Đề bài: Thi pháp văn học trung đại qua “Bài ca ngất ngưởng” và “Dương phụ <br />
hành”<br />
Bài làm<br />
Xuất hiện vào những năm cuối của thế kỉ XIX Dương phụ hành của Cao Bá Quát và Bài <br />
ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ đã ghi được những dấu mốc trên tiến trình văn <br />
học trung đại Việt Nam, được coi như một sự vượt rào về thi pháp, một báo hiệu về thời <br />
cận đại.<br />
Nói đến văn học trung đại là nói đến tính phi ngã và tính quy phạm. Từ trước đến nay <br />
chúng ta đều quan niệm tính quy phạm của dòng văn học trung đại là một bức thành kiên <br />
cố. Nó đã bó buộc, giam hãm nguồn cảm xúc của thi nhân, không để cho nguồn cảm xúc <br />
ấy tuôn trào một cách tự nhiên dù nó là một tình cảm nhân bản rất con người. Rất ít nhà <br />
thơ thời kì này nhận thức được đúng đắn những hạn chế đó. Dòng cảm xúc trong con <br />
người họ đã bị ức chế, bị dồn nén và bị uốn theo một lối mòn “muôn thuở”. Nhưng đã có <br />
những con người không đi theo vết xe của người đi trước, họ đã tìm đến những lối rẽ <br />
mới, thể hiện đầy đủ hơn tính người và rõ nét hơn bản ngã của cá nhân. Vì thế khi Bài ca <br />
ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) và Dương phụ hành (Cao Bá Quát) ra đời đã mang đến <br />
cho ta những tư tưởng tình cảm mới, cách nhìn mới từ xưa đến nay chưa mấy ai khơi <br />
nguồn.<br />
Ngược dòng thời gian trở về với lịch sử của dân tộc dưới chế độ phong kiến, chúng ta <br />
nhận thấy có một lớp sương mờ đang bao trùm lên khắp bầu trời và xã hội Việt Nam. <br />
Con người ấy, xã hội ấy cứ bình lặng trôi xuôi, không có một sự cựa quậy, phản kháng, <br />
khẳng định cá tính. Chế độ phong kiến không công nhận cá nhân, tỏa chiết những tình <br />
cảm tự nhiên của con người trong vòng kim cô của lễ giáo và tôn ti trật tự. Nhưng khi <br />
thưởng thức cái âm hưởng hùng mạnh trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, <br />
chúng ta thấy ông cha ta không phải ai cũng chịu cúi đầu. Trong bài thơ ta thấy nổi cộm <br />
lên cá tính của một tâm hồn tự do phóng khoáng, thích nói đến bản thân mình, kể cả <br />
những cái riêng nhất, cái mà dòng văn học trung đại không bao giờ đề cập đến. Mở đầu <br />
bài thơ Nguyễn Công Trứ đã khẳng định một cách hùng hồn vai trò của mình:<br />
“Vũ trụ nói mạc phi phận sự”<br />
Đâu còn tư tưởng vô vi của Lão Trang. Lòng nhiệt tình, niềm say mê với công việc và <br />
trách nhiệm đã giúp ông ý thức được vai trò của mình trong cuộc đời, trong xã hội. Ở đây <br />
ta bắt gặp một hình ảnh của thiên nhiên: đó là vũ trụ một hình ảnh quen thuộc và chiếm <br />
ưu thế trong thơ ca trung đại. Nhưng không gian vũ trụ trong câu thơ này lại không chiếm <br />
lĩnh tất cả. Tồn tại song song với nó còn là không gian xã hội mà ở đây chính là vai trò cá <br />
nhân của tác giả. Nguyễn Công Trứ không trở về với không gian tình tại, với mây ngàn <br />
bạc nội, núi cao suối vắng, trầm tư sau lũy tre làng hoặc lặng lẽ bên luống cúc, thư trai <br />
mà với bản lĩnh và ý thức về trách nhiệm của mình, ông đã hòa mình vào cái náo nức hồ <br />
