intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu tham khảo: Thể tài du ký trên tạp chí 'Nam Phong' (1917-1934)

Chia sẻ: Lulu Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

70
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

II. DU KÝ TRÊN TẠP CHÍ NAM PHONG VÀ CÁC VÙNG VĂN HOÁ 1. Du ký về vùng cao phía Bắc Tìm lại Tạp chí Nam phong chúng ta thấy xuất hiện các trang du ký viết về miền núi phía Bắc hoặc trên đường lên vùng cao phía Bắc với tên tuổi Nguyễn Văn Bân, Nhạc Anh Hoàng Văn Trung, Phạm Quỳnh, Nguyễn Thế Xương, Thái Phong Vũ Khắc Tiệp,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu tham khảo: Thể tài du ký trên tạp chí 'Nam Phong' (1917-1934)

  1. Thể tài du ký trên tạp chí "Nam Phong" (1917-1934) II. DU KÝ TRÊN TẠP CHÍ NAM PHONG VÀ CÁC VÙNG VĂN HOÁ
  2. 1. Du ký về vùng cao phía Bắc Tìm lại Tạp chí Nam phong chúng ta thấy xuất hiện các trang du ký viết về miền núi phía Bắc hoặc trên đường lên vùng cao phía Bắc với tên tuổi Nguyễn Văn Bân, Nhạc Anh Hoàng Văn Trung, Phạm Quỳnh, Nguyễn Thế Xương, Thái Phong Vũ Khắc Tiệp,... Các tác giả này hầu hết là quan lại địa phương, nhà giáo hoặc ký giả báo chí qua thăm miền Cao - Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái - Hòa Bình - Lai Châu và sau đó thuật chuyện lại. Những trang du ký này vừa có ý nghĩa văn chương vừa là những tư liệu khảo sát, điền dã về địa lý, lịch sử, phong tục tập quán, góp phần nâng cao nhận thức cho độc giả về thực tế miền sơn cước - nhất là trong điều kiện thông tin báo chí hồi đầu thế kỷ còn rất hạn chế. Trong ghi chép Hành trình mạn ngược từ Cao Bằng xuống Phú Thọ, ngài Huấn đạo trường Pháp - Việt Phú Thọ là Thái Phong Vũ Khắc Tiệp tường tả lý do chuyến đi: “Tháng Octobre 1920 vừa rồi, ký giả mới ở Cao Bằng đổi về Phú Thọ. Ra về tự hôm 23 Décembre, đến hôm 26 thì tới nơi.Trong bốn hôm trời, từ mạn ngược về đàng xuôi, lịch duyệt không biết bao nhiêu là cảnh trí: nào núi cao rừng rậm, vực thẳm hang sâu; nào khoáng dã bình nguyên, danh lam cổ miếu; kìa nơi thành thị, nọ chốn thôn quê; nước non này, phong cảnh ấy, thực là cảnh rất nên thơ; tưởng phải có cái tài cao, cái học rộng, cái con mắt tinh đời, cái tấc dạ như hoa thêu gấm dệt, cái tay khiến ngòi bút như nước chảy mây bay, thời mới tả hết được cảnh thiên nhiên của tạo hóa, kỹ xảo của nhân công, thắng tích của hàng trăm nghìn năm còn để lại”... Sau khi chép bài thơ từ biệt Cao Bằng, tác giả viết tiếp: “Từ biệt xong mới bước chân lên ô tô, thời trong lòng rất là bối rối: Ngại ngùng một bước một xa - Tiễn nhau nhớ khách quan hà hôm nay! Ô tô dần dần chạy nhanh lên, ngoảnh mặt lại không nhìn thấy
