intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Chính sách đối ngoại Việt Nam: Quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kì giai đoạn 1945 - 1954

Chia sẻ: Nguyen Sinh Hoang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:17

476
lượt xem
65
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận Chính sách đối ngoại Việt Nam: Quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kì giai đoạn 1945 - 1954 trình bày ba nội lớn: Quan hệ Việt Nam – Mỹ giai đoạn 1945-1949, quan hệ Việt Nam – trong giai đoạn 1950-1954, quan hệ Việt Nam – Mỹ về vấn đề chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương.

 

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Chính sách đối ngoại Việt Nam: Quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kì giai đoạn 1945 - 1954

  1. BỘ NGOẠI GIAO HỌC VIỆN NGOẠI GIAO KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO BỘ MÔN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM I TIỂU LUẬN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM – HOA KÌ GIAI ĐOẠN 1945­1954 Giảng viên hướng dẫn cô : Nguyễn Phú Tân Hương Sinh viên thực hiện : Nguyễn Sinh Hoàng  Lớp  : CT38H
  2. Hà Nội, tháng 5 năm 2013 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................1 NỘI DUNG TÌM HIỂU..................................................................................3 I. QUAN HỆ VIỆT NAM – MỸ 1945­1949...............................................3 1. Bối cảnh nước mỹ sau chiến tranh thế giới thứ hai............................3 2. Bối cảnh Việt Nam sau cách mạng tháng tám năm 1945.....................4 3. Vấn đề công nhận độc lập của việt nam và thiết lập quan hệ ngoại  giao chính thức Việt Nam – Mỹ................................................................5 II. QUAN HỆ VIỆT NAM – MỸ TRONG GIAI ĐOẠN 1950­1954.......6 1. Mỹ trong những năm đầu thập niên 50 của thế kỷ XX.......................6 2. Việt Nam từ 1950­1954.........................................................................8 3. Đối sách của đảng và chính phủ  Việt Nam dân chủ  cộng hòa trong  việc Mỹ can thiệp vào Đông Dương.........................................................9 II. QUAN HỆ  VIỆT NAM – MỸ  VỀ  VẤN ĐỀ  CHẤM DỨT CHIẾN  TRANH, LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở ĐÔNG DƯƠNG.............................10 LỜI KẾT........................................................................................................13 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................14
  3. LỜI MỞ ĐẦU          Cách mạng tháng tám 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ  cộng hòa ra đời 2/9/1945.Bản “Tuyên ngôn độc lập” được đọc tại quảng  trường Ba Đình khẳng định về  thực tế  và pháp lý sự  ra đời của một quốc   gia độc lập. Ngay sau đó, thực dân pháp thực hiện âm mưu trở  lại đô hộ  nước ta. Ngày 23/9/1945, chúng tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền  nam Việt Nam, rồi mở rộng xâm lược cả  nước. Cuộc kháng chiến chống  thực dân pháp tiến hành ngay khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra  đời và mở rộng thành cuộc kháng chiến toàn quốc , kết thúc với Hiệp định  giơnevơ được ký kết, sau chiến thắng lịch sử Điện biên phủ. Trong 9 năm  (1945­1954) Mỹ đã thay đổi quan hệ, thái độ với Việt Nam như thế nào thì   trong bài tiểu luận này tôi xin được làm rõ qua các giai đoạn cụ thể.         Bài tiểu luận này được tìm hiểu qua 3 nội dung lớn như sau: I. Quan hệ Việt Nam – Mỹ giai đoạn 1945­1949 II. Quan hệ Việt Nam – trong giai đoạn 1950­1954 III.  Quan hệ Việt Nam – Mỹ về vấn đề chấm dứt chiến tranh lập  lại hòa bình ở Đông Dương            1
