intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: giá trị truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa hiện nay

Chia sẻ: Paradise_12 Paradise_12 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

261
lượt xem
67
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong nền văn hoá Việt Nam như nghị quyết Trung Ương 5 (khoá VIII) khẳng định, mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và phát triển, dân tộc và quốc tế là thống nhất hữu cơ. Vì vậy, phát triển tất yếu đặt ra yêu cầu phải kế thừa. Kế thừa là mối liên hệ giữa những giai đoạn của quá trình phát triển...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: giá trị truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa hiện nay

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ********** Tiểu luận ĐỀ TÀI: “GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRƯỚC XU TH Ế TOÀN CẦU HOÁ HIỆN NAY” Giảng viên hướng dẫn : TS Võ Minh Tuấn Sinh viên thực hiện : Đỗ Thành Trung Lớp : ĐH 21/6 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÁNG 3 NĂM 2006
  2. LỜI MỞ ĐẦU Trong nền văn hoá Việt Nam như nghị quyết Trung Ương 5 (khoá VIII) khẳng định, mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và phát triển, dân tộc và quốc tế là thống nhất hữu cơ. Vì v ậy, phát triển tất yếu đặt ra yêu cầu phải kế thừa. Kế thừa là mối liên h ệ giữa những giai đoạn của quá trình phát triển, trong đó cái mới lọc bỏ cái cũ, giữ lại trong mình một số yếu tố của cái cũa, tức là b ảo toàn yếu tốt này hay yếu tốt khác của hệ thống, chứ không phủ định toàn bộ, phủ định sạch trơn. Như vậy kế thừa là cơ sở không thể thiếu được của phát triển bền vững. Song ngày nay có nhiều ví dụ trong và ngoài nước rung chuông báo động về hiện trạng thế hệ trẻ rất ít quan tâm đến truyền thống dân tộc. Qua khảo sát 1800 thanh niên thuộc nhiều tầng lớp xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh vào giữa những năm 90 thì: 43% cho rằng Việt Nam có 100 dân tộc khác nhau. 60% kể sai và không kể được một di tích lịch sử, văn hoá trên địa bàn thành phố. 59% trong tổng số 468 sinh viên của 9 trường đại học không biết Chu Văn An và Lương Thế Vinh là ai. Trong khi đó hầu hết những người được hỏi đều có thể kể rõ tên tuổi những tài tử điện ảnh, ca sĩ, vận động viên thể thao nước ngoài kể cả những chi tiết đời tư, tính cách của họ. Vì th ế trong xu thế toàn cầu hoá để có thể ho à nhập giao lưu với các nước trên thế giới chúng ta phải mở cửa giao lưu về kinh tế và văn hoá tuy nhiên trong quá trình giao lưu đó vấn đề đặt ra là làm sao chúng ta có th ể giữ vững nền truyền thống của nước ta trước sự hội nhập giao lưu đó.
  3. CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG 1.1 Giá trị truyền thống là gì? Theo ngh ĩa tổng quát nhất, truyền thống đó là những yếu tố của di tồn văn hoá, xã hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục tập quán, thói quen lối sống và cách ứng sử của cộng đồng người được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, đ ược truyền từ đời n ày sang đời khác và được lưu giữ lâu d ài. Lịch sử cho thấy rằng truyền thống mang trong bản thân nó tính hai mặt rõ rệt: Một là: truyền thống góp phần suy tôn, giữ gìn những gì là quý giá, là cốt