  3. thành phố Cao Bằng, không trông thấy bằng bối cũ với các học sinh, thời trong lòng lại càng bối rối hơn nữa: Càng trông lại mà càng chẳng thấy - Thấy xanh xanh những mấy tầng non! Xe chạy càng mau, trông lại nước non cũ lại càng xa tít. Lúc bấy giờ ngồi một mình nghĩ vơ nghĩ vẩn, nghĩ đến cảnh gió trăng sông Bằng Thủy, hoa cỏ đất Vườn Cam, thời làm cho cái tư tưởng mình nó hình như lớp lớp sóng dồn, không thể nào không cảm cho được”... Theo dòng du ký tuyến biên ải phía Bắc đáng chú ý có bài Chơi Lạng Sơn, Cao Bằng của học giả nổi tiếng Phạm Quỳnh. Mở đầu bài viết, tác giả dẫn giải kỹ lưỡng phương thức lựa chọn tư liệu và cách thức viết du ký... Sau khi kể chuyện đoạn đường xe lửa từ Lạng Sơn qua Đồng Đăng, tới Na Sầm (còn gọi là Na Cham), tác giả thuật tiếp chuyến đi bằng ô tô đến Thất Khê và Cao Bằng: “Phong cảnh tự Thất Khê trông mới kỳ thú thay! Chỗ thời những núi đá cao hiểm trở, chồng chất nối tiếp nhau không dứt, cây rậm như rừng; cây lớn, cây nhỏ, cây giây leo chằng chịt quấn quít, rối rít như mớ bòng bong, thật không đâu có núi đá sầm uất đến thế. Thường bên đường có khe nước chảy, chỗ thời róc rách, chỗ thời dào dào như tiếng thác nhỏ, nhưng nhiều khi cũng cây cối um tùm che lấp cả. Có lẽ bởi có nhiều suối nhiều khe tẩm tưới mát mẻ nên loài thực vật mới phồn thịnh đến thế. Chỗ nào khe rộng nước nhiều, cây cao bóng mát thời bọn phu tải ngựa tải xuống bì bõm tắm giặt; coi các cái trạng thái con ngựa khi cúi đầu uống nước, khi ngửng cổ rống lên, khi xoay xỏa vẫy vùng, khi thung thăng bước một, thật đáng một bức tranh Hàn Cán nhà Đường. Chỗ thời hết núi đá cây rậm đến đồi đất cỏ xanh, ngổn ngang bát ngát, coi xa rập rờn như sóng bể. Lại chỗ thời đột ngột những ngọn cô phong, cách nhau bằng những thung lũng nhỏ, có ngòi nước chảy, có ruộng cấy cày. Những xem các phong cảnh này cũng đáng đi Cao Bằng một chuyến”... Đồng thời với việc thuật lại cảnh đón tiếp, diễn thuyết trong hội Trí Tri; việc đi thăm sở nuôi ngựa lai giống Phi châu bên phủ lỵ Hòa An, đi thăm miếu vua Lê ở
  4. địa hạt làng Na Lữ, học giả Phạm Quỳnh mô tả chi tiết và đánh giá cao hình thức sinh hoạt hátThen cùng ngày trở về: “Quan châu Hà thời đặt ở nhà một cuộc tiêu khiển riêng của xứ này là cuộc phụ tiên, đây gọi là Then hay Bụt(Tiên, Phật). Then hay Bụt thường là những đàn bà con gái óng ả lắm, đã học thuộc nhiều các bài văn cúng, nhà nào muốn làm lễ kỳ yên thời mời đến gẩy đàn đọc văn, cầu nguyện cho trong nhà được bình yên mạnh khỏe. Trên giừng bày lễ vật hương hoa, côThen ngồi bên cạnh, tay cắp cây đàn, chân đeo tràng nhạc, miệng hát, tay gẩy, chân rung, dịp dàng lắm. Giọng hát tỉ tê thánh thót, nghe rất là buồn, như giọng gọi hồn vậy. Tưởng giá nghe chỗ vắng vẻ thời rùng mình như tiếng vong hồn nhắn người dương thế vậy. Nhưng cũng có một cái thú âm thầm não nuột. Không trách đàn bà con gái có người mê lắm, quyến luyến Then, sắm sửa chăm chút cho Then như đối với người có tình vậy. Cô Then ngồi đọc văn gẩy đàn như thế thường là suốt đêm, có khi