Tiểu luận: TÁI CẤU TRÚC ĐẦU TƯ CÔNG VÀ NỢ CÔNG Ở VN
lượt xem 27
download
Nguồn vốn, đối tượng và vai trò của đầu tư công 1.1. Nguồn vốn cho đầu tư công: Nguồn vốn cho đầu tư công bắt nguồn từ các khoản thu của ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồng tài chính của xã hội để tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước Tín dụng nhà nước: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: TÁI CẤU TRÚC ĐẦU TƯ CÔNG VÀ NỢ CÔNG Ở VN
- Tiểu luận TÁI CẤU TRÚC ĐẦU TƯ CÔNG VÀ NỢ CÔNG Ở VN 1
- I. TÁI CẤU TRÚC ĐẦU TƯ CÔNG VÀ NỢ CÔNG Ở VN 1. Nguồn vốn, đối tượng và vai trò của đầu tư công 1.1. Nguồn vốn cho đầu tư công: Nguồn vốn cho đầu tư công bắt nguồn từ các khoản thu của ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồng tài chính của xã hội để tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước Tín dụng nhà nước: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. ODA là nguồn vốn hổ trợ chính thức từ bên ngoài bao gồm các khoảng viện trợ và cho vay với điều kiện ưu đãi. ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát triển được các cơ quan chính thức và cơ quan thừa hành của chính phủ hoặc các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ tài trợ. Thu thuế: Thuế là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn nhất tại hầu hết các quốc gia trên thế giới , không phân biệt chế độ chính trị. Khoản thu này được xây dựng trên cơ sở trao đổi nghĩa vụ giữa công dân với nhà nước. Phí và lệ phí là một nguồn thu thường được đề cập đầu tiên trong các nguồn thu vốn có của NSNN vì nó trực tiếp gắn với chức năng cung cấp hàng hóa công. 2
- 1.2. Đối tượng của đầu tư công: Chương trình mục tiêu, dự án phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; Chương trình mục tiêu, dự án phục vụ hoạt động của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, kể cả việc mua sắm, sửa chữa tài sản cố định bằng vốn sự nghiệp. Các dự án đầu tư của cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp được hỗ trợ từ vốn nhà nước theo quy định của pháp luật. Chương trình mục tiêu, dự án đầu tư công khác theo quyết định của Chính phủ. 1.3. Vai trò của đầu tư công: Vai trò đầu tư công ở Việt Nam gắn liền với quan niệm về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước nói chung và vai trò bà đỡ của bàn tay nhà nước nói riêng trong quá trình CNH-HĐH theo yêu cầu phát triển bền vững và bảo đảm an sinh xã hội. Thúc đẩy quá trình CNH-HĐH, phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội: Đầu tư công vốn rất quan trọng do đóng góp lớn vào tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm; Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì đầu tư công càng nổi bật vai trò duy trì động lực tăng trưởng kinh tế và góp phần bảo đảm việc làm và an sinh xã hội thông qua các gói kích cầu của Chính phủ. Định hình và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội quốc gia Gia tăng tổng cầu của xã hội: Đầu tư công chiếm tỷ trọng lớn trong tổng đầu tư của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Khi mà tổng cung chưa thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng kéo sản lượng cân bằng và giá cân bằng cũng tăng. Gia tăng tổng cung và năng lực kinh tế: Đầu tư công làm tăng năng lực sản xuất làm tổng cung tăng và sản lượng tăng, giá giảm xuống cho phép tiêu dùng tăng. Tăng tiêu dùng lại kích thích sản xuất phát triển và làm kinh tế- xã hội phát triển. 3
- Đầu tư mồi, tạo cú huých và duy trì động lực tăng trưởng: Đầu tư công định vị và củng cố nền kinh tế của VN trong mối quan hệ của khu vực và quốc tế. Tạo niềm tin và động lực cho các nguồn đầu tư khác vào VN góp phần tăng trưởng kinh tế. Tạo việc làm cho xã hội 2. Hạn chế của đầu tư công và những nguyên nhân gây kém hiệu quả: 2.1. Hạn chế của đầu tư công: Điểm lại từ ngày triển khai công cuộc đổi mới tới nay, nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều đợt đầu tư "theo phong trào", nhiều "hội chứng đầu tư" đã xuất hiện. Nào là đua nhau đầu tư xây dựng nhà máy bia, thuốc lá, tiếp đến là xi măng lò đứng, mía đường, lắp ráp xe máy, sản xuất bột sắn, đánh bắt xa bờ, xây dựng cảng biển, khu công nghiệp và khu kinh tế, kể cả kinh tế cửa khẩu. Kế đến là bột giấy, cán thép, thủy điện nhỏ và vừa, khu nghỉ dưỡng, khu đô thị, "tận thu" khoáng sản, trường đại học, sân golf rồi sân bay... 2.1.1. Hiệu quả đầu tư thấp Với hệ số hiệu quả vốn đầu tư (ICOR) cho khu vực nhà nước giai đoạn 2000- 2007 lên tới 7,8 - cao hơn nhiều so với mức trung bình 5,2 của nền kinh tế, đầu tư công chẳng những chưa hoàn thành được vai trò “bã đỡ “ cho nền kinh tế mà còn trở thành “gánh nặng” khiến nợ công gia tăng và kéo theo lạm phát. Nghiên cứu thực nghiệm của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương cho thấy, chỉ số ICOR khu vực Nhà nước cao gấp đôi so với khu vực kinh tế ngoài Nhà nước. Một ví dụ rõ nét là năm 2007, để tạo thêm một đồng GDP, khu vực kinh tế Nhà nước, trong đó có đầu tư công và đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước phải mất tới 8,1 đồng vốn trong khi khu vực kinh tế ngoài Nhà nước chỉ tốn 3,7 đồng vốn. 4
- Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) công bố, 6 tháng đầu năm 2011 cả nước đã có thêm 6.731 dự án sử dụng 30% vốn nhà nước trở lên được khởi công, tăng gần 1.000 dự án so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, số dự án hoàn tất và đưa vào khai thác chỉ là 4.693. Còn theo số liệu của Tổng cục Thống kê, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước trong 9 tháng đầu năm 2011 là 131.364 tỉ đồng, tăng gần 24% so với cùng kỳ năm trước. Những con số này cho thấy: Mặc dù Chính phủ quyết tâm thực hiện chủ trương cắt giảm đầu tư công để chống lạm phát, nhưng số dự án đầu tư công mới được triển khai thực hiện trong những tháng đầu năm nay vẫn tăng mạnh. Theo Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, trong 10 năm qua, đầu tư của Nhà nước chiếm gần 46% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Cơ cấu đó cho thấy, vốn đầu tư của Nhà nước là quan trọng nhất. Tài trợ cho đầu tư công là ngân sách. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Tính cả trái phiếu Chính phủ thì bội chi ngân sách lên tới 9,7% GDP và 8,7% GDP trong hai năm 2009 và 2010, cao hơn rất nhiều so với con số chính thức khoảng 5% GDP. Trong khi đó, hiệu quả đầu tư nhà nước lại không cao so với các loại hình đầu tư khác. 2.1.2. Đầu tư dàn trải Thời gian vừa qua, do tình trạng đầu tư dàn trải, sai đối tượng hay cùng lúc triển khai quá nhiều các dự án vượt quá khả năng cân đối của nền kinh tế... nên rất nhiều công trình đầu tư dở dang, thời gian hoàn thành và đưa vào sử dụng bị kéo dài. Hệ quả là nhu cầu đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ trong 4 năm tới phải ở mức trên 500 ngàn tỷ đồng, trong khi Quốc hội chỉ cho phép mỗi năm phát hành 45 ngàn tỷ đồng. Như vậy, sẽ có rất nhiều dự án bị “treo” lại trong những năm tới. Tổng hợp số liệu từ 63 tỉnh thành cho thấy có tới 638 dự án có sử dụng vốn ngân sách không thuộc đối tượng được khởi công mới trong năm 2011 nhưng vẫn được bố trí 1.763 tỷ đồng để thực hiện. Ngoài ra, có đến 2000 dự án khác sử dụng vốn của 5
- ngân sách địa phương không thuộc đối tượng được khởi công mới trong năm 2011 vẫn chưa được cắt giảm. Thậm chí, nhiều dự án đáng lẽ phải cắt giảm nhưng kho bạc nhà nước tại tỉnh, thành đã tiến hành giải ngân sớm hoặc địa phương cố tình xin không cắt giảm đối với các dự án đã khởi công. Chính vì sự đầu tư dàn trải, cùng một lúc triển khai thực hiện quá nhiều dự án, tổng nhu cầu vốn đầu tư cho các dự án đang triển khai xây dựng vượt quá khả năng cấp vốn của nền kinh tế... dẫn đến tình trạng đầu tư công kém hiệu quả. 2.1.3. Chất lượng công trình thấp, tiến độ chậm, kéo dài Qua kết quả giám sát, đánh giá tổng thể về đầu tư năm 2010 của Bộ KHĐT công bố mới đây, thì tình trạng chậm tiến độ thực hiện dự án sử dụng vốn nhà nước còn khá lớn, dù so với các năm trước đã giảm nhiều. Cụ thể, trong số 34.607 dự án đang thực hiện đầu tư, thì có tới 3.386 dự án chậm tiến độ, chiếm 9,78% số dự án thực hiện trong kỳ. Điều đáng nói là trong số này có nhiều dự án phát triển kết cấu hạ tầng quan trọng, có xu hướng tăng dần trong các năm gần đây (tỉ lệ dự án chậm tiến độ năm 2009 là 16,9%, năm 2008 là 16,6% và 2007 là 14,8%). 2.1.4. Lợi ích nhóm, cục bộ, tư duy nhiệm kỳ Do cơ chế và lợi ích cục bộ địa phương, tỉnh nào cũng muốn trở thành một thực thể kinh tế "hoàn chỉnh" nông - công nghiệp - dịch vụ, kèm theo là trường đại học, bến cảng, sân bay, khu kinh tế... mặc dầu không hội đủ điều kiện. Công nghiệp hóa đất nước không có nghĩa là tỉnh nào, huyện nào cũng công nghiệp hóa mà cần có sự phân công lao động hợp lý phù hợp với lợi thế của từng vùng. Trong khi đó, sự liên kết và quy hoạch vùng còn xa mới đáp ứng yêu cầu làm cho nguồn lực bị phân tán, trùng chéo, hiệu quả thấp, nền kinh tế nước nhà đã yếu càng yếu thêm. Sở dĩ có tình trạng này một phần do sự lẫn lộn khái niệm, một phần khác do tâm lý địa phương chủ nghĩa, căn bệnh nhiệm kỳ và nhất là cách đánh giá 6