cách, là nền tảng cho sự phát triển, cho sự vận động đi lên của cộng đồng dân tộc. Xét từ mặt n ày thì truyền thống mang ý nghĩa giá trị tích cực, là cái góp phần tạo nên sức mạnh, là chổ dựa không thể thiếu của dân tộc trên đường đi tối tương lai. Hai là: truyền thống đồng thời cũng còn là mảnh đất hết sức thuận lợi cho sự dung dư ỡng, duy trì và làm sống lại mặt bảo thủ, lạc hậu, lỗi thời khi mà điều kiện và hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi. Mặt thứ hai này có tác dụng không nhỏ trong việc kìm hãm, níu kéo, làm chậm sự phát triển của một quốc gia, dân tộc n ào đó, nh ất là khi quốc gia, dân tộc n ày hạn chế giao lưu ho ặc thi h ành chính sách đóng cửa với thếi giới b ên ngoài vì các lý do khác nhau. Nói cách khác, khi nói đ ến giá trị truyền thống là nói đ ến những truyền thống nào đ ã có sự đánh giá, đã được thẩm định nghiêm ngặt của thời gian, đã có sự chọn lọc, sự phân định và khẳng định ý nghĩa tích cực của chúng đối với cộng đồng trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Mỗi dân tộc trên khắp hành tinh này, dù ở trình độ văn minh cao hay thấp, dù đ ã phát triển hay đang phát triển thì cũng đều có những truyền thống đặc trưng của riêng mình và do đó có hệ thống giá trị truyền thống riêng của
  4. mình. Hệ thống giá trị đó chích là sự kết tinh tất cả những gì tốt đẹp nhất qua các thời đại lịch sử khác nhau của dân tộc để làm nên b ản sắc riêng. Nó được truyền lại cho thế hệ sau và cùng với thời gian, cùng với sự tiến triển của lịch sử sẽ được bổ sung b ằng các giá trị mới. Trong hệ thống các giá trị truyền thống Việt Nam có không ít nh ững giá trị mà chúng ta có thể bắt gặp ở các dân tộc khác. Điều đó cũng thật dễ hiểu bởi vì trong cái dân tộc không bao giờ nằm ngo ài cái nhân loại. 1.2 Cái gì có thể được coi là truy ền thống? Chúng ta thấy chỉ có những gì có th ể đảm bảo sự tồn tại của con người, chỉ có những gì có thể thoả m ãn nhu cầu nhân sinh mới có thể thừa nhận là có giá trị. Tương tự chỉ có những lý tư ởng (văn hoá, tôn giáo, đạo đức) và nh ững phương tiện (kỹ thuật, kỹ năng, khoa học) có thể giúp ích bảo tồn nh ững giá trị đó, mới có thể được gọi là truyền thống. Truyền thống không bao giờ có thể có nếu nó chỉ là một sự kiện, một hiện tượng tự nhiên ho ặc một sự áp đặt từ bên ngoài b ắt chúng ta theo. Tóm lại, chúng ta chỉ chấp nhận những gì chúng ta nâng niu. Từ đây, cái được coi là truyền thống chỉ khi nào nó trở thành một bộ phận thiết yếu của cuộc sống chúng ta; chỉ khi nào nó b ảo tồn cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào nó có khả năng phát triển cuộc sống của chúng ta. Do đó, cái gì có thể được gọi, được coi hay đ ược mệnh danh là truyền thống phải đư ợc xem xét từ ba khía cạnh của cuộc sống con người: truyền thống như là một phần của cuộc sống, truyền thống như là phương tiện để bảo tồn cuộc sống và truyền thống như là sức mạnh định hướng phát tiển cuộc sống. Nói tóm lại, truyền thống không thể đư ợc nhận thức ngo ài văn cảnh cảu các giá trị bởi lẽ sự hình thành của truyền thống cũng tuân theo mô hình giống như mô hình hình thành giá trị. 1.3 Giá trị và giá trị truyền thống. Nh ững lý do phải quan tâm đến giá trị truyền thống nhân loại nói 1 .3.1 chung và Châu Á nói riêng.