cả đêm cả ngày không sịch chỗ, không đứng dậy mà không đổi giọng, không đứt tiếng, hình như người nào đọc được nhiều, giọng được tốt là người có tài vậy”... Có thể nói nhờ những trang du ký của học giả Phạm Quỳnh như thế mà chúng ta hiểu rõ thêm phần nào tình hình đời sống xã hội, mức độ phát triển giao thông, vài nét phong tục tập quán và những thắng cảnh tiêu biểu ở vùng núi Lạng Sơn - Cao Bằng vào thập kỷ hai mươi của thế kỷ trước, cách ngày nay đã gần một thế kỷ. Đây cũng là những trang tư liệu cụ thể, sinh động, ngày càng trở nên có ý nghĩa. Nói riêng về vùng biên viễn Thất Khê - Cao Bằng, Nguyễn Thế Xương có bài du ký Mấy ngày chơi Thất Khê. Chuyến du ngoạn khởi hành vào 6 giờ sáng ngày 23 tháng 8 năm Đinh Mão (tức ngày chủ nhật, 18-9-1927), đi bằng xe lửa từ Hà Nội đến Đồng Đăng rồi đi tiếp bằng ô tô đến Cao Bằng. Ngoài việc đến thăm các làng bản, thăm chùa, tìm hiểu chế độ quan nha, nhân chủng, tục lệ, nhà du ký còn ghi chép và nhận xét thực tế tình hình học đường nơi vùng cao: “Đến 2 giờ chiều tôi định vào chơi trường, chào
  5. ông Đốc cùng các ông giáo, với xem các học sinh ở đường rừng học tập thế nào. Ông Đốc mới đón vào chơi buồng khách nói rằng trường đây năm ngoái được bảy tám người đỗ bằng tốt nghiệp, hiện nay học ở Hà Nội, mới biết thời đại văn minh dạy người rất khéo, dẫu người Mán, người Thổ cũng đã có người học thói Tây phương; hồi tưởng lạ thay, mình là người Thất Khê du lịch khách mà thành ra người Thất Khê quan sát sứ, nhân ngâm một bài luật”... Qua mấy ngày nhàn chơi Cao Bằng, tác giả có lời kết cho bài du ký: “Sau về tới Lạng Sơn, nghĩ đến cuộc 8 ngày du lịch Thất Khê cũng là một sự ngẫu nhiên. Sự này tuy bởi tại người nhưng mà cũng bởi tự trời khiến chăng. Cuộc này sánh với các nhà du lịch năm châu thực cũng chưa lấy gì làm lạ, so với những cuộc các nhà nhàn quan bốn bể thực cũng chưa lấy gì làm k ỳ, nhưng vì nước non vẫn nước non nhà có lẽ lại thờ ơ mà chẳng ghi nhớ lại sao?”... Như vậy là ngoài việc tường thuật lại những điều tai nghe mắt thấy, tác giả đã bộc lộ niềm vui và cả niềm tự hào dân tộc qua một chuyến du ngoạn lên miền cao Thất Khê- Cao Bằng. Trong Bài ký phong thổ tỉnh Tuyên Quang, án sát sứ Nguyễn Văn Bân đã kể lại vị trí địa lý và đời sống người dân ven sông Lô, trang phục và lễ cưới của người Mán, phố núi huyện Yên Sơn, ngòi Lù thuộc châu Hàm Yên, đền Tam Cờ - núi Giùm thuộc châu Yên Bình, chùa Hang ở huyện Yên Sơn; đồng thời kể lại chuyến thăm động Thiện Kế ở châu Sơn Dương và mô tả nơi suối nước nóng: “Suối ôn tuyền ở xã Nhân Giả, huyện Yên Sơn, ở cạnh con đường đi phủ Yên Bình, chỗ cột ki-lô-mét thứ 15, suối như hình con cá, đầu hơi tròn như cái giếng, đuôi dài và hẹp, bùn suối như tro ướt, nước suối như nước hâm, miệng suối có khói trắng bay ra, khí nóng trong suối xông ra như mùi than khét; giáp suối lại có cái suối chảy ngành qua trước cửa, nước trong và lạnh, cho hai suối hợp khâm, thử vén áo quần đứng xem, thấy một bên nóng một bên lạnh, thực là kì dị (thói đời nóng lạnh, xem suối này khá biết), thử lấy tay gạt bùn múc nước