- thành tích, phân bổ ngân sách và vốn đầu tư từ trung ương đã thúc đẩy cuộc chạy đua về dự án, công trình, tốc độ tăng trưởng "GDP tỉnh-thành". 2.2 . Nguyên nhân của những hạn chế: 2.2.1. Về cơ chế chính sách và thủ tục: Việc ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, nhằm tạo cơ sở pháp lý trong điều hành và quản lý dự án. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn còn chồng chéo, chưa có sự thống nhất, chưa phù hợp với tình hình thực tế, dẫn đến việc áp dụng rất khác nhau, gây khó khăn cho việc hoàn chỉnh các thủ tục để triển khai dự án, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án: Công tác chỉ định thầu đơn vị tư vấn thực hiện các bước (Giám sát thi công, lập hồ sơ mời thầu, kiểm toán,...) phải thực hiện đúng quy trình quy định của Luật, mất nhiều thời gian. Việc phân cấp, phân quyền đầu tư cho các địa phương, cơ sở kinh tế mà thiếu sự kiểm soát lại gây ra tình trạng đầu tư dàn trải trầm trọng hơn, đôi khi đầu tư không vì mục đích kinh tế. Địa phương đua nhau xây dựng công nghiệp tràn lan (xây dựng nhà máy đường, luyện cán thép, xi măng, cảng biển,...), phá vỡ quy hoạch và cơ cấu của nền kinh tế. Việc phân bổ vốn đầu tư cho các dự án vẫn chưa hợp lý: Việc phân bổ vốn cho công trình chưa tính đến công tác bồi thường, tái định cư đến khi khai triển đầu tư xây dựng bị vướng thì mới bắt đầu tính đến; đa số các dự án đều vượt thời gian cân đối vốn theo quy định. Từ đó làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công, tiến độ giải ngân vốn đầu tư, đều kéo dài thời gian đầu tư của dự án gây lãng phí và kém hiệu quả. Công tác quy hoạch: Triển khai chưa kịp thời, chưa theo kịp với quá trình thay đổi của các yếu tố khách quan. Một số quy hoạch ngành, sản phẩm quan trọng còn chưa được tiến hành xây dựng hoặc đang trong quá trình nghiên cứu; chất lượng một 7
- số dự án quy hoạch chưa cao chưa có tầm nhìn xa, một số công trình đề ra trong quy hoạch còn mang tính giải quyết tình thế. Chính sách đầu tư chỉ quan tâm đến các dự án đầu tư mới, không quan tâm đến công tác bảo dưỡng, vận hành để khai thác có hiệu quả các dự án đầu tư công. Các công trình được đầu tư luôn cần một lượng chi phí thường xuyên để vận hành và bảo dưỡng. Thế nhưng thời gian qua, Việt Nam chưa chú trọng đúng mực cho chi vận hành và bảo dưỡng. Ngân sách chi thường xuyên và ngân sách chi đầu tư phát triển được soạn lập một cách riêng rẽ làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực công. Hậu quả là trong một số ngành, phần lớn các công trình qui mô lớn không mang lại hiệu quả do thiếu duy tu, bảo dưỡng. 2.2.2. Về phía đơn vị đầu tư: Điều kiện năng lực hoạt động, năng lực quản lý của một số chủ đầu tư, Ban quản lý, đơn vị tư vấn chưa phù hợp với các quy định của nhà nước, còn hạn chế, việc quản lý chưa thường xuyên, chưa kiên quyết, còn nể nang, chưa cập nhật hoặc nắm bắt hết các quy định mới của nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng, sự kiểm tra giám sát của các ngành chức năng chưa được thường xuyên liên tục, dẫn đến công tác tham mưu, điều hành chưa sát với thực tế, chưa phát hiện những sai sốt trong quá trình đầu tư để có biện pháp xử lý kịp thời. Ngoài ra còn phải kể đến hiện tượng tham nhũng đã xà xẻo nguồn vốn đầu tư. Có nhiều ý kiến phản ảnh, tham nhũng, lãng phí trong đầu tư công, thường tập trung ở giai đoạn thực hiện đầu tư. Đối với giai đoạn lập và phê duyêt kế hoạch đầu tư chưa được phát hiện nhiều, tuy nhiên đây lại là then chốt. Giám sát đầu tư công phải được thực hiện trên cơ sở qui định của pháp luật, tuy nhiên, vấn đề là ý chí của nhà quản lý có quyết tâm thực hiện việc giám sát để đảm bảo đầu tư công một cách hiệu quả, chống tham nhũng, lãng phí hay không. 3. Tình hình nợ công và quản lý nợ công ở Việt Nam 8
- 3.1. Tình hình nợ công ở Việt Nam Việt Nam mở cửa kinh tế được 25 năm và đã đạt được những bước phát triển vượt bậc. Chỉ trong vòng 10 năm, GDP của Việt Nam đã tăng lên gấp 3 lần, từ 32.7 tỷ USD năm 2001 lên 201 tỷ USD năm 2010. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mô nền kinh tế của Việt Nam vẫn là nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủ yếu. Do đó, hiện tại và trong tương lai gần, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng và nợ công nói chung la một nhu cầu tất yếu vì Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ trợ về mặt tài chính (tức là vay nợ và viện trợ phát triển chính thức) từ các tổ chức đơn phương, đa phương trên thế giới để phát triển nề kinh tế hơn nữa. Quy mô nợ công Theo The Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm 2001 mới là 11,5 tỷ USD, tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh số nợ công xấp xỉ 144 USD. Nhưng tính đến hết năm 2010, nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD, tương đương 