hởi, cái vòng đời đang lăn chuyển trong xã hội. Rõ ràng trong cái thế thừa đã bước đầu có <br />
sự cách tân, dọn đường cho một phong cách nghệ thuật mới sinh động nảy nở…<br />
Sau khi thể hiện mình một cách tổng quát nhất, cái “tôi” đã bắt đầu khoa trương về cuộc <br />
đời, về những lần thi thố tài năng của mình với một giọng thơ say mê nhiệt huyết. Lời <br />
thơ dài ngắn khác nhau, ngắt nhịp theo lời kể và đặc biệt là với cách dùng từ “khí”, <br />
Nguyễn Công Trứ đã khắc họa một cách chính xác, đàng hoàng về tài năng của mình. Khi <br />
Nguyễn Công Trứ viết: “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”, ta thấy nảy sinh ra một mâu <br />
thuẫn. Bản thân ông tự thấy mình cần phải có phận sự đối với trời đất, có trách nhiệm <br />
với cuộc đời. Vậy mà khi làm quan, khi mà ông có điều kiện để thể hiện rõ nhất phận sự <br />
của mình thì ông lại cảm thấy bị như bị vào “lồng”. Nguyễn Công Trứ đã gọi việc ra làm <br />
quan tựa như một cái “lồng”. Một hình ảnh thật mới mẻ, thật táo bạo. Thời ấy ai dám nói <br />
như Nguyễn Công Trứ bởi việc ra làm quan tuy có nhiều ràng buộc song nó vẫn là đối <br />
tượng của sự tôn kính, ngưỡng vọng của người đời… “Vào lồng” rồi ông vẫn tiếp tục <br />
chơi ngông.<br />
“Gồm thao Xược đã nên tay ngất ngưởng”<br />
Giọng văn hơi khoa trương mà không hề gây khó chịu bởi nhà thơ rất có ý thức về tài <br />
năng và phẩm hạnh của mình. Cá tính của nhà thơ còn xuyên suốt khắp bài thơ, nó như <br />
một đốm sáng làm cho giá trị của tác phẩm thêm rực rỡ lung linh. Nguyễn Công Trứ là <br />
một con người của tự do, một tâm hồn phóng khoáng và ưu hoạt động. Chính vì thế khi bị <br />
giam chân vào trong cái “lồng” của xã hội thì cũng là lúc ông có dịp để thể hiện cái “ngất <br />
ngưởng” của mình rõ hơn cả. Nhưng chế độ phong kiến hà khắc đã không dung nạp cái <br />
thói ngạo nghễ, khinh đời đầy ý thức cá nhân của ông. Song Nguyễn Công Trứ không hề <br />
cúi đầu khuất phục mà cái “ngất ngưởng” trong ông lại như có động lực thúc đẩy để phát <br />
triển lên tới đỉnh cao của cá tính. Khác hẳn với cái ta chung chung, mang tính chất tập <br />
đoàn, Nguyễn Công Trứ đã tự xưng danh, biến cái ta thành cái tôi, thành lẽ sống cho bản <br />
thân mình.<br />
“Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”<br />
Có lẽ khi ra làm quan, cá tính của Nguyễn Công Trứ phần nào vẫn bị chế độ phong kiến <br />
chi phối, lấn át nên bây giờ khi đã thôi làm quan thì cá tính kia mới bộc lộ một cách đầy <br />
đủ nhất, mãnh liệt nhất bởi không có gì ràng buộc. Việc cho bò đeo nhạc ngựa thời ấy đã <br />
là ghê gớm lắm rồi, vậy mà khi đến nơi cửa phật ông còn mang vài cô “Kiều” mà ông tả <br />
là “gót tiên đủng đỉnh”. Mức độ ngang tàng giờ đây đã phát triển lên đỉnh cao và nhà thơ <br />
của chúng ta đã quên đi hết thảy những ràng buộc cấm kị của thi pháp trung đại, cái thú vị <br />
hành lạc của nhà thơ bắt đầu thể hiện. Ông đã từng nói “cuộc hành lạc chơi đâu là lãi <br />
đấy”.<br />
Thi pháp văn học trung đại trong “Bài ca ngất ngưởng” và “Dương phụ hành” Nguyễn <br />