  5. Mặc dù giá trị và giá trị truyền thống không phải là đ ề tài mới nhưng nh ững điều mới mẽ được đặt ra ở đề tài này, lâu n ay luôn chiếm vị trí đáng kể trong các sinh hoạt học thuật. Ở đây hầu như lúc nào cũng có những vấn đề xứng đáng được gọi là cấp bách hay là thời sự. Những vấn đề đó đ ương nhiên rất cần phải tranh cãi về ph ương diện nhận thức và đòi hỏi phải được nghiên cứu thật sâu trong các khoa học xã hội và các khoa học nhân văn. Ngày nay, khi những tiến bộ về khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đạt tới mức vượt ra ngoài sự tưởng tượng của không ít người thì cùng với điều đó, sự biến động của các xã hội cũng mạnh mẽ và nhanh chóng đến mức không có cơ may nào mà lại không đi kèm với những nguy cơ. Bên cạnh những giá trị văn minh to lớn m à con người đ ược hưởng, những hiểm hoạ cũng rình rập một cách thường trong tất cả các xã hội, nhất là các xã hội nghèo đói chậm phát triển. Hiện thời, mỗi khi đón nhận các thành tựu mới của nền văn minh, cái mà con người buộc phải quan tâm trước hết là những giá trị của những th ành tựu đó chứ không phải là bản thân các th ành tựu – những giá trị trực tiếp và nh ững giá trị tiềm ẩn, những giá trị tích cực và nh ững giá trị phát sinh có thể trở th ành các phản giá trị, v.v… Những bài học kinh nghiệm của các xã hội công nghiệp và thị trường, thái độ thiếu xây dựng của một vài lập trường sô vanh lớn và nhỏ, những tình huống bi hài của các cộng đồng thiếu dân chủ và chậm phát triển… rõ ràng đ ã làm cho việc quan tâm tới các giá trị trở nên đ ặc biệt sâu sắc và có ý ngh ĩa. Trên thực tế, những tranh cãi nóng bỏng và căng thẳng về sự lựa chọn giải pháp cho chiến lượt bảo vệ môi sinh về con đ ường và thách thức thoát ra khỏi cơn bão tài chính Châu Á; về vai trò của Trung Quốc trong những thập kỷ tới đây; về sự đụng độ giữa các nền văn minh hay là về tính độc đáo của các truyền thống Châu Á,… hết thảy đều là do những lo lắng sâu sắc về mặt giá trị. Nhiều nhà tư tư ởng có uy tín đã kh ẳng định, lối thoát cho những lo lắng của con người về giá trị của sự phát triển hoá ra nằm ở truyền thống, hay nói
  6. một cách thoả đáng hơn nằm ở văn hoá mà trong đó truyền thống là một nhân tố đáng kể. Kinh nghiệm của các xã hội đ ã đ ạt tới trình độ phát triển cao cho thấy rằng bằng cách không lãng quên truyền thống, khai thác các giá trị nhân bản của truyền thống, làm cho các giá trị hiện đại ăn nhập không mâu thuẩn các giá trị truyền thống…. Đó là con đường tự nhiên và tất yếu m à các xã hội dù muốn hay không dù nhận thức đư ợc hay chưa nh ận thức được cũng đều ph ải thực hiện để đạt tới phát triển bền vững. Rõ ràng với tính cách là các khuôn mẫu văn hoá, giá trị truyền thống ngay cả trong điều kiện phức tạp hiện thời của quá trình phát triển. Xã hội càng phức tạp thì lại càng làm cho truyền thống lộ rõ kh ả năng tác động tích cực của nó. Giá trị truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá 1.3.2 Toàn cầu hoá là cơ hội lớn để văn hoá Việt Nam học hỏi và phát huy các giá trị của mình. Song người Việt Nam cũng lo toan khôn xiết trước các thách thức to lớn của toàn cầu hoá đối với các giá trị truyền thống Việt Nam. Việt Nam nhất thiết phải mở cửa, phải hội nhập để đón nhận những giá trị mới của nhân loại, đó là lẽ sống còn của dân tộc. Nhưng m ở cửa là để hội nhập, để phát triển chứ không phải trở thành cái bóng m ờ của nền văn hoá khác. Cho nên vấn đề đặt ra cho nước ta trong xu thế toàn cấu hoá là ph ải giữ được độc lập dân tộc, giữ được cơ cấu sinh thành nội tại của các giá trị truyền thống mà ta đã có. Hiện nay, quá trình hội nhập kinh tế thế giới thông qua làn sóng xuất kh ẩu có khả năng làm năng động hoá các giá trị Việt Nam xưa nay vẫn xem nặng về ngh ĩa, nhẹ về lợi, tạo nên sự cạnh tranh mới trong hệ thống giá trị dĩ hoà vi quý. Nền văn hoá của ngư ời Việt không trọng thị sự buôn bán, cho nên chưa xát lập đư ợc các tri thức về thị trư ờng hiện đại n ên khi tham gia hội nh ập trong nền kinh tế to àn cầu nó có thể đ ược các quyền lực toàn cầu dạy cho các bài học mới và cũng có thể bị các quyền lực thị trường ấy lấn lư ớt các giá trị mà cả ngàn năm nhân dân ta mới tạo dựng được.
