

Phương thức hợp vần của tục ngữ Việt khác với thơ và ca dao. Để

nhận diện thơ và ca dao, người ta thường dựa vào những tiêu chí sau đây:

- Đồng nhất về đường nét của thanh điệu (cùng bằng hoặc cùng trắc);

- Đồng nhất về phần âm cuối;

- Đồng nhất về âm chính.

Thực tế cho thấy, vị trí gieo vần trong tục ngữ Việt không bị gò bó

theo niêm luật như ca dao mà hết sức phóng khoáng, linh hoạt. Vần trong thơ

Đường luật, trong thơ lục bát và ca dao người Việt bị trói buộc chặt chẽ bởi

thanh điệu, nghĩa là phải tuân thủ theo luật “bằng”, “trắc”, còn vần trong tục

ngữ Việt dường như không bị thanh điệu khống chế. Mức độ hấp dẫn của

vần cũng như vai trò, giá trị của câu tục ngữ lại không phụ thuộc vào vần.

Một câu ca dao lục bát dù ngắn nhất thì trên văn bản bắt buộc cũng phải

được thể hiện bằng hai dòng thơ. Trong khi đó, một câu tục ngữ có cấu trúc

tương tự như câu ca dao thể lục bát thì dù có được thể hiện trên hai dòng,

vần cũng không liên quan gì đến mối quan hệ giữa dòng trên với dòng dưới.

Do đó, không thể căn cứ vào vị trí của âm tiết trong mỗi dòng để xác định

vần như trong ca dao thể lục bát được. Ngược lại, sự hiệp vần trong tục ngữ

Lào lại có một số điểm khác biệt. Trong quá trình sáng tạo tục ngữ, các tác

giả dân gian Lào đã không tránh khỏi cách dùng hai luật cơ bản của thơ Lào.

Đó là luật bằng trắc và gieo vần. Nghĩa là, vần trong tục ngữ Lào chịu sự chi

152

phối của quy luật hợp vần trong thơ Lào. Thơ Lào có hai loại: Thơ đọc và

thơ ngâm. Tục ngữ Lào thường dùng lối gieo vần của thơ mà hệ thống

thanh điệu tiếng Lào có liên quan khá chặt chẽ, bởi thanh điệu tiếng Lào tồn

tại không độc lập mà gắn liền với âm tiết. Thanh điệu góp phần xác định ý

nghĩa và dạng thức của từ. Thanh điệu phối hợp với nhịp điệu ngắn hoặc dài

của âm tiết vẽ lên một đường nét trầm bổng làm cho lời tục ngữ mang đậm

tính nhạc với sự hoà và phối âm theo những quy luật riêng của tiếng Lào.

Trong thơ đọc thì luật bằng trắc là quan trọng nhất. Chỉ cần đảm bảo đúng

luật bằng trắc là thơ đọc đã hay rồi. Còn loại thơ ngâm (con lăm) muốn hay

thì phải theo luật bằng trắc, gồm có “mạy” (thanh điệu), “xiểng cang” (thanh

ngang hay thanh không), “xiểng ệc” (Xú) hơi giống thanh huyền hạ xuống

nhẹ đều của tiếng Việt, xiểng “thô” (Xû) hơi giống thanh nặng, biến thanh

cao, ngang thành thấp, trầm của tiếng Việt.

3.1.3.1. Các loại vần trong tục ngữ

Tục ngữ Việt và tục ngữ Lào đều có nhiều kiểu hiệp vần. Vần không

chỉ xuất hiện ở những câu tục ngữ hai vế hoặc nhiều vế mà còn có mặt ở

những câu chỉ có một vế.

a) Vần liền

Trong các kiểu vần của tục ngữ Việt và Lào thì vần liền là kiểu hiệp

vần phổ biến hơn cả (chiếm 18,03%). Hai từ liền nhau ở hai vế gieo vần với

nhau mà không có một từ nào khác chen vào giữa gọi là vần liền. Vần liền

tạo nhịp điệu nhanh, mạnh, vững chắc cho câu tục ngữ. Riêng vần trong tục

ngữ Lào còn bao gồm cả hiệp vần trong và hiệp vần ngoài. Vần trong bao

gồm cả vần nguyên âm hoặc phụ âm, hiệp vần đôi hoặc hiệp vần sóng đôi.

Vần liền xuất hiện khá nhiều ở những câu tục ngữ hai vế cân đối (hai

vế có số âm tiết bằng nhau). Có thể kể ra rất nhiều câu vần liền của tục ngữ

153

Việt và tục ngữ Lào. Đó là các câu “Chó già/ gà non”, “Ăn lấy chắc/ mặc lấy

bền”, “Trẻ cậy cha/ già cậy con”, “Cháu bà nội/ tội bà ngoại”, “Của một

đồng/ công một nén”, “Ếch tháng ba/ gà tháng bảy”, “Rượu Kẻ Mơ/ cờ Mộ

Trạch”, “Đẹp vàng son/ ngon mật mỡ”, “Khôn đâu đến trẻ/ khoẻ đâu đến

già”,... (TN Việt) và các câu “Khít bò oọc/ xoọc bò hển”, “Ngam tè hụp/

chụp bò hỏm”, “Mư thử xạc/ pạc thử xỉn”, “Kin dà lưm thù/ dù dà lưm

khun”, “Nặc sòi căn hạp/ bạp sòi căn đưng”, “Khôn bò mì nai/ khoai bò mì

khoọc”, “Pa oọc hẻ tồ nhày/ mạy du hày đu ngam”, “Xảm pi bò hạy chừ

thang bốc/ hốc pi bò hạy chừ thang nặm”,... (TN Lào) thuộc loại hiệp vần

liền. Vần liền còn ở những câu tục ngữ hai vế lệch (hai vế có số âm tiết

không bằng nhau), thí dụ: “Có ít/ xít ra nhiều”, “Có tình/ kinh trong bụng”,

“Con là nợ/ vợ là oan gia” TN Việt) và các câu “Khôn hản/ man xì thít”,

“Tộn mạy bay đốc/ nốc quèn” (TN Lào). Vần liền láy một lần lại tạo âm điệu

mềm mại cho câu nói. Số lượng những câu vần liền chiếm tỉ lệ cao hơn các

loại vần khác. Phan Thị Đào cho rằng, có tới 20% câu tục ngữ Việt vần liền

[36, tr.91]. Theo thống kê của chúng tôi, có tới 18,03 % số câu tục ngữ Việt

vần liền (tr.213).

Vần đã làm cho tục ngữ có thêm chất thơ và tính hình ảnh của chúng

nhờ đó cũng được tăng lên. Cạnh những câu vần liền láy vần một lần, tục

ngữ Việt còn có những câu vần liền láy vần nhiều lần, gọi là vần chuỗi, thí

dụ các câu Đầu chép, mép trôi, môi mè, đe gáy”, “Ăn miếng xôi, lôi miếng

chả, trả miếng bánh”, “Hàm chó, vó ngựa, cựa gà, ngà voi”, “Đói ăn sung,

cùng ăn ngái, dại ăn khế”, “Chè hàng nồi, xôi hàng chõ, võ hàng đời”, “Cam

Mai Xá, cá An Duyên, tiền An Cự, chữ Trừng Uyên”, “Bắt được tay, day

được cánh, đánh được người”... Tục ngữ Lào hầu như không có những câu

154

vần liền láy chuỗi như tục ngữ Việt.

b) Vần cách

Các kiểu vần cách của tục ngữ Việt và tục ngữ Lào cũng hết sức đa

dạng. Tục ngữ hai nước cùng giống nhau ở các kiểu vần cách một, cách hai,

cách ba, cách bốn nhưng khác biệt nhau ở vần cách năm, cách sáu.

Trước hết là sự giống nhau ở kiểu vần cách một, cách hai, cách ba,

cách bốn giữa tục ngữ Việt và tục ngữ Lào. Có nghĩa là tục ngữ hai nước

cùng có hai từ gieo vần với nhau có một, hai, ba, bốn âm tiết chen vào giữa,

thí dụ các câu “Con lên ba cả nhà học nói”, “Học ăn, học nói, học gói, học

mở”, “Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”, “Ăn tôm cắn đầu, ăn trầu nhả bã”...

(TN Việt) và các câu “Khốp tài nhọn pạc, khăn khạc tài nhọn xiểng”, “Hển

ngân nạ đăm, hển khăm nạ mựt”, “Nặc khậu thoọng nả, nặc phạ non ùn”,

“Chậu hườn pha khậu, chậu lậu pha kin”, “Phườn kin hả ngài, phườn tài hả

nhạc”, “Nham kin bò hiệc, nham việc chừng xạy”, “Nham nhạc khít thởng

nai, nham tài khít thởng phạ”... (TN Lào) thuộc kiểu hiệp vần cách một

tiếng. Cạnh những câu “Gà cựa dài thịt rắn, gà cựa ngắn thịt mềm”, “Sợ bát

cơm đầy, không sợ thầy to tiếng”, “Thứ nhất phao câu, thứ nhì đâu cánh”,

“Áo năng may năng mới, người năng tới năng thân”... (TN Việt) và những

câu “Giạc kin khậu toọng hết na, giạc kin pà toọng pay hả nặm”, “Phăng

khoam mia xỉa phì noọng, phăng khoam thoọng măn kèn khoỏng kin”, “Khôn

khị khạn cợt pền han, bò mì ngan cợt pền phạ nhạt”... (TN Lào) đều thuộc

nhóm hợp vần cách hai tiếng; còn có những câu “Thà ăn đâu, chẳng thà ăn

trầu cách mắt”, “Nhất ngon là đầu cá gáy, nhất thơm là cháy cơm nếp”,

“Mặt đỏ như lửa thấy đàn bà chửa cũng phải tránh”... (TN Việt) và những

câu “Giạc nhạc hạy pền nai khôn, giạc xổn lạ vôn hạy àu mia nọi”, “Khun

phò thò phu khẩu cạ, khu mè thò phạ cắp phèn đìn”… (TN Lào) thuộc vần

cách ba tiếng. Đôi khi, sự gieo vần cách ba cũng mang lại hiệu quả cho câu

155

tục ngữ hai nước có dạng thức là những câu thơ mềm mại, thí dụ các câu

“Chuột chù chê khỉ rằng hôi, khỉ mới trả lời: cả họ mày thơm”, “Chưa ăn,

cha rìu con rựa, ăn rồi, cha ngựa con giường”, “Có cô thì chợ cũng đông, cô

đi lấy chồng thì chợ vẫn vui”, “Có phúc thợ mộc thợ nề, vô phúc thầy đề thầy

thông” (TN Việt) và các câu “Kẹo bò phắt xảm pi pền hỉn hè, phì noọng bò

vè xảm pi pền phần”, “Đạy mia bò đi pan đạy xốp thảy lếc, đạy mia pạc kếc

kếc phủa nùng phạ phòi, na heng nọi cạ xặm bò pho” (TN Lào). Các câu “Sợ

mẹ sợ cha không bằng sợ tháng ba ngày dài”, “Bạc ba quan tha hồ mở bát,

cháo ba đồng chè đắt chẳng ăn”, “Cắt dây bầu dây bí, ai nỡ cắt dây chị dây

em”, “Voi trên rừng không bành không tróc, gái không chồng như cóc cụt

đuôi”... (TN Việt) và các câu “Khoam xúc nị mèn hết àu êng, bò mèn pay

tam phêng hạc chạ mì ma đạy”, “Xíp xịn bò thò pa, xíp phì noọng lung ta bò

thò cắp mè”, “Ngu hàu àu xày vạy tin khăm, liệng đuội a hản lăm xẹp xọi”...

(TN Lào) thuộc kiểu hiệp vần cách bốn tiếng.

Có một điều khá lý thú là, không chỉ tục ngữ vần liền mới có láy chuỗi

mà tục ngữ ở vần cách cũng có láy chuỗi: “Bỏ con bỏ cháu không ai bỏ hai

mươi sáu chợ Yên, bỏ tổ bỏ tiên không ai bỏ chợ Viềng mồng tám”, “Chồng

ăn giò, vợ co chân chạy, chồng ăn mày mạy, vợ lạy vợ về” (TN Việt) và các

câu “Xúc nhọn mì khậu kin, mì đin dù mì khù non năm, mì ngân khăm tên

thày, mì hươn nhày phụng pẹ cạ đản, mì lúc lản lải ma nằng khậu”, “Hắc

mia tồ hạy hắc lung ta, hắc na tồ hạy hắc quản bạn, cạy hủa lạn dà đà nôốc

cạ xum”, “Khậu phần khảo, lúc xảo phần heng, keng phần xẹp, pa đẹc phần

nua, phủa phần đì, khọp mia phần xàng”, “Căn đì koà kẹ, hẹ đì koà lụa, àu

phủa đì qua du piều”… (TN Lào). Trong khi đó tục ngữ Việt vần cách một

láy chuỗi có số lượng nhiều hơn: “Nam mô một bồ dao găm, một trăm ngọn

mác, một vác dao bầu, một xâu thịt chó”, “Nam mô một bồ dao găm, một

trăm con chó, một lọ mắm tôm, một ôm rau húng, một thúng rau răm”, “Bán

156

mít chợ Đông, bán hồng chợ Tây, bán mây chợ Huyện, bán quyến chợ Đào”,

“Đau bụng có ngú, đau vú diếp rừng, đau lưng hổ cốt, đau nhọt lá lang, đau

sang mấu chó”…Thoảng nghe những câu tục ngữ Việt này có âm điệu quen

thuộc như những câu đồng dao.

Vần còn xuất hiện ở một vế của những câu tục ngữ hai vế hoặc trong

thế liên hoàn giữa vế này với vế kia: “Gái một con trông mòn con mắt/ gái

hai con vú quặt đằng sau/ gái ba con chỉ đâu ngồi đấy”, “Làm lẽ ăn bát mẻ,

nằm chiếu manh/ làm cả ăn bát đại thanh, nằm chiếu miến”, “Bố vợ là vớ

cọc chèo, mẹ vợ là bèo trôi sông, chàng rể là ông Ba Vì... (TN Việt) và:

“Phăng khoam mia, xỉa phì noọng, phăng khoam thoọng măn kèn khoỏng

kin” (TN Lào). So với những câu vần liền láy đơn thì những câu vần liền láy

chuỗi có cấu trúc phức tạp hơn, mức độ cộng hưởng về ý và về âm cũng cao

hơn. Ở những câu vần chuỗi này, tuy số lượng ít hơn nhưng lượng thông tin

lại nhiều hơn, bản chất của hình tượng cũng nổi bật hơn.

Mặt khác, không chỉ những câu tục ngữ hai vế hoặc nhiều vế mới có

vần mà trong tục ngữ Việt và tục ngữ Lào những câu tục ngữ chỉ có một vế

cũng xuất hiện vần, chẳng hạn: “Đẹp như rối không mối không xong”, “Cơm

tẻ là mẹ ruột”, “Một mặt người hơn mười mặt của”, “Trai có vợ như rợ buộc

chân”, “Một kho vàng không bằng một nang chữ”, “Lấy chồng khó giữa làng

hơn lấy chồng sang thiên hạ”... (TN Việt) và các câu “Tộn mạy bay đốc nốc

quèn”, “Au tùa lọt pền nhọt đì” (TN Lào).

Cả tục ngữ Việt và tục ngữ Lào đều giống nhau ở vần liền, vần hỗn

hợp và các loại vần cách một, cách hai, cách ba, cách bốn như đã trình bày ở

những phần trên. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa chúng ở kiểu hiệp vần cách

bốn tiếng ở chỗ, hình thức cấu trúc của câu tục ngữ Việt thường trùng với

cấu trúc của câu thơ bảy chữ mà tục ngữ Lào không có. Cái vỏ là thơ nhưng

cái ruột lại là tục ngữ, thí dụ: “Bạc ba quan tha hồ mở bát, cháo ba đồng chè

157

đắt chẳng ăn”, “Cắt dây bầu dây bí, ai nỡ cắt dây chị dây em”, “Voi trên

rừng không bành không tróc, gái không chồng như cóc cụt đuôi”... Do vậy,

muốn nhận biết đó là câu thơ bảy chữ hay tục ngữ thì phải căn cứ vào nội

dung và chức năng của chúng.

Những câu tục ngữ Việt có vần cách năm tiếng chiếm tỷ lệ không

nhiều nhưng cũng tạo ra những đặc điểm đáng chú ý. Ngoài câu “Mồng một

chơi nhà/ mồng hai chơi ngõ/ mồng ba chơi đình” có ba vế cân đối, có vần

cách năm tiếng, còn có những câu tục ngữ trùng với hình thức cấu trúc của

câu thơ, thí dụ: “Sống trên đời ăn miếng dồi chó/ chết xuống âm phủ biết có

hay không”, “Đàn bà không biết nuôi heo đàn bà nhác/ đàn ông không biết

buộc lạt đàn ông hư”, “Làm lẽ ăn bát mẻ nằm chiếu manh/ làm cả ăn bát đại

thanh nằm chiếu miến”. Khi vần cách năm tiếng trong cấu trúc lệch sáu - tám

thì câu tục ngữ có cấu trúc giống cấu trúc của câu ca dao thể lục bát hoặc câu

thơ lục bát, thí dụ: “Đói thì thèm thịt thèm xôi/ hễ no cơm tẻ thì thôi mọi

đường”, “Ăn được ngủ được là tiên/ không ăn không ngủ mất tiền thêm lo”,

“Đàn bà như cánh hoa tươi/ nở ra chỉ được một thời là xong”... Để phân

biệt, ta phải căn cứ vào nội dung và chức năng của chúng: tục ngữ thiên về lý

trí, còn ca dao thiên về tình cảm.

Tuy là rất hiếm, nhưng tục ngữ Việt vẫn có vần cách sáu tiếng, chẳng

hạn: “Đen đông, chớp lạch, quái ráng hoa bầu/ trong ba điều ấy có lành

đâu”, “Cá rô Bàu Nón kho với nước tương Nam Đàn/ gạo tháng mười cơm

mới đánh tràn không biết no”...

Trong khi đó, tục ngữ Lào hầu như không có trường hợp nào có vần

cách năm hoặc sáu tiếng để làm cho tục ngữ Lào có hình thức là một câu thơ.