  4. 2
  5. NỘI DUNG TÌM HIỂU I. QUAN HỆ VIỆT NAM – MỸ 1945­1949 1. Bối cảnh nước mỹ sau chiến tranh thế giới thứ hai     Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới đã có sự thay   đổi căn bản, tác động, chi phối đến quan hệ  quốc tế, cũng như  đối với   dòng chảy lịch sử của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia ở cả châu Âu, châu Á và  khu vực Mỹ Latinh. Có thể nhận thấy một số nhân tố quan trọng góp phần   quyết định sự chi phối tiến trình lịch sử thế giới sau năm 1945.     Chủ nghĩa xã hội từ một nước đang trong quá trình hình thành một  hệ thống thế giới và dần dần có vai trò là một nhân tố góp phần quyết định   sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Ngay sau khi ra đời, hệ thống xã  hội chủ nghĩa, đứng đầu là liên xô, đã thể hiện được ưu thế của mình trên  nhiều lĩnh vực1. Nó đã phát huy mạnh mẽ  vai trò trụ  cột, uy tín và  ảnh  hưởng đối với phong trào cách mạng thế  giới. Dưới  ảnh hưởng trực tiếp   của nhà nước xã hội chủ nghĩa Xô Viết, chủ nghĩa xã hội không chỉ  chiến   thắng  ở  Đông Âu mà còn lan sang khu vực Châu Á, trong đó nổi bật là   Đông Nam Á. Với sự  động viên, khích lệ,  ủng hộ  về  tinh thần, nhân dân  các nước ở châu lục này đã tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc, diễn ra  sự ra đời của hàng loạt quốc gia độc lập với nhiều mức độ khác nhau, theo   các thể  chế  không giống nhau. Sự  phát triển về  quy mô và chiều sâu của  phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc làm suy yếu lực lượng của chủ  nghĩa đế quốc, tạo những điều kiện thuận lợi cho cách mạng thế giới phát  triển.      Làm bá chủ  toàn cầu là tham vọng đã có từ  lâu của chủ  nghĩa đế  1 Quan hệ Việt – Mỹ 1939­1954, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội,  2004. 3
  6. quốc Mỹ. Mặc dù có những lợi thế  đặc biệt sau chiến tranh thế  giới thứ  hai, nhưng đứng trước một thế  giới đầy biến động, những mâu thuẫn tồn  tại đã và đang vận động mạnh mẽ, tạo ra những xu hướng mới có lợi cho   hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ  và tiến bộ  xã hội thì việc thực hiện   tham vọng bá chủ thế giới của Mỹ có sức mạnh quân sự, kinh tế và chính  trị, mà còn đòi hỏi phải có chính sách xâm nhập và bành trướng khôn khéo,  chiến lược phù hợp để  thực hiện ý đồ  của mình,  Đó là điều rất khó khăn   của Mỹ.        Để  thực hiện âm mưu, chiến lược toàn cầu của mình, Mỹ  đã phát   động cuộc “chiến tranh lạnh”, gây tình hình căng thẳng trên thế giới. Ngay  thời gian đầu sau chiến tranh, Mỹ  đã sớm triển khai học thuyết Truman   (12­3­1946) mà định đề trung tâm của nó là ngăn chặn sự bành trướng của   chủ  nghĩa cộng sản. Phụ họa với mỹ, đế  quốc Anh đã cùng lớn tiếng kêu  gọi chống Liên Xô, chống chủ  nghĩa cộng sản. Trong diễn văn ngày 15  tháng 3 năm 1946 tại Fulton (Mỹ) cựu thủ tướng Anh churchill đã kêu gọi   các nước tư  bản phương tây tập