54,3% GDP và hiện tại, Việt Nam được xếp vào nhóm nước có mức nợ công trên trung bình. Như vậy, trong vòng 10 năm từ 2001 đến nay, quy mô nợ công đã tăng gấp gần 5 lần với tốc độ tăng trưởng nợ trên 15% mỗi năm. Nếu tiếp tục với tốc độ này thì chỉ trong vòng 5 năm nữa, đến năm 2016, nợ công của Việt Nam sẽ vượt quá 100% GDP như hai nước thành viên EU mới lâm vào khủng hoảng nợ công gần đây là Hy Lạp (133,6%), Ailen (129,2%). Nợ công đạt trên 100% GDP là một con số không nhỏ đối với một nền kinh tế đang phát triển và quy mô nhỏ, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ như Việt Nam Cơ cấu nợ công Theo khoản 2 Điều 1 Luật Quản lý nợ công của Việt Nam, nợ công bao gồm tất cả các khoản nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2006 - 2010 gồm nợ chính phủ chiếm 9
- 78,1%, còn lại là nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 61,9%; nợ trong nước chiếm 38,1%. Trong nợ nước ngoài, ODA chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể, năm 2009, nợ công của Việt Nam gồm nợ chính phủ chiếm 79,2%, nợ được chính phủ bảo lãnh chiếm 17,6% và nợ chính quyền địa phương chiếm 3,1%; trong nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 60%, trong đó có 85% là ODA. Tình hình nợ công Từ năm 2006 đến nay, tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn định và hầu như không có sự gia tăng đáng kể về giá trị, trung bình hàng năm Việt Nam dành ra trên 3,5% GDP để chi trả nợ và viện trợ. Tỷ lệ trả nợ/tổng nợ công giảm dần qua các năm, từ 9,09% năm 2006 xuống còn 6,53% năm 2010. Trong khi đó, quy mô của các khoản nợ công ngày càng tăng lên với tốc độ chóng mặt với gần 20%/năm; mặt khác, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam còn đang tồn tại nhiều bất cập như chậm trễ trong giải ngân và sự kém hiệu quả trong sử dụng vốn vay vào các dự án đầu tư. Điều này tác động tiêu cực tới khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai. 3.2. Một số đề xuất nhằm quản lý có hiệu quả nợ công ở Việt Nam Phát triển nội lực nền kinh tế Phát triển nội lực nền kinh tế cần tập trung vào vấn đề gia tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong xuất khẩu bằng cách: Giảm nhập khẩu nguyên phụ liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu thông qua việc đầu tư phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ; tăng hàm lượng công nghệ cao trong sản xuất để xuất khẩu được nhiều sản phẩm tinh và ít sản phẩm thô hơn; đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xúc tiến thương mại, nâng cao nhận biết và thực hành về vấn đề thương hiệu cho các sản phẩm của Việt Nam trên thị trường thế giới. Xây dựng môi trường tài chính hiệu quả - Công khai, minh bạch về tài chính 10
- Đây là một nguyên tắc căn bản hàng đầu và phổ biến trên thế giới trong quản trị công nói chung, quản trị tài khóa và đặc biệt là trong quản trị nợ công. Theo hướng dẫn quản lý nợ công của IMF (2003) cũng như Cẩm nang minh bạch tài khóa (2007), cần đặc biệt nhấn mạnh một số yêu cầu cơ bản như sau: Thứ nhất, xác định rõ vai trò và trách nhiệm tài khóa của các cơ quan của Chính phủ. Đây là yêu cầu thiết yếu để đảm bảo trách nhiệm giải trình trong việc hoạch định và thực thi chính sách tài khóa. Thứ hai, khu vực chính phủ phải được tách bạch rõ ràng ra khỏi phần còn lại của khu vực công và phần còn lại của nền kinh tế; chính sách và vai trò quản lý của khu vực công phải rõ ràng và được công bố công khai. Thứ ba, về quản lý nợ, pháp luật quản lý nợ nên giao trách nhiệm rõ ràng cho một cá nhân, thường là Bộ trưởng Tài chính trong việc: Lựa chọncác công cụ cần thiết cho việc vay nợ; xây dựng chiến lược quản lý nợ; xác định giới hạn nợ (nếu luật không quy định rõ) - thường là dựa vào chiến lược nợ bền vững; thiết lập và kiểm soát cơ quan/tổ chức có trách nhiệm quản lý nợ (thuộc quyền hoặc nằm ngoài) và thiết lập quy chế quản lý nợ. Thứ tư, luật phải quy định cụ thể tất cả các khoản chính phủ bảo lãnh. Luật cũng phải xác định rõ vai trò của Ngân hàng Trung ương sao cho việc phát hành quỹ chứng khoán không bị lẫn với các biện pháp nghiệp vụ thuộc chính sách tiền tệ. Tất cả các khoản vay phải được ghi có tại một tài khoản ngân hàng dưới sự kiểm tra của Bộ Tài chính, và nghĩa vụ nợ và các điều khoản vay nợ phải được công bố đầy đủ cho công chúng. Minh bạch tài khóa đòi hỏi cơ quan lập pháp phải xác định rõ các yêu cầu trong báo cáo hàng năm về dư nợ và dòng chu chuyển nợ, kể cả số liệu về bảo lãnh nợ của chính phủ trình cơ quan lập pháp và công khai cho công chúng. Ngoài ra, cần đảm bảo rằng thông tin về nợ công phải bao quát cả quá khứ, hiện 11