Nhưng tục ngữ Lào lại có một số trường hợp gieo vần cách bảy tiếng mà tục

ngữ Việt hầu như không có, chẳng hạn: “Khăm pạc phò mè nị nặc cơng thò

158

rạ ni, phảy phụ đằm đeng nốp hạc chắc đì mừa nạ”, “Tằn hả ăn hắc lúc khư

đằng xược phục kho, tằn hả ăn hắc mia khư đằng po phục xoọc, tằn hả ăn

hắc khạu khư đằng poọc xụp tin”.

c) Vần tuyệt đối và vần tương đối

c1) Vần tuyệt đối

Vần tuyệt đối (còn được gọi là vần chính) trong tục ngữ Việt cũng

giống như trong tục ngữ Lào. Vần tuyệt đối là hiện tượng láy lại toàn bộ

phần vần ở vị trí nào đó trong câu tục ngữ. Thực tế cho thấy vị trí gieo vần

trong tục ngữ không bị gò bó theo niêm luật như ca dao mà hết sức phóng

khoáng, linh hoạt. Vần trong thơ và ca dao bị trói buộc chặt chẽ bởi thanh

điệu, nghĩa là phải tuân thủ theo luật bằng - trắc. Còn vần trong tục ngữ

dường như không bị thanh điệu khống chế, chẳng hạn: “Sống mỗi người mỗi

nhà, già mỗi người mỗi mồ” (bằng - bằng), “Cơm hàng cháo chợ, ai lỡ thì

ăn”(trắc - trắc), “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi” (không - không)…; thậm

chí những âm tiết gieo vần giống nhau về cao độ nhưng khác nhau về đường

nét (bằng - trắc) cũng được coi là vần tuyệt đối, chẳng hạn: “Đầu gà má

lợn”, “Đắt chè hơn rẻ nước”, “Đi một buổi chợ, học một mớ khôn”… Tục

ngữ Lào cũng có nhiều câu thuộc loại vần chính. Có thể kể ra đây những câu

như: “Chậu hườn pha khậu, chậu lạu pha kin”, “Phụ kin kin phò hạc, phụ

nhạc nhạc phò tài”, “Khun phò thò phu khẩu cạ, khun mè thò phạ cắp phèn

đìn”…

c2) Vần tương đối

Vần tương đối hay vần thông được tạo nên bởi sự hoà phối âm thanh

giữa các tiếng được gieo vần, trong đó phần vần không lặp lại hoàn toàn mà

có sự khác nhau ở một thành phần nào đó. Có thể dẫn ra nhiều câu tục ngữ

thuộc loại này, như những câu “Đất lề quê thói”, “Khôn đâu đến trẻ, khoẻ

đâu đến già”, “Ăn theo thuở, ở theo thì”, “Nén bạc đâm toạc tờ giấy”, “Lửa

159

thử vàng, gian nan thử sức”, “Thương nhau lắm, cắn nhau đau”, “Thằng dại

cởi truồng, người khôn xấu mặt”… (TN Việt) và những câu “Khun ngam

khoam đì”, “Xựa nhào eo quạng”, “Non xủng non khoặm, non tằm non

ngải”, “Khềng lải măn khạt, nhan lải măn khoọng”… (TN Lào). Phan Thị

Đào đã đưa ra được mười hai kiểu vần thông, bao gồm những cặp vần có thể

khác nhau ở âm đệm, hoặc ở âm chính, hoặc ở âm cuối, hoặc ở cả ba thành

phần đó [36, tr.107].

d) Một số kiểu vần khác

Ngoài những câu tục ngữ vần liền và vần cách khá phổ biến nói trên,

kiểu gieo vần hỗn hợp cũng chiếm một tỷ lệ nhất định trong tục ngữ của

người Việt (2,49%) và người Lào (1,01%), chẳng hạn những câu “Vui xem

hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội, bối rối xem đám ma, bỏ của bỏ nhà xem

giảng thập điều” (vần liền + cách một + vần liền + cách ba); “Ăn cá trắm,

uống rượu tăm, vật trăm trận” (vần cách hai + cách một); “Mồng mười tháng

tám, đúng đám chọi trâu, dù ai buôn đâu bán đâu, mồng mười tháng tám

chọi trâu cùng về” (vần cách một + cách ba + cách năm); “Bỏ con bỏ cháu

không ai bỏ hai mươi sáu chợ Yên, bỏ tổ bỏ tiên không ai bỏ chợ Viềng mồng

tám”… (vần cách năm + cách ba + cách bốn) của tục ngữ Việt và những câu

“Khậu phần khảo, lúc xảo phần heng, keng phần xẹp, pà đẹc phần nua, phủa

phần đi, khọp mia phần xàng” (vần cách một + vần liền + vần cách một +

vần liền + vần cách một), “Khoam xúc bò hòn mì, khạt mì bò hòn hạy, khạt

đạy bò hòn xỉa, khạt pền phủa pền mia bò hòn hạng” (vần cách một + vần

cách một + vần cách bốn), “Xúc nhọn mì khậu kin, mì đin dù, mì khù non

năm, mì ngân khăm têm thày, mì hườn nhày phụng pẹ cạ đản, mì lúc lản lải

ma nằng khậu” (vần cách một + vần cách một + vần cách hai + vần cách hai

+ vần cách hai), “Thì nạ núc dà non, mia von dà nhin, hết kin dà khạn, khậu

bạn dà ai, hển phỉ tài dà đạy khị điệt”… (vần cách một + vần cách một + vần

160

cách một + vần cách hai) của tục ngữ Lào.

Như vậy, các kiểu hiệp vần trong tục ngữ Việt và tục ngữ Lào về cơ

bản có nhiều điểm giống nhau. Một số nét khác nhau tuy không nhiều nhưng

cũng tạo nên bản sắc riêng trong lời ăn tiếng nói của nhân dân hai nước trên

chặng đường lịch sử của hai dân tộc.

3.1.3.2. Hiện tượng không vần trong tục ngữ

Có thể nói, vần là “chất thơ” của tục ngữ. Nhưng mức độ hấp dẫn của

vần cũng như vai trò, giá trị của câu tục ngữ lại không phụ thuộc vào vần.

Tuy nhiên, không phải mọi câu tục ngữ đều có vần. Tục ngữ cổ truyền người

Việt và người Lào có rất nhiều câu không vần nhưng vẫn rất hay. Có thể dẫn

ra hàng loạt câu tục ngữ không vần nhưng nghe vẫn xuôi tai, bởi tính nhịp

nhàng, cân đối của chúng, thí dụ các câu “Voi chết về ngà, chim chết về

lông”, “Leo cao ngã đau”, “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, “Ôm rơm

nhặm bụng”, “Thả vỏ quýt, ăn mắm ngấu”... TN Việt) và các câu “Càu thực

bòn khăn” (“Gãi đúng chỗ ngứa”), “Chắp pu xày động” (“Bắt cua bỏ nia”),

“Hả hàu ma xày hủa” (“Bắt chấy bỏ vào đầu”)… (TN Lào). Ngược lại, có

những câu tục ngữ có vần nhưng cũng không hay, bởi vì cái làm nên giá trị

của chúng không phải do vần mà do mối quan hệ giữa “cái phản ánh” và “cái

được phản ánh” có hài hoà hay không. Vần không phải là yếu tố để tạo ra

phát ngôn hay cú pháp mà có chức năng liên kết giữa các vế tạo thành những

phát ngôn có nội dung hoàn chỉnh. Sáng tác tục ngữ là để nói chứ không phải

để ngâm. Vần trong tục ngữ chỉ là để tạo ra “những câu văn đọc nghe xuôi

tai để dễ nhớ, dễ lưu truyền và phổ biến một cách có hiệu quả những kinh

nghiệm trong quần chúng” [36, tr.111].

Qua thống kê về vần tục ngữ Việt ở Phụ lục 4 (tr.214), (Hình 8), tục

ngữ Lào ở Phụ lục 5 (tr.215), (Hình 9), cho thấy, số câu tục ngữ vần cách là

161

tương đối phổ biến (Việt 36,08%, Lào 42,12%); tiếp đến là những câu không

vần (Việt 43,4%, Lào 40,38%), những câu vần liền (Việt 18,03%, Lào

16,49%) và vần hỗn hợp (Việt 2,49%, Lào 1,01%).

Hình 8: Vần trong tục ngữ Việt

Hình 9: Vần trong tục ngữ Lào

Vần hồn hợp 1,01%

Vần hồn hợp 2,49%

Vần cách 42%

Vần cách 36,08%

Không vần 40,38%

Không vần 43,4%

Vần liền 18,03%

Vần liền 16,49%

Không vần

Vần liền

Không vần

Vần liền

Vần cách

Vần hồn hợp

Vần cách

Vần hồn hợp

3.1.4. Nhịp

Nhịp là yếu tố không thể thiếu trong tục ngữ. Nó thể hiện qua sự tạm

ngắt, ngừng khi nói và bắt nguồn từ sự cấu trúc hoá tục ngữ khi người ta làm

nó. Nhịp điệu không chỉ có chức năng thi pháp như êm tai, dễ nhớ mà còn có

chức năng cú pháp và chức năng biểu nghĩa, bởi nhịp điệu là “yếu tố ngoại

hình làm thành đặc trưng ngữ điệu của tục ngữ, khiến cho tục ngữ vừa có

nhạc điệu vừa ổn định trong cấu tạo của nó” [63, tr.53]. Nhịp trong tục ngữ

khá đa dạng và linh hoạt gồm: nhịp một - một (xuất hiện không nhiều và chỉ

có trong thể loại tục ngữ mà không tìm thấy ở những thể loại văn vần khác

của loại hình văn học dân gian, thí dụ: “Chim/ thu/ nụ / đé” (TN Việt), “Pà/

nhày/ kìn/ pà/ nọi” (“Cá lớn/ nuốt/ cá bé”) (TN Lào). Ngoài ra, phần lớn tục

ngữ có nhịp lệch và nhịp cân đối. Nhịp lệch sẽ tạo ra câu có cấu trúc lệch,

nghĩa là tạo ra số âm tiết không đều nhau ở hai vế của tục ngữ, thí dụ:

“Già/chơi trống bỏi” (TN Việt) và: “Khoai thạu/mắc nhạ òn” (“Trâu già/

162

thích cỏ non”) (TN Lào) thuộc nhịp một - ba hoặc hai - ba; “Không thầy/ đố

mày làm nên” (TN Việt) và: “Cày căn/pan phạ cắp đin” (“Xa nhau/ như trời

với đất”) (TN Lào) thuộc nhịp hai - bốn; “Đẹp phô ra/ xấu xa đậy lại” (TN

Việt) và: “Tì hủa pa/xạ nươn hủa nạc” (“Đánh đầu cá/ làm rung đầu rồng”

(TN Lào) thuộc nhịp ba - bốn; “Sợ hẹp lòng/ không ai sợ hẹp nhà” (TN Việt)

và: “Tài pền phỉ/ đì quà nhăng pền khọi” (“Chết làm ma/ hơn sống làm nô

lệ” (TN Lào) thuộc nhịp ba - năm; “Già được bát canh/ trẻ được manh áo

mới” (TN Việt) và: “Cốp tài nhọn pạc/khăn khạc tài nhọn xiểng” (“Ếch chết

vì miệng/ cóc tía chết vì tiếng”) (TN Lào) thuộc nhịp bốn - năm; “Ăn không

thì hóc/ chẳng xay thóc cũng phải ẵm em” (TN Việt) và: “Mốt đông nhăng

làu/ mốt thạu càu nhăng lúc nhăng lản” (“Hết (rừng) rậm còn (rừng) thưa/

hết người già còn con còn cháu”) (TN Lào) thuộc nhịp bốn - bảy,... Tính

không đơn điệu trong cách ngắt nhịp của tục ngữ Việt và tục ngữ Lào còn

được thể hiện ở nhiều trường hợp đặc biệt khác. Trong một câu có thể có

nhiều loại nhịp, thí dụ: “Vui xem hát/ nhạt xem bơi/ tẻ tơi xem hội/ bối rối

xem đám ma/ bỏ cửa bỏ nhà xem giảng thập điều” (TN Việt), “Xạt tạ xỉn/

khuôn hằm hiên àu/ pền đằng nặm/ khưa khẩu đoọc mạc nặn ma” (“Mọi

điều nên tích cóp học lấy, năng nhặt sớm chiều ắt là thừa thãi”) (TN Lào).

Như trên đã nói, nhịp lệch sáu - tám, có vần cách năm tiếng thì cấu trúc câu

tục ngữ Việt lại trùng với cấu trúc câu ca dao hoặc câu thơ thể lục bát.

Trường hợp này không xuất hiện trong tục ngữ Lào, thí dụ: “Ghe bầu trở lái

về đông/ làm thân con gái thờ chồng nuôi con”. Ngoài ra, đa phần tục ngữ

Việt và tục ngữ Lào còn có nhịp cân đối, nghĩa là ở cả hai vế có số âm tiết

bằng nhau. Các câu “Của chồng/ công vợ”, “Xanh vỏ/ đỏ lòng” (TN Việt) và

câu “Xạu đeng/leng xịu” (“Sáng đỏ/ chiều xanh”) (TN Lào) thuộc nhịp hai -

hai; câu “Ăn tuỳ nơi/ chơi tuỳ chốn” (TN Việt) và câu “Khoai thảy na/ mả

kin khậu” (“Trâu cày ruộng/ chó ăn cơm”) (TN Lào) thuộc nhịp ba - ba; câu

163

“Thâm đông thì mưa/ thâm dưa thì khú/ thâm vú thì chửa” (TN Việt) và câu

“Kin dà lưm thù/ dù dà lưm khun” (“Ăn đừng quên đũa/ ở chớ quên ơn”)

(TN Lào) thuộc nhịp bốn - bốn; câu “Vắng đàn ông quạnh nhà/ vắng đàn bà

quạnh bếp” (TN Việt) và câu “Khoam pạc vản chọi chọi/chày xộm đằng mạc

nao” (“Lời nói ngọt lừ lừ/ lòng dạ chua như chanh” (TN Lào) thuộc nhịp

năm - năm; câu “Gái chưa chồng hay đi chợ/ trai chưa vợ hay đứng đường”

(TN Việt) và câu “Khăn và nốc xặm mì hủ/ khăn và nủ xặm mì píc” (“Nếu là

chim sao có tai/ nếu là chuột sao có cánh?”) (TN Lào) thuộc nhịp sáu - sáu;

câu “Bầu dục chẳng đến bàn thứ tám/ cám nhỏ chẳng đến miệng lợn sề” (TN

Việt) và câu “Xíp pạc vạu bò thò ta hển/ xíp ta hển bò thò mư căm” (“Mười

lời nói chẳng tầy mắt thấy/ mười mắt thấy chẳng tầy tay cầm”) (TN Lào)

thuộc nhịp bảy - bảy); câu “Đàn bà không biết nuôi heo đàn bà nhác/ đàn

ông không biết buộc lạt đàn ông hư” (TN Việt) và câu “Khăn đạy khì xạng

căng hồm phạ khơ khiểu/ dà lưm xể na phụ hè năm tin xạng” (“Nếu được

cưỡi voi che cái lọng xanh xanh/ chớ quên kẻ cận thần đi theo chân voi”)

(TN Lào) thuộc nhịp chín - chín. Nguyễn Thái Hoà [63] đã đưa ra bốn chỗ

ngắt nhịp như:

- Phân đoạn âm tiết;

- Phân đoạn từ và cụm từ;

- Phân đoạn thành phần phát ngôn;

- Phân đoạn một phát ngôn.

Khi đọc hay nói tục ngữ, nếu ngắt nhịp không đúng, có thể sẽ đưa đến

sự hiểu sai ý nghĩa của chúng. Có những câu, do thói quen của từng người

hay tuỳ theo nhu cầu cần nhấn mạnh ý khi sử dụng mà sự ngắt nhịp có thể

thay đổi, thí dụ câu “Nhất có râu, nhì bầu bụng” có thể được ngắt nhịp theo

hai cách sau:

Nhất có râu/ nhì bầu bụng;

164

Nhất/ có râu/ nhì/ bầu bụng;

Hoặc câu “Cà cuống chết đến đít còn cay” có thể có ba cách ngắt nhịp:

Cà cuống/ chết đến đít/ còn cay;

Cà cuống/ chết đến đít còn cay;

Cà cuống chết đến đít/ còn cay.

Dù có linh hoạt đến đâu thì nhịp cũng phải ăn nhập với ý vì xét cho

cùng nhịp cũng là một trong những hình thức thể hiện ý. Trong thực tế, có

một số trường hợp xác định nhịp sai hoặc ngắt nhịp khác nhau sẽ tạo nên nội

dung khác nhau cho câu tục ngữ.

Câu “Cơm gà cá gỏi" (nói về những món ngon) được ngắt thành:

Cơm gà/ cá gỏi (ngắt nhịp đúng và giữ nguyên nghĩa) ;

Cơm/ gà/ cá/ gỏi/ (ngắt nhịp sai và vô nghĩa).

Câu “Dâu hiền hơn con gái/ rể hiền hơn con trai” được hình thành trên

cơ sở hai vế cân đối và hai phát ngôn rõ rệt: “Dâu hiền hơn con gái” và: “Rể

hiền hơn con trai”. Song trong mỗi vế, mỗi phát ngôn ta ngắt nhịp khác

nhau: “Dâu/ hiền hơn con gái” với “Dâu hiền/ hơn con gái”, “Rể/ hiền hơn

con trai” với “Rể hiền/ hơn con trai” sẽ hình thành hai cách hiểu. Một là, tính

người con dâu hiền hơn tính người con gái. Hai là, sống với con dâu hiền thì

tốt hơn sống với con gái. Cũng có thể phân tích tương tự như vậy để hiểu vế

thứ hai của câu tục ngữ. Có thể coi đây là hiện tượng mơ hồ về nhịp. Cách

ngắt nhịp tạo thành hai vế có số âm tiết bằng nhau và ổn định cũng là một

đặc điểm quan trọng trong lối nói của người Việt. Nó tạo cho tiếng Việt

không chỉ thêm tính đối xứng và hài hoà mà còn nhịp nhàng nữa. Cách ngắt

nhịp trong tục ngữ cũng giống như cách ngắt nhịp trong ngôn ngữ thơ ca.

Ngay trong bản thân mỗi vế cũng có cách ngắt nhịp: “Hay/ thì khen// hèn/ thì

chê”, “Dạ/ trước mặt//chửi/sau lưng”, “Bầu dục/ chẳng đến/ bàn thứ tám//

165

cám nhỏ/ chẳng đến/ miệng lợn sề”... (TN Việt) và: “Xíp pạc vạu/ bò thò ta

hển//xíp ta hển/ bò thò mư căm” (“Mười miệng nói/ chẳng tầy mắt thấy/

mười mắt thấy/ chẳng tầy tay cầm”) (TN Lào)...

3.1.5. Lối tỉnh lược

Trong cuộc sống hàng ngày, nhân dân lao động thường có thói quen

nói tắt, nói bớt theo quy luật tiết kiệm của ngôn ngữ. Như vậy, “tỉnh lược” là

lược bớt, bỏ bớt đi một số từ cho gọn câu, bởi “ngắn gọn là yêu cầu, đồng

thời là đặc điểm nổi bật nhất xét về phương diện nghệ thuật của tục ngữ”

[34, tr.88]. Do tỉnh lược mà cấu trúc của câu tục ngữ Việt và tục ngữ Lào

luôn được trau chuốt, gọt giũa bớt đi những yếu tố nào đó làm cho nó ngày

một gọn ghẽ, khúc chiết hơn. Cấu trúc tục ngữ ngắn gọn phù hợp với tính

chất truyền miệng (dễ thuộc, dễ nhớ, dễ lưu truyền) của văn học dân gian.