Công Trứ đã xé rào thi pháp văn học trung đại lúc nào cũng không biết. Tư tưởng của nhà <br />
thơ là một tư tưởng cách tân mang đậm dấu ấn thời đại bởi nó không chỉ là sự cách tân <br />
bằng văn hóa mà bằng cả cuộc đời ông đang sống. Sự thoát li với thế lực còn thể hiện ở <br />
câu thơ:<br />
“Kia núi nọ phau phau mây trắng…”<br />
Sức chiếm lĩnh của không gian lên cao của thi pháp trung đại không phải là nhạt nhòa <br />
trong phong cách thơ của nhà thơ. Lên cao để mà thoát tục, xa lánh bụi trần là một sở <br />
thích của thi nhân thời xưa. Nguyễn Công Trứ cũng muốn hòa mình vào thiên nhiên cao <br />
rộng để cho lòng thêm thanh thản sáng trong.<br />
Có thế nói cá tính ngông của Nguyễn Công Trứ thể hiện đầy đủ nhất, toàn diện nhất khi <br />
ông viết câu thơ:<br />
“Được mất dương dương người tái thượng”<br />
Điển cố một lần nữa trở lại với thơ ông. Rõ ràng sức nặng của thi pháp trung đại vẫn <br />
chiếm lĩnh tư tưởng của nhà thơ. Nhưng ta vẫn thấy cái gì đó mới mẻ lớn lao đằng sau <br />
cái “dương dương” tự đắc của Nguyễn Công Trứ vậy.<br />
Nguyễn Công Trứ tuy đã có sự ngấp nghé vượt rào thi pháp trung đại nhưng ông vẫn luôn <br />
ý thức được cái gì cần phải có và quay trở về với quỹ đạo của cương thường, có khi đến <br />
mức tôn thờ:<br />
“Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”<br />
Văn học trung đại đã có nhiều trang viết về đạo trung quân. Nguyễn Công Trứ đã đi theo <br />
con đường đó để kế thừa và thể hiện cái đạo cao quý trong con người của mình. Rồi sau <br />
đó ông lại viết: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”. Nhà thơ xưng “ông” với thiên hạ, <br />
với cuộc đời, không ngại ngùng dè dặt mà vẫn hiên ngang. Rõ ràng cái “ngất ngưởng” ở <br />
đây đã trở thành một hình tượng tự thuật độc đáo, có ý vị hài hước. Nhưng đàng sau nụ <br />
cười đó lại là một thái độ, một quan niệm nhân sinh ít nhiều mang màu sắc hiện đại bởi <br />
nó đã đề cao vai trò cá nhân với sự khẳng định cá tính, không đi theo con đường chính <br />
thống sáo mòn trong đó chỉ có hình ảnh tập đoàn cùng những giáo điều khô khan, còn <br />
quyền sống của con người bị che lấp vùi dập.<br />
Nguyễn Công Trứ đã vượt lên trên cái đó với một phong cách nghệ thuật nỗi bật. Ông đã <br />
dùng hình tượng phi chính thống, nói nhiều đến cái tôi, bước đầu phá vỡ tính quy phạm <br />
của văn học trung đại. Nhìn chung Nguyễn Công Trứ đã vượt xa thời đại của ông rất <br />
nhiều.<br />
Nếu chỉ có mình Nguyễn Công Trứ dám vượt rào thi pháp văn học trung đại thì sự cách <br />
tân kia cũng chưa phải là đáng kể. Cùng với Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát một lần nữa <br />
đã làm cho “hàng rào” của thi pháp trung đại bị đẩy lùi, bị lung lay. Nếu như Bài ca ngất <br />
ngưởng của Nguyễn Công Trứ đem lại cho ta một tâm trạng hồ hởi, náo nức thì Dương <br />
phj hành lại len vào trong hồn ta với một chất tình man mác, tràn đầy tính nhân văn, nhân <br />
bản. Bài thơ đã khắng định, đã đề cao những tình cảm riêng tư của con người. Đó là một <br />
nguồn cảm hứng rất đổi thân thuộc đối với thi nhân nếu như họa không bị thi pháp văn <br />