- tại và dự tính cho tương lai. Điều này hết sức cần thiết vì thông tin công khai về nợ còn nhằm tăng cường khả năng can thiệp và phòng ngừa tình huống xấu xảy ra. - Cải cách hành chính Việc cải cách hành chính nhà nước cần được thực hiện trên tất cả các nội dung: Thể chế; tổ chức bộ máy; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,... Trong đó, cần tăng cường cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính trong giải quyết khiếu nại của nhân dân; thực hiện tốt việc tiếp nhận ý kiến, phản hồi của người dân. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính cần phải được đơn giản hóa và thông tin đầy đủ trên cổng thông tin điện tử của bộ, địa phương để tạo thuận lợi tối đa cho người dân, cơ quan, tổ chức nhằm tiết kiệm chi phí, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong cải cách thủ tục hành chính. Đặc biệt, cần chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó có yếu tố hết sức quan trọng là cải cách chế độ, chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức làm việc, nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công. - Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán và hoạt động ngân hàng, cụ thể: + Về hoạt động kiểm toán: Tiến hành kiểm toán độc lập các hoạt động quản lý nợ hàng năm. + Về hoạt động ngân hàng: Đặc biệt tập trung vào nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng. Cần phải hướng dẫn tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, chú trọng nghiệp vụ marketing, kỹ năng bán hàng, thương thảo hợp đồng và văn hoá kinh doanh. Đồng thời phải thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng và kiên quyết loại bỏ, thuyên chuyển sang bộ phận khác những cán bộ yếu về tư cách đạo đức, thiếu trung thực, những cán bộ tín dụng thiếu kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. 12
- Thay đổi cơ cấu nợ công Việt Nam thực sự thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng tăng tỷ trọng nợ trong nước nhiều hơn nữa. Để thay đổi cơ cấu nợ công, Chính phủ Việt Nam nên phát hành trái phiếu chính phủ ghi bằng nội tệ nhiều hơn. Để nâng cao chất lượng các đợt đấu thầu mua trái phiếu chính phủ, chính phủ nên đưa ra một mức lãi suất phù hợp hơn với lãi suất thị trường và yêu cầu của nhà đầu tư. Kiểm soát nợ công ở mức an toàn Để kiểm soát nợ công ở mức an toàn, cần phải xác định được đâu là mức an toàn (ví dụ: cần phải xác định các tỷ lệ nợ công/GDP và nợ nước ngoài/GDP). Tuy nhiên, bên cạnh đó, cần chú ý phân tích bản chất của nợ công. Đó là: nợ chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, hay lượng dự trữ quốc gia... Thực tế xảy ra trên thế giới cho thấy những nước rơi vào khủng hoảng tài chính đều có tỷ lệ nợ trên GDP khá thấp. Ví dụ: Argentina năm 2001, tỷ lệ đó chỉ ở mức 45%; Ukraine (2007) chỉ 13%; Thái Lan (1996) chỉ có 15%; Venezuela (1981) chỉ có 15%; Rumania (2007) chỉ có 20%... Sử dụng hiệu quả nợ công Để sử dụng hiệu quả nợ công, cần phải chú trọng vào các vấn đề sau: - Chi tiêu công phải minh bạch, hợp lý. Vay nợ công phải được chi cho đầu tư phát triển thay vì chi tiêu dùng chính phủ. Chỉ những dự án thực sự đem lại hiệu quả kinh tế mới được xét duyệt và đầu tư thực hiện. Tăng cường thanh tra, giám sát quá trình thực hiện dự án đầu tư; tránh tình trạng tham nhũng, quan liêu. - Đấu thầu các dự án một cách công khai, minh bạch nhằm chọn lựa được những nhà thầu có năng lực nhất. Để doanh nghiệp ngoài quốc doanh chịu trách nhiệm thầu các dự án đầu tư nhiều hơn, thay cho các doanh nghiệp nhà nước. - Tập huấn và nâng cao trình độ quản lý cũng như trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ trong các doanh nghiệp nhà nước. 13
- 4. Khó khăn khi cắt giảm đầu tư công: Tính đến ngày 26.8.2011, tất cả các bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương đều đã thực hiện và có báo cáo về kết quả cắt giảm, điều chuyển vốn đầu tư trong kế hoạch năm 2011. Cả nước đã thực hiện ngừng khởi công mới, cắt giảm, điều chuyển vốn của 2.103 dự án với tổng số vốn là 6.532,7 tỷ đồng. Điểm mới đáng lưu ý là, theo Tổng cục Thống kê, những ước tính ban đầu về hiệu quả đầu tư sau loạt chính sách cắt giảm, đình hoãn, giãn tiến độ nhiều dự án đầu tư công đã cho thấy dấu hiệu tốt hơn. Nếu loại trừ yếu tố giá, khối lượng đầu tư thực chất là giảm, trong khi hiệu quả đầu tư thông qua tỷ lệ đầu tư so với GDP và tốc độ tăng trưởng GDP có sự cải thiện. Tuy nhiên, trong khi nhiều bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm túc chủ trương cắt giảm đầu tư công, thì đến nay, vẫn còn một số bộ, ngành, tỉnh, thành phố chần chừ không thực hiện cắt giảm, thậm chí vẫn bố trí vốn cho cả