Mỗi vế của tục ngữ được hình thành trên cơ sở nhấn mạnh quan hệ giữa chủ

từ logic và tân từ logic của phán đoán. Trong những trường hợp này tác giả

dân gian thường lược bỏ một số từ để tạo cho tục ngữ có cấu trúc cân đối,

gọn ghẽ và chắc nịch hơn. Bằng lối diễn đạt kiệm lời, tục ngữ đã được lược

bớt đi một số từ cơ bản mà vẫn không làm thay đổi nội dung của nó. Lối nói

rút gọn hay tỉnh lược là đặc điểm đáng chú ý của tục ngữ. Đôi khi sự tỉnh

lược đã làm cho câu tục ngữ có hình thức như một thành ngữ hoặc trở nên đa

nghĩa như: “Tham thì thâm”, “Túng thì tính” của người Việt và “Kin khậu

linh” (“Ăn cơm khỉ”) của người Lào. Tuy vậy, không phải thành ngữ nào

cũng được triển khai thành tục ngữ và tục ngữ nào cũng có thể rút gọn lại để

trở thành thành ngữ. Phải chăng đây là cách sử dụng màu sắc tu từ lời ăn

tiếng nói hàng ngày của nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào?. Chưa có điều

kiện để làm một phép thống kê chính xác, nhưng bước đầu có thể thấy tỷ lệ

166

những câu tục ngữ Việt và tục ngữ Lào được tỉnh lược là khá lớn. Đối với

những đơn vị kiểu như thế này, để hiểu đúng nghĩa đích thực của chúng, phải

dựa vào sự liên hệ logic- ngữ nghĩa mà suy ra lớp nghĩa nằm ngoài sự hiển

thị của ngôn từ; đồng thời với vốn tri thức về nhiều mặt của người đọc hoặc

người nghe, tuỳ theo từng ngữ cảnh mà ý nghĩa của câu tục ngữ vẫn được

hiểu đúng không mấy khó khăn. Đằng sau sự hiển thị của những từ ngữ, ở bề

sâu của những câu chữ là những thông điệp được tạo ra không phải bằng

phép cộng ngữ nghĩa của lớp từ vựng đó mà là một dòng chảy của lịch sử,

của văn hoá, phong tục, tâm lý dân tộc...được hình thành và được trao truyền

từ thế hệ này sang thế hệ khác. Câu “Lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng nam”

rút gọn thành câu “Vợ hiền hoà, nhà hướng nam”; câu “Dâu là con rể là

khách” lược bớt thành câu “Dâu con rể khách”; câu “Lúc trẻ thì cậy cha, lúc

già thì cậy con” được rút thành câu “Trẻ cậy cha, già cậy con”; câu “Đất có

lề, quê có thói” được tỉnh lược thành câu “Đất lề quê thói”(TN Việt) và các

câu “Chó sủa (nhưng) không cắn”, “(Như) ếch ngồi đáy giếng” (TN Lào).

Những thành phần bị khuyết thiếu khi rút gọn thường gặp trong những câu

có kết cấu phức hợp kiểu: “Nếu A thì B”, “Hễ A là B” hoặc trong kiểu câu có

quan hệ so sánh điều kiện - kết quả và nguyên nhân - kết quả hoặc quan hệ

qua lại phụ thuộc: “(Nếu) thẳng mực tàu (thì) đau lòng gỗ”, “(Nếu - khi) đứa

dại cởi truồng (thì) người khôn xấu hổ”, “(Khi - nếu) một con ngựa đau (thì)

cả tàu bỏ cỏ”, “(Nếu) ai đội mũ lệch (thì) xấu mặt người ấy”, “(Khi) túng thì

(phải) tính”, “(Vì) cha già (nên) con cọc”, “Còn người (thì) còn của”, “(Vì)

phụ vợ (nên) không gặp vợ”... Tỉnh lược trong câu có quan hệ tương phản

kiểu “Tuy A nhưng B”: “Cũ người, mới ta”, “Đắt xắt ra miếng”, “Của không

ngon, nhà nhiều con cũng hết” (TN Việt) và: “(Khi) đi hãy hỏi, (khi) về hãy

chào”, “(Nếu) được cưỡi voi che lọng thành hoàng tử (thì) chớ quên kẻ cận

thần đi theo chân voi”, “(Tuy) lời nói ngọt lừ (nhưng) lòng dạ chua như

167

chanh” (TN Lào). Đôi khi yếu tố bị tỉnh lược là các lượng từ: “mỗi”, “tất

cả”, thí dụ: “(Tất cả) lạt mềm (đều) buộc chặt” hoặc bỏ hệ từ: “Người sống

(hơn) đống vàng”, “Một lời nói (là) một đọi máu”, “Người ta (là) hoa đất”;

cũng có khi bớt động từ: “Người chửa (đi gần tới) cửa mả”, “Đói thì (ăn)

rau, đau thì (uống) thuốc” (TN Việt) và “Bắt cua (bỏ) vào mẹt” (TN Lào);

hoặc ẩn chủ từ: “Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học” (TN Việt) và:

“Muốn ăn lúa phải làm ruộng” (TN Lào).

Tóm lại, tỉnh lược là lược bớt đi một số từ hoặc cấu trúc của câu tục

ngữ làm cho câu tục ngữ ngắn gọn, khúc chiết hơn. Đôi khi, do tỉnh lược mà

câu tục ngữ bị biến dạng, nghĩa mới thay đổi so với nghĩa ban đầu. Đây là

một đặc điểm nổi bật và lý thú ở cả trong tục ngữ Việt lẫn tục ngữ Lào.

3.1.6. Lối nói

Theo Phan Thị Đào [36, tr.132], cả người sáng tác và người tiếp nhận

đều tham gia vào quá trình tạo nghĩa cho câu tục ngữ. Có câu tục ngữ tưởng

như nhất thành bất biến, bỗng khuôn mẫu bị phá vỡ, bởi trong quá trình lưu

truyền qua nhiều người, nhiều đời mà câu tục ngữ được gọt giũa, bổ sung,

chỉnh lý cho phù hợp, đôi khi đã tạo thêm những nét nghĩa mới, chẳng hạn,

từ nghĩa “tiêu cực” của câu “Cái khó bó cái khôn”, người tiếp nhận đã sáng

tạo thêm một nét nghĩa mới “tích cực” hơn nên mới có câu “Cái khó ló cái

khôn”.

3.1.6.1. Các hình thức tu từ trong tục ngữ

Tục ngữ không chỉ phản ánh lối sống thời đại mà còn in dấu lối nói

dân tộc và lối nghĩ của nhân dân. Nói cách khác, mỗi dân tộc có lối nói và lối

nghĩ tục ngữ riêng thông qua một số biện pháp tu từ. Trong quá trình sáng

tạo tục ngữ, cả người Việt và người Lào đều sử dụng một số thủ pháp tạo

nghĩa nên đã làm cho tục ngữ không chỉ phù hợp với tâm lý dân tộc mà còn

mang đậm phong cách tư duy hình tượng. Bởi vậy, trong các phương thức

168

biểu đạt của tục ngữ, lối ví von so sánh, một lối nói hình tượng được sử dụng

nhiều nhất. Đó cũng là phương thức tu từ mang tính hình tượng của tục ngữ.

Khi tỉnh lược tính từ tính chất của quan hệ so sánh, hai phán đoán xoắn xuýt

lấy nhau bằng quan hệ so sánh, thông qua các từ quan hệ: hơn, bằng, như,

khác nào, như thể, là...

Trong tục ngữ Việt, biện pháp tu từ tạo nên sự so sánh với những gì

gần gũi quanh ta: “Vợ chồng như đũa có đôi”; có sự so sánh xa xôi: “Giặc

bên Ngô không bằng bà cô bên chồng” hoặc so sánh trực tiếp: “Anh em như

chân với tay” và cũng có sự so sánh gián tiếp: “Máu loãng còn hơn nước

lã”... Trong so sánh, đôi khi các liên từ: cũng như, giống như, như, như là,

là, tựa như, bằng, không bằng, hơn... bị ẩn đi, thí dụ: “Chim có tổ (như)

người có tông”, “Người sống (hơn) đống vàng”, “Người ta (là) hoa đất”,

“Người đẹp về lụa (tựa như) lúa tốt về phân”, “Canh suông khéo nấu thì

ngon (cũng như) mẹ già khéo nói thì con đắt chồng”, “Miếng ngon nhớ lâu

(giống như) đòn đau nhớ đời”... Trong đó, tỷ dụ là một trong những phương

thức tu từ có hiệu quả của tục ngữ. Đó là lối so sánh trực tiếp. Đối tượng

nhận thức có mặt bên cạnh đối tượng được làm tỷ dụ hoặc đối tượng nhận

thức được nói rõ hơn. Thí dụ: “Cái khó bó cái khôn”, “Người ta là hoa đất”,

“Người sống hơn đống vàng”...; đôi khi là lối nói so sánh gián tiếp, ẩn dụ.

Đối tượng nhận thức bị ẩn đi một cách kín đáo: “Có trăng quên đèn”, “Tre

non dễ uốn”, “Giấy rách giữ lề”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “Một

con sâu làm rầu nồi canh”. Tục ngữ có khả năng nói về những vấn đề trừu

tượng một cách sống động, mang lại những hình ảnh rõ rệt, hợp với lối nghĩ

của nhân dân. Nhờ liên tưởng, những hình ảnh tưởng là xa lạ bỗng trở nên

gần gũi. Nhân cách hoá hay nhân hoá cũng là một hình thức tu từ đặc biệt

của tục ngữ. Lối nói này mang tính hình tượng rất cao. Tác giả dân gian đã

gán cho các sự vật và hiện tượng những đặc tính của con người. Nói cách

169

khác, những sự vật và hiện tượng đã được khoác tấm áo của con người, cũng

có những hoạt động như con người: “Mâm cao đánh ngã bát đầy”, “Thẳng

mực tàu, đau lòng gỗ”, “Cái nết đánh chết cái đẹp”... Tục ngữ còn có lối nói

ngoa dụ hay phóng đại. Đây còn là hình thức khoa trương hay khuyếch đại.

Nhân dân đã thổi hồn mình vào những sự vật, hình ảnh tưởng như xa lạ và

vô lý để nói quá đi, làm cho chúng gần lại hơn với cảm nhận của người nghe

và trở nên có lý hơn trong nhận thức của mọi người, thí dụ: “Có tiền mua

tiên cũng được”, “Thuận vợ thuận chồng biển Đông tát cạn, thuận bè thuận

bạn, tát cạn biển Đông”. Những hình tượng được so sánh trong tục ngữ là

những tín hiệu được “ẩn dụ sống” (chữ dùng của Nguyễn Thái Hoà), luôn

được hiện thực hoá trong giao tiếp cụ thể. Đó là những gì rất quen thuộc và

gần gũi với nông dân và nông thôn Việt Nam như: núi, rừng, cây cỏ, nắng,

mưa, trăng, sao, lúa, tre, trâu, bò, ngựa, dê, chim, chuột, chó, mèo, lợn, gà,

voi, gỗ, đất, vàng, bạc, bát, đũa... Ngoài những phương thức tu từ thể hiện

cách nói hình tượng, tục ngữ còn sử dụng lối nói khẩu ngữ. Đó là lối diễn đạt

nôm na, sử dụng “lời ăn tiếng nói” hàng ngày, ngắn gọn mà vẫn đầy đủ

thông tin, vẫn thấy được hiệu quả ngay của câu nói, vẫn phù hợp với hoàn

cảnh giao tiếp của con người. Có người cho rằng, đó là lối nói “cửa miệng”,

thí dụ: “Thà cho ăn, chẳng thà cho thấy”, “Một con một của ai từ”, “Bố đĩ

giàu, bố đĩ tiên, ông tổng không tiền ông tổng tếch”, “Buộc được chân voi

chân ngựa chứ buộc sao được lòng người”, “Không làm thì đừng ăn”.

Nhìn chung lại, tục ngữ cổ truyền của người Việt là một kho tư

liệu vô cùng quý giá về mọi mặt của đời sống. Tục ngữ không chỉ phản ánh

những khía cạnh khác nhau của lối sống mà còn bộc lộ rõ ràng nhất lối nghĩ

của nhân dân và lối nói của dân tộc. Tìm hiểu tục ngữ Việt, chúng ta có dịp

hiểu thêm về con người và đất nước Việt Nam với những nét bản sắc văn hoá

170

riêng của họ.

Tương tự như người Việt, người Lào cũng thường sử dụng các hình

thức ẩn dụ, nhân cách hoá, ngoa dụ, chơi chữ và tỉnh lược… để sáng tạo tục

ngữ. Tìm hiểu tục ngữ, ta không thể không đặt chúng trong một hệ thống tư

duy nghệ thuật của người Lào. Nhiều hiện vật quen thuộc trong đời sống đã

trở thành những hình tượng có giá trị biểu cảm trong tục ngữ Lào. Thông qua

những hình ảnh cụ thể, tục ngữ Lào muốn nói đến những biểu hiện phong

phú, đa dạng của nhân tình thế thái, của những cách đối nhân xử thế ở đời.

Những câu tục ngữ kiểu so sánh chiếm đa số. Nhiều câu dùng hình ảnh của

tự nhiên để nói đến những vấn đề xã hội và cuộc sống con người. Ý nghĩa

sâu sắc đã tiềm ẩn đằng sau những hình ảnh cụ thể, sống động đó. Nhân dân

Lào thường dùng những từ so sánh: khư, đằng (như), pền (là), khại khư (gần

như), koà (hơn), bò thò (không bằng), thò (bằng). Khi thì so sánh trực tiếp:

“Khun phò thò phu khẩu cạ, khun mè thò phạ cắp phèn đìn” (“Ơn bố bằng

trái núi già, ơn mẹ như trời và đất”), “Chày hại pền phỉ, chày đì pền phạ

chậu” (“Xấu bụng là ma, tốt bụng là Phật”); lúc thì họ so sánh gián tiếp: “Tà

nhày koà thoọng” (“Mắt to hơn bụng”), “Khoam pạc vản chọi chọi, chày

xộm đằng mạc nao” (“Lời nói ngọt mà lòng dạ chua như chanh”), “Căm khị

đì koà căm tốt” (“Nắm phân tốt hơn nắm rắm”)... Trong các hình thức so

sánh, ẩn dụ là một hình thức tu từ nổi bật và được sử dụng nhiều hơn cả.

Ẩn dụ là một phương tiện biểu đạt chứ không phải là mục đích của sự

biểu đạt. Những hình ảnh được dùng để so sánh thường là những gì gần gũi,

gắn bó với con người Lào. Mặc dù bị ẩn đi nhưng hình ảnh của nó vẫn lung

linh. Tất nhiên, mọi sự so sánh phải phù hợp với logic sự việc và tâm lý của

người Lào, nếu không thì sự so sánh đó sẽ trở nên buồn cười hoặc sáo rỗng.

Câu tục ngữ “Mốt tồ nọi khạm lượi cò têm hằng” (“Kiến nhỏ tha lâu cũng

đầy tổ”) từ nghĩa đen về hiện tượng đàn kiến nhẫn nại tha mồi, người Lào đã

171

đề cập đến quy luật của sự tích luỹ. Câu “Một con cá ươn làm ươn cả giỏ cả,

một cái chiêng vang vang ra cả làng” nghĩa đen là nói về cá, về chiêng

nhưng nghĩa ẩn dụ mà nó đề cập đến lại rất thẳng thắn, công khai về văn hoá

ứng xử của con người. Bên cạnh hình thức ẩn dụ, còn phải kể đến một số

hình thức tu từ khác cũng đậm tính hình tượng như: hoán dụ, tỷ dụ, ngoa dụ,

tượng trưng... Theo Lê Anh Hiền trong Phong cách học tiếng Việt (Nxb Giáo

dục, Hà Nội, 1982), hoán dụ cũng là một hình thức tu từ thể hiện tính hình

tượng của tục ngữ. Hình thức hoán dụ trong tục ngữ Lào đã lấy một bộ phận

để nói toàn thể, lấy tên gọi đối tượng này để biểu thị đối tượng kia dựa trên

lối liên tưởng logic khách quan giữa hai đối tượng. Hoán dụ chỉ sự quan hệ

giữa bộ phận và toàn thể, giữa vật chứa đựng và vật bị chứa đựng, giữa quan

hệ số ít và số nhiều, giữa quan hệ riêng và quan hệ chung, thí dụ: “Tà nhày

koà thoọng” (“Mắt to hơn bụng”) chê bai kẻ tham ăn, “Khôn nhày chày nọi”

(“Người to tim bé”) chế giễu kẻ to xác mà trí tuệ nhỏ bé, tầm thường. Tỷ dụ

là lối so sánh trực tiếp, đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có chung một dấu

hiệu nào đó nhằm diễn tả một cách hình ảnh, đặc điểm của đối tượng và

thuộc tính của sự vật mà gợi hình, truyền cảm. Các câu “Lược khôn khư lược

khày” (“Chọn người như chọn trứng”), “Xạy khôn khư xạy mạy” (“Dùng

người như dùng gỗ”) đều nêu kinh nghiệm “dùng” người. Lựa chọn, tuyển

dụng con người cũng cần cẩn trọng giống như việc chọn trứng và dùng gỗ

vậy. Trong hình thức tỷ dụ, những từ so sánh: “khư” (như) được dùng với

sắc thái giả định; “pền”(là, thành), “và” (là), “lẹ” (và)... được dùng với sắc

thái khẳng định, thí dụ: “Xùa và khị đì và kẹo” (“Xấu là phân, tốt là ngọc”),

“Chày hại pền phỉ, chày đì pền phạ chậu” (“Xấu bụng là ma, tốt bụng là

Phật”). Nhân hoá hay là nhân cách hoá là một hình thức tu từ được sử dụng

nhiều trong tục ngữ. Nhân dân đã gán cho các vật vô tri vô giác những đặc

điểm của con người như các câu “Cây tre ở bụi ngóc lên mổ voi, cá khô ở

172

nơi dàn bếp chồm lên vồ mèo, mèo mất lòng cạo trọc đầu đi tu, chuột nhắt

mất lối thành chú sùng đạo, lấy gạo thổi cơm trưa”, “Đừng có lấy quà đi

biếu kiến càng, mối ở hàng rào sẽ lao xao cười mỉa”... Khi sử dụng hình

thức ngoa dụ, tục ngữ đã tận dụng cách nói khoa trương, phóng đại nhằm

nêu bật bản chất của đối tượng được miêu tả, thí dụ, các câu “Chân voi giẵm

mỏ chim” (“Tin xạng giệp pạc nốc”), “Vắt trấu ra mỡ” (“Bịp khị kẹp pền

nặm măn”), “Voi dòng giống cao to chết vì chim gõ kiến nhỏ” (“Cúm xạ lô

xạng neo xủng xắc nhày, tài nhọn nốc xày nọi”), “Đại dương sâu biết mấy

mươi, gậy còn thọc tới, nói đến lòng người có bao giờ thọc tới nơi”... Mỏ

chim mà bị chân voi giẫm, trấu mà vắt ra được mỡ, chim gõ kiến nhỏ mà làm

cho voi to chết, cây gậy ngắn mà đo được đại dương... là những chuyện phi

lý, phi logic thông thường, không thể xảy ra, song trong nghệ thuật chúng lại

gây ấn tượng mạnh mẽ trong việc giáo dục nhận thức và bồi dưỡng khiếu

thẩm mỹ cho con người.

Nhìn chung lại, tục ngữ cổ truyền của người Việt và người Lào

là một kho tư liệu vô cùng quý giá về mọi mặt của đời sống. Tục ngữ không

chỉ phản ánh những khía cạnh khác nhau của lối sống mà còn bộc lộ rõ ràng

nhất lối nghĩ của nhân dân và lối nói của dân tộc. Tìm hiểu tục ngữ Việt và

tục ngữ Lào, chúng ta có dịp hiểu thêm về con người và đất nước Việt Nam

và Lào với những nét bản sắc văn hoá riêng của từng dân tộc.