  7. Toàn cầu hoá các quan hệ kinh tế sẽ mang lại sự hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của nhân loại với một giá rẽ hơn, m ột tiện nghi phong phú hơn. Song sự tràn ngập của h àng hoá rất có khả năng làm tha hoá các nhân cách, làm phá sản các quan hệ lao động, làm rối loạn mhiều giá trị xã hội. Trên th ực tế làn sóng xuất khẩu dồn dập đã tạo ra các tệ nạn làn hàng giả, làn rối, làm ẩu mà hệ thống giá trị truyền thống nghiêm cấm. Có thể nói rằng trước làn sóng xuất khẩu dồn dập, hệ thống giá trị của nền văn hoá truyền thống chưa chuẩn bị kịp cho những thay đổi quá nhanh, quá xa lạ sẽ xảy ra tình trạng gia tăng giá trị thì ít, các giá trị truyền thống bị phá vỡ, bị vượt bỏ thì nhiều, nguy cơ cổ vật bị đánh cắp, nhân phẩm bị tha hoá, các phản giá trị gia tăng là không thể tránh khỏi. CHƯƠNG 2 GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM TRƯ ỚC XU TH Ế TOÀN CẦU HOÁ 2.1 Nội dung và vị thế của giá trị truyền thống ở Việt Nam. Giá trị truyền thống trong lịch sử phát triển dân tộc. 2.1.1 Trong suốt lịch sử phát triển của dân tộc cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các giá trị truyền thống của Việt Nam đã có một nội dung và vị thế ổn định. Sự ổn định đó đ ược quy định trực tiếp bởi tinh thần dân tộc với nòng cốt là tinh th ần yêu nước đặc trưng của Việt Nam, nhưng sâu xa hơn và căn bản hơn nó được quy định bởi cơ sở kinh tế – xã hội đặc thù của dân tộc. Với cuộc đụng đầu giữa hai nền văn hoá Đông – Tây hồi đầu thế kỷ XX, các giá trị truyền thống của Việt Nam đ ã trải qua những biến động sâu sắc và căn b ản. Nói đến giá trị truyền thống Việt Nam là nói đ ến một hệ giá trị đa dạng tổng hợp và hỗn dung các giá trị văn hoá bản địa, Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo. Trong đó, sợi chỉ đỏ xuyên su ốt, xâu nối và liên kết các giá trị đó thành một chỉnh thể đa diện là tinh th ần dân tộc, là lòng yêu nư ớc hết sức đặc trưng của Việt Nam. Trong đó Nho giáo, theo thời gian như chiếc áo khoác mỗi ngày mỗi rộng trùm lên các giá trị khác khiến cho mọi giá trị truyền
  8. thống được cố định, được trình bày theo hình thức của Nho giáo cho đén khi bị nhà cầm quyền Pháp cáo chung. Vì thế nhiề sự lầm tưởng, đồng nhất các giá trị khác với Nho giáo đã xảy ra. Với sức công phá của nền văn minh kỹ thuật – công nghiệp, sự trợ giúp của nhà nư ớc bảo hộ Pháp với việc chấm dứt nền giáo dục khoa cử Việt Nam váo thập niên thứ hai thế kỷ XX và sức chinh phục mạnh mẽ của các học thuyết phương Tây tràn vào Việt Nam… đã tạo ra xu hướng Tây hoá ngày càng rộng rãi trong đời sống dân tộc. Do vậy, tình hình tư tưởng khi đó là hết sức phức tạp và thực tế đã có một cuộc đấu tranh tư tư ởng xung quanh vấn đề giá trị diễn ra vào thời kỳ n ày. Tuy nhiên, lịch sử Việt Nam hiện đại vẫn phát triển một cách không bình thường do quy luật của chiến tranh chi phối khiến cho mọi hệ giá trị cũ cũng ph ải biến đổi phù h ợp với quy luật đó. Vì vậy, hệ giá trị thống nhất truyền thống với hiện đại mà Đảng Cộng Sản đề ra phần n ào bị quy luật thời chiến biến đổi. Xét một cách công bằng, hệ giá trị này với nòng cốt là