hợp lực lượng, tiến công các lực lượng  dân chủ ở các nước tư bản, chống Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân và  phe xã hội chủ nghĩa. Vì thế “diễn văn Fulton” được coi là lời kêu gọi phát  động cuộc “chiến tranh thập tự” mà mũi nhọn của nó chía vào Liên Xô và  phong trào cách mạng thế  giới. Cùng với học thuyết Truman, “diễn văn  fulton” là phát súng lệnh mở đầu cuộc “chiến tranh lạnh” của chủ nghĩa đế  quốc mà trọng tâm của chiến lược này là bao vây, ngăn chặn Liên xô. 2. Bối cảnh Việt Nam sau cách mạng tháng tám năm 1945        Thắng lợi nhanh chóng của cuộc tổng khởi nghĩa tháng tám năm   1945 ở việt nam đã gây sự bất ngờ lớn đối với thế lực thù địch đang có âm   mưu chống phá nước ta. Vì thế, cuộc đấu tranh tiếp theo để bảo vệ  thành   quả cách mạng của nhân dân Việt Nam gặp nhiều thử thách lớn. 4
  7.      Trước hết nhà nước Việt Nam dân chủ  cộng hòa vừa ra đời phải   đối phó ngay với các thế  lực thù địch bên ngoài kéo tới để  thực thi quyết  định của hội nghị Potsdam với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật. ở miền   Bắc có khoảng 20 vạn quân của tưởng giới thạch, miền Nam lực lượng   quân Anh kéo đến. Ngoài lực lượng của quân Tưởng, quân Anh, còn có mặt   khoảng 6 vạn quân nhật đã đầu hàng nhưng chưa về  nước và quân pháp.  Như vậy, cùng một lúc trên đất nước ta có mặt gần 30 vạn quân chính quy  của các thế  lực Anh, Pháp, Nhật, tưởng. Nguy cơ  đe dọa trực tiếp là âm   mưu quay trở  lại đánh chiếm Đông Dương của thực dân pháp. Bên cạnh  đó, các lực lượng phản động trong nước cũng ngóc đầu dậy chống phá   chính quyền cách mạng. Chua bao giờ trên đất nước Việt Nam lại có nhiều  kẻ thù đến thế.  3. Vấn đề công nhận độc lập của việt nam và thiết lập quan hệ ngoại   giao chính thức Việt Nam – Mỹ        Trong bối cảnh lịch sử  sau khi cách mạng tháng tám 1945 thành   công, vấn đề  quan hệ  Việt – Mỹ  phải xuất phát từ  chủ  trương đối ngoại  chung của đảng và chính phủ lúc bấy giờ.     Mục tiêu chung của các thế lực đế quốc và phản động là chống phá  cách mạng Việt Nam. Tuy cùng thống nhất với nhau trong ý đồ  tiêu diệt  cách mạng Việt Nam, song các thế lực đế quốc lại rất mâu thuẫn nhau về  quyền lợi cụ  thể, càng làm cho tình hình phức tạp. Nhưng đó cũng là một   thuận lợi khách quan mà cách mạng Việt Nam cần khai thác.        Trong bối cảnh đó, việc định ra chủ  trương đối ngoại phù hợp   nhằm đưa đất nước vượt qua nguy hiểm, giữ  vững nền độc lập dân tộc,  xác định vị  thế  của Việt Nam trên trường quốc tế  là một việc đầy khó   khăn.      Do phân tích, dự  đoán đúng tình hình thế  giới, với cách nhìn toàn   5
  8. diện và biện chứng, xác định rõ tương quan lực lượng giữa các thế lực thù   địch với cách mạng trong nước, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Hiện  thời trên thế giới lực lượng hòa bình mạnh hơn lực lượng chiến tranh”.        Người  cùng trung  ương  Đảng, chính phủ  có cách nhìn và định  hướng đúng cho hoạt động đối ngoại của Việt Nam nhằm giữ vững sự tồn  tại của nhà nước non trẻ, đang trong vòng vây của các thế  lực thù địch.  