học trung đại phong tỏa. Đọc bài thơ ta như lạc vào một miền đất mới mà trên đó nảy <br />
sinh biết bao tâm tư tình cảm của con người, vẫn là một bài hành một thể loại phổ biến <br />
của thi pháp trung đại cùng với không gian lữ thứ của một chủ thể trữ tình li hương song <br />
bài thơ lại được tác giả thổi vào một cái nhìn mới lạ, mang đậm tính nhân văn cao đẹp. <br />
Sự cách tân đã bước đầu thế hiện:<br />
“Thiếu phụ Tây Dương áo trắng phau”<br />
Người thiếu phụ phương Tây hiện ra với một cái nhìn trân trọng và trìu mến của tác giả. <br />
Lịch sử văn học đã mấy ai dám đưa hình ảnh người phụ nữ vào trong văn thơ táo bạo như <br />
Cao Bá Quát, mà lại là hình ảnh người đàn bà phương Tây đầy xa lạ. Ông nói thẳng vào <br />
điều mình nhìn thấy, không vòng vo, không còn những ước lệ đặc trưng dành cho người <br />
con gái như trong thơ Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều. Cái đập vào mắt nhà thơ đầu tiên <br />
là trang phục màu trắng của người thiếu phụ. Cao Bá Quát đã mở hồn mình ra để cho cái <br />
màu trắng tinh khiết trang nhã kia in vào, xâm chiếm lấy con người tác giả. Người đàn bà <br />
kia không chỉ cuốn hút nhà thơ bằng trang phục khác xa với người con gái phương Đông <br />
mà những hành động cử chỉ của bà ta với chồng đã thực sự làm cho tâm hồn nhà thơ rung <br />
động, cảm hứng thơ trỗi dậy mãnh liệt:<br />
“Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu…”<br />
Sự hà khắc của những điều khó khăn trong chế độ phong kiến đã trói buộc tình cảm con <br />
người, đã không để nó phát sinh một cách tự nhiên. Tuy vậy hình ảnh đôi vợ chồng kia <br />
đối với nhà thơ không hoàn toàn lập dị. Một thoáng ngạc nhiên để rồi thay vào đó là một <br />
cái nhìn đầy thiện cảm, không tỏ ý bất động. Đâu còn thấy hình ảnh người phụ nữ Việt <br />
Nam e lệ, kín đáo bên người chồng và nguyện là người “nâng khăn sửa túi”, “cử án tu mi” <br />
suốt cuộc đời. Những cái đó giờ đây đã trở thành bảo thủ lạc hậu vì nó không đề cao sự <br />
bình đẳng trong quan hệ giữa người với người, đặc biệt là quan hệ vợ chồng. Câu thơ <br />
này chứng tỏ Cao Bá Quát đã có một cái nhìn thật tinh tế và tiến bộ. Những điều mới lạ <br />
vẫn tiếp tục dâng trải trước mắt nhà thơ:<br />
“Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay<br />
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy”<br />
Lòng ta cũng cảm thấy lâng lâng, lan tỏa một niềm vui trước những cử chỉ tự nhiên gần <br />
gũi của đôi vợ chồng nọ. Và khi đó chúng ta nhìn về quê hương xứ sở của mình bấy giờ <br />
mới cảm thấy sao mảnh đất đó lại xa vời, khắc nghiệt quá vậy. Kể cũng đúng bởi những <br />
tình cảm rất con người kia không bao giờ nảy nở trực tiếp, nó đã bị những giáo điều khô <br />
khan của chế độ phong kiến chèn ép làm thui chột. Tư tưởng đó đã ảnh hưởng mãnh liệt <br />
đến các trang thơ. Tính quy phạm quả là hạn chế. Nhưng đến thời Cao Bá Quát thì một <br />
lần nữa nó lại bị phá tung ra và ít nhiều ảnh hưởng đến dòng văn học hiện đại sau này. <br />
Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta có được một phong cách đầy mới mẻ và hấp dẫn mà <br />