Nhiều hiện vật quen thuộc trong đời sống đã trở thành những hình

tượng có giá trị biểu cảm trong tục ngữ Việt và tục ngữ Lào.Thông qua

những hình ảnh cụ thể, tục ngữ Việt và tục ngữ Lào muốn nói đến những

biểu hiện phong phú, đa dạng của nhân tình thế thái, của những cách đối

nhân xử thế ở đời. Những câu tục ngữ kiểu so sánh chiếm đa số. Nhiều câu

dùng hình ảnh của tự nhiên để nói đến những vấn đề xã hội và cuộc sống con

người. Ý nghĩa sâu sắc đã tiềm ẩn đằng sau những hình ảnh cụ thể, sống

173

động đó.

Tục ngữ không chỉ phản ánh lối sống thời đại mà còn in đậm lối nghĩ

của nhân dân và lối nói dân tộc. Nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào hay

dùng những hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống để thể hiện tư

tưởng và tình cảm của mình. Đó là lối nói bóng bẩy, nhiều hình tượng của

người Việt và người Lào qua nguồn tục ngữ của mỗi dân tộc. Trong tục ngữ

Lào, có một bộ phận sử dụng cách nói văn hoa, gọi là “tôông xít tôi pha xít”,

còn tục ngữ Việt thường dùng lối nói bóng bẩy, màu mè.

Trước một vấn đề của cuộc sống, tục ngữ Việt và tục ngữ Lào có cách

diễn đạt và sử dụng những hình ảnh biểu trưng mang tính đặc thù. Theo Phan

Thị Đào [36, tr.124], từ xa xưa, trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, nhân dân

Việt Nam rất thích lối nói so sánh dí dỏm. Vì thế, khi giao tiếp người Việt

không nói “ăn cà rất độc” mà nói “một quả cà bằng ba thang thuốc”; không

nói “hàm dưới cá trê rất béo và ngon” mà nói “một trăm đám cưới không

bằng hàm dưới cá trê”; không nói “cá chép tháng ba rất dở, đừng ăn” mà nói

“thà liếm môi liếm mép còn hơn ăn cá chép tháng ba”; không nói “ốc tháng

tư gầy, không nên ăn” mà nói “thà ăn vảy trốc còn hơn ăn ốc tháng tư”;

không nói “cơm đầu mùa dễ nấu” mà nói “cơm đầu mùa thổi đầu chùa cũng

chín”; không nói “có cá ăn được nhiều cơm” mà nói “có cá đổ vạ cho cơm”

hoặc nói “Con cá đánh ngã bát cơm”,... Còn người Lào cũng có cách nói,

cách tư duy tương tự. Họ không nói trực tiếp “bên ngoài thì đẹp nhưng bên

trong thì xấu” mà nói “nhẵn bề ngoài, bên trong như quá sung”; không nói

thẳng “nghe chẳng đọng lại cái gì trong tai” mà nói “vào tai trái ra tai phải”;

không nói “ông già thích gái đẹp” mà nói “trâu già thích cỏ non”... Ở đây,

những cách nói bằng tục ngữ vừa giàu tính hình tượng vừa phong phú thông

tin mà hiệu quả giao tiếp lại cũng cao hơn.

Nghệ thuật tục ngữ không chỉ thể hiện ở thủ pháp sinh động hoá về

174

cách nói mà còn ở thủ pháp đa dạng hoá về hình thức diễn đạt. Thủ pháp này

đã sản sinh ra nhiều câu tục ngữ giống nhau về nội dung nhưng lại đa dạng

về hình thức diễn đạt và không giống nhau về hình tượng được sử dụng.

Trong sự giống nhau này lại có sự khác nhau về mức độ, thí dụ, các câu “Có

đi có lại mới toại lòng nhau”, “Ông mất chân giò bà thò chai rượu”, “Ông

có cái giò bà thò chai rượu”, “Ông đưa chân giò bà thò chai rượu”, “Ông

mất của kia bà chìa của nọ”, “Hòn bấc ném đi, hòn chì ném lại”, “Hòn đất

ném đi hòn chì ném lại”, “Bánh ít trao đi bánh quy trao lại”, “Bánh sáp đi,

bánh chì lại”, “Ăn mận trả đào”, “Ăn miếng chả, trả miếng nem”, “Ăn miếng

ngọt trả miếng bùi”...(TN Việt) và: “Thịt đi cá về” (TN Lào). Người Việt nói

“chở củi về rừng”, “gánh nước về nguồn” nhưng người Lào lại nói “khiêng

ma đổ nghĩa địa”. Có nhiều câu ý nghĩa tương tự nhau nhưng hình tượng và

cách nói không giống nhau, thí dụ các câu “Tiến thoái lưỡng nan” (TN Việt)

với câu “Nuốt không vào, nhả không ra”(TN Lào); câu “Đóng cửa đi ăn

mày” (TN Việt) và câu “Lươn xin máu của cua” (TN Lào); câu “Thả hổ về

rừng” (TN Việt) với câu “Thả rùa tới đầm” (TN Lào); câu “Yêu cho roi cho

vọt, ghét cho ngọt cho bùi” (TN Việt) và câu “Yêu bò hãy buộc, yêu con hãy

đánh” (TN Lào); câu “Người ăn không hết, người lần chẳng ra” (TN Việt)

với câu “Kẻ ăn đến mửa, người đói đến chết” (TN Lào),...

Như vậy, nguồn tục ngữ của người Việt và người Lào đều lấy những

hình ảnh gắn bó thân thiết với những sinh hoạt hàng ngày, những hoạt động

lao động, sản xuất, những vật dụng thường dùng, những gia súc gia cầm gần

gũi để làm biểu tượng miêu tả hoặc so sánh của tục ngữ. Nội dung tục ngữ

Việt và tục ngữ Lào khá phong phú và sâu sắc, hình thức của chúng cũng rất

đa dạng. Trong quá trình sáng tạo và lưu truyền tục ngữ, tác giả dân gian

Việt Nam và Lào đều sử dụng một số thủ pháp tạo nghĩa làm cho câu tục

ngữ có nội dung bóng bẩy, nhiều hình ảnh, thông qua các phương thức tu từ

175

như so sánh, ẩn dụ, nhân cách hoá, ngoa dụ, chơi chữ...

Ngoài hình ảnh mang tính dân tộc ra, trong nguồn tục ngữ của hai

nước đều có một số câu mang tính địa phương, bản địa, rất khó tìm được một

nội dung chuẩn xác. Đôi khi phải gắn câu tục ngữ đó với đặc điểm cụ thể của

một vùng, miền hoặc sự vật cụ thể nào đó thì mới có thể hiểu được nguyên

lai của chúng. Hãy xét các câu tục ngữ “Non xủng hạy non khoặm, non tằm

hạy non ngải” (“Ngủ cao hãy nằm sấp, ngủ thấp hãy nằm ngửa”) (TN Lào)

và câu “Sáng thắt đai, chiều mai đội mũ” (TN Việt). Phải gắn với tập quán ở

nhà sàn của đồng bào dân tộc thiểu số ta mới hiểu được hàm ý của kiểu ngủ

sấp để canh chừng kẻ trộm của người Lào. Phải từ thực tiễn quan sát đỉnh

núi Ba Vì (Hà Nội) vào những buổi sáng có nhiều mây mù bao phủ quanh

núi giống như cảnh người thắt đai, đội mũ ta mới hiểu được câu tục ngữ

“Sáng thắt đai, chiều mai đội mũ” nói trên.

Tuy cùng sử dụng các hình thức tu từ như tỷ dụ, hoán dụ, ẩn dụ, ngoa

dụ... nhằm tăng thêm hiệu quả cho câu nói và tăng tính biểu cảm cho đối

tượng so sánh nhưng tục ngữ của hai dân tộc lại chứa đựng những hình ảnh

mang tính đặc thù.

Khi sử dụng hình thức ngoa dụ, cả tục ngữ Việt lẫn tục ngữ Lào đều

khai thác cách nói khoa trương, phóng đại của dân gian nhằm nêu bật bản

chất của đối tượng được miêu tả, thí dụ câu “Con cá đánh ngã bát cơm”,

“Cái nết đánh chết cái đẹp” (TN Việt) và câu “Tin xạng giệp pạc nôốc”

(“Chân voi giẫm mỏ chim”) (TN Lào). Người Lào dùng biểu tượng con voi,

một con vật rất đặc trưng của núi rừng Lào để liên tưởng so sánh: “Thấy voi

to cũng muốn to bằng voi”. Trong khi đó, người Việt lấy những mối quan hệ

thân thiết, không thể thiếu được như bố, mẹ, chồng, vợ, con... ; lấy những

hành vi hàng ngày như ăn, nói; những con vật, vật dụng gần gũi, cần thiết

như con trâu, con chó, con cá, con gà, cái nhà, cơm, nước... làm đối tượng,

176

hình ảnh cho những câu tục ngữ, thí dụ: “Trâu ta ăn cỏ đồng ta”, “Cơm với

cá như mạ với con”. Tuy nhiên, những hình ảnh và biểu tượng ấy ở tục ngữ

mỗi nước lại có những khía cạnh khác nhau, vì có những chỗ khác nhau về

địa lý, tâm lý dân tộc. Thiên nhiên Lào hùng vĩ, lắm voi, nhiều hổ và phong

phú các sản vật của rừng. Tâm lý người Việt cũng mang dáng vẻ riêng độc

đáo. Cùng một hiện tượng mà nhân dân mỗi nước lại sử dụng những biểu

tượng khác nhau để diễn đạt. Câu tục ngữ của người Việt “Cháy nhà ra mặt

chuột” nói về một việc xấu được che đậy kín đáo nhưng khi có sự cố thì mọi

thứ được ẩn giấu sẽ bị bóc trần. Cùng lối nghĩ đó nhưng người Lào lại nói

“Cháy rừng mới thấy mặt chuột”, bởi Lào là đất nước của núi rừng. Ý nghĩa

biểu trưng cho sự lãng quên đã được người Lào đúc kết: “Thức ăn để lâu hay

thối, chuyện cũ không kể sẽ quên”; còn người Việt lại biểu đạt nó bằng một

hình ảnh khác: “Cứt trâu để lâu hoá bùn”. Người Lào phản ánh kiểu quan hệ

có đi có lại trong giao tiếp bằng hình tượng: “Thịt đi cá về”; kiểu quan hệ

qua lại đó nảy sinh trong tư duy người Việt với hình ảnh: “Ông mất chân

giò, bà thò chai rượu”. Thịt, cá, chân giò, rượu là những thứ gần gũi, cần

thiết trong cuộc sống hàng ngày của con người đều được dùng làm hình ảnh

biểu trưng cho lối nói riêng của từng dân tộc.

Ngoài những phương thức tu từ thể hiện cách nói hình tượng nói trên,

tục ngữ Việt còn sử dụng lối nói khẩu ngữ. Có người cho rằng, đó là lối nói

“cửa miệng”. Đó là lối diễn đạt nôm na, sử dụng “lời ăn tiếng nói” hàng

ngày, ngắn gọn mà vẫn đầy đủ thông tin, vẫn thấy được hiệu quả ngay của

câu nói, vẫn phù hợp với đức tính và hoàn cảnh giao tiếp của người Việt, thí

dụ: “Thà cho ăn, chẳng thà cho thấy”, “Một con một của ai từ”, “Bố đĩ giàu,

bố đĩ tiên, ông tổng không tiền ông tổng tếch”, “Buộc được chân voi chân

ngựa chứ buộc sao được lòng người”, “Không làm thì đừng ăn”. Trong khi

đó, người Lào đã tìm một cách nói riêng để biểu đạt suy nghĩ của mình, bởi

177

lối nghĩ ấy xuất phát từ hoàn cảnh và cuộc sống đặc thù của Lào. Câu tục

ngữ Lào “Cằm khị đì quà cằm tốt” (“Nắm phân tốt hơn nắm rắm”) thể hiện

rất rõ tính thực tế của người Lào. Ngoài ra, người Lào có cách đo không

gian, cách nói khoảng cách khá độc đáo, phù hợp với hoàn cảnh, địa hình

rừng núi ở Lào, thí dụ câu “Chọn ruộng cho hết tầm mắt, chọn rẫy cho hết

tầm hú”. Người ta đo ruộng bằng mắt mà không cần thước, cũng đồng nghĩa

với dùng tầm nhìn để ước lượng không gian, khoảng cách, bởi cách làm này

phù hợp khi địa hình bằng phẳng dễ quan sát. Nhưng khi nương rẫy có nhiều

đồi núi, gò đống do địa hình mấp mô đã làm hạn chế tầm mắt thì người Lào

lấy tiếng hú (âm thanh) để đo khoảng cách, độ dài. Đó là một cách đo không

gian sáng tạo và độc đáo. Người Việt cũng đo không gian theo cách riêng

của mình. Trong cuộc chiến tranh cứu nước, các chiến sỹ quân đội nhân dân

Việt Nam trên đường hành quân ra mặt trận thường hỏi nhân dân sống ven

đường còn bao xa nữa mới đến binh trạm hoặc điểm tập kết. Đồng bào các

dân tộc thiểu số trên dãy Trường Sơn thường lấy số giờ (thời gian), tầm

quăng con dao hoặc số ngọn núi, quả đồi để tính quãng đường mà không đo

bằng ki lô mét. Phải chăng đây cũng là một cách đo độc đáo.

Như vậy, tư duy nghệ thuật và cách diễn đạt tục ngữ, ngoài những nét

chung mang tính nhân loại, còn mang dấu ấn thời đại và phong cách dân tộc.

Cùng suy ngẫm về một nội dung, nhưng hình ảnh biểu đạt trong tục ngữ của

hai dân tộc lại khác nhau, kiểu “Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm” (TN Việt)

với “Mèo không có nhà chuột làm chủ”, “Không có mèo chuột cắn khung

cửi”, “Mèo đi vắng chuột nhảy” (TN Lào) nói về sự lộn xộn khi chủ vắng

nhà; câu “Thuốc đắng dã tật sự thật mất lòng” (TN Việt) với câu “Thuốc

đắng chữa được bệnh, nói thẳng mất lòng” (TN Lào) về sự thật thà; câu

“Treo đầu dê bán thịt chó” (TN Việt) và câu “Rao thịt trâu bán thịt ngựa”

(TN Lào) về sự lừa dối...; khi lại rất giống nhau, kiểu “Công cha như núi

178

Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” (TN Việt) và câu “Công

cha như ngọn núi cao, nghĩa mẹ như trời và đất” (TN Lào). Hai dân tộc đều

lấy đất đai, trời, sông, nước, những vật chỉ số lượng vô kể và giới hạn không

cùng để làm hình ảnh so sánh với công lao của cha mẹ và sự biết ơn của con

cái.

3.1.6.2. Hiện tượng “nói ngược” trong tục ngữ Lào

Nếu như tục ngữ Việt thiên về lối “nói xuôi” như các câu “Có thực

mới vực được đạo”, “Có làm thì mới có ăn”, “Nước chảy chỗ trũng”... thì tục

ngữ Lào lại xuất hiện hiện tượng “nói ngược”. Đây là vấn đề khá thú vị.

Hiện tượng này mới nghe tưởng là vô lý nhưng sự thật nó lại hoàn toàn có lý.

Tục ngữ Lào có một số câu “nói ngược” mà nghĩa thật của nó nhằm đưa ra

những lời khuyên, những bài học kinh nghiệm chí lý. Hiện tượng “nói

ngược” không phải chỉ có ở tục ngữ Lào. Trong văn học dân gian Việt Nam,

nhất là trong tục ngữ, hiện tượng này tuy xuất hiện rất ít nhưng không phải là

không có.

Văn học dân gian Việt Nam còn lưu truyền câu chuyện khuyên người

thợ cày khá chí lý. Chuyện kể rằng, vào một buổi xế chiều, người thợ cày hỏi

người đi đường xem liệu từ lúc đó đến tối ông có cày xong thửa ruộng này

không. Người đi đường nói rằng, nếu ông cày khoẻ thì sẽ không xong. Trước

lời khuyên “ngược đời” và có vẻ “ngớ ngẩn” này, người thợ cày bèn giục

trâu cày rất hăng. Bỗng nhiên cày gãy, việc cày đành bỏ dở. Ngồi ngẫm lại,

người thợ cày mới thấy lời khuyên đó thật là thâm thuý. Đó không chỉ là

kinh nghiệm về cày ruộng mà còn là bài học chung cho mọi nghề. Nếu làm

nhanh mà cẩu thả thì tất sẽ bị hỏng, phải làm lại từ đầu, chắc sẽ lâu hơn, đôi

khi người ta không còn cơ hội để làm lại được. Đưa ra những “chuyện lạ

đời” trong tục ngữ, nhân dân Lào muốn thể hiện thế giới quan và nhân sinh

179

quan của mình để phổ biến tất cả những kinh nghiệm sống, đôi khi đả kích

vào những thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân; đồng thời, muốn ngụ ý bảo

người ta hãy làm trái lại với những “chuyện ngược đời” ấy. Người Lào “nói

ngược” nhằm chế giễu những cái xấu, cái “khác thường”, những “chuyện kỳ

lạ” để khẳng định những cái bình thường vốn đã thành quy ước ứng xử

trong xã hội và được nhân dân chấp nhận. Qua đó, ý nghĩa phê phán của tục

ngữ càng tăng cao hơn, mức độ đả kích càng sâu cay hơn. Người Lào nói:

“Dày cứt voi lọt, thưa cứt voi vướng”. Theo logic bình thường thì dày phải

vướng và thưa mới lọt. Người Lào muốn dùng những “chuyện lạ đời” hoặc

“khác người” để phê phán những nhà giàu tham lam, tiền của vào túi bao

nhiêu cũng không đủ. Với người nghèo, tuy có ít mà vẫn thấy đủ bởi nhu cầu

của họ giản đơn và khiêm tốn. Đúc kết một kinh nghiệm thực tiễn cuộc sống

nhiều núi cao, rừng rậm của Lào, tục ngữ Lào đưa ra những lời khuyên

tưởng “ngược đời” nhưng lại rất thiết thực: “Muốn nhanh hãy bò, muốn lâu

hãy chạy”. Câu này khuyên người ta không nên vội vã, đã vội vàng hấp tấp

thì hay hỏng việc. Nếu làm qua loa đại khái thì phải làm lại nhiều lần, dây

dưa, kéo dài không bao giờ xong. Muốn nhanh phải chạy, muốn lâu phải bò

mới hợp logic khách quan. Hiện tượng “nói ngược” của tục ngữ Lào hoàn

tòan phù hợp với đặc điểm đất nước Lào nhiều núi cao, lắm vực sâu. Leo

ngược dốc, chạy xuống vực nếu nhanh chắc sẽ vấp ngã, việc đến đích sẽ lâu

hơn. Do vậy, người ta bò cho chắc chắn, được bước nào chắc bước ấy. Câu

tục ngữ này còn khái quát cho nhiều công việc khác nhau, khuyên người ta

hãy cẩn thận mà làm, chậm mà chắc còn hơn nhanh mà cẩu thả. Làm được

đến đâu chắc đến đó. Làm đi không bõ làm lại là vì vậy. Công việc tưởng

nhanh hoá chậm. Lối “nói ngược” thật là thâm thuý, không phải ai cũng nhận

ra. Ngoài ra, người Lào còn đưa ra những hiện tượng “ngược đời” nhằm tăng

hiệu quả giáo dục của câu nói, thí dụ: “Muốn khổ hãy làm quan thầy, muốn

khoẻ hãy làm đầy tớ”, “Chum to tràn, chum nhỏ không đầy”, “Quả bầu thì

180

chìm, hòn đá thì nổi”, “Yêu bò hãy buộc, yêu con hãy đánh”... Nêu lên những

“chuyện ngược đời” đó, người Lào muốn đưa ra một hiện tượng “khác

thường”, ngụ ý khuyên người ta nên làm ngược lại. Đi ngược lại với những

cái “ngược đời” mới hợp logic tự nhiên.