Đồng thời, cũng mở  ra hướng mới trong chính sách đối ngoại của nước   Việt Nam, không phải tư cách một nước thuộc địa mà với tư cách của một  nhà nước độc lập, một quốc gia có chủ  quyền – một chủ  thể chủ  yếu và   đầy đủ  của công pháp quốc tế. Thực hiện tốt điều này sẽ  tập hợp lực  lượng dân tộc và thế  giới có lợi cho sự  phát triển của cách mạng Việt  Nam. II. QUAN HỆ VIỆT NAM – MỸ TRONG GIAI ĐOẠN 1950­1954         Từ năm 1950, tình hình thế giới và Việt Nam có nhiều thay đổi   không có lợi cho Mỹ và các nước tư bản đế  quốc: cách mạng Trung Quốc  thành công, hệ  thống các nước xã hội chủ  nghĩa hình thành và phát triển,   phong trào cách mạng thế giới lên cao, Mỹ xa lầy ở Triều Tiên, cuộc kháng   chiến chống pháp của nhân dân Việt Nam ngày càng thắng lợi, những sự  kiện này  ảnh hưởng, chi phối mạnh quan hệ  của Mỹ  đối với Việt Nam,  cũng như Đông Dương nói chung. 1. Mỹ trong những năm đầu thập niên 50 của thế kỷ XX     Vào cuối những năm 40, tình hình quốc tế có nhiều biến chuyển tác  động mạnh đến vị trí của Mỹ. Ở châu Á, quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã lần lượt làm chủ  hoàn toàn lục địa Trung Quốc buộc chính quyền Trung Hoa Dân Quốc của  Tưởng Giới Thạch và bộ  tư  lệnh Mỹ   ở  Trung Quốc phải rút chạy ra Đài   Loan. 6
  9. Còn ở châu Âu, nước cộng hòa dân chủ Đức được thành lập(10/1949),  và việc Liên Xô thử  thành công bom nguyên tử  (10/7/1949), làm cho Mỹ  mất độc quyền vũ khí nguyên tử. Trước những biến động mới của tình hình quốc tế  và trong nội tình  nước Mỹ, chiến lược của Mỹ buộc phải có những điều chỉnh quan trọng.  ở tây Âu, từ cuối 1949, Mỹ tăng số đơn vị lục quân Mỹ ở đó lên gấp 3 lần,   ở khu vực châu Á,  chiến lược ngăn chặn cũng có sự điều chỉnh.     Trong quá trình điều chỉnh chiến lược ngăn chặn ở Châu Á, Mỹ  đã  chọn Đông Bắc Á làm chiến trường trọng điểm, vì thế  mọi cố  gắng, nỗ  lực quân sự của Mỹ đều được tập trung vào đây nhằm hình thành thế bố trí  chiến lược Nhật Bản  ­ nam Triều Tiên – Đài Loan. Nhưng sự  phát triển  sôi động của tình hình chính trị   ở  khu vực châu Á đã diễn ra theo chiều   hướng bất lợi cho việc thực hiện chiến lược của Mỹ. Việc ra đời nước   cộng hòa nhân dân Trung Hoa, sự  thành lập nước cộng hòa dân chủ  nhân   dân Triều Tiên, phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc ngày càng dâng cao  ở  khu vực Đông Nam Á, đã đẩy Mỹ  vào thế  bị  động, lúng túng, cần thế  giới tự do. Cùng với Triều Tiên, Đông Dương trở thành một trong hai gọng   kìm chiến lược “ngăn chặn cộng sản” của Mỹ ở phía đông Châu Á. Do vậy  nền an ninh của thế giới tự do tùy thuộc vào sự sống còn của Đông Dương   thuộc pháp. Trong Đông Dương Mỹ  chú trọng đặc biệt đến Việt Nam mà   việc bảo vệ  bắc kỳ  là quan trọng nhất. Bởi vì, giữ  được Bắc Kỳ  là điều   quan trọng đối với việc giữ  cho lục địa Đông Nam Á nằm trong các lực  lượng không cộng sản. Giới cầm quyền Washington thống nhất rằng trong   việc bảo vệ Đông Nam Á thì đông dương, đặc biệt Việt Nam được xem là  khâu then chốt, có ảnh hưởng đối với cả khu vực Đông Nam Á và các khu  vực khác. Quan điểm của Mỹ  đối với vấn đề  Việt Nam – đông dương   không chỉ  dừng lại  ở  các bị  vong lục, Mỹ  còng tiến hành những bước xa  7
