intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Thực trạng hệ thống ngân hàng thương tại Việt Nam

Chia sẻ: Hathianhtuyet Tuyet | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:18

84
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Thực trạng hệ thống ngân hàng thương tại Việt Nam

  1. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 1.Lý thuyết chung về hệ thống Ngân hàng Thương mại 1.1.Khái niệm Ngân hàng thương mại Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM: -Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. -Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”. -Ở Việt Nam, Định nghĩa Ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. 1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại Tầm quan trọng của Ngân hàng thương mại được thể hiện qua các chức năng của nó. Các nhà kinh tế học đã ví ngân hàng thương mại là trái tim của nền kinh tế. Ngân hàng hút tiền về, bơm tiền đi vì thế các nguồn vốn nhàn rỗi được khơi thông đưa tiền từ nơi thừa đến nơi thiếu, giúp cho quá trình lưu chuyển tiền tệ một cách hiệu quả. Các chức năng của ngân hàng thương mại có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng bao gồm ba chức năng chủ yếu: chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán, chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại. 1.2.1.Chức năng trung gian tín dụng Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của Ngân hàng Thương mại và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng là “cầu nối ” giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, khơi nguồn vốn từ những người có vốn nhàn rỗi sang những người có nhu cầu về vốn. Trong nền kinh tế, do các đơn vị kinh tế có nhu cầu về tiền, vốn vào thời điểm khác nhau là khác nhau, gây ra hiện tượng thừa, thiếu tạm thời. Ngân hàng Thương mại là người trung gian có vai trò chuyển đổi kỳ hạn nợ, thay đổi thời kỳ đáo hạn của các khoản, món nợ. Ngân hàng Thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay; mặt khác, trên cơ sở số vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, của các chủ thể kinh tế góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, Ngân hàng Thương mại vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Ngày nay, quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn. Sự phát triển của thị trường tài chính làm xuất hiện các khía cạnh khác của chức năng này. Ngân hàng có thể đứng làm trung gian giữa công ty (khi phát hành cổ phiếu) với những nhà đầu tư: Chuyển giao các mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua bán trái phiếu công ty. Theo cách này Ngân hàng làm trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên thị trường. Hơn nữa, tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng Ngân hàng góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh liên tục, là cầu nối giữa tiết
  2. kiệm, tích luỹ và đầu tư. Đưa vật tư hàng hoá vào sản xuất lưu thông, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Chức năng tín dụng của Ngân hàng Thương mại được hình thành rất sớm, ngay từ lúc hình thành các Ngân hàng Thương mại. Ngày nay, thông qua chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng Thương mại đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. 1.2.2.Chức năng trung gian thanh toán. Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Việc làm trung gian thanh toán của Ngân hàng ngày nay đã phát triển đến tầm mức rất đa dạng, không chỉ là trung gian truyền thống như trước, mà còn quản lý các phương tiện thanh toán. Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí rất quan trọng, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. ở các nước phát triển, phần lớn các công tác thanh toán ở trong nước được thực hiện thông qua séc và phần lớn séc thanh toán ở trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua hệ thống Ngân hàng Thương mại.Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Như vậy Ngân hàng đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc luận chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá. 1.2.3.Chức năng tạo ra tiền Vào thế kỷ 19, hệ thống Ngân hàng hai cấp đã được hình thành, các Ngân hàng không còn hoạt động riêng lẻ mà đã tạo nên một hệ thống, trong đó Ngân hàng Trung ương là cơ quan quản lý, về tiền tệ tín dụng là Ngân hàng của các Ngân hàng còn các Ngân hàng Thương mại, chuyên kinh doanh tiền tệ. Nhờ hoạt động trong hệ thống mà các Ngân hàng Thương mại đã tạo ra bút tệ. Việc tạo ra bút tệ là sáng kiến quan trọng trong lịch sử hoạt động Ngân hàng; Chức năng tạo ra bút tệ được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và đầu tư của Ngân hàng Thương mại trong mối quan hệ tuỳ thuộc vào Ngân hàng trung ương. Nhờ nhận tiền ký thác của khách hàng, Ngân hàng Thương mại có khả năng đầu tư. Nhưng khi đầu tư, Ngân hàng tạo ra tiền ký thác mới, còn gọi là tiền bút tệ, tiền chuyển khoản Ngân hàng Thương mại trở thành người cung ứng tiền bút tệ quan trọng, trong nền kinh tế. Tóm lại, khả năng tạo tiền là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một Ngân hang, đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần, thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, tín dụng nhiều Ngân hàng. Khả năng này tạo ra "bội số mức cung tiền tệ" liên quan chặt chẽ với việc công cụ dự trữ bắt buộc, của Ngân hàng trung ương. Chính vì vậy các bút tệ thực sự thúc đẩy sự phát triển kinh tế mà cũng có thể gây nên những tai hoạ lớn. Đây là nhân tố cơ bản trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng Thương mại. Từ ba chức năng cơ bản trên ta cũng có thể thấy được vai trò to lớn của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế. Hoạt động của Ngân hàng Thương mại đẩy nhanh quá trình thanh toán, giảm chi phí giao dịch và tạo môi trường thuận lợi cho quá trình lưu
  3. chuyển vốn của nền kinh tế, nâng cao chất lượng của quá trình tập trung và phân phối nguồn vốn. Ngân hàng Thương mại còn là bộ máy tạo tiền, nó có vai trò quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ và góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô dưới sự tác động của Ngân hàng Trung ương và các chính sách của Nhà nước. 1.3.Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại. Cùng với sự phát triển của Ngân hàng Thương mại, hoạt động và các dịch vụ của Ngân hàng Thương mại ngày càng được mở rộng. Nhưng nhìn chung, hoạt động của Ngân hàng Thương mại gồm ba hoạt động chính là hoạt động động vốn, hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động trung gian. Hoạt động huy động vốn Là hoạt động khởi đầu cho các hoạt động khác của ngân hàng thương mại. Ngân hàng Thương mại bản chất là một tổ chức trung gian tài chính có đặc điểm hoạt động chủ yếu không phải bằng nguồn vốn chủ sở hữu, vì vậy để có nguồn vốn hoạt động, cung cấp vốn cho nền kinh tế thì ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, ngân hàng thương mại phải huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua các hoạt đông nhận tiền gửi, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đi vay từ các tổ chức tín dụng khác hay từ Ngân hàng Trung ương. Ngân hàng kinh doanh ngoại tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Hoạt động vay - hoạt động tạo nguồn vốn cho Ngân hàng thương mại - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của Ngân hàng thương mại. Hoạt động huy động vốn là hoạt động thường xuyên của Ngân hàng thương mại. Một Ngân hàng thương mại bất kì nào cũng bắt đầu hoạt động của mình bằng việc huy động nguồn vốn. Đối tượng huy động của Ngân hàng thương mại là nguồn tiền nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế, dân cư. Nguồn vốn quan trọng nhất,và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là tiền gửi của khách hàng. Các Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi của các cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội, thậm chí cả nguồn tiền của các Ngân hàng khác. Khi những người có tiền chưa sử dụng đến họ có thể đem ra đầu tư hoặc gửi Ngân hàng để nhận tiền lãi. Thông thường họ gửi tiền vào Ngân hàng, vì đây là cách đơn giản, ít tốn kém chi phí để tìm kiếm cơ hội đầu tư mà vẫn có lãi và đây là cách ít rủi ro nhất. Ngoài ra người gửi tiền vào Ngân hàng cũng mong muốn được sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng như chuyển tiền cho người thân ở nơi khác, thanh toán hộ các hoá đơn phát sinh, bảo quản các tài sản có giá trị lớn... Khi gửi tiền vào Ngân hàng, người gửi