tinh thần yêu nước được phát huy đến tột bật kết hợp với các giá trị lý tưởng của Chủ Nghĩa Xã Hội đã hoàn thành xuất sắt vai trò là chuẩn mực tinh thần của toà th ể nhân dân Việt Nam thời kỳ này. Nhưng với sự chấm dứt của chiến tranh và sự khởi đầu của thời kỳ mới xây dựng và phát triển đất n ước sau hơn 100 năm b ị mất độc lập hoặc bị chia rẽ, hệ giá trị thời chiến tranh đã trở nên bất cập trước nhiệm vị lịch sử mới của dân tộc, tất yếu hệ giá trị phải biến đổi và tìm ra vị thế của nó rong bối cảnh mới – bối cảnh toàn cầu hoá. Nội dung và vị thế của giá trị truyền thống ở nư ớc ta. 2.1.2 Như đã đề cập ở trên chủ nghĩa yêu nước là một đặc trưng căn b ản nhất của giá trị truyền thống Việt Nam. Nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự biến đổi hệ giá trị của dân tộc. Dù hệ giá trị có thay đổi như th ế nào thì nó vẫn xoay quanh cốt lõi tinh thần yêu nước đó. Tinh thần yêu nước là nhân tố quan trọng quy định vị thế và nội dung các giá trị trong mỗi thời kỳ biến đổi căn bản của lịch sử. Với to àn bộ tính quy định lịch sử hiện tại Việt Nam đang đi theo con
  9. đường phát triển dân tộc và Chủ Nghĩa Xã Hội trong điều kiện của hoà bình, độc lập, thống nhất. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Việt Nam nằm trong thế bị động khi ch ạm chán với các cuộc xâm chiếm phương Đông của các n ước tư b ản phương Tây. Điều đó đã dẫn đến sự khủng hoảng về giá trị kéo dài gần nữa thế kỷ. Do yêu cầu đấu tranh và giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, các giá trị truyền thống đ ã biến đổi sâu sắc. Các giá trị cơ bản của dân tộc được tiếp tục thừa nhận và phát huy như tinh thần yêu nước, tình đoàn kết dân tộc, các giá trị đạo đức nh ư khiêm tốn, thật thà, chí công vô tư… Những giá trị đó đ ược kết hợp với các giá trị mới như tinh thần dân chủ, quyền bình đẳng, tinh thần cộng sản chủ nghĩa, tinh thần làm chủ xã hội… tạo nên một hệ giá trị mới. Còn các giá trị Nho giáo cũ không được thừa nhận về mặt chính thống nhưng thực chất chỉ bị che phủ và b ị giảm vai trò nhưng vẫn tác động ngấm ngầm trong nhân dân : Nho giáo với tình cách là học thuyết chính trị – đạo đức luôn đề cao tính thiện con người, dù b ị biến đổi theo thời gian và bị chi phối bởi hoàn cảnh lịch sử, hệ tư tưởng… nhưng đó vẫn là chu ẩn mực đạo đức trong ý thú của mọi người; tục thờ cúng tổ tiên của ngư ời Việt kết hợp với đạo đức Nho giáo đã hình thành nên một nghi lễ lành m ạnh của xã hội… Tóm lại trong suốt gần một thế kỷ qua các giá trị truyền thống (tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, ý thức cộng đồng, Nho giáo, Phật giáo…) đã giai nhập vào các giá trị hiện đại (chủ nghĩa Mác – Lênin, các giá trị công bằng, dân chủ…) làm nên một hệ giá trị mới của dân tộc và Việt Nam đứng vững trên hệ giá trị đó. Do quá trình toàn cầu hoá, một cơ hội mang tính to àn cầu mang lại cho mỗi dân tộc là khuyến khích sự đa dạng và sự chia sẻ các giá trị đạo đức. Điều đó có nghĩa là giá trị của mỗi dân tộc có cơ hội tìm được vị thế của mình trong giá trị nhân loại. 2.2 Sự chuyển đổi giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá.