  10. hơn trong những năm sau đó. Mở  đầu cho sự  trực tiếp dính líu của Mỹ   ở  Việt Nam là Mỹ  cam kết viện trợ quân sự  và kinh tế  cho pháp trong cuộc  chiến tranh  ở Việt Nam. Nó “đặt ra một số  nguyên tắc mà nhiều năm sau  đã tạo cơ sở cho chính sách của Mỹ ở Việt Nam” trong việc can thiệp trực   tiếp vào Việt Nam từ  cuối những năm 40, đầu những năm 50 của thế  kỷ  XX. 2. Việt Nam từ 1950­1954        Cho đến năm 1950, nước Việt Nam dân chủ  cộng hòa đã giành   được những thắng lợi to lớn về  chính trị, ngoại giao, quân sự. Với đường  lỗi kháng chiến, kiến quốc nhằm tạo ra sức mạnh, đảng ta đã lãnh đạo, tập  hợp, động viên được lực lượng toàn dân. Tiến hành cuộc kháng chiến toàn   diện. Đó cũng chính là quá trình xây dựng hậu phương kháng chiến – một  yêu cầu khách quan của sự  nghiệp kháng chiến của dân tộc ta. Một hậu  phương mạnh là một hậu phương có chế  độ  chính trị, kinh tế, văn hóa, xã  hội tiên tiến. Nắm vững tinh thần đó, trong tiến hành cuộc kháng chiến,   đảng luôn chú trọng xây dựng và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, tổ  chức toàn dân kháng chiến và tiếp tục xây dựng chế độ  mới. Chính quyền  cách mạng  ở  vùng tự  do và vùng giáp gianh có cở  chính trị  vững mạnh là  khối đoàn kết toàn dân, được tập hợp trong mặt trận Liên Việt, có lực  lượng vũ trang nhân dân và công an nhân dân làm hậu thuẫn để  bảo vệ và   củng có quyền làm chủ của nhân dân. Hậu phương kháng chiến ngày càng  được mở rộng và vững chắc về mọi mặt, nhờ vậy, ta đã đủ sức tự bảo vệ  và chiến thắng được thực dân pháp và can thiệp Mỹ, thực hiện kháng chiến  thắng lợi, kiến quốc thành công. Cũng từ  sự  lớn mạnh về  mọi mặt trong  quá trình tiến hành cuộc kháng chiến, uy tín của Việt Nam đã được nâng  cao trên trường quốc tế, phá vỡ  thế  bị  bao vây, cô lập với thế  giới bên  ngoài. 8
  11.     Đầu năm 1950, nhận lời mời của đảng và chính phủ các nước Cộng   hòa nhân dân Trung Hoa và Liên bang cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Xô Viết,  chủ  tịch Hồ  Chí Minh đã sang thăm hai nước bạn. Nhân dịp này người đã  trao đổi nhiều ý kiến về  tình hình thế  giới và các vấn đề  liên quan đến  cuộc kháng chiến của Việt Nam. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng trong   lịch sử  ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ  cộng hòa, vì nó góp phần  phá vỡ  vòng vây của chủ  nghĩa đế  quốc đối với nước ta. Từ  đó mở  rộng  hậu phương quốc tế, tạo hậu thuẫn vững mạnh cho cuộc kháng chiến   chống thực dân pháp và can thiệp Mỹ. Từ   đây   Việt   Nam   trở   thành  một  tiền   tiêu  trong  mặt  trận  dân   chủ  chống đế quốc ở Đông Nam Á. Điều này càng làm tăng sự lo ngại của Mỹ  đối với Việt Nam và Đông Dương nói chung. Do đó vấn đề  Việt Nam và  Đông Dương càng được Mỹ  đặc biệt chú ý hơn trong các văn kiện ngoại  giao cũng như trong các hoạt động thực tiễn của mình ở khu vực này. 3. Đối sách của đảng và chính phủ  Việt Nam dân chủ  cộng hòa trong   việc Mỹ can thiệp vào Đông Dương     Đảng ta vẫn luôn phân biệt rất rõ bản chất và âm mưu của Mỹ đối  với thế  giới nói chung, Việt Nam và Đông Dương nói riêng. Không phải  ngẫu nhiên mà từ  năm 1947, đồng chí Trường Chinh đã nhấn mạnh “ kế  hoạch marshall” đã thò ra cái ngón tay tham lam của Mỹ  muốn bắt pháp  phải dành quyền lợi ở thuộc địa Pháp cho Mỹ. Tiếp đó hội nghị toàn quốc  lần thứ  III của đảng(tháng 1,2 – 1950) đã nhận định rằng, Đông Dương   hiện là nơi hai thế  lực dân chủ  chống đế  quốc và đế  quốc phản dân chủ  tranh chấp nhau. Và bọn đế quốc Mỹ ­ Anh cũng ra sức xúc tiến việc giúp   đỡ  thực dân pháp và can thiệp thẳng vào Đông Dương hòng biến Đông  dương thành một căn cứ chống cộng ở Đông Nam Châu Á.     Trước âm mưu can thiệp ngày càng lộ rõ, phong trào đấu tranh các  9