tiền có thể vay Ngân hàng một khoản tiền mà không cần thế chấp vì họ đã có một số tiền gửi nhất định ở Ngân hàng, coi như một khoản đảm bảo. Còn Ngân hàng có thể muốn tìm kiếm thêm thu nhập từ lệ phí nhận tiền gửi, tuy nhiên lý do chính Ngân hàng nhận tiền gửi để tạo nguồn cho vay, từ đó Ngân hàng có thể đầu tư, kinh doanh tìm kiếm được những khoản thu nhập lớn hơn. Hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng có ý nghĩa to lớn với người gửi tiền, nền kinh tế, cũng như bản thân Ngân hàng. Thông qua hoạt động này mà Ngân hàng có thể tập hợp được các khoản tiền nhàn rỗi, nhỏ bé, phân tán tạm thời chưa sử dụng với các thời hạn hết sức khác nhau thành nguồn tiền lớn tài trợ cho nền kinh tế, hoặc cho các cá nhân có nhu cầu sử dụng. điều khó khăn nhất mà Ngân hàng phải thực hiện là sử dụng các khoản tiền gửi có thời hạn rất khác nhau để cho vay những món có thời hạn xác định,vì thế mà Ngân hàng phải quản lí tốt thời hạn của các nguồn vốn của mình thì mới duy trì được hoạt động có hiệu quả, tránh được những rủi ro về khả năng thanh toán. Việc tập hợp được những nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng để đưa vào kinh doanh đã góp phần tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế. Ngoài ra hoạt động nhận tiền
  4. gửi của Ngân hàng cũng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ. Đặc biệt trong nền kinh tế phát triển nếu dân chúng có thói quen gửi tiền vào Ngân hàng để sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng thì điều này sẽ góp phần giúp chính phủ quản lí được thu nhập của người dân. Một trong những nguồn vốn không kém phần quan trọng, là nguồn vốn phát hành kì phiếu, trái phiếu. Việc phát hành kì phiếu hay trái phiếu phụ thuộc vào quy mô vốn cần huy động , thời gian huy động vốn, cơ cấu nợ và tài sản của Ngân hàng. Các hoạt động huy động nguồn vốn trên đây hình thành nên tài sản nợ của Ngân hàng và Ngân hàng phải có trách nhiệm chi trả đối với tất cả các nguồn vốn huy động được theo yêu cầu của khách hàng. Quy mô và cơ cấu nguồn vốn quyết định đến hoạt động của Ngân hàng. Do đó quản lí nguồn vốn phù hợp và sử dụng vốn có hiệu quả là một vấn đề mang tính chiến lược đối với mỗi Ngân hàng . Hoạt động sử dụng vốn Khi đã huy động được vốn rồi, nắm trong tay một số tiền nhất định thì các Ngân hàng thương mại phải làm như thế nào để hiệu quả hoá những nguồn này, nghĩa là tìm cách để những khoản tiền đó được đầu tư đúng nơi, đúng chỗ, có hiệu quả, an toàn, đem lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Và hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng bằng những cách sau: Ngân hàng đã tài trợ lại cho nền kinh tế dưới dạng các thành phần kinh tế vay, hoặc Ngân hàng đầu tư trực tiếp, Ngân hàng tham gia góp vốn cùng kinh doanh hay cho thuê tài sản,Ngân hàng gửi tiền tại các Ngân hàng khác- tại Ngân hàng Nhà nước- những tổ chức tín dụng khác, Ngân hàng đầu tư trên thị trường chứng khoán , Ngân hàng nắm giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho Ngân hàng và có thể bán đi để ra tăng ngân quỹ khi cần thiết... Những đối tượng tài trợ không chỉ có các tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động trong lĩnh vực thương mại mà còn có cả các cá nhân tiêu dùng, thậm chí Chính phủ cũng được Ngân hàng tài trợ dưới những hình thức : Ngân hàng thương mại mua tín phiếu kho bạc, trái phiếu của chính phủ trên thị trường tiền tệ. Sự phát triển của hoạt động cho vay, đã giúp Ngân hàng có vị trí ngày càng quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa thông qua hoạt động cho vay, Ngân hàng thương mại có khả năng “tạo tiền” hay mở rộng lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên hoạt động cho vay của Ngân hàng chứa đựng nhiều yế tố rủi ro nên Ngân hàng thường áp dụng các nguyên tắc hoạt động và quản lý tiền vay một cách chặt chẽ. Lãi thu được từ hoạt động cho vay, Ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất cho nguồn vốn đã huy động và đi vay, thanh toán những chi phí trong hoạt động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của Ngân hàng. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của Ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận, chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư . Kinh tế ngày càng phát triển, lượng cho vay của Ngân hàng thương mại ngày càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng phong phú và đa dạng. Tại hầu hết các nước công nghiêp trong nhóm những nước hàng đầu thế giới, cho vay của các Ngân hàng thương mại đã chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Ngược lại, ở các nước đang phát triển, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó có các tác nhân chủ yếu như tình hình tăng trưởng, lạm phát,...) So với hoạt động cho vay thì hoạt động đầu tư của Ngân hàng có quy mô và tỷ trọng nhỏ hơn trong mục tài sản sinh lời của Ngân hàng thương mại. Phải sang đến những năm đầu thế kỷ XIX các Ngân hàng thương mại mới quan tâm mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực đầu tư vào các ngành công nghiệp. So với hoạt động cho vay hoạt động đầu tư đem lại thu nhập cao hơn nhưng rủi ro cao hơn do thu nhập từ hoạt động đầu tư không được xác định trước vì phải phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà
  5. Ngân hàng đầu tư vào. Ngoài ra thì trong hoạt động đầu tư , Ngân hàng được lựa chọn doanh mục đầu tư có lợi nhất cho mình. Bên cạnh hoạt động cho vay và đầu tư, Ngân hàng có thể tham gia vào thị trường chứng khoán tuỳ quy định của từng quốc gia. Ngân hàng thương mại có thể tham gia như một người cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán hay đóng vai trò là nhà đầu tư, mua bán chứng khoán vì mục tiêu kiếm lời cho chính Ngân hàng. Hoặc thực hiện kinh doanh chứng khoán thông qua uỷ thác của khách hàng. Hoạt động trung gian Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn thì Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các dịch vụ trung gian cho khách hàng của mình. Các dịch vụ này được coi là hoạt động trung gian bởi vì khi thực hiện các hoạt động này Ngân hàng không đứng vai trò là con nợ hay chủ nợ mà đứng ở vị trí trung gian để thoả mãn nhu cầu khách hàng về dịch vụ mà khách hàng cần. Ngày nay, các dịch vụ của Ngân hàng không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, các dịch vụ ngày càng đa dạng. Hoạt động trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ khác nhau: như dịch vụ thu hộ chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng, dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này từ tài khoản này đến tài khoản khác ở cùng một Ngân hàng hay ở hai Ngân hàng khác nhau; dịch vụ tư vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính, dich vụ giữ hộ các chứng từ, vật quý giá dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu; dịch vụ khấu trừ tự động. Đây là những khoản chi thường xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian và phiền toái khi thanh toán các khoản này, cung cấp các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát triển theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng thực hiện nghiệp vụ trung gian mang tính dịch sẽ đem lại cho Ngân hàng những khoản thu nhập khá quan trọng. Điều cần lưu ý là dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp Ngân hàng phát triển toàn diện.Tại các nước phát triển, các Ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau bằng con đường “phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng, không ngừng tìm tòi những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng. Dịch vụ Ngân hàng càng phát triển, thể hiện xã hội càng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận các Ngân hàng không chỉ ở nghiệp vụ cho vay, mà phân nửa từ các hoạt động dịch vụ mang lại, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro. Ba lĩnh vực hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay, thực hiện các dịch vụ trung gian là các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Ba dịch vụ đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển, tạo uy tín cho Ngân hàng. Có huy động vốn thì mới có nghiệp vụ cho vay, cho vay có hiệu quả phát triển kinh tế thì mới có nguồn vốn để huy động vào, đồng thời muốn cho vay và huy động vốn tốt thì Ngân hàng phải làm tốt vai trò chung gian, chính sự kết hợp đồng bộ đó tạo thành quy luật trong hoạt động của Ngân hàng và tạo thành xu hướng kinh doanh tổng hợp đa năng của các Ngân hàng thương mại .