bởi chính nhà thơ đã phần nào thấm ý thức được cách nhìn của mình, một sự cách tân độc <br />
đáo vượt xa thời trung đại. Người con gái phương Đông đang sống trên quê hương tác giả <br />
nhút nhát, e dè bao nhiêu thì “thiếu phụ Tây Dương” kia lại bạo dạn tự nhiên bấy nhiêu và <br />
điều quan trọng là giữa hai vợ chồng đó phải có một sự bình đẳng gần như tuyệt đối thì <br />
người vợ mới có thể nũng nịu đến như vậy. Khả năng cảm nhận của nhà thơ cũng thật <br />
nhạy cảm, tinh tế, chính vì vậy nên khi đứng trước những cử chỉ thân mật âu yếm của đôi <br />
vợ chồng nọ, nhà thơ của chúng ta không hề là gỗ đá mà tâm hồn đã bắt đầu xao động, từ <br />
sự ngạc nhiên đồng cảm đến nỗi niềm tủi thân của người xa quê hương, xa gia đình:<br />
“Biết đâu đến khách biệt li này?”<br />
Chủ thể trữ tình đã hiện ra. Biết bao cảm xúc đang dồn nén giờ đã bật tung ra từng câu <br />
chữ, dường như để trách móc mà lại như để tìm kiếm một tâm hồn đồng cảm để giải <br />
bày… Cảm nhận của văn học trung đại là cảm nhận trên cái toàn thể, cái ta trữ tình, <br />
những câu thơ về tình yêu, về tình vợ chồng thật hiếm. Cao Bá Quát đã vượt qua cản đó <br />
để đến với người đọc bằng một cái “tôi” trữ tình đầy tính nhân văn. Tuy Cao Bá Quát thể <br />
hiện nỗi nhớ người thân của mình (ở đây chính là người vợ tào khang nơi quê nhà) vẫn <br />
chưa dám bộc bạch thẳng mà thể hiện qua yếu tố khách quan, đi từ ngoại cảnh và để <br />
ngoại cảnh tác động đến lòng người. Song đọc bài thơ ta thấy thấp thoáng hiện lên một <br />
sự chuyển biến về cảm thức tiến bộ của tác giả. Bài thơ thể hiện một nỗi khát khao <br />
hạnh phúc của chính bản thân tác giả cũng như của tất cả mọi người. Đây là một chủ <br />
nghĩa nhân văn hết sức cao đẹp mà Cao Bá Quát đã đề cập tới.<br />
Bài thơ kết thúc ở đây nhưng những dư âm của nó vẫn âm vang mãi trong lòng người. Nó <br />
như một “kì quan” đối với con người lúc bấy giờ, bởi nó đã mở ra một thế giới mới, một <br />
thế giới riêng tư, thế giới của tình yêu.<br />
Hơn một thế kỉ đã trôi qua kể từ ngày Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát ra đi nhưng sự <br />
nghiệp văn thơ của hai ông vẫn còn, đặc biệt là Bài ca ngất ngưởng và Dương phụ hành <br />
đã vượt qua sức cản phá của thời gian. Bởi vì về mặt tư tưởng, nó có ý nghĩa nhân văn, <br />
về văn học, nó có ý nghĩa cách tân. Nó đã đem vào văn học một tiếng nói mới, tiếng nói <br />
của cá nhân, tiếng nói của cá tính. “Phong cách ấy là con người” (Buýtphông). Nguyễn <br />
Công Trứ với cá tính ngang tàng đã tạo nên một phong cách rất riêng trong nghệ thuật. <br />
Còn Cao Bá Quát với bút pháp đằm thắm chất nhân văn đã mang đến cho cuộc đời những <br />
tình cảm nhân bản cao đẹp, những tình cảm riêng tư thầm kín. Với những phong cách ấy, <br />
tính quy phạm của dòng văn học trung đại dần dần bị phá vỡ để thay vào đó là “cái tôi” <br />
đòi khẳng định. Nó như báo hiệu sự ra đời của một dòng văn học hoàn thiện hơn, gần <br />
người hơn, nền văn học mang trong mình một chủ nghĩa nhân văn mới” Nền văn học hiện <br />
đại Việt Nam.<br />