  12. tầng lớp nhân dân chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã bùng lên mạnh   mẽ. Đặc biệt ngày 19/3/1950, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ Đảng   Cộng Sản Đông Dương, hàng vạn nhân dân Sài Gòn – chợ  lớn đã xuống  đường biểu tình chống Mỹ  đưa tàu chiến đến cảng Sài Gòn, với khẩu  Hiệu “ đả  đảo đế  quốc Mỹ”, “ đả  đảo bù nhìn bảo đại”, “Hồ  Chí Minh  muôn năm” khiếp sợ trước khí thế đấu tranh đó, tàu Mỹ buộc phải nhổ neo   rút khỏi cảng Sài Gòn2. Từ đó, ngày 19/3 chính thức trở thành ngày lịch sử  toàn quốc chống Mỹ của dân tộc ta.     Như vậy, khi Mỹ đã lộ rõ âm mưu và hành động trực tiếp can thiệp  vào cuộc chiến tranh Đông Dương thì đảng và nhân dân ta đa kịp thời có  những đối sách. Chúng ta đã đặt đế  quốc Mỹ  lên thành kẻ  thù chính, trực   tiếp và tập trung lực lượng vào đánh bại thực dân pháp và can thiệp Mỹ.   Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân pháp cũng là thắng lợi  bước đầu chống mỹ, chứng tỏ sự sáng suốt của đảng trong việc nhìn nhận  và xác định kẻ thù. Đồng thời cũng cho thấy tài năng lãnh đạo của đảng ta   thể  hiện trong việc vạch ra chiến lược và sách lược trong từng giai đoạn  cụ thể của cách mạng. Đối phó với cuộc kháng chiến ngày càng thắng lợi của nhân dân Việt  Nam, Mỹ lại bày ra những Âm mưu, kế hoạch thâm hiểm hơn. II. QUAN HỆ  VIỆT NAM – MỸ  VỀ  VẤN  ĐỀ  CHẤM DỨT CHIẾN   TRANH, LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở ĐÔNG DƯƠNG     Khi xác định tầm quan trọng chiến lược của Đông Dương nói chung  và Việt Nam nói riêng, các nhà chiến lược quân sự Mỹ đã mô tả bằng một   hình  ảnh đầy sinh động: “nếu Đông Nam Á là  ổ  khóa để  mở  cửa vào lục  địa châu Á thì Đông Dương là chìa khóa” . đối với Mỹ, từ những năm 1950   2 Quan hệ Việt – Mỹ 1939­1954, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội,  2004. 10
  13. trở  đi, Đông Dương là một khu vực then chốt và đang bị  trực tiếp đe dọa.  Từ  năm 1950 tình hình đã khác rất nhiều, với sự  hình thành và phát triển  của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới, việc Việt Nam chính thức gia   nhập hệ thống này đã khiến Mỹ coi Việt Nam như “cái nút của chiếc bình”   nếu cái nút được mở  ra thì chủ  nghĩa xã hội sẽ  tràn ngập vào làm chìm   ngập “ thế giới tự do” của Mỹ ở Đông Nam Á.     Từ những năm 1950, trong thực tế đã tồn tại hai khối nước có chế  độ  chính trị  và xu hướng phát triển kinh tế, xã hội khác nhau, đã tác động   đến cuộc chiến tranh Việt Nam và Đông Dương. Việc thế giới hình thành   hai hệ thống đối địch nhau, càng làm cho cuộc chiến  ở Việt Nam và Đông  Dương mang tính chất cuộc đấu tranh giữa hai hệ  thống. Diễn biến tình  hình trên chiến trường Việt Nam và Đông Dương từ những năm 1950 trở đi  đã cho thấy, đây là nơi tập trung hành động của các nước lớn (Mỹ, Liên  Xô, Trung Quốc). Chính sách của các nước lớn đều có tác động đến các  tiến trình, kết cục của cuộc chiến cũng như  “quyết định sự   ổn định của  khu vực châu Á.     