  6. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Tính đến nay, hệ thống ngân hàng nước ta có 6 ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), 39 NHTMCP, 42 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 6 ngân hàng liên doanh, 6 công ty tài chính và 10 công ty cho thuê tài chính, 926 tổ chức tín dụng nhân dân và 46 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài. Hơn nữa, hiện nay NHNN đã chấp nhận về nguyên tắc cho ra đời thêm 5 NHNN cổ phần, càng chứng tỏ hệ thống ngân hàng đang vững mạnh hơn. Nếu so với cách đây hơn chục năm thì đây quả là một sự trưởng thành vượt bậc. Thập kỷ qua, cùng với quá trình đổi mới và hội nhập, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM) đã có nhiều thay đổi quan trọng. Sự xuất hiện của các ngân hàng (NH) 100% vốn nước ngoài và việc loại bỏ dần các hạn chế đối với hoạt động của chi nhánh NH đã khiến mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, buộc các NH Việt Nam (VN) phải tái cấu trúc để tiếp tục phát triển. 2 trong số 5 NHTM Nhà nước (NN) đã thực hiện cổ phần hóa và chính thức hoạt động theo mô hình đa sở hữu được gần hai năm. Các NHTM cổ phần (CP) một mặt đang cấu trúc lại, có sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài i cùng lộ trình tăng vốn điều lệ lên mức tối thiểu là 5.000 tỉ VND ii. Tất cả các động thái này nhằm hướng tới sự phát triển bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 1. Vài nét về hệ thống NHTM Trong vài năm qua, những đóng góp của hệ thống NHTM VN vào quá trình đổi mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá là rất lớn. Các NHTM không chỉ tiếp tục khẳng định là một kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, mà còn góp phần ổn định sức mua đồng tiền . Đến nay, vốn cho sản xuất kinh doanh chủ yếu vẫn do các NHTM đáp ứng, với tổng tài sản của hệ thống lên tới khoảng 140% GDP. Cùng với quá trình cải cách và đổi mới, số lượng các NHTM VN đã tăng nhanh iii, đã và đang từng bước chuyển dần hướng tới một hệ thống tương thích của các nền kinh tế đang nổi và mới phát triển. Sự lớn mạnh của hệ thống NHTM VN thể hiện ở sự tăng lên của vốn chủ sở hữu, tổng tài sản, mức độ đa dạng hóa các dịch vụ cung cấp và sự đóng góp của ngành vào GDP hàng năm: về tổng vốn đăng ký đã tăng gấp 12 lần, tổng tài sản và tiền gửi tăng hơn 16 lần và các khoản vay tăng khoảng 14 lần iv. Bảng 1: Tỷ trọng tổng tài sản của các NHTM so với toàn hệ thống (%) Loại hình TCTD 2008 2009 2010 2011 2012 NHTM Nhà nước 62,3 53,3 51,48 49,4 48,2 NHTM cổ phần 22,8 31,5 32,45 33,2 34,7 Chi nhánh NHNN 9,8 9,6 10,26 11,43 11,89 NH liên doanh 1,1 1,2 1,25 1,36 1,38 Bảng 2: Thị phần tiền gửi của các NHTM (%) Loại hình TCTD 2008 2009 2010 2011 NHTM Nhà nước 65,1 53,4 56,91 51,7 NHTM cổ phần 21,3 31,5 31,23 33,2 Chi nhánh NH nước ngoài 9,6 9,9 13,22 14,3 NH liên doanh 1,1 1,2 1,43 1,67