  6. thì nóng như nước sôi, không thò tay xuống được vì nước suối đã nóng mà bùn suối thì nhiệt độ lại hơn nhiều. Nhân có bài thơ phụ lục để biết sự thực: Hỏi làng Nhân Giả cảnh chi hay, Nào suối ôn tuyền hẳn phải đây. Lò Tạo có khi còn ấm lạnh, Nước này vẫn nóng tự xưa nay. Hơi đưa miệng giếng mùi than khét, Gió thoảng đầu khe ngọn khói bay. Nghĩ cũng lạ cho nguồn suối ấy, Ai đun mà sủi cả đêm ngày...”. Trong bài Ba bể du ký viết vào cuối năm Tân Dậu (1921), Phán sự toà công sứ Bắc Cạn là Nhạc Anh Hoàng Văn Trung đã ghi lại cảm xúc khi qua thăm hồ Ba Bể: “Nhân dịp mấy ngày nghỉ lễ Pentecôte đầu năm nay, ký giả cùng mấy ông bạn ngoạn du miền danh thắng ấy. Ôi! ký giả được nhất kiến một nơi đại thắng cảnh như thế là nhất thứ, thấy cảnh trí lắm vẻ thiên nhiên, kì hình dị trạng, sơn thuỷ hữu tình, khiến nên lòng cảm hứng vô cùng, nên lược thuật ra bài du ký này để cống hiến đồng bang cộng lãm, vẫn biết trí mọn tài hèn, văn chương quê kệch, không đủ mà miêu tả được hết cái thần tình bức tranh của thợ tạo, nhưng còn mong các bậc thi nhân tài tử, mặc khách tao nhân sau này đi vãn cảnh Ba Bể sẽ đem ngọn bút tài hoa, câu thơ diệu bút tô điểm cho bức tranh sơn thuỷ ấy được mười phần diễm lệ vậy”. Tác giả cũng kể rõ từ việc sắm sửa hành lí, thời tiết, phương tiện ô tô, tình trạng đường xá, phong cảnh, thổ sản trên từng đoạn đường, đặc biệt là những thắng cảnh như hang Buông, gò An Mã, nguồn sông Trợ Điển và cảnh thuyền trên sông nước, đôi khi là một nét vẽ thoáng qua cảnh lao động nơi sông nước: “Khi ấy mặt trời đã gần đứng bóng, gió mây im lặng, bốn bề vắng ngắt như tờ, một chiếc thuyền lênh đênh mặt
  7. nước. Trời mây man mác, bể núi mông mênh, thuyền ai thấp thoáng bồng bềnh xa kia? Khi gần lại thời tức là một chiếc thuyền độc mộc mà một bọn “lục sao” đang uốn éo lưng ong, khoan khoan tay lái, bơi nhanh thoăn thoắt trên mặt biển rộng mênh mang. Ôi! Chiếc thuyền rất nhỏ bé, vừa bằng một ôm, thế mà khách liễu yếu đào thơ vẫn cười nói dịu dàng, mặt mày hớn hở, không chút quan tâm, khiến cho ký giả cũng phải khen thầm cái lòng can đảm ấy”... Ngoài ra, tác giả còn chỉ dẫn cách đi xe, giá vé, nơi ăn ở trên các đoạn đường và cả lời dặn về mùa du ngoạn: “Muốn đi Ba Bể nên đi vào quãng tự tháng mười cho đến tháng ba ta, tức là từ đầu mùa đông cho đến cuối mùa xuân là mùa tạnh ráo (saison sèche). Trong mùa ấy khí trời ấm áp, đường đất khô ráo, không có điều gì trở ngại cả. Còn về mùa mưa (saison des pluies) tức là hạ với thu, núi lở, đất lầm, xe ô tô không thể nào đi được”...
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2