những dự án khởi công mới không thuộc đối tượng Nghị quyết 11. Tuy nhiên, cần chú ý tới mặt trái phát sinh khi cắt giảm đầu tư công không nên cứng nhắc quá trong cắt giảm, nhất là với các dự án đã hoàn thành tới 70 - 80%, thậm chí 90%. Trường hợp dự án dở dang chưa thể làm tiếp, cần chọn điểm dừng thi công thích hợp, tiện cho việc nghiệm thu, thanh toán, hạn chế chi phí phát sinh và khó khăn đối với dân cư trên địa bàn, nhất là các dự án giao thông. Người lao động xây dựng, các doanh nghiệp và nhà thầu chia sẻ khó khăn chung, lên phương án tìm thêm việc làm, bảo toàn đội ngũ, nhất là thợ lành nghề, để khi có điều kiện, tiếp tục phát huy tay nghề theo đúng sở trường. Cắt giảm đầu tư công có ảnh hưởng nhất định đến mức tăng trưởng và lợi ích của ngành, địa phương, doanh nghiệp. Do đó, phải thực hiện một cách khách quan và triệt để trên cơ sở lợi ích chung, không để các biểu hiện chạy vạy, xin - cho, tư tưởng cục bộ chi phối và tránh làm phong trào. Như vậy, việc cắt giảm đầu tư công không hề dễ dàng do: thứ nhất, nhu cầu thực tế cao về vốn đầu tư phát triển ở nhiều địa phương và đơn vị là có thực; thứ hai, sự 14
- phân cấp mạnh quản lý nhà nước cho các địa phương và việc cắt giảm lại do chính các địa phương thực hiện theo hướng dẫn chung của cơ quan chức năng; thứ ba, việc phân cấp đầu tư cho các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp nhà nước đã không đi kèm với một cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả; thứ tư, các tiêu chí hướng dẫn cắt giảm đầu tư công chưa thật cụ thể, nhất là tiêu chí về hiệu quả của dự án đầu tư. Hơn nữa, việc đánh giá hiệu quả lại giao cho chính chủ đầu tư, là các bộ, địa phương, tập đoàn và tổng công ty nhà nước thực hiện, không có sự tham gia của các tổ chức độc lập và sự giám sát xã hội. 5. Các biện pháp tái cấu trúc đầu tư công và nợ công: Các giải pháp khắc phục tình trạng yếu kém hiện nay của đầu tư công tại VN: Thứ nhất, giảm quy mô đầu tư và đầu tư công cho phù hợp với sức của nền kinh tế, từ bỏ mô hình tăng trưởng “nóng”, dựa chủ yếu vào tăng vốn đầu tư và gia công sản xuất, chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu. Thứ hai, giảm thu, giảm chi, tái cơ cấu thu chi ngân sách, thay đổi cơ cấu chi tiêu ngân sách theo hướng giảm bớt chức năng “nhà nước kinh doanh” và đồng thời tăng cường chức năng “nhà nước phúc lợi”. Thứ ba, đổi mới phân bổ đầu tư công, gắn với tài chính công, và tái cấu trúc nền kinh tế bắt đầu với chính sách tài khóa, quan trọng nhất là kỷ luật tài khóa. Thứ tư, sửa Luật Ngân sách 2002, ban hành và hoàn thiện Luật Đầu tư công, tiến tới Luật Ngân sách hàng năm, cải cách thể chế để khắc phục tình trạng thể chế đi sau tăng trưởng kinh tế. Thứ năm, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch. Quy hoạch cần tôn trọng tính tự phát triển của địa phương nhưng cũng cần phải hướng về sự phát triển tổng thể nền kinh tế. Thứ sáu, cần sửa đổi cơ chế phân cấp ngân sách, phân cấp đầu tư, tăng cường hơn vai trò tổng cân đối chung của Chính phủ. 15
- Thứ bảy, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, bằng cách giảm quy mô và tăng hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN), cần xác định lại vai trò kinh tế của Nhà nước, giới hạn hoạt động của DNNN, buộc các doanh nghiệp này phải cạnh tranh bình đẳng thông qua đẩy mạnh cổ phần hóa, chấm dứt tình trạng đầu tư ngoài ngành… Thứ tám, đổi mới cơ chế tín dụng, kể cả vay nước ngoài để cho vay lại, kết hợp với đổi mới hệ thống ngân hàng thương mại. Thứ chín, thông tin và cơ chế cần minh bạch để có sự giám sát từ cộng đồng, phối hợp với cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động của các dự án. Thứ mười, ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ trong đầu tư công, đồng thời tăng cường chất lượng nguồn nhân lực trên cơ sở cạnh tranh. II. Khủng hoảng nợ công của khu vực sử dụng đồng Euro Trong 2 năm vừa qua, bên cạnh cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ là nguồn gốc của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu thì khủng hoảng nợ công ở Châu Âu cũng là một điểm tối trong bức tranh kinh tế thế giới. Đây là một trong những yếu tố khiến cho cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trở nên phức tạp và biến động khó lường hơn. Khủng hoảng nợ công ở châu Âu bùng nổ đầu tiên là Hy Lạp vào đầu năm 2010 khi chi phí cho các khoản nợ chính phủ liên tục tăng lên; cụ thể lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% vào tháng 01 năm 2010, lên 9,73% tháng 07 năm 2010, và nhảy vọt lên 26,65%/năm ở tháng 07 năm 2011. Cuộc khủng hoảng sau đó đã lan sang Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và tiếp theo là Italia trong khu vực euro. Pháp đang là quốc gia có nhiều nguy cơ tụt hạng tín dụng. Cộng hòa Sip cũng đã bị đẩy tới bờ vực để nhận gói cứu trợ. 1. Diễn biến của cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu 16