  7. Các NHTM NN vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng vốn, đặc biệt trong điều kiện khó khăn của nền kinh tế, của các doanh nghiệp. Chính họ là kênh chuyển tải nhanh nhất các cơ chế chính sách hỗ trợ của Chính phủ cho các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phục hồi và phát triển. Vì vậy, GDP của sáu tháng đầu năm 2012 đã đạt khoảng 6,4%, mức tăng cao nhất kể từ quí 4 năm 2010 đến nay. Song thị phần của các nhóm NH này từng bước giảm và nhóm NHTM CP, NH nước ngoài tăng v, nhờ các cam kết mở cửa thị trường. Năm 2011, lợi nhuận của các NH có mức tăng trưởng khá, tỉ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) của 6 NH lớn nhất lên mức 1,9% Tỉ suất này năm 2010 là 1,5%( vi). Tuy nhiên, trong năm 2012, do những khó khăn từ nền kinh tế, đã ảnh hưởng đến khách hàng có quan hệ tiền gửi và tiền vay tại các NH, ảnh hưởng đến tăng trưởng tài sản, nhiều NH chưa đạt được tốc độ như năm 2011. Về phát triển các sản phẩm dịch vụ Hệ thống NHTM VN đã phát triển khá nhanh về số lượng các NH và số lượng chi nhánh/phòng giao dịch, cùng với quá trình hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ truyền thống và phát triển các dịch vụ mới, nên doanh số và tỷ trọng dịch vụ tăng lên qua các năm. Dịch vụ huy động vốn và cho vay: Đây vẫn là dịch vụ mang lại nguồn thu chủ yếu cho các NHTM hiện nay và có mức tăng trưởng khá. Huy động vốn của các NHTM có tăng trưởng khá qua các năm do việc đa dạng hóa sản phẩm huy động và phát triển mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch. Măc dù có mạng lưới rộng và thương hiệu mạnh, được người dân biết đến, nhưng tốc độ tăng trưởng về huy động vốn của các NHTM CP có sự bứt phá mạnh, thị phần đã tăng lên 31,23% so với 21,3% năm 2008, khiến cho thị phần của các NHTM NN giảm. Hoạt động cho vay cũng có tốc độ tăng trưởng cao, thậm chí còn tăng nóng trong năm 2010 và năm 2011, một số NHTM CP có tốc độ tăng từ 60% trở lên. Đầu năm 2011, tăng trưởng tín dụng đạt 10,8%, nhưng đến cưối tháng 7, tốc độ tăng trưởng đã khá hơn, với mức tăng gần 13,0% vii cho 7 tháng đầu năm 2012. So với tốc độ tăng trưởng kinh tế, thì tốc độ tăng trưởng tín dụng gấp 5 đến 6 lần được cho là tăng trưởng nóng, nhưng nhìn nhận một cách sâu sắc có thể thấy, nếu không có sự tăng trưởng cao của tín dụng trong vài năm qua, thì không có được tốc độ tăng GDP như ngày hôm nay. Bảng 3. Thị phần tín dụng của các NHTM (đơn vị %) Loại hình TCTD 2008 2009 2010 2011 NHTM Nhà nước 67,1 59,7 58,2 49,93 NHTM CP 19,6 27,5 26,54 30,4 Chi nhánh NHNN 8,3 8,56 10,27 12,8 NH liên doanh 1,39 1,2 1,3 1,48 Cho vay theo lĩnh vực kinh tế không thay đổi nhiều qua các năm. Trong tổng số dư nợ cho vay của NH, nông lâm thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng trên dưới 30%,tiếp theo là công nghiệp, thương mại và xây dựng. * Dịch vụ thanh toán Trong 3 năm trở lại đây, dịch vụ thanh toán đã có bước phát triển quan trọng. Nhiều dịch vụ thanh toán mới đã ra đời, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người sử dụng. Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất được triển khai tích cực, việc kết nối hệ thống ATM, POS thành một hệ thống thống nhất trên toàn quốc đạt kết quả kích lệ. 3 liên minh thẻ Banknet, VNBC và Smartlink đã kết nối liên thông 10 thành viên là các NHTM có số lượng thẻ phát hành chiếm 87% tổng số thẻ phát hành của