Cho đến cuối những năm 1949 đầu năm 1950 do những biến động  mới của tình hình quốc tế  và sự  phát triển ngày càng lớn mạnh của sự  nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã khiến Mỹ nhận thức rõ hơn   tầm quan trọng chiến lược đặc biệt của Việt Nam đối với quyền lợi của  Mỹ   ở  Đông Nam Á nói riêng và châu Á nói chung. Từ  đây Việt Nam trở  thành một điểm tiền tiêu trong mặt trận dân chủ  chống đế  quốc  ở  Đông  Nam Á. Diều này càng đẩy Mỹ tăng cường những hoạt động can thiệp trực   tiếp, mạnh mẽ vào Việt Nam và Đông Dương, cũng vì thế  mà thái độ của   Mỹ đối với Việt Nam ngày càng tiến triển theo chiều xấu đi.     Từ chỗ ủng hộ pháp, Mỹ đã dần dính líu rồi can thiệp sâu vào cuộc   chiến tranh của pháp ở Việt Nam và Đông Dương (1950­1954). Từ đó quan  hệ Việt – Mỹ diễn biến ngày càng phức tạp, trong khi cử tuyệt không công  11
  14. nhận nước Việt Nam dân chủ  cộng hòa thì Mỹ  lại nhiệt tình dựng lên và  cộng nhận chính quyền bù nhìn bảo đại, với ý đồ  thông qua chính quyền   này   thực   hiện   âm   mưu   hất   cẳng   Pháp,   độc   chiếm   Việt   Nam   và   Đông  Dương. Đến đây quan hệ  Việt – Mỹ  thực sự  trở  thành quan hệ  thù địch,  đối kháng.  Điều đó làm cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam  chống thực dân pháp và can thiệp Mỹ trở nên Quyết liệt hơn.      Cuộc đấu tranh sẽ  tiếp diễn và trở  thành cuộc kháng chiến chống   Mỹ cứu nước khi đế quốc Mỹ công khai phá bỏ  hiệp định giơ­ne­vơ 1954  về  Đông Dương và trực tiếp xâm lược Việt Nam. Cùng với cuộc kháng  chiến chống Mỹ  cứu nước của nhân dân Việt Nam, quan hệ  Việt ­ Mỹ  trong giai đoạn 1954­1975 có nhiều biến chuyển lớn. 12
  15. LỜI KẾT        Hiện nay chúng ta đã và đang sẵn sàng khép lại quá khứ nhìn về  tương lai để  cùng hợp tác và phát triển với Hoa Kỳ  cũng như  tất cả  các  nước   đã   từng   có   quan   hệ   thù   địch   với   Việt   Nam   trong   quá   khứ,   theo  phương châm Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng   thế  giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Kiên trì đường lỗi  độc lập dân tộc, kiên trì con đường xã hội chủ  nghĩa đã được lựa chọn và  khẳng định, góp sức vào giữ gìn hòa bình, chống chiến tranh thế giới, đảng  ta mong muốn có quan hệ  tốt đẹp với Mỹ  trên nguyên tắc bình đẳng, hai   bên đều có lợi. Đường lối, chủ trương này thực sự được nhân dân Mỹ hoan  nghênh,  ủng hộ, có sức thuyết phục lớn. Với  đường lối đối ngoại của   Đảng, theo tư  tưởng Hồ  Chí Minh, sự  phát triển vững chắc, nhanh chóng  con đường đổi mới, nhân dân ta sẽ  góp phần gìn giữ, phát triển quan hệ  Việt Nam – Mỹ ngày một tốt đẹp hơn.   13
  16. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Âm mưu của đế  quốc Pháp – Mỹ  trong chiến dịch Điện Biên   Phủ. Nxb sử học, Hà Nội 1963. 2. Âm mưu xâm lược Đông Dương của đế  quốc Mỹ.  Tổng cục  chính trị Bộ Tổng tư lệnh xuất bản 1995. 3. Ban   nghiên   cứu   lịch   sử   Đảng   Trung   ương:  văn   kiện   Đảng   1945­1954, tập 2, Hà Nội 1979. 4. Ngọc An: bộ  đội Việt – Mỹ. Tạp chí nghiên cứu Lịch sử quân  sự, tháng 10, 1986. 5. Báo Nhân dân số ra ngày 19­5­1965. 6. Báo Nhân dân số ra ngày 3­12­1985. 7. Phạm Thu Nga: quan hệ  Việt – Mỹ 1939­1954, Nhà xuất bản  Đại học quốc gia Hà Nội, 2004. 14
  17. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0