Trong văn học dân gian người Việt, hiện tượng “nói ngược” ít xuất

hiện, mặc dù ta vẫn thấy chúng thấp thoáng đây đó trong truyện cười, truyện

ngụ ngôn hay ca dao, cổ tích ngoài câu chuyện về người thợ cày nói trên. Có

lẽ ít nhất hiện tượng này cũng xuất hiện một đôi lần trong tục ngữ Việt,

chẳng hạn: “Đá nổi vông chìm”; “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho

bùi”. Vì yêu mà đánh, vì ghét mà cho ăn, quả là “ngược đời”, song ngẫm suy

thật nghiêm túc thì đấy lại là những hiện thực có lý, thậm chí thật sâu sắc.

Nếu “chuyện ngược đời” đưa ra một hiện thực trái với logic thông thường

nhưng lại rất có lý trong tâm thức con người thì “nghịch lý” lại phản ánh hai

hiện tượng, hai hoàn cảnh “trái ngược”, “đối lập” nhau như giàu với nghèo,

như thừa với thiếu, như nhiều và ít... nhằm nêu lên một tính cách, một hoàn

cảnh, một cuộc sống... do những sự “trái khoáy” và “vô lý” trong cuộc sống

gây ra. Hiện thực cuộc sống đáng lẽ phải thế này nhưng nó lại diễn ra theo

chiều hướng khác, chiều ngược lại.

Hiện tượng “nghịch lý” trong tục ngữ Việt có lẽ chỉ xuất hiện qua một

số câu cùng về một nội dung như: “Hàng săng chết bó chiếu”, “Làm thầy địa

lý mất mả táng cha”, “Ở nhà vườn ăn cau sâu”, “Sống bên kèn trống, chết

không trống kèn”, “Sống buôn săng chết bó chiếu”, “Thợ rèn không có dao

ăn trầu”, “Cô ả bán dầu bôi đầu bằng nước lã”... Hiện tượng “phi lý” này ở

tục ngữ Lào xuất hiện khá phổ biến. Các câu “Ở gần muối ăn lá đắng, ở gần

rừng cánh kiến ăn chẳng có”, “Gần mỏ muối mà chẳng được ăn muối, đi

thuyền chẳng có nước uống”, “Gần mỏ thiếu muối, đi thuyền thiếu nước”...

đều phản ánh những “nghịch cảnh” trong cuộc sống xa xưa của người Lào.

Người dân sống gần những mỏ muối, nơi có rất nhiều muối để cung cấp cho

181

con người nhưng lại thiếu muối ăn; sống gần nước nhưng lại không đủ nước

dùng; ở gần rừng có nhiều cánh kiến nhưng lại không có cánh kiến để dùng.

Điều đó thoạt nghe là cái sự phi lý nhưng lại là sự thực. Sự thực là trên đời

này chưa bao giờ hết cái phi lý. Cái không thể đôi khi lại trở thành có thể.

Đất nước Lào giàu và đẹp mà người dân Lào trong xã hội xưa không được

hưởng những gì mà thiên nhiên ưu đãi hoặc thành quả lao động do chính

mình làm ra. Những thứ đó được mang đi đâu, tại sao lại thiếu... đang là

những ẩn dụ mà tục ngữ Lào muốn được tìm lời giải đáp. Phải chăng là do

tính cách hay do hoàn cảnh của con người ? Phải chăng tầng lớp thống trị

phong kiến đã bóc lột và vơ vét hết của cải, tài nguyên vốn giàu có của nhân

dân, gây ra những cảnh “phi lý” trong đời sống? Bởi vậy, ngụ ý phê phán của

câu tục ngữ càng thêm sâu sắc; đồng thời, tục ngữ Lào còn đưa ra nhiều hiện

tượng “nghịch lý” khác. Đôi khi con người còn phải gánh chịu những hậu

quả do sự bất lực hay do chính mình gây ra. Một thầy thuốc chữa khỏi bệnh

cho người nhưng chính mình lại bị chết vì bệnh mà không ai cứu được; một

thầy tướng số xem mệnh cho người khác lại không biết mình chết lúc nào:

“Thầy thuốc chết vì bệnh vì tật, người mê đánh đàn nai ăn mất lúa, thầy

tướng số biết mình chết lúc nào, thầy mưu cao chết vì lời nói”. Làm thợ rèn

nhưng dao lại xấu, làm thợ nồi nhưng lại dùng nồi hỏng: “Thợ rèn dùng dao

cùn, thợ nồi dùng nồi vỡ”. Đây lại là một “nghịch lý” khác: “Gần rừng ở nhà

hỏng, gần sông thiếu cá mắm” hoặc về hậu quả của sự kén chọn: “Chọn rau

được ăn sâu, chọn miếng thịt được miếng xương”... Ngoài ra, tục ngữ Lào

cũng như tục ngữ Việt còn đưa ra những hiện tượng “không thể có” như:

“Quả bầu thì chìm, hòn đá thì nổi” (TN Lào) và “Đá nổi, vông chìm” (TN

Việt). Thế nhưng trong cuộc sống thực tại, không ít những chuyện “không

thể” lại trở thành “có thể”, nhiều chuyện khó tin nhưng lại là sự thật. Như

vậy, hiện tượng “nói ngược” và phản ánh những “nghịch lý” trong tục ngữ

182

Lào xuất hiện đậm đặc hơn, phổ biến hơn tục ngữ Việt.

3.1.7. Từ ngữ

3.1.7.1. Tục ngữ Việt sử dụng nhiều phương ngữ

“Phương ngữ” là khái niệm ngôn ngữ học dùng để chỉ các hệ thống

ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng và phong cách ngôn ngữ mang tính địa phương

hay vùng lãnh thổ. Lúc đầu nó xuất hiện như là những từ cổ rồi qua quá trình

giao lưu nó được lưu lại ở một vài địa phương, một vùng chỉ nhân dân vùng

đó hiểu. Sau này do sự giao lưu giữa các vùng mà từ Việt cổ đã thành

phương ngữ, được nhiều người ở các địa phương khác hiểu. Trong khi đó,

ngôn ngữ lại là tế bào cấu tạo nên thành ngữ, tục ngữ. Phần lớn tục ngữ đều

được hiểu giống nhau về ý nghĩa toàn cục. Còn ý nghĩa của từng bộ phận,

từng yếu tố, từng từ trong đó, thì lại có thể được hiểu theo những cách khác

nhau. Ta có thể giải thích chúng theo khuynh hướng đồng đại. Nhưng trong

nhiều trường hợp, chỉ có thể giải thích bằng con đường đi vào từ nguyên

hoặc tìm vào các phương ngữ, vì thành ngữ, tục ngữ được tạo ra từ rất lâu và

thường gắn với một xuất xứ cụ thể, mặc dầu thật khó xác định một cách chắc

chắn. Ngoài lối nói khẩu ngữ, trong tục ngữ Việt còn xuất hiện khá nhiều từ

địa phương hoặc từ ngữ cổ, bởi tục ngữ là lời ăn tiếng nói của nhân dân trên

khắp các địa phương, các vùng miền khác nhau trong phạm vi toàn quốc. Đại

đa số tục ngữ sử dụng ngôn ngữ đại chúng (phổ thông) trên phạm vi cả nước,

song vốn từ ngữ địa phương (phương ngữ) và một số từ ngữ cổ cũng tham

gia vào sự hình thành tục ngữ. Ngoài tuyệt đại đa số dùng từ phổ thông, tục

ngữ Việt còn sử dụng một số từ địa phương, trong đó tiếng địa phương ở

khu vực Nghệ Tĩnh và miền Nam xuất hiện nhiều hơn những địa phương

khác. Trên phương diện từ vựng, nhân dân Nghệ An và Hà Tĩnh hay đưa các

từ của địa phương, vùng miền của mình vào câu tục ngữ: “Ăn không nên đọi,

nói không nên lời”, “Ăn vảy trốc còn hơn ăn ốc tháng tư”, “Một lời nói, một

183

đọi máu”, “Ăn thì cúi trốc, đẩy nốc thì van làng”, “Ăn ở trần, mần mặc áo”,

(ở khu vực Nghệ Tĩnh); “Anh em gạo, đạo ngãi tiền”, “Áo rách nón cời”,

“Ăn như thợ ngoã, làm như ả chơi trăng”, “Bún bò giò heo” (ở Huế)... Các

từ: “đọi” (bát)), “ngãi” (nghĩa), “trốc” (đầu), “thợ ngoã” (thợ nề), “mần”

(làm), “nốc” (thuyền), “heo” (lợn)...là những từ địa phương. Câu “Chúa vắng

nhà, gà vọc niêu tôm” xuất hiện ở miền Bắc, “Vắng chủ nhà gà bới bếp”

người miền Trung hay dùng, “Vắng chủ nhà, gà mọc đuôi tôm” lại phổ biến

ở miền Nam. Câu “Khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương” thuộc

loại tục ngữ đối (đối ý và đối lời). Nhờ có phép đối này mà ta xác minh được

nghĩa của từ “rái”, vốn chưa sáng rõ trong câu tục ngữ này. Lần vào kho từ

vựng tiếng Việt, ta thấy từ “rái” có nghĩa là sợ, hãi. Đó là một từ cổ còn được

bảo tồn trong phương ngữ (từ “rái” với nghĩa là sợ, hãi còn xuất hiện trong

các câu tục ngữ đối khác: “Yêu như chị em gái, rái như chị em dâu”). Từ

vựng được dùng trong kho tàng tục ngữ người Việt còn đậm nét đặc trưng

của từng địa phương, từng vùng miền. Bởi vậy, có thể nói, tục ngữ vừa là gia

tài văn hoá dân gian của toàn dân tộc vừa mang sắc thái địa phương, vùng

miền rõ nét.

3.1.7.2. Tục ngữ Việt ảnh hưởng của tiếng Hán và văn hoá Hán

Hơn một nghìn năm Bắc thuộc, tiếng Hán và văn hoá Hán đã có ảnh

hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội người Việt, trong đó có văn học dân

gian nói chung và tục ngữ nói riêng. Từ đó, có một thời kỳ một bộ phận văn

học dân tộc viết bằng chữ Hán. Tiếng Hán vào Việt Nam đã được nhân dân

“Việt hoá” thành từ Hán - Việt. Bởi vậy, một số câu tục ngữ Việt đã sử dụng

một số từ Hán - Việt, thí dụ: Các từ “nhập”, “gia”, trong câu “Nhập gia tuỳ

tục”; các từ “dụng”, “nhân”, “mộc” trong câu “Dụng nhân như dụng mộc”;

các từ “kiến giả”, “nhất” trong câu “Anh em kiến giả nhất phận”... đều là

những từ Hán - Việt. Ta có thể dẫn ra rất nhiều câu tục ngữ Việt (khoảng 30

184

%) sử dụng từ Hán - Việt như: “Nhàn cư vi bất thiện”, “Dục tốc bất đạt”,

“Ngư thuỷ nhất đường”, “Nguy bất nhập loạn bất cư”, “Tửu nhập ngôn

xuất”, “Ngũ thập tri thiên mệnh”,...

3.1.7.3. Tục ngữ Lào sử dụng nhiều tiếng Pali - Sanskrit

Ngôn ngữ Lào cơ bản là ngôn ngữ đơn âm đa thanh. Sau này nhờ tiếp

thu vốn văn hoá, tôn giáo, triết học của Ấn Độ, nét chữ Lào mềm mại, tròn

trĩnh, đơn giản biểu hiện được các đặc tính của ngôn ngữ Lào. Nhiều câu tục

ngữ Lào dùng lối nói khẩu ngữ, vốn là lối nói thông thường trong đời sống

hàng ngày: “Muốn rối ren thời lấy vợ bé”, “Không khéo ăn mắc nợ”, “Xem

voi hãy xem đuôi, xem cô nàng hãy xem mẹ, hãy xem cho cặn kẽ, xem tới cụ

kỵ ông bà”... Lối nói khẩu ngữ phù hợp với lối tư duy cụ thể, thẳng đuột của

một bộ phận nhân dân Lào. Từ khi đạo Phật Tiểu thừa từ Ấn Độ truyền bá

vào Lào thì chữ Pali - Sanskrit (chữ Ấn Độ cổ) cũng du nhập vào theo. Văn

học dân gian Lào trong đó có tục ngữ Lào đã sử dụng một số từ Pali. Các từ

“nạ rôốc” (địa ngục) trong câu “Xạ vẳn nay ôốc, nạ rôốc nay chày” (“Thiên

đàng trong ngực, địa ngục trong tim”); từ “phị cha lạ na” (sự suy nghĩ) trong

câu “Phần bò ợn già khản, phần bò van già xòi, mắc xòi thẹ hạy phị cha lạ

na” (“Người không gọi đừng thưa, người không nhờ đừng giúp, nếu muốn

giúp phải suy nghĩ đã”); từ “mạ nụt” (loài người) trong câu “Phủng phỉ nhắc

bò hắc mạ nụt” (“Bầy ma quỷ chẳng yêu quý loài người”)... là những từ Pali

(Theo Từ điển Lào - Việt [192] do Phạm Đức Dương chủ biên).

3.2. Giải thích sự giống nhau và khác nhau

Như đã nói ở chương 2, có ba lý do giải thích nguyên nhân cho các

tương đồng trong tục ngữ của hai dân tộc:

- Do đồng quy văn hoá, do trùng kiến, tức là do tính chung nhân loại;

- Do cùng một cội nguồn chung trong lịch sử;

185

- Do tiếp xúc và giao lưu văn hoá.

Các hiện tượng tương đồng văn hoá trong khu vực Đông Nam Á và ba

nước Đông Dương nói chung, Việt Nam- Lào nói riêng do ba loại nguyên

nhân nói trên quy định.

3.2.1. Sự giống nhau

Sự giống nhau về nghệ thuật giữa tục ngữ hai nước là chủ yếu vì

những nguyên nhân sau đây:

a) Nguyên nhân thứ nhất: Do đồng quy văn hoá, do tính chung nhân

loại.

Điều kiện địa lý, tự nhiên và môi trường xã hội Việt Nam và Lào về cơ

bản có nhiều điểm giống nhau nên đã tạo nên những phản ứng văn hóa giống

nhau của người Việt và người Lào. Trong nguồn tục ngữ của hai dân tộc

Việt- Lào xuất hiện sự trùng lặp hoàn toàn, giống nhau đến từng chi tiết

không chỉ ở nội dung mà còn ở nghệ thuật. Giọng điệu, cách nói tục ngữ tuy

khác nhau nhưng lối nghĩ, quan niệm, tâm lý dân tộc, tư duy nghệ thuật...

của hai dân tộc có nhiều điểm tương đồng. Thêm nữa, tục ngữ hai nước đều

là một thể loại quan trọng của văn học dân gian nên giữa chúng vẫn có

những điểm chung mang tính thế giới không chỉ giống nhau ở kết cấu, cách

gieo vần, nhịp, các yếu tố tỉnh lược mà còn giống nhau ở cách sử dụng các

hình thức tu từ.

b) Nguyên nhân thứ hai: Do cùng chung cội nguồn loại hình ngôn ngữ

Sự tương đồng về nghệ thuật giữa tục ngữ Việt và tục ngữ Lào trước

hết là ở mối quan hệ ngôn ngữ và mô hình ngôn ngữ Việt Mường chung

được hình thành trong sự hoà quyện giữa cộng đồng Tiền Việt Mường (một

ngôn ngữ Môn - Khơme cổ) với cộng đồng Tày Thái cổ. Do đó, trong tiếng

Việt có nhiều từ Tày Thái và đặc biệt là về cấu tạo ngôn ngữ rất giống tiếng

Lào. Vì vậy, giữa tiếng Việt và tiếng Lào có mối quan hệ nguồn gốc, chẳng

186

hạn: trong tiếng Tày - Thái khậu (gạo) khậu căm (gạo cẩm), khậu chăm

(gạo chiêm), mương phải (mương phai); hoặc âm cuối - n (ở Mường) đã

chuyển sang - i (ở Việt), thì Tày - Thái vẫn giữ - n, thí dụ: lưỡi/lịn, dậy/từn,

bay/bin, vui/muồn. Trên bình diện từ vựng ngữ nghĩa, một số lớn từ gốc Thái

đã du nhập vào vốn từ vựng tiếng Việt Mường như: động/đông, suối/huội,

đường/thang, sắt/lếc, trống/coong, bát/thuội, đũa/thù. Ngoài ra, chúng còn

giống nhau ở loại từ kết hợp, thí dụ từ đánh giá của tiếng Việt = tì (đánh) của

tiếng Lào + la kha (giá) của tiếng Lào = tì la kha (đánh giá) của tiếng Lào. Ở

Việt Nam và Lào đều có các dân tộc cùng chung ngôn ngữ như người Tày

Thái, người Môn Khơme, người Mèo Dao và Tạng Miến. Giữa các dân tộc

đó đều có chung một cội nguồn. Người Thái, người Tày đều hiểu được tiếng

Lào. Người Khơ Mú ở Lào chính là người Khơ Mú ở Việt Nam.

c) Nguyên nhân thứ ba: Do cùng chung những đặc điểm lịch sử, văn

hoá

Đời sống của người Việt và người Lào nhìn chung không có gì cách

biệt. Nói cách khác, khi tiếp xúc giao lưu với người Lào, chúng ta không

thấy gì cách biệt lớn về về nhân chủng, về tính cách và phong thái giao tiếp...

Trong quá trình tiếp xúc, giao lưu, văn hóa của các dân tộc đã thâm nhập,

ảnh hưởng lẫn nhau. Nguồn tục ngữ của hai dân tộc nảy sinh một hiện tượng

tự nhiên là có sự vay mượn lẫn nhau.

Như vậy, những nét tương đồng về các yếu tố địa - chính trị, địa - kinh

tế, địa - văn hoá, về nhân chủng và ngôn ngữ giữa người Việt và người Lào

đều là cơ sở để tạo nên nhiều nét tương đồng trong tục ngữ nói riêng, trong

nền văn hoá giữa hai dân tộc nói chung.

3.2.2. Sự khác nhau

Ngoài tính chung quốc tế về thể loại, tục ngữ hai nước còn có những

nét riêng mang tính dân tộc. Điều này thể hiện trên một số bình diện văn hoá,

187

lối nói, lối tư duy, thói quen, tâm lý dân tộc...

Sự khác nhau còn do cơ cấu văn hoá trồng trọt khác nhau. Người Việt

mỗi năm phải làm hai vụ. Vụ mùa vốn là vụ chính, vụ chiêm là vụ cưỡng và

áp dụng hệ thống thuỷ lợi mương phai có từ cư dân Tày Thái. Người Tày

Thái đã biết làm thuỷ lợi đắp phai, đắp thành (lúc đầu chỉ là hình thức sơ

khai nhất như be bờ) mà sau này người ta mang xuống đắp đê ở đồng bằng.