- Những diễn biến quan trọng trong khủng hoảng nợ châu Âu tính từ tháng 11/2009 khi chính phủ mới của Hy Lạp tuyên bố nâng gấp đôi ước tính về thâm hụt ngân sách năm 2009 cho đến thời điểm hiện nay: - 11/2009. Thủ tướng Hy Lạp cho biết thâm hụt ngân sách năm 2009 sẽ ở mức 12,7% GDP, gấp đôi con số công bố trước đó và sẽ cố gắng cứu Hy Lạp khỏi khả năng vỡ nợ. - 11/4/2010, Bộ trưởng tài chính các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) chấp thuận kế hoạch 30 tỷ euro cho Hy lạp, nhưng Hy Lạp tuyên bố không cần. - 23/4/2010, Hy Lạp cầu cứu Liên minh Châu Âu (EU) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). - 02/5/2010, Thủ tướng Hy Lạp cho biết, chính phủ nước này đã đạt được thỏa thuận với EU và IMF để nhận được gói giải cứu, đổi lại nước này phải giảm chi tiêu 30 tỷ euro trong 3 năm tới. - 10/5/2010, các nhà hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu đưa ra kế hoạch khẩn cấp trị giá 750 tỷ euro để hỗ trợ thị trường tài chính và vực dậy đồng euro, ngăn đồng tiền này chịu ảnh hưởng tệ hại từ khủng hoảng nợ Hy Lạp. - 07/08/2010: Quỹ bình ổn tài chính của EU với số tiền tối đa lên tới 440 tỷ euro tương đương 580 tỷ USD để hỗ trợ cho các nước châu Âu ứng phó với khủng hoảng nợ hiện đã có thể hoạt động. - 08/09/2010: Các nước thành viên EU đã thống nhất về việc tạo ra khung giám sát tài chính mới để ngăn khủng hoảng nợ chính phủ đã đẩy Hy Lạp đến sát bờ vực phá sản và khiến hệ thống ngân hàng châu Âu chấn động. - 27/11/2010: EU, IMF đồng thuận về gói giải cứu 85 tỷ euro dành cho Ireland. - 15/12/2010: Quốc hội Ireland đã chính thức thông qua dự luật yêu cầu các tổ chức tài chính nước này bán tài sản và buộc một số chủ nợ chịu thiệt hại như một 17
- phần trong kế hoạch tái cơ cấu hệ thống ngân hàng., đồng thời, quốc hội Ireland cũng bỏ phiếu chấp thuận nhận 67,5 tỷ euro khoản vay từ EU và IMF như một phần trong gói hỗ trợ 85 tỷ euro để vực dậy ngân hàng Ireland và lĩnh vực tài chính công của nước này. Ireland sẽ đóng 17,5 tỷ euro vào gói giải cứu. - 04/02/2011: Các nhà lãnh đạo khu vực Eurozone đã nhất trí trên nguyên tắc về "lộ trình" giải quyết khủng hoảng nợ. - 15/02/2011: Bộ trưởng Tài chính các nước châu Âu đã đồng ý lập quỹ mới cho khu vực với trị giá khoảng 500 tỷ euro tương đương khoảng 673,2 tỷ USD. Quỹ này sẽ có tên Kênh bình ổn châu Âu (ESM) thay cho quỹ 440 tỷ euro cũ với tên Kênh bình ổn tài chính châu Âu (EFSF). - 11/03/2011: 17 nhà lãnh đạo của khu vực Eurozone đã có những bước tiến về cơ cấu các gói trợ giúp cho các thành viên của EU đồng thời đưa ra những luật lệ mới để phối hợp các chính sách kinh tế của mình. Tại hội nghị thượng đỉnh, các nhà lãnh đạo đã đồng ý mở rộng phạm vi và quy mô của quỹ các gói trợ giúp, tăng mức độ cho vay từ 250 tỷ Euro (350 tỷ USD) lên 440 tỷ Euro (615 tỷ USD) cho các quốc gia đang trong khủng hoảng. - 05/04/2011: Cơ quan xếp hạng tín dụng Moody đã hạ xếp hạng tín dụng của Bồ Đào Nha lần thứ 2 trong 3 tuần bởi lo lắng nước này không thể tránh được việc phải nhận tiền giải cứu từ EU. Moody hạ 1 bậc xếp hạng trái phiếu chính phủ dài hạn của Bồ Đào Nha xuống mức Baa1 từ mức A3 - 07/04/2011: Thủ tướng Bồ Đào Nha đã chính thức xin châu Âu giải cứu với gói hỗ trợ được dự báo khoảng 80 tỷ euro. - 16/05/2011: Bộ trưởng Tài chính Châu Âu nhất trí về gói giải cứu 78 tỷ euro tương đương khoảng 111 tỷ USD dành cho Bồ Đào Nha trong 3 năm dưới sự kiểm soát của EU và IMF. Lãi suất áp dụng với khoản vay dành cho Bồ Đào Nha khoảng 18
- trên 5,5% nhưng thấp hơn mức 6%. Hy Lạp đang bị hối thúc thực hiện chương trình tư hữu hóa 50 tỷ euro trước khi nhận được gói giải cứu thứ 2. - 12/06/2011: Nhóm Khu vực Eurozone ủng hộ đề xuất của Đức về việc tái cơ cấu "mềm" nợ công của Hy Lạp, với sự đóng góp tự nguyện từ các nhà tín dụng khu vực tư nhân. - 25/07/2011: Cơ quan xếp hạng tín dụng Moody đã hạ 3 bậc xếp hạng tín dụng của Hy Lạp xuống mức Ca trong ngày thứ Hai, xếp hạng mới chỉ cao hơn 1 bậc so với mức vỡ nợ và khẳng định khả năng nước này vỡ nợ lên tới 100%. - 20/09/2011: Standard & Poor’s (S&P) thì hạ một bậc tín nhiệm nợ công Italy, xuống mức A từ mức A+ và giữ triển vọng tín dụng của nước này ở mức tiêu cực. - 01/11/2011: số lượng người thất nghiệp tại Châu Âu đạt mức cao kỷ lục, khoảng 16,37 triệu người thất nghiệp - 07/11/2011: Thủ tướng Hy Lạp George Papandreou