  10. Trong hai thập kỷ gần đây, quá trình toàn cầu hoá diễn ra với tốc độ nhanh chóng, nó trở th ành một thực thể của thế giới. Thế kỷ XX, nhân loại đã đạt được những bư ớc phát triển manh mẽ về khoa học, kỹ thuật, kinh tế… nhưng đồng thời cũng để lại những khoản trống lớn về văn hoá. Quá trình toàn cầu hoá về kinh tế cộng với sự bùng nổ của thông tin, sự xâm nhập của nhiều loại hình văn hoá… đã đem lại những lợi ích lớn lao cho con người, nhưng đồng thời cũng báo hiệu nhiều nguy cơ mới trong quá trình phát triển. Nhận thúc rõ điền n ày nhiều quốc gia trên thế giới đã xem xét lại vấn đề bản sắc văn hoá một cách nghiêm túc. Ở các n ước ph ương Tây, Pháp là nước kêu gọi cấm lưu thông các sảm phẩm có lợi cho Mỹ. Ở phương Đông, Trung Quốc hô hào chống ô nhiễm tinh thần; Nhật Bản tổ chức cuộc họp khu vực Châu Á bàn về văn hoá dân tộc… Điều này cho chúng ta th ấy, chính phủ các nước đã coi văn hoá là động lực, là mục tiêu, là hệ điều tiết của sự phát triển và Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài quy luật này. Việt Nam là một nước có nhiều dân tộc, mỗi dân tộc lại có mộ t diện mạo văn hoá riêng, những nét riêng này không phá vỡ đặc điển chung của văn hoá Việt Nam mà đan xen lẫn nhau tạo cho nền văn hoá của chúng ta có sự thống nhất trong đa dạng, có thể nói bản sắc của văn hoá Việt Nam chính là sự hoà đồng bao dung trong cách tiếp cận văn hoá. Vì vậy trước xu thế toàn cầu hoá hiện nay, chúng ta phải biết phát huy những giá trị văn hoá truyền thống và có những bước đi thích hợp cho quá trình hội nhập của mình: tránh việc bế quan toả cảm như trước đây mà ông cha ta đã từng làm mà phải mở rộng giao lưu với các nước trên th ế giới cả về văn hoá lẫn kinh tế nhưng phải đảm bảo là vẫn giữ vừng bản sắc truyền thống lâu đời của dân tộc ta… Ngày nay Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thực hiện chính sách Việt Nam muốn là bạn và đối tác với tất cả các nước trên thế giới. Đây là sự chuyển đổi của một trong những giá trị truyền thống của Việt Nam. Đảng đã thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa, xoá bỏ cơ ch ế tập trung, quan liêu bao cấp, thực hiện chính sách ho ạch toán kinh tế, cơ chế thị trường làm cho đời sống nhân
  11. dân không ngừng cải thiện, tình hình an ninh đựoc giữ vững… Tuy nhiên bên cạnh đó quá trình toàn cầu hoá về kinh tế cộng với sự bùng nổ về thông tin, sự du nhập tràn lan của các loại hình văn hoá… đã tạo ra một môi trường mới, những công cụ mới nh ư : internet, điện thoại di động… tạo cho con ngư ời có những điều kiện để tiếp nhận thông tin một cách cập nhật nhưng nếu không biết chọn lọc th ì chúng ta sẽ bị chết đuối trong chính bể thông tin đó. Trong lĩnh vực văn hoá, to àn cầu hoá đưa lại cho các dân tộc những tinh hoa văn hoá của nhân loại nhưng đồng thời cũng đưa đ ến những mặt tiêu cực, mặt trái của nó. Vậy, vấn đề là chúng ta ph ải biết chọn lọc và tiếp thu như thế nào cho hợp lý vì ở đ ây vai trò quyết định chính la con người. 2.3 Giữ vững giá trị truyền thống ở Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá Xu thế to àn cầu hoá hiện nay – m ột thách thức đối với giá trị 2.3.1 truyền thống dân tộc Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia, trở thành xu th ế chung của thế giới, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, bất kể nước đó giàu hay nghèo, m ạnh hay yếu, phát triển hay chậm phát triển, phương Tây Hay phương Đông, là xu hướng xích lại gần nhau, hợp tác với nhau giữa các nư ớc để tạo ra sự phát triển. Hình thức toàn cầu hoá rất phong phú, đa dạng và diễn ra dưới nhiều cấp độ khách nhau. Có cấp độ bao gồm cả kinh tế và chính trị như liên minh Châu  (EU), có cấp độ chủ yếu liên kết về kinh tế nhu hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Phổ biến là sự liên kết có tính chuyên ngành của các tổ chức thế giới như tổ chức thương m ại thế giới (WTO), tổ chức văn hoá giáo dục liên hợp quốc (UNESCO), tổ chức y tế thế giới (WHO)… Toàn cầu hoá nếu diễn ra một cách côn g b ằng thì có lợi cho nhiều dân tộc, tuy nhiên trong thực tế toàn cầu hoá không phải diễn ra một cách thuận lợi đối với tất cả các nước, nhất là đối với các n ước ngh èo trong đó có nước ta. Bởi phần vì các nước, các tập đoàn kinh tế và chính trị thế giới đều xuất
  12. phát từ lợi ích của chính mình đ ể giải quyết các vấn đề toàn cầu mà không có sự đối sử công bằng, hợp lý đối với các phía đối tác, phần vì khả năng hạn chế của các nước kém phát triển nên không đủ thế và lực để giải quyết các vấn đề có liên quan tới mình. Bởi vậy nguy cơ bị nhất thể hoá, bị phương Tây hoá và do dó đi đến mất quyền độc lập, tự chủ của dân tộc là nguy cơ có thể sảy ra. So với nguy cơ này, nguy cơ đánh mất giá trị truyền thống dân tộc, đi đến cái chết của nền văn hoá dân tộc càng có nhiều khả năng xuất hiện. Đây dó trên thế giới, người ta đã gióng tiếng chuông cảnh tỉnh bởi một số dân tộc, giá trị truyền thống tuy có lịch sử lâu đời song lại thường là không hấp dẫn đối với lối sống hiện đại, nhất là đối với tầng lớp trẻ. Mặt khác, các sinh hoạt văn hoá mới của thế giới được du nhập và thì vàng thau lẫn lộn, tốt xấu đều có, nếu không có sự chỉ đạo sáng suốt dễ đi đến lấn át giá trị cũ, lâu dần thay thế giá trị cũ của dân tộc, làm m ất bản sắc văn hoá dân tộc. Mất giá trị truyền thống dân tộc là mất cơ sở để tự khẳng định m ình, mất điều kiện tự tin và sáng tạo. Toàn cầu hoá là hiện tư ợng mới mẻ và phức tạp vừa mang lại cho ta nh ững cơ hội mới để phát triển (sự phát triển của khoa học công nghệ như vũ bảo đạt đ ược những th ành tựu kỳ diệu, đưa lại năng suất lao động gấp trước nhiều lần, những tiện lợi nhiều mặt về thông tin, đi lại, h ưởng thụ, hợp tác… làm con người cảm thấy gần nhau h ơn phụ thuộc vào nhau hơn) nhưng đồng thời đi kèm với nó cũng không ít khó khăn (văn hoá tư tư ởng cũ đang sống bình yên khi có văn hoá tư tưởng mới đến tất yếu sẽ sảy ra đụng độ… ) cho nên phân biệt thế nào là cơ hội, thế n ào là nguy cơ là một vấn đề khó, biến cái đang diễn th ành cơ hội để lợi dụng càng khó hơn. Bởi vậy nguy cơ và cơ hội cá thể tồn tại bên nhau, đan xen nhau, có khi lại là nguyên nhân của nhau. Đứng ngo ài chúng ta khó có thể nhận biết, chỉ có xông vào với một sự sáng suốt và quyết tâm mới chiếm được cái này và loại được cái kia, mới có thể bảo tồn và phát huy b ản sắc văn hoá dân tộc, những giá trị truyền thống dân tộc.
  13. Trước xu thế toàn cầu hoá văn hoá Việt Nam có cơ hội để thẩm định lại mình, có điều kiện để tiếp xúc, thử nghiệm và lựa chọn các văn hoá khác. Kết qu ả sẽ như thế nào là phụ thuộc vào sự nh ìn nh ận của chủ thể văn hoá – con người Vịêt Nam trước các hiện tượng mới mẽ đầy thách thức và chông gai của thế giới, của đất nư ớc. Chủ động đón nhận thách thức của toàn cầu hoá để hội nhập với 2.3.2 thế giới, đưa giá trị truyền thống dân tộc di lên một bước Trong lịch sử dân tộc Việt Nam đã nhiều lần gặp thách thức, có thách thức từ phía thiên nhiên: hạn hán, b ão lụt…, có thách thức từ phía xã hội: nạn ngo ại xâm, các cuộc cát cứ chia rẽ đất nước… và nhiều lần dân tộc ta đã vượt qua nhờ đó mà giữ gìn được sự sinh tồn và phát triển nhưng cũng đ ã có nhiều lần dân tộc ta không vượt qua được thử thách như chủ trương cải cách để phù hợp với trào lưu thế giới ở thế kỷ XIX không trở thành hiện thực. Tất cả các sự việc thành công hay thất bại đều có ý nghĩa của một bài học đối với thách thức được coi là chưa ch ừng có đối với chúng ta – xu thế toàn cầu hoá hiện nay và nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc, các giá trị truyền thống dân tộc, trở th ành cái bóng mờ của người khác là do xu thế này gây nên. Xu thế toàn cầu hoá hiện nay buộc dân tộc ta phải tham gia vào các công việc chung của thế giới m à đối tượng phải đối phó không phải là một, m à là nhiều phía, nhiều thành phần, nhiều mức độ khách nhau. Xu thế n ày còn đưa dân tộc ta vào cuộc đấu tranh quyết liệt vừa có tính khu vực, vừa có tính toàn cầu, trong khi thế và lực của ta chưa đủ, nhưng không được thua chỉ có thể và phải thắng. Bài học lịch sử đã dạy cho dân tộc ta một cách nhìn, một thái độ và một việc làm thích h ợp. Đó là xem toàn cầu hoá như một xu thế khách quan, xu thế đó vừa tạo ra thời cơ vừa có nguy cơ do vậy dám đương đầu , chủ động đón nhận và phấn đấu để có nhiều cơ hội, nhiều dịp may, ít nguy cơ, ít rủi ro. Không lúc nào bằng lúc n ày, con người dân tộc phải kiên cường, phải thông minh, linh ho ạt và sáng tạo. Theo lối mòn chì chỉ chuốc lấy thất bại. Hơn 10
  14. năm nay đ ảng và nhà nước ta đã thực hiện đường lối mở cửa, hội nhập, tham gia liên doanh, liên kết kinh tế, kêu gọi đầu tư, tạo thông thoáng để thu hút đầu tư, thực hiện đa phương, đa d ạng hoá quan hệ quốc tế… Cần ph ải khẳng định các việc làm đó và còn phải phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện h ơn nữa. Thực tế trong mấy năm vừa qua nhiều thành tựu về văn hoá của thế giới, nhất là văn hoá đương đại do sự đa dạng và m ới mẻ th ường chinh phục được nhiều người, đặt biệt là thế hệ trẻ. Nhưng Việt Nam khác với nhiều nước chúng ta không thể thay thế các giá trị truyền thống đã làm nên bản sắc văn hoá Việt Nam, bản lĩnh dân tộc Việt Nam: tinh thần yêu nước, tính cộng đồng, lòng nhân ái, lối sống thanh bạch, cần cù, giản dị… Và mặc dù các luồn văn hóa tư tưởng bên ngoài vào Việt Nam theo nhiều h ướng, nhiều kênh, nên chúng ta cần cảnh giác vì về đại thể các luồn văn hoá tư tưởng ấy mang hai loại: giá trị và ph ản giá trị và chúng ta chỉ có th ể chấp nhận cái giá trị và bài trừ cái phản giá trị. Toàn cầu hoá như một dòng nước lớn đang lan truyền khắp mọi miền đất của hành tinh. Đứng trong đó th ì phải bơi theo nó, có b ản lĩnh sẽ không sợ ch ết chìm, có sự thông minh sẽ sáng tạo sẽ trạnh thủ được nhiều sơ hội, tránh được khỏi nhiều nguy cơ. Giá trị truyền thống và giá trị hiện đại dân tộc có thể qua đây mà được giữ gìn, nâng cao va phong phú hoá.
  15. K ẾT LUẬN Là một nước có nền kinh tế đang ở trình độ kém phát triển, hơn bao giờ hết chúng ta ph ải xem công nghiệp hoá hiện đại hoá là nhiệm vụ bức bách của toàn xã hội. Sự phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào nguồn vốn, đầu tư khoa học kỹ thuật hiện đại của các nước phát triển buộc chúng ta không ngừng đề cao tính độc lập tự chủ. Yêu cầu đặt ra cho nước ta trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay là với sự giao lưu văn hoá giữa các n ước, ngoài việc tiếp thu, tiếp nhận nền văn hoá mới chúng ta cần phải duy trì bảo vệ và phát triển nền văn hoá truyền thống của nước ta.
  16. TÀI LIỆU THAM KH ẢO Hu ỳnh Thái Vinh, Những vấn đề văn hoá Việt Nam đương đại (Tập 1. 1 & 2 ),NXB Khoa học xã hội. Đặng Hữu Toàn, Chủ nghĩa Mác – Lênin và công cuộc đổi mới ở 2. Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2002 Nguyễn Phú Trọng, Vì một nền văn hoá dân tộc hiện đại, NXB Văn 3. hoá thông tin. Nguyễn Trọng Chuẩn – Nguyễn Văn Huyên, Giá trị truyền thống 4. trước thách thức của to àn cầu hoá, NXB Chính trị quốc gia.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2