Những đặc điểm riêng về kinh tế, văn hoá đã dẫn đến sự khác nhau về hình

thức tục ngữ mỗi dân tộc. Thí dụ, tục ngữ Lào không nói đến biển, ít câu về

văn hoá ẩm thực, không có kiểu gieo vần loại tiếng thứ mười hai. Người Việt

chịu ảnh hưởng và tiếp thu văn hoá Hán, vì vậy, tục ngữ Việt có một phần

giống tục ngữ Hán, điều này rất hiếm thấy ở tục ngữ Lào.

Tiểu kết:

Qua những phần đã trình bày ở trên, chúng tôi rút ra một số nhận xét

sau đây:

- Về sự giống nhau

Nghệ thuật tục ngữ Việt và tục ngữ Lào về cơ bản có nhiều điểm giống

nhau. Tục ngữ hai nước thuộc loại hình ngôn ngữ đơn âm, đa thanh (cùng có

6 thanh); đều có cả nghĩa đen, nghĩa bóng, có câu một nghĩa (câu chỉ có

nghĩa đen hoặc chỉ có nghĩa bóng) và câu đa nghĩa, câu trùng hợp hoàn toàn

(cả nội dung lẫn hình thức), câu đồng nghĩa và câu gần nghĩa. Tục ngữ hai

nước đều có kết cấu một vế, kết cấu hai vế và kết cấu nhiều vế; đều có kết

cấu cân đối và kết cấu lệch; cùng có kết cấu câu đơn và câu phức, trong đó,

kết cấu hai vế và kết cấu so sánh (so sánh ngang bằng với nhiều dạng thức,

so sánh không ngang bằng với nhiều kiểu câu hoặc so sánh mệnh đề) là dạng

kết cấu phổ biến nhất. Cũng có người phân loại tục ngữ theo nội dung, theo

chủ đề hoặc theo quan hệ cú pháp. Các tác giả đã dựa vào các tiêu chí khác

188

nhau để phân loại cấu trúc tục ngữ. Tuy nhiên, tục ngữ Việt có nhiều hình

thức kết cấu (với nhiều kiểu câu, nhiều khuôn hình, nhiều dạng thức...) hơn

tục ngữ Lào.

Tục ngữ Việt, Lào đều có những câu không vần, câu có vần (cả vần

liền và vần cách, từ vần cách một tiếng đến vần cách bốn tiếng) và vần hỗn

hợp; đều có những câu có vần tuyệt đối và vần tương đối. Tục ngữ hai nước

đều có cách ngắt nhịp và cách tỉnh lược giống nhau; đều có lối nói giống

nhau thông qua các hình thức tu từ (so sánh, ẩn dụ, nhân cách hóa, ngoa dụ,

chơi chữ...).

- Về sự khác nhau

Tục ngữ Việt có vần cách năm tiếng (trong nhiều trường hợp lại trùng

với hình thức của một câu thơ lục bát) và vần cách sáu tiếng (tuy là rất hiếm)

mà tục ngữ Lào không có. Song tục ngữ Lào lại có một số trường hợp vần

cách bảy tiếng mà tục ngữ Việt hầu như không có. Đó còn là sự khác nhau ở

hình thức kết cấu sóng sáu, sóng bảy đến sóng mười hai của tục ngữ Lào mà

tục ngữ Việt không có; là kết cấu dạng “Thà A còn hơn B” hoặc “Thà A

chẳng thà B” của tục ngữ Việt mà tục ngữ Lào không có. Người dân mỗi

nước lại có lối nói tục ngữ khác nhau do lối nghĩ của họ khác nhau. Tục ngữ

Việt sử dụng nhiều phương ngữ và từ Hán - Việt, còn tục ngữ Lào lại dùng

nhiều từ Pali Sanskrit. Tuy cùng có 6 thanh, nhưng khác với tiếng Việt, tiếng

Lào chỉ ghi hai thanh trực tiếp. Đối với những thanh còn lại, tiếng Lào dùng

phụ âm cao, thấp, trung bình để ghi dấu thanh. Đây cũng là điểm khác biệt

189

giữa tiếng Lào và tiếng Việt.

KẾT LUẬN

1. Kết luận

Việt Nam và Lào là hai quốc gia láng giềng cùng dựa lưng vào dãy

Trường Sơn hùng vĩ, cùng uống chung một dòng nước Mê Kông, có mối

quan hệ lịch sử - xã hội - văn hoá lâu đời, tốt đẹp. Nhân dân hai nước luôn

sát cánh bên nhau trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước để sáng tạo

nên nền văn hóa phong phú và đặc sắc, mang đậm bản sắc của mỗi dân tộc

trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á.

Để hiểu chính xác và thấu đáo nguồn tục ngữ của dân tộc mình đã là

một việc khó. Hiểu cho đúng lời ăn tiếng nói qua những câu tục ngữ của dân

tộc khác lại càng khó hơn, bởi vì sau cái vỏ ngôn ngữ mà ta có thể tra cứu

qua từ điển một cách không mấy khó khăn là cả một dòng chảy ngầm về lịch

sử, văn hoá, phong tục, tâm lý của một dân tộc. Làm thế nào để chắt khơi

được những giọt nước mát tinh tuý trong cái “mạch ngầm” ấy quả là không

dễ. Nghiên cứu và so sánh tục ngữ Việt và tục ngữ Lào giúp chúng ta hiểu

sâu hơn mối quan hệ Việt - Lào để giữ gìn và phát triển mối quan hệ đó, để

góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề của thời kỳ đương đại khi nhân dân

hai nước Việt Nam - Lào đang sát cánh cùng nhau trên con đường xây dựng

xã hội mới và hội nhập quốc tế.

Trong khi phản ánh cuộc sống, cả tục ngữ Việt và tục ngữ Lào đều

phản ánh khá đầy đủ các khía cạnh của cuộc sống, từ cuộc sống vật chất đến

đời sống tinh thần. Nhìn chung, về cơ bản, tục ngữ hai nước có nhiều điểm

tương đồng cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật nhưng tục ngữ Việt, Lào

cũng có những nét khác biệt, với những mức độ khác nhau trên từng khía

cạnh đó do đặc thù dân tộc.

190

2. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp của luận án

a) Kết quả nghiên cứu

- Bằng phương pháp tiếp cận đa ngành và liên ngành, với tư duy trong

bối cảnh, luận án đã làm nổi bật tính tư tưởng trong sự tương đồng của tục

ngữ hai nước ở cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Mặt khác, tính tương

đồng ấy lại được biểu hiện qua sự lựa chọn khác nhau của hai dân tộc. Vì

thế, tính tương đồng không tách rời tính khác biệt.

- Luận án đã khắc họa một cách sâu sắc tâm thức của hai dân tộc và lý

giải sự thống nhất trong đa dạng của văn hóa Đông Nam Á nói chung, văn

hóa Việt và văn hóa Lào nói riêng. Đây là kết quả nghiên cứu nổi bật của

luận án.

b) Những đóng góp của luận án

- Tác giả luận án phân tích một cách có hệ thống và chuyên sâu để làm

sáng tỏ sự giống và khác nhau về mặt nội dung và nghệ thuật thể hiện qua

thể loại tục ngữ Việt và tục ngữ Lào, đồng thời đã lý giải nguyên nhân của sự

tương đồng và khác biệt đó. Cách tiếp cận của tác giả luận án với tư duy bối

cảnh là đóng góp của luận án khi so sánh tục ngữ hai nước được đặt trong

nền văn hóa mỗi nước, trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á.

- Ngoài việc góp phần khẳng định tính độc lập của mỗi dân tộc, chúng

tôi còn nhấn mạnh đến cơ sở địa lý, lịch sử, văn hóa, xã hội của mối quan hệ

Việt Nam - Lào. Bởi thế, luận án không chỉ có ý nghĩa về lý luận, về khoa

học và thực tiễn mà còn có ý nghĩa về văn hóa và chính trị.

- So sánh là hướng nghiên cứu tuy không mới nhưng vấn đề được luận

án đặt ra là so sánh tục ngữ Việt và tục ngữ Lào thì từ trước tới nay chưa có

công trình nào đề cập tới một cách có hệ thống và chuyên sâu. Do vậy, có

191

thể nói, đề tài luận án là một đề tài hoàn toàn mới và cần thiết.

- Góp phần giúp cho nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào hiểu nhau

hơn, nhằm góp phần quảng bá nền văn hoá của mỗi nước và thúc đẩy mối

quan hệ láng giềng đặc biệt Việt Nam - Lào ngày càng phát triển.

- Cuốn Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt - Lào và cuốn Từ điển thành

ngữ và tục ngữ Lào - Việt được chọn làm Phụ lục luận án với hơn 1000 đơn

vị thành ngữ và tục ngữ, bao gồm cả văn bản tiếng Lào và tiếng Việt làm cơ

sở để khảo sát, nghiên cứu trong việc đối sánh tục ngữ hai nước do tác giả

luận án sưu tầm, biên soạn, được coi là đóng góp quan trọng của tác giả luận

án về mặt văn bản cho khoa nghiên cứu văn học dân gian so sánh ở Việt

Nam và Lào, góp phần phục vụ cho việc giảng dạy tiếng Việt và tiếng Lào;

đồng thời làm tài liệu tham khảo cho những người Việt Nam và người Lào

yêu thích tìm hiểu tục ngữ của dân tộc mình và tục ngữ của người bạn láng

giềng.

3. Một số đề xuất

Quan hệ Việt Nam - Lào đang ngày càng phát triển. Hiện nay, có nhiều

người Lào biết tiếng Việt để hiểu hơn lịch sử, văn học và văn hóa Việt, song

số người Việt biết tiếng Lào để tìm hiểu lịch sử, văn học và văn hóa Lào và

mối quan hệ Lào - Việt lại chưa nhiều. Do vậy, số lượng người Việt nắm

vững tiếng Lào chưa tương xứng với thực tế mối quan hệ truyền thống đặc

biệt Việt Nam - Lào. Công việc này đang chờ đợi một sự quan tâm, đẩy

mạnh nhiều hơn, bởi vì việc học tiếng Lào không chỉ giúp cho người Việt

hiểu thêm về đất nước và nhân dân Lào anh em mà còn để hiểu thêm người

Thái và văn hóa Thái Lan (tiếng Lào và tiếng Thái cùng có chung cội nguồn

ngôn ngữ; 16 tỉnh của Lào và 20 triệu người Lào bị cắt sang Thái Lan, hiện

đang cư trú ở Đông Bắc Thái Lan theo Hiệp ước Pháp Xiêm năm 1893).

Việc nghiên cứu theo hướng so sánh này cần được tiếp tục, đặc biệt là

192

ở phía các bạn Lào.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN A. Những công trình công bố trước 2005

I. Các bài báo khoa học

1. Nguyễn Văn Thông (1994), “Một số nét đặc sắc trong ăn uống hàng ngày

của người Việt Nam”, Tạp chí Khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, (số 3),

tr. 87- 89.

2. Nguyễn Văn Thông (1998), Tìm hiểu tục ngữ Việt và xú pha xít Lào về

văn hoá ứng xử, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Lý thuyết và lịch sử văn

học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà

Nội), 88 tr.

3. Nguyễn Văn Thông (1998), “Tìm hiểu mảng tục ngữ Việt và xú pha xít

Lào về văn hoá ứng xử”, Văn hoá dân gian, (số 1), tr.45- 49.

4. Nguyễn Văn Thông (1998), “Tìm hiểu tư tưởng phật giáo ở Lào qua mảng

xú pha xít Lào về văn hoá ứng xử”, Văn hoá dân gian, (số 4), tr.53- 54.

5. Nguyễn Văn Thông (2000), “Tìm hiểu văn hoá ứng xử của người Việt qua

tục ngữ”, Văn hoá dân gian, (số 2), tr.72- 75.

6. Nguyễn Văn Thông, Lămphon Xayxana (2000), “Phong cách ăn uống của

người Lào, Văn hoá nghệ thuật ăn uống, (số 31), tr.16.

7. Nguyễn Văn Thông (2001), “Phong cách uống của người Việt”, Văn hoá

nghệ thuật ăn uống, (số 41), tr.5 +7.

8. Nguyễn Văn Thông (2001), “Về hiện tượng “nói ngược” trong tục ngữ

Việt và xú pha xít Lào”, Nhiều tác giả, Tiếng Việt và văn hoá Việt Nam cho

193

người nước ngoài, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 300 tr, tr.241- 247.

9. Nguyễn Văn Thông (2001), “Nhìn lại thực đơn của người Việt Nam”, Văn

hoá nghệ thuật ăn uống, (số 48), tr.4 + 8.

10. Nguyễn Văn Thông, Lămphon Xayxana (2001), “Đặc trưng đa dạng của

ẩm thực Việt Nam qua mảng tục ngữ về văn hoá ẩm thực”, Văn hoá dân

gian, (số 5), tr.50- 52.

11. Nguyễn Văn Thông (2003), “Đặc trưng tổng hợp và cộng đồng của ẩm

thực Việt Nam qua mảng tục ngữ Việt về văn hoá ẩm thực”, Nhiều tác giả,

Tiếng Việt và Việt Nam học cho người nước ngoài, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội, 402 tr, tr.332- 336.

12. Nguyễn Văn Thông (2003), “Tìm hiểu lối nói của người Việt và người

Lào qua tục ngữ”, Văn hoá dân gian, (số 2), tr. 69- 71.

13. Nguyễn Văn Thông (2004), “Tìm hiểu một số kiểu hiệp vần trong tục

Việt và Lào”, Nhiều tác giả, Tiếng Việt và phương pháp dạy tiếng, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội, 420 tr, tr.305- 316.

II. Các Đề tài nghiên cứu khoa học và giáo trình

14. Nguyễn Văn Thông (2001), Tìm hiểu tục ngữ Việt và xú pha xít Lào, Đề

tài khoa học cấp Trường, mã số: T.2001-16, 180 tr.

15. Nguyễn Văn Thông (2002), Văn học dân gian Việt Nam cho người nước

ngoài, Giáo trình lưu hành nội bộ, 164 tr.

16. Nguyễn Văn Thông (2003), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt - Lào, Đề

tài nghiên cứu cơ bản cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, mã số: CB.02.07, 228

tr.

17. Nguyễn Văn Thông (2004), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Lào - Việt, Đề

194

tài khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, mã số: QX.2004.08, 248 tr.

B. Những công trình công bố từ năm 2005 đến nay

18. Nguyễn Văn Thông (2005), “Tìm hiểu một số kiểu kết cấu so sánh của

tục ngữ Việt và tục ngữ Lào”, Nhiều tác giả, Một số vấn đề về nội dung và

phương pháp giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ, Nxb ĐHQGHN, 594

tr, tr.500- 518.

19. Nguyễn Văn Thông (2006), “Tìm hiểu một số phong tục cổ truyền của

người Việt qua tục ngữ”, Nhiều tác giả, Việt Nam học và tiếng Việt, Nxb

ĐHQGHN, 508 tr, tr.500- 518.

20. Nguyễn Văn Thông (2007), “Tìm hiểu một số thói hư tật xấu của người

Việt qua tục ngữ”, Nhiều tác giả, Nghiên cứu và giảng dạy Việt Nam học cho

người nước ngoài, Nxb ĐHQGHN, 494 tr, tr.382- 390.

21. Nguyễn Văn Thông (2007), “Tìm hiểu quan niệm của người Việt qua

những câu tục ngữ về tử vi và tướng- số”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, tập

23, (số 4), Khoa học xã hội và nhân văn, tr. 215-222.

22.Nguyễn Văn Thông (2008), “Nhận diện tục ngữ dưới góc nhìn tương

quan thể loại”, Nhiều tác giả, Giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ -

195

những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb ĐHQGHN, 560 tr, tr.518- 529.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Đinh Việt Anh (1989), “Văn học Lào”, Lưu Đức Trung, Đinh Việt Anh,

Văn học Ấn Độ- Lào- Campuchia, Nxb Giáo dục, H,

2. Trần Thuý Anh (1999), Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu

thổ Bắc Bộ thể hiện qua ca dao, tục ngữ, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành

Văn hoá dân gian, Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian, H.

In thành sách: Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc Bộ

thể hiện qua ca dao, tục ngữ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000, H, 182 tr.

3. Triều Ân, Hoàng Quyết (1996), Từ điển thành ngữ- tục ngữ dân tộc Tày,

Nxb Văn hoá Dân tộc, H.

4. Đỗ Thị Bảy (1999), Sự phản ánh quan hệ gia đình, xã hội trong tục ngữ,

ca dao người Việt, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, H.

5. Hoa Bằng (1944), “Tục ngữ và ca dao”, Tri Tân, (số 147), tr.2-3+20.

6. Vũ Bằng (1990), Miếng ngon Hà Nội, Nxb Văn học, H.

7. Lê Đình Bích, Trần Quỳnh Dân (1984), Tục ngữ Nga- Anh- Pháp- Việt,

Đại học Cần Thơ xb.

8. Lê Đình Bích (1986), Tục ngữ Nga- Việt, Nxb Khoa học Xã hội, H, 269 tr.

9. Bùi Hạnh Cẩn, Bích Hằng, Việt Anh (2000), Thành ngữ tục ngữ Việt

Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, H.

10. BòXẻngkhăm Chanđara, Nghị Đại (1993), “Một số tư liệu về lịch sử

quan hệ Việt- Lào Lào- Việt”, Nhiều tác giả, Quan hệ Việt- Lào Lào- Việt,

196

Nxb Chính trị Quốc gia, 339 tr, tr.65- 71.

11. Nguyễn Đổng Chi (1969), “Văn học dân gian là một kho tàng quý báu

cho sử học”, Nhiều tác giả, Những ý kiến về văn học dân gian Việt Nam, Nxb

Khoa học Xã hội, H.

12. Nguyễn Đình Chúc (2001), Tìm hiểu địa danh qua tục ngữ ca dao Phú

Yên, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam xb, 296 tr.

13. Mai Ngọc Chừ (1999), Văn hoá Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia, H,

245 tr.

14. Việt Chương (1995), Từ điển thành ngữ tục ngữ- ca dao Việt Nam, Biên

Hoà, Nxb Đồng Nai, (hai quyển, quyển thượng 864 tr; quyển hạ 828 tr).

15. Bùi Văn Cường, Vũ Quốc Ái, Đỗ Nguyên Hạnh, Đoàn Tùng biên soạn

(1975), Ca dao tục ngữ Nam Hà, Ty Văn hoá Nam Hà xb, 244 tr.

16. Bùi Văn Cường sưu tầm và biên soạn (1987), Phương ngôn tục ngữ ca

dao, Nxb Khoa học Xã hội, 228 tr.

17. Nguyễn Đức Dân (1987), “Đạo lý trong tục ngữ”, Tạp chí Văn học, H,

(số 5), tr.57- 66.

18. Nguyễn Nghĩa Dân (2001), Lòng yêu nước trong văn học dân gian Việt

Nam, Nxb Hội Nhà văn, H, 408 tr.

19. Nguyễn Nghĩa Dân tuyển chọn, giải thích (2001), Tục ngữ ca dao Việt

Nam về giáo dục đạo đức, Nxb Giáo dục, H, 136 tr.

20. Chu Xuân Diên (1962), “Phần thứ ba: Tục ngữ và câu đố”, Đinh gia

Khánh, Chu Xuân Diên, Văn học dân gian, Nxb Giáo dục, H, tr.243-294.

21. Chu Xuân Diên (1973), “Tục ngữ”, Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên,

Văn học dân gian tập II, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H, 454

tr, (in lần thứ II tại Hà Nội, 1977; in lần thứ III tại Tp Hồ Chí Minh, 1991,

197

Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp).

22. Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri (1993), Tục ngữ Việt

Nam (in lần thứ 2), Nxb Khoa học Xã hội, H, 420 tr (in lần thứ nhất, 1975,

390 tr).

23. Lê Du, Lê Hải (1997), Tục ngữ, thành ngữ trên thế giới, Nxb Văn hoá

Dân tộc, H.

24. Phạm Đức Duật (1981), “Phương ngôn tục ngữ”, Phạm Đức Duật chủ

biên giả, Văn học dân gian Thái Bình tập I, Nxb Khoa học Xã hội, tr.76-132.

25. Vũ Dung (1976), “Chung quanh phần sưu tầm của cuốn Tục ngữ Việt

Nam”, Tạp chí Văn học, H, (số 3), tr.62- 69.

26. Vũ Dung, Vũ Thuý Anh, Vũ Quang Hào (1997), Từ điển thành ngữ và

tục ngữ Việt Nam (in lần thứ 3), Nxb Văn hoá, H, 784 tr.

27. Hàn Thái Dương (1920), Tục ngữ cách ngôn, Nhà in Minh Sang.

28. Phạm Đức Dương, Nguyễn Duy Thiệu (1992), “Lễ hội của người Lào-

Thay ở Lào”, Văn hoá dân gian, H, (số 2).

29. Phạm Đức Dương (1998), Ngôn ngữ và văn hoá Lào trong bối cảnh

Đông Nam Á, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 385 tr.

30. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hoá đến văn hoá học, Nxb Văn hoá-

Thông tin, H, 778 tr.

31. Triêu Dương, Phạm Hoà, Tảo Trang, Chu Hà sưu tầm, biên soạn (1971),

Ca dao ngạn ngữ Hà Nội, Hội Văn nghệ Hà Nội xb, 207 tr (in lần thứ hai có

bổ sung năm 1972, 208 tr).

32. Trần Thanh Đạm (1989), “Tục ngữ dân gian và vấn đề nguồn gốc văn

chương”, Văn hoá dân gian, H, (số) 3, tr.3- 10.

33. Anh Đào (1969), “Một số thành ngữ, tục ngữ, ca dao về lời ăn tiếng nói”,

Ngôn ngữ, H, (số 2), tr.69- 70.

34. Phan Thị Đào (1997), “Tỉnh lược như một yếu tố cấu thành thi pháp tục

198

ngữ”, Văn hoá dân gian, H, (số 3), tr.88- 90.

35. Phan Thị Đào (1998), “Đặc điểm của những câu có dạng “A nào B nấy”

trong tục ngữ Việt Nam”, Văn hoá dân gian, H, (số 40), tr.80- 83.

36. Phan Thị Đào (2001), Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam, Nxb Thuận

Hoá, Huế, 172 tr.

37. Nguyễn Tấn Đắc chủ biên (1983), Văn học Đông Nam Á, Viện Đông

Nam Á xuất bản.

38. Lại Hồng Đăng (2001), Giá trị nhận thức và giáo dục của tục ngữ người

Việt (trước năm 1975) qua mảng tục ngữ về đạo lý, nhân sinh, quan hệ gia

đình, dòng họ, làng xóm, thầy trò, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Văn hoá

dân gian, Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian, H.

39. Nhàn Vân Đình (1999), Câu cửa miệng, Nxb Văn học, H, 266 tr.

40. Tiêu Đình (2002), “Những câu nói dân gian khó hiểu”, Văn nghệ dân

gian đất Quảng, Đà Nẵng, (số 1), tr.62- 63.

41. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình Văn học dân gian Việt Nam,

Nxb Khoa học Xã hội, H, 400 tr (in lần 2, 1976)

42. Ngô Thời Đôn (1996), “Những câu tục ngữ khó bình”, Văn hoá dân gian

Thừa Thiên Huế, Huế, tr.47- 50.

43. Nguyễn Xuân Đức (2000), “Về nghĩa của tục ngữ”, Văn hoá dân gian,

H, (số 4), tr.48- 52.

44. Nguyễn Xuân Đức (2002), “Về tính nhiều nghĩa của tục ngữ”, Văn hoá

dân gian, H, (số 3), tr.55- 58.

45. Từ Giấy (1970), Tìm hiểu phong cách ăn của dân tộc (qua ca dao tục

ngữ), Văn Nghệ, H, (số 955).

46. Cao Sơn Hải (2002), Tục ngữ Việt Mường, Nxb Văn hoá- Thông tin, H.

47. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam Văn học sử yếu, Trung tâm Học

liệu Bộ Giáo dục (in lần thứ 10), Sài Gòn, 496 tr, tr.5- 51 (in lần đầu tại Hà

199

Nội, 1943).

48. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1992), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, H.

49. Thạch Hãn sưu tầm (1956), “Một ít ca dao tục ngữ (tìm trong vốn cổ)”,

Văn nghệ, H, (số 127, số 128, số 129).

50. Hoàng Văn Hành chủ biên (1994), Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, (tái

bản lần thứ nhất, có sửa chữa), Nxb Khoa học Xã hội, H, 384 tr (tái bản lần

thứ hai,1999, 438 tr).

51. Vũ Quang Hào (1992), “Biến thể của thành ngữ, tục ngữ”, Văn hoá dân

gian, H, (số 1), tr.61- 62.

52. Vũ Quang Hào (1993), “Thành ngữ, tục ngữ với lớp người mới”, Văn

hoá dân gian, H, (số 3), tr.68- 70.

53. Phạm Văn Hảo, Trần Thị Thìn (1994), “Mấy vấn đề về từ ngữ địa

phương trong việc sưu tầm, giới thiệu vốn tục ngữ, ca dao”, Văn hoá dân

gian, H, (số 3), tr.68- 70.

54. Võ Như Hầu (2000), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam Vietnamese

proverbs folk poem and folk songs (song ngữ Việt- Anh), Nxb Đồng Nai,

Biên Hoà.

55. Trịnh Đức Hiển (1991), “Sơ bộ tìm hiểu luật hiệp vần và vần trong xú

pha xít Lào”, Văn hoá dân gian, H, (số 1), tr.40- 42.

56. Trịnh Đức Hiển (1995), “Một số hình thức thể hiện tính hình tượng trong

xú pha xít Lào”, Văn hoá dân gian, H, (số 2), tr.28- 29.

57. Vương Trung Hiếu tuyển chọn, biên soạn (1996), Tục ngữ Việt Nam

chọn lọc, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh, 620 tr.

58. Vương Trung Hiếu sưu tập, biên dịch (1998), Tục ngữ các nước trên thế

200

giới, Nxb Đồng Nai, Biên Hoà, 248 tr.

59. Minh Hiệu sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn (1970), Tục ngữ dân ca Mường

Thanh Hoá, Ty Văn hoá Thanh Hoá xb, (tái bản 1997, Nxb Văn hoá dân tộc,

H, 607 tr).

60. Thái Hoà (1980), “Tìm hiểu cách dùng tục ngữ trong những bài viết và

bài nói của Hồ Chủ tịch”, Ngôn ngữ, H, (số 2), tr.9- 13.

61. Nguyễn Hoà (1997), “Văn hoá từ một góc nhìn văn hoá học”, Văn nghệ,

H, (số 4).

62. Thái Hoà (1982), “Cơ cấu ngữ nghĩa- cú pháp của tục ngữ”, Ngôn ngữ,

H, (số 2), tr.52- 59.

63. Nguyễn Thái Hoà (1997), Tục ngữ Việt Nam- Cấu trúc và thi pháp, Nxb

Khoa học Xã hội, H, 263 tr.

64. Nguyễn Thái Hoà (1982), Miêu tả và phân loại các khuôn hình tục ngữ

Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn.

65. Nguyễn Xuân Hoà (1997), “Đôi nét về văn hoá ăn uống qua thành ngữ

tục ngữ tiếng Việt”, Ngôn ngữ và đời sống, H, (số 9), tr.22- 23.

66. Nguyễn Xuân Hoà (1997), “Những địa danh sông nước, biểu tượng của

văn hoá Thăng Long- Hà Nội qua ca dao, tục ngữ”, Nhiều tác giả, Hà Nội

những vấn đề ngôn ngữ văn hoá, Nxb Văn hoá- Thông tin, H, tr.138- 151.

67. Kiều Thu Hoạch (2000), “Ca dao tục ngữ”, Kiều Thu Hoạch, Xứ Đoài,

Nxb Văn hoá Dân tộc, H, tr.235- 244.

68. Phan Văn Hoàn (1992), “Bàn thêm về thành ngữ, tục ngữ với tư cách là

đối tượng nghiên cứu khoa học”, Văn hoá dân gian, H, (số 2), tr.46- 48.

69. Trần Hoàng, Triều Nguyên tuyển chọn, biên soạn (2000), “Chương II:

Tục ngữ- câu đố”, Trần Hoàng, Triều Nguyên, Văn học dân gian Việt Nam”,

201

Nxb Thuận Hoá, Huế, tr.73- 85.

70. Lê Văn Hoè (1957), Tục ngữ lược giải, Quốc học thư xã xb, (Nxb Diên

Hồng in gộp ba tập cũ thành một tập, Sài Gòn; Tập I: in lần thứ ba, 1953, 88

tr; tập II: in lần thứ nhất, 1952, 170 tr; tập III: in lần thứ nhất, 1953, 104 tr).

71. Lương Văn Hồng (1992), Tục ngữ và câu đố Đức- Việt, Nxb Trẻ, Tp Hồ

Chí Minh.

72. Nguyễn Thị Huế (1999), “Phương ngôn- tiếng nói đặc sắc của những

vùng văn hoá”, Nhiều tác giả, Hà Minh Đức chủ biên, Những vấn đề lý luận

và lịch sử văn học, Viện Văn học xb, 1999, tr.572-590.

73. Nguyễn Khắc Hùng (1988), “Thêm một vài nhận xét về việc sử dụng

thành ngữ, tục ngữ trong văn bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Viện Ngôn

ngữ học, Ngôn ngữ trong cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh,

Nxb Khoa học Xã hội, H, tr.205- 221.

74. Lại Phi Hùng (1998), “Tục ngữ”, Nhiều tác giả, Văn học Đông Nam Á,

Nxb Giáo dục, H, 302 tr, tr.37- 40.

75. Nguyễn Thượng Hùng (1991), “So sánh tục ngữ Anh- Việt trong quá

trình hình thành và phát triển”, Văn hoá dân gian, H, (số 4), tr.71-73.

76. Nguyễn Thị Minh Hương (1997), So sánh và nhân hoá trong tục ngữ

người Việt, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Văn học dân gian, Trường Đại

học Sư phạm Hà Nội.

77. Nguyễn Việt Hương (2000), “Tìm hiểu sự phản ánh các cặp chủ đề mang

ý nghĩa đối lập trong tục ngữ”, Tạp chí Văn học, H, (số 9), tr.79- 83.

78. Nguyễn Việt Hương (2001), Tục ngữ Việt Nam bản chất thể loại qua hệ

thống phân loại, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội

và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), 201 tr.

79. Nguyễn Văn Khang chủ biên (1998), Từ điển thành ngữ- tục ngữ Hoa

202

Việt, Nxb Khoa học Xã hội, H.

80. Châu Nhiên Khanh tuyển chọn và biên soạn (2000), Tục ngữ Việt Nam,

Nxb Đồng Nai, 179 tr.

81. Đinh Gia Khánh (1972), “Nhà Nho xưa tìm hiểu truyện dân gian và ca

dao tục ngữ”, Tạp chí Văn học, H, (số 1), tr.3- 18.

82. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn học dân gian, Nxb

Khoa học Xã hội, H.

83. Phạm Hữu Khánh, Lê Trần Nguyên (1956), Tục ngữ lược giải, Sài gòn

xb.

84. Nguyễn Đình Khoa (1991), “Việt Nam- Lào trong mối quan hệ nhân học

tộc người”, Tạp chí Khoa học Đại học Tổng hợp Hà Nội.

85. Nguyễn Đình Khoa (1993), “Việt Nam- Lào trong mối quan hệ nhân

học- tộc người và cội nguồn lịch sử”, Nhiều tác giả, Quan hệ Việt- Lào Lào-

Việt, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 339 tr, tr.72- 84.

86. Nguyễn Xuân Kính (1976), “Đọc cuốn Tục ngữ ca dao, dân ca Việt

Nam”, Tạp chí Văn học, H, (số 2), tr.141- 148.

87. Nguyễn Xuân Kính (1992), “Hiện tượng trái nghĩa trong ca dao, tục

ngữ”, Nhiều tác giả, Di sản văn hoá dân gian với công cuộc xây dựng nền

văn hoá mới Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, Hội Văn nghệ dân gian Việt

Nam xb, tr.61- 63.

88. Nguyễn Xuân Kính (2001), “Cái riêng của ca dao, tục ngữ Thăng Long-

Hà Nội”, Nhiều tác giả, Hà Nội những vấn đề ngôn ngữ văn hoá, Nxb Văn

hoá- Thông tin, H, tr.211- 218.

89. Nguyễn Xuân Kính (2001), “Giải thích tục ngữ”, Ngôn ngữ, H, (số 4), tr.

77-78.

90. Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt (2 tập),

203

Nxb Văn hóa- Thông tin, H, 3246 tr.

91. Đinh Trọng Lạc (1994), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt,

Nxb Giáo dục, H.

92. Quế Lai, Ngô Văn Doanh, Nguyễn Đức Ninh, Nguyễn Hào Hùng biên

soạn (1985), Nhiều tác giả, Tìm hiểu văn hoá Lào, Nxb Văn hoá, H, 160 tr.

93. Mã Giang Lân, Lê Chí Quế biên soạn (1977), Tục ngữ câu đố ca dao dân

ca Việt Nam, Đinh Gia Khánh giới thiệu, Trường Đại học Tổng hợp xb, 336

tr.

94. Mã Giang Lân tuyển chọn và giới thiệu (1995), Tục ngữ ca dao Việt

Nam, Nxb Giáo dục, H, 256 tr.

95. Nguyễn Lân biên soạn (1989), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam,

Nxb Văn hoá, H, 324 tr.

96. Nguyễn Lân (1998), Từ điển thành ngữ- tục ngữ Việt- Pháp, Nxb Tp Hồ

Chí Minh, Tp HCM, 228 tr. (in tại Hà Nội, 1993, Nxb Văn học, H).

97. Phan Huy Lê (1993), “Ba nước Đông Dương trong cuộc đấu tranh bảo vệ

độc lập dân tộc”, Nhiều tác giả, Quan hệ Việt- Lào Lào- Việt, Nxb Chính trị

Quốc gia, H, 339 tr, tr.94- 101.

98. Nguyễn Văn Lễ (1931), Việt Nam ngạn ngữ phương ngôn thư, Nhà in

Tân Dân, 85 tr.

99. Nguyễn Gia Liên (1958), Tục ngữ Anh- Pháp- Việt, Sài gòn xb.

100. Thuỳ Linh biên soạn (2007), Thành ngữ- tục ngữ Việt Nam, Nxb Lao

động- Xã hội, H, 412 tr.

101. Phạm Việt Long (2002), “Hình ảnh gia đình qua tấm gương tục ngữ, ca

dao”, Ngôn ngữ, H, (số 3), tr.16-19.

102. Phạm Việt Long (2002), Tục ngữ ca dao và việc phản ánh phong tục

tập quán người Việt (trong quan hệ gia đình), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại

204

học Quốc gia Hà Nội, H.

103. La Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân

tộc Tày- Nùng- Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, H.

104. Nguyễn Thanh Lợi (1997), “Từ điển mini thành ngữ tục ngữ về trâu”,

Ngôn ngữ và đời sống, H, (số 2), tr.7- 8.

105. Trịnh Như Luân (1944), “Cách chiêm nghiệm và cuộc sinh hoạt của

người xưa theo ca dao, tục ngữ”, Tri Tân, (số 147, số 148), tr.16- 17.

106. Đặng Văn Lung, Trần Thị An (1994), “Tục ngữ”, Đặng Văn Lung, Trần

Thị An, Hợp tuyển văn học dân gian các dân tộc, Nxb Văn hoá Dân tộc, H,

tr.23- 39.

107. Nguyễn Trọng Lực (1949), Tiếng nói của đồng ruộng (hay là nghề

nông Việt Nam) qua ca dao, tục ngữ, Nhà sách Vĩnh Bảo, Sài Gòn.

108. Nguyễn Lực, Lương Văn Đang (1978), Thành ngữ tiếng Việt, Nxb

Khoa học Xã hội, H, 364 tr.

109. Đỗ Quang Lưu (1979), “Tục ngữ- châm ngôn và thời đại”, Tạp chí Văn

học, H, (số 5), tr.101- 108.

110. Nguyễn Văn Mệnh (1972), “Ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ”,

Ngôn ngữ, H, (số 3), tr.12- 15.

111. Nguyễn Văn Mệnh (1978), “Vẻ đẹp tâm hồn Việt Nam trong cách đối

xử qua tục ngữ ca dao”, Văn hoá nghệ thuật, H, (số 73), tr.14.

112. Trọng Miễn (2001), “Chương IV: Tục ngữ- phương ngôn- thành ngữ-

câu đố”, Trọng Miễn, Văn hoá làng Quỳ Chử, Nxb Văn học, H, tr.59- 89.

113. Ngô Xuân Minh, Trần Văn Doãn (1961), Kinh nghiệm làm chiêm qua

ca dao, tục ngữ, Nxb Khoa học, H.

114. Đồ Nam (1972), “Rượu qua ca dao tục ngữ Việt Nam”, Tạp chí Văn

học, Sài Gòn, (số 147), tr.27- 36.

115. Hà Quang Năng (1997), “Hình ảnh con trâu trong thành ngữ tục ngữ và

205

ca dao Việt Nam”, Ngôn ngữ và đời sống, H, (số 1), tr.7- 9.

116. Hoàng Trần Nghịch sưu tầm, dịch và biên soạn (1986), Phương ngôn

tục ngữ Thái, Hội Văn nghệ Sơn La xb.

117. Nguyễn Văn Ngọc sưu tập (1957), Tục ngữ phong dao tập I, Nxb Minh

Đức, 330 tr (Vinh Hưng Long, hai tập, xuất bản lần đầu,1928).

118. Trần Đình Ngôn (1998), “Con mắt trong tục ngữ, ca dao với ngôn ngữ

tạo hình điện ảnh”, Văn hoá dân gian, H, (số 3), tr.54- 58.

119. Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc Côn, Nguyễn Nghĩa Dân, Lý Hữu Tấn,

Hoàng Tiến Tựu, Đỗ Bình Trị, Lê Trí Viễn (1978), “Chương I: Tục ngữ, câu

đố”, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc Côn,… Văn học dân gian phần 1, Nxb

Giáo dục, H, (in lần thứ 5), tr.189-219.

120. Bùi Văn Nguyên (1983), “Sức sống dân tộc và tục ngữ Việt Nam”, Tạp

chí Văn học, H, (số 3), tr.88- 93.

121. Hoài Nguyên (1978), “Một số nét về tộc người Lào Lùm”, Nhiều tác

giả, Tìm hiểu lịch sử- văn hoá nước Lào tập I, Nxb Khoa học Xã hội, H, 356

tr, tr.40- 62.

122. Hoài Nguyên (1981), “Các tộc người thuộc nhóm Lào Thơng và Lào

Xủng ở Lào”, Nhiều tác giả, Tìm hiểu lịch sử- văn hoá nước Lào tập II, Nxb

Khoa học Xã hội, H.

123. Trần Quang Nhật (1997), “Con trâu đi vào tục ngữ ca dao xưa”, Văn

hoá dân gian, H, (số 2), tr.69- 72.

124. Bùi Mạnh Nhị (1999), “Tục ngữ”, Nhiều tác giả, Văn học dân gian

những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, in tại Tp Hồ Chí Minh, tr.242-

248.

125. Nhiều tác giả (1972), Tục ngữ Tày- Nùng, Nxb Việt Bắc.

126. Nhiều tác giả (1975), Tục ngữ ca dao và dân ca Hà Tây, Ty Văn hoá

206

Hà Tây xb (Sở Văn hoá Thông tin Thể thao Hà Tây in lần hai, 1993, 268 tr).

127. Nhiều tác giả (1978), Tìm hiểu lịch sử- văn hoá nước Lào, Nxb Khoa

học Xã hội, H, 356 tr.

128. Nhiều tác giả (1985), Tìm hiểu văn hoá Lào, Nxb Văn hoá, H, 157 tr.

129. Nhiều tác giả (1987), Tục ngữ Thái, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.

130. Nhiều tác giả (1993), Quan hệ Việt- Lào Lào- Việt, Nxb Chính trị Quốc

gia, H, 339 tr.

131. Nhiều tác giả (1998), Văn học Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, H, 302 tr.

132. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt

Nam, Nxb Đại học & Trung học chuyên nghiệp, H, 474 tr.

133. Nguyễn Văn Nở (2002), “Logic ngôn giao trong tục ngữ Việt Nam”,

Ngôn ngữ và đời sống, H, (số 3), tr.23- 25.

134. Nguyễn Văn Nở (2007), Biểu trưng trong tục ngữ người Việt, Luận án

tiến sĩ Ngữ văn , Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh.

135. Vũ Ngọc Phan, Tạ Phong Châu, Phạm Ngọc Hy biên soạn (1972), “Tục

ngữ”, Vũ Ngọc Phan,…Văn học dân gian tập I, Nxb Văn học, H, 723 tr,

tr.49- 79 (in lần thứ hai có sửa chữa, 1977, tr.55- 84).

136. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (in lần thứ 11),

Nxb Khoa học Xã hội, 831 tr. (in lần đầu 1956; từ 1956 đến 2000 in 12 lần; 6

lần đầu sách có tên là Tục ngữ và dân ca Việt Nam; 3 lần in đầu sách chia

làm 2 tập).

137. Lăm Phon Xay Xa Na (1999), Tìm hiểu tục ngữ Việt và xú pha xít Lào

về văn hoá ẩm thực, Khoá luận cử nhân, Khoa Tiếng Việt và Văn hoá Việt

Nam cho người nước ngoài, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,

Đại học Quốc gia Hà Nội.

138. Nguyễn Đình Phúc (1976), Xú pha xít và lời nói giao duyên Lào, Nxb

207

Khoa học Xã hội, H, 323 tr.

139. Nguyễn Hoàng Phương (2001), Ca dao, tục ngữ Việt Nam, Nxb Thanh

niên, H, 252 tr.

140. Tuyết Phượng, Đinh Kim Cương, Võ Quang Nhơn biên soạn và dịch,

Nguyễn Năm giới thiệu (1981), Hợp tuyển văn học Lào, Nxb Văn học, H,

511 tr.

141. Ngọc Quang sưu tầm, tuyển chọn (2007), Tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn

hoá- Thông tin, H, 276 tr.

142. Lê Chí Quế (1996), “Chương III: Tục ngữ, câu đố”, Nhiều tác giả, Lê

Chí Quế chủ biên, Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, tr.186- 214 (in lần đầu 1990, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp,

H, 336 tr)

143. Nguyễn Anh Quế (1996), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H, 188

tr.

144. Phan Văn Quế (2000), “Gà, khỉ, chuột, ngựa trong tục ngữ và thành ngữ

tiếng Anh và tiếng Việt”, Ngôn ngữ và đời sống, H, (số 3), tr.27- 28.

145. Phan Văn Quế (2000), “Quỷ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Anh và

tiếng Việt”, Ngôn ngữ và đời sống, H, (số 7), tr 31; (số 8), tr.27-28.

146. Võ Xuân Quế (1991), “Một vài nhận xét về thành ngữ, tục ngữ

Campuchia”, Văn hoá dân gian, H, (số 1), tr.38- 40.

147. Phạm Quỳnh (1932), Tục ngữ ca dao, Đông Kinh ấn quán xb, 122 tr.

248. Trần Đức Rật (1964), Tâm lý dân tộc qua ca dao, tục ngữ, Tiểu luận

cao học, Đại học Văn khoa Sài Gòn.

149. Nguyễn Quốc Siêu (1997), “Qua một số câu tục ngữ về thời tiết”, Ngôn

ngữ và đời sống, H, (số 4), tr.12.

208

150. Băng Sơn (1999), Thú ăn chơi người Hà Nội, Nxb Thanh Niên, H.

151. Trường Sơn (1993), “Tiền đề khách quan của lịch sử quan hệ đoàn kết

đặc biệt Việt- Lào Lào- Việt”, Nhiều tác giả, Quan hệ Việt- Lào Lào- Việt,

Nxb Chính trị Quốc gia, H, 339 tr, tr.112- 114.

152. Nguyễn Quốc Tăng sưu tầm và biên soạn (2000), Tục ngữ ca dao Việt

Nam, Nxb Thuận Hoá, 268 tr.

153. Hà Văn Tấn (1993), “Mối liên hệ văn hoá giữa Lào và Việt Nam trong

thời tiền sử”, Nhiều tác giả, Quan hệ Việt- Lào Lào- Việt, Nxb Chính trị

Quốc gia, H, 339 tr, tr.85- 93.

154. Đào Thản (1998), “Một vài thành ngữ, tục ngữ”, Đào Thản, Từ ngôn

ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb Khoa học Xã hội, H, tr.69- 74.

155. Nguyên Thanh (1986), “Bước đầu tìm hiểu tên làng với tục ngữ, ca dao,

dân ca”, Văn hoá dân gian, H, (số 1), tr.23- 26.

156. Nguyễn Quý Thành (1998), “Dấu ấn văn hoá trong tục ngữ”, Văn hoá

dân gian, H, (số 4), tr.76- 79.

157. Nguyễn Quý Thành (2002), Cấu trúc cú pháp- ngữ nghĩa của tục ngữ

Việt (trong sự so sánh với tục ngữ dân tộc khác), Luận án tiến sĩ Ngữ văn,

Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh.

158. Phạm Thuận Thành (2002), “Dựa vào xuất xứ để hiểu đúng một câu tục

ngữ”, Ngôn ngữ và đời sống, H, (số 3), tr.39.

159. Vũ Thị Thảo (1999), Sự phản ánh tình thầy trò, tình bạn trong tục ngữ,

ca dao, truyện cổ người Việt, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lý thuyết và

lịch sử văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học

Quốc gia Hà Nội.

160. Hà Thắng, Nguyễn Hoa Bằng, Nguyên Lâm Điền chủ biên (1997), “Tục

ngữ”, Nhiều soạn giả, Văn học dân gian đồng bằng sông Cưủ Long, Nxb

209

Giáo dục, in tại Tp Hồ Chí Minh, tr.258- 209.

161. Phạm Văn Thấu (1995), “Nguồn gốc một số thành ngữ”, Ngôn ngữ và

đời sống, H, (số 6), tr.16.

162. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam (in lần thứ

ba), Nxb Tp Hồ Chí Minh, 690 tr.

163. Khổng Đức Thiêm, Nguyễn Đình Bưu (1994), Phương ngôn xứ Bắc, Sở

Văn hoá Thông tin và Thể thao Hà Bắc xb, 350 tr. Nxb Văn hoá Dân tộc tái

bản, 1997, 340 tr.

164. Nguyễn Duy Thiệu (1992), “Người Phu Thay ở Lào”, Văn hoá dân

gian, H, (số 2).

165. Nguyễn Duy Thiệu (1996), Cấu trúc tộc người ở Lào, Nxb Khoa học

Xã hội, H.

166. Ngô Đức Thịnh (1971), “Nguồn gốc và lịch sử hình thành, phân bố cư

dân các dân tộc ở Lào”, Thông báo Dân tộc học, H, (số 1).

167. Nguyễn Thị Hồng Thu (2001), Tục ngữ Nhật- Việt, Nxb Văn học, H,

532 tr.

168. Nguyễn Thị Hồng Thu (2005), Tìm hiểu văn hoá ứng xử Nhật Bản qua

Kôtôwaza, có so sánh với tục ngữ Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

169. Trần Mạnh Thường (1997), Tục ngữ ca dao Việt Nam, Nxb Văn hoá

Dân tộc, H, 480 tr.

170. Nguyễn Văn Tố (1944), “Tục ngữ ta đối với tục ngữ Tàu và tục ngữ

Tây”, Tri Tân, (số 147), tr. 3-5 + 8; (số 148), tr.6- 7 + 18-19.

171. Đỗ Bình Trị (1999), “Những đặc điểm thi pháp của tục ngữ”, Đỗ Bình

Trị, Những đặc điểm thi pháp của thể loại văn học dân gian, Nxb Giáo dục,

H, tr.138-163.

172. Hoàng Trinh (1990), “Tục ngữ Việt Nam và các hình thể ngôn từ”, Tạp

210

chí Văn học, H, (số 5), tr.53- 59.

173. Hồ Tôn Trinh (1985), “Đạo lý và thi pháp dân gian trong tục ngữ Việt

Nam”, Văn hoá dân gian, H, (số 2), tr.13- 21.

174. Võ Quang Trọng (1987), “Tìm hiểu những hình thức biểu hiện của tục

ngữ, ca dao, dân ca trong thơ ca hiện đại”, Văn hoá dân gian, H, (số 3),

tr.36- 41.

175. Lê Khánh Trường, Lê Việt Anh (1998), Từ điển thành ngữ tục ngữ

Hoa- Việt, Nxb Văn hoá- Thông tin, H.

176. Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học

và Trung học chuyên nghiệp, H.

177. Cù Đình Tú (1970), “Hồ Chủ tịch dùng thành ngữ, tục ngữ”, Ngôn Ngữ,

H, (số 2), tr.12- 16.

178. Lê Ngọc Tú (1996), Tục ngữ Anh- Pháp- Việt và một số thành ngữ danh

ngôn, Nxb Khoa học Xã hội, H.

179. Tạ Đăng Tuyên (1998), “Tục ngữ, ca dao và lời ru với việc giáo dục giá

trị đạo đức, nhân văn”, Văn hoá dân gian, H.

180. Hoàng Tiến Tựu (1990), “Tục ngữ”, Hoàng Tiến Tựu, Văn học dân

gian tập II, Nxb Giáo dục, H, tr.109- 125.

181. Thanh Vân, Nguyễn Duy Nhường, Lưu Hoài (2000), Từ điển thành ngữ

tục ngữ Pháp- Anh- Việt, Nxb Thanh Niên, H.

182. Trần Quốc Vượng chủ biên (1996), Nhiều tác giả, Văn hoá học đại

cương và cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, H.

183. Trần Quốc Vượng (1998), “Văn hoá ẩm thực Việt Nam- Hà Nội đôi ba

vấn đề lý luận”, Văn hoá dân gian, H, (số 4).

211

Ii. Tµi liÖu tiÕng Lµo

Á­¡¦ô¡¦¾¦ø­-¡¾¤-²ò´-¥Ô-ξȨ

184. ²ø-´ó-¸ö¤-¸ó-¥ò© (1967),ĸ-¨½¡º­ì¾¸ (²ò´-Àꈺ-ê†Îˆ¤),²½-

Phu Mi V«ng Vi ChÝt (1967), Ng÷ ph¸p tiÕng Lµo, Nxb

Gi¸o dôc.

²ò´ê†Â»¤²ò´Á¹ú¤§¾©.

185. ¸ñ­­½£½-©ó 쾸 (1987), ¡¾­ë-¸È´-´õ 쾸¬¹--¸¼©­¾´´,

NhiÒu t¸c gi¶ (1987), V¨n häc Lµo (C«ng tr×nh hîp

(1982),

t¸c Lµo- ViÖt), Nxb Quèc gia Lµo.

¡½-§¸¤¦ô¡¦¾-êò-¡¾­-

¡òì¾Áì½ê¿-´½-¡¾.

186. ¸ñ­­½£½-©ó-§˜­º÷-©ö´-

NhiÒu t¸c gi¶ (1982) V¨n häc phæ th«ng, Nxb Gi¸o

dôc ThÓ thao vµ LÔ nghi.

¯ñ¡-ëñ¡¦¾-Îñ¤¦õ-î쾭쾸¡¾­ ë-¸È´-´õ 쾸¬À--µ¨ë½-´ñ­.

187. ´½-¹¾¦ò-ë½-¸ö¤¦Ê- (1996), ¦÷-²¾¦ò©®÷-ë¾­, £¤-¡¾­¯ö¡-

Ma h¶ VØ R¹ V«ng (1996) Tôc ng÷ cæ truyÒn Lµo, Uû

ban Hîp t¸c H÷u nghÞ Lµo - §øc xuÊt b¶n, 67 tr.

188. XØ Viªng KhÑc Con NÞ V«ng (2002) Tõ ®iÓn ViÖt-

Lµo (in lÇn thø nhÊt), Nxb Quèc gia Viªng Ch¨n.

÷¢¼­...(1990)---£¿¡º­²ôû­À´õº¤ì¾¸

¦½«¾®ñ­£í­£û¸¾¸ò꽨¾¦¾©¦ñ¤£ö´¡½§¸¤¦ô¡¦¾Á콡òì¾Á¹ú¤¦¯¯ì.

189.»ò®Â»´Áì½»¼®»¼¤Â©¨:®ðÒÁ¦¤£¿¸ö¤©¾ì¾´,¦÷¡¦½¹¸¾ú¤,®

Bß XÎng Kh¨m, Xóc X¹ Vµng, Bun KhiÓn s-u tÇm vµ

212

tuyÓn chän (1990). C©u th¬ d©n gian Lµo, Nxb Khoa

häc x· héi, Bé Gi¸o dôc vµ ThÓ thao N-íc Céng hoµ

D©n chñ Nh©n d©n Lµo, 214 tr.

­Áì½£¿¦÷²¾¦ò©.

190. »¼®»¼¤ Áì½Á¯Â©¨: ¦óëò¦÷¸ñ­­½¦óò (2000), ¦ñ®ê¾¤¡¾-

Xỉ Ri Xu V¨n Na XØ dÞch vµ tuyÓn chän, (2000), Tõ

th«ng dông vµ tôc ng÷ Lµo, 62 tr.

»ò®Â»´Â©¨:©¸¤¥ñ­¸ñ­­½®÷®°¾

(2005),¦÷²¾¦ò©²ôû­À´õº¤ì¾¸²ò´ê†Â»¤²ò´Î÷ȴ쾸

191.

§u«ng Ch¨n V¨n Na Bu Ph¶ s-u tÇm (2005), Tôc ng÷

d©n gian Lµo, In t¹i Nhµ in Thanh Niªn Lµo, 62 tr.

192. Ph¹m §øc D-¬ng chñ biªn (1995), Tõ ®iÓn Lµo -

ViÖt, Nxb ChÝnh trÞ quèc gia, 835 tr.

(2000)Îß×èÈÅàÈÖà×

(ãÉñÍïÝàÌâÊéÃÎßÄîÍèÌ)À߯×Ã×èÈËßÌßËá×ÞÃÄèÌ

Xô NÕt Ph« Thi S¶n (2000), LÞch sö Lµo (tõ cæ ®¹i ®Õn hiÖn t¹i), Bé Th«ng tin V¨n ho¸, Viªng Ch¨n.

213

193.ÅîâÌèÈäÑËêÅàÌ

PHỤ LỤC

1. Phụ lục 1: Thống kê cách dùng hình ảnh trong tục ngữ Việt và

Lào

Thống kê cách dùng hình ảnh theo Kho tàng tục ngữ người Việt (gọi

tắt là TN Việt, gồm 16.098 câu) do Nguyễn Xuân Kính chủ biên [90] và

theo Xú pha xít và lời nói giao duyên Lào (gọi tắt là TN Lào, gồm 691 câu)

của Nguyễn Đình Phúc [138], kết quả như sau:

Tên vật, đồ vật... Tên vật, đồ vật... TN Việt % TN Lào % TN Việt % TN Lào %

Cá 5,07 2,27 Trâu 2,25 1,75

Voi 4,13 5,21 Bò 2,32 1,92

Chùa 3,12 4,83 Núi rừng 4,35 5,04

Vợ chồng 4,34 5,79 Anh chị em 2,31 2,03

Bố mẹ- con cái 4,93 5,11 Ăn 8,97 6,56

3,42 2,75 Hổ 2,10 2,64

214

Sông nước

2. Phụ lục 2: Thống kê về ngữ nghĩa

Xú pha xít và lời nói giao duyên Lào Kho tàng tục ngữ người Việt Nghĩa câu tục ngữ Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)

Nghĩa đen 42 37

Chỉ một nghĩa bóng 3 2

Nghĩa đen + nghĩa bóng 44 49

11 12

Đa nghĩa

3. Phụ lục 3: Thống kê về kết cấu

Kho tàng tục ngữ người Việt Xú pha xít và lời nói giao duyên Lào Kết cấu tục ngữ

Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)

51 Kết cấu 2 vế 47

23 Kết cấu 1 vế 38

26 Kết cấu nhiều vế 15

4. Phụ lục 4: Thống kê các kiểu vần trong tục ngữ Việt

Thống kê các kiểu vần tục ngữ Việt theo Kho tàng tục ngữ người Việt

Không vần

Tổng cộng

Chữ Cái

Vần Liền

Vần cách 1

Vần cách 2

Vần cách 3

Vần cách 5

Vần cách 6

Vần cách 7

Vần hỗn hợp

Vần cách 4

2903

2851

720

517

128

1588

2

0

402

6987

16.098

Số

215

do Nguyễn Xuân Kính chủ biên [90], kết quả như sau:

18,03 17,71 4,47

3,21

0,79

9,86 0,04

2,49

43,4

100%

Tỷ lệ (%)

Cộng 18,03 Tục ngữ vần cách gồm 5.806 câu (chiếm 36,08 %) 2,49

43,4

100

216

câu

5. Phụ lục 5: Thống kê các kiểu vần trong tục ngữ Lào

Thống kê các kiểu vần tục ngữ Lào theo Xú pha xít và lời nói giao

Không vần

Tổng cộng

Chữ Cái

Vần Liền

Vần cách 1

Vần cách 2

Vần cách 3

Vần cách 5

Vần cách 6

Vần cách 7

Vần hỗn hợp

Vần cách 4

114

155

94

25

15

0

0

2

7

279

691

Số câu

16,49 22,43 13,60 3,62 2,18

0,29

1,01

40,38

100

Tỷ lệ (%)

1,01

40,38

100

Cộng 16,49 Có 291 câu tục ngữ Lào vần cách (chiếm 42,12%)

217

duyên Lào của Nguyễn Đình Phúc [138], kết quả như sau:

218