đồng ý từ chức để cho phép sự thành lập một chính phủ thống nhất nhằm đảm bảo nguồn vốn từ quốc tế và ngăn kinh tế Hy Lạp sụp đổ. - 26/11/2011: Tổ chức xếp hạng tín dụng S&P đã hạ xếp hạng tín dụng của Bỉ xuống mức AA từ AA+ với lý do nước này thiếu các biện pháp chính sách đảm bảo cho ngân hàng, đồng thuận chính sách và việc kinh tế tăng trưởng chậm sẽ khiến mục tiêu giảm nợ khó thực hiện được. Nợ công của Bỉ cao thứ 5 tại khu vực đồng tiền chung châu Âu. - 01/2012: Hy Lạp dự tính rời bỏ khỏi thị trường chung và chấm dứt sử dụng đồng Euro - 14/01/2012: S&P hạ xếp hạng tín dụng 9 nước châu Âu: Xếp hạng tín dụng của Pháp và Áo bị hạ 1 bậc xuống mức AA+ từ mức AAA; Tây Ban Nha và Italy cũng bị hạ xếp hạng tín dụng. - 17/01/2012: Lạm phát của Eurozone giảm mạnh; Fitch tin Hy Lạp sẽ vỡ nợ 19
- 2. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu là kết quả của rất nhiều nguyên nhân khác nhau, được bắt nguồn từ nhiều năm trước khi khu vực Eurozone được hình thành. 2.1. Nguyên nhân chủ quan - Sự thiếu minh bạch trong việc công bố số liệu kinh tế trong nhiều năm. Điều này được thể hiện rõ tại Hy Lạp - quốc gia bắt nguồn cho cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu. Tại thời điểm khi xin gia nhập vào Eurozone, Hy Lạp đã có những dấu hiệu của việc đánh bóng số liệu kinh tế của mình. Năm 2000, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã bày tỏ sự quan ngại về tình hình nợ của Hy Lạp và nhấn mạnh rằng, mức nợ này đã vượt xa trần quy định của Eurozone. Tuy nhiên, trên giấy tờ, Hy Lạp cho thấy họ đã cắt giảm được thâm hụt ngân sách. Và dù chưa giảm được nợ tới mức chuẩn, Athens đã nhấn mạnh vào tiền lệ là một số quốc gia khác như Italy và Bỉ vẫn được gia nhập Eurozone khi chưa đáp ứng được đỏi hỏi về mức nợ chính phủ để buộc Eurozone đồng ý cho phép Hy Lạp gia nhập các quốc gia sử dụng đồng Euro Và giáo sư kinh tế học Jürgen von Hagen thuộc Đại học Bonn, Đức cho rằng: “Ở thời điểm đó, đã có những bằng chứng rõ ràng cho thấy, Hy Lạp đưa ra những số liệu không trung thực, đặc biệt là về thâm hụt ngân sách, nhằm đưa ra hình ảnh về tình hình tài chính công của họ ‘đẹp’ hơn thực tế. Nhưng các nhà lãnh đạo châu Âu đã không phản đối. Vì lý do chính trị, họ phải cho Hy Lạp tham gia đồng Euro”, - Sự quản lý lỏng lẻo, yếu kém của các chính phủ châu Âu Trong vấn đề này, Hy Lạp lại là một dẫn chứng tiêu biểu. Hy Lạp được coi là một trong những quốc gia có nguồn thu thuế “bèo” nhất châu Âu. Chỉ khoảng 15.000 cá nhân trên tổng số 11 triệu công dân Hy Lạp khai báo có thu nhập trên 100.000 euro/năm với mức thuế phải đóng là 4%. Số thuế bị trốn trong 10 năm qua 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Thực trạng chính sách và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp
27 p | 472 | 192
-
Tiểu luận Thay đổi và phát triển tổ chức: Tái cấu trúc doanh nghiệp tại tổng công ty dầu Việt Nam
21 p | 463 | 119
-
TIỂU LUẬN: Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam: Thực trạng và giải pháp cho những năm đầu thế kỷ 21
40 p | 203 | 66
-
Tiểu luận: Lý thuyết cấu trúc vốn doanh nghiệp
19 p | 231 | 54
-
Bài tiểu luận: Xây dựng đầu tư phát triển sản phẩm du lịch trong bối cảnh toàn cầu hóa
30 p | 329 | 37
-
Tiểu luận: Tái cấu trúc công ty chứng khoán và quỹ đầu tư
29 p | 146 | 27
-
Tiểu luận: Quyết định cơ cấu vốn: yếu tố tin cậy nào quan trọng?
42 p | 113 | 24
-
Bài Tiểu luận: Một doanh nghiệp nên vay bao nhiêu?
19 p | 155 | 18
-
Tiểu luận: Quyết định cấu trúc vốn trong thực tiễn
45 p | 139 | 17
-
Đề tài: Quyết định cấu trúc vốn trong thực tiễn
19 p | 97 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Bước đầu khảo sát hiện tượng tiêu điểm hóa cấu trúc chủ - vị của câu Tiếng Việt
128 p | 37 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Giải pháp tái cấu trúc vốn doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
24 p | 78 | 9
-
TIỂU LUẬN: Tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán theo đề án 1826
42 p | 103 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Cấu trúc vốn và cấu trúc kỳ hạn nợ của các doanh nghiệp đầu tư xây dựng, kinh doanh bất động sản tại Việt Nam
62 p | 70 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp dầu khí niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
26 p | 63 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Tái cấu trúc dự án B.O.T cầu Phú Mỹ
74 p | 41 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật điện, Điện tử và viễn thông: Đề xuất các thuật toán điều khiển tối ưu cho bài toán tái cấu trúc hệ thống pin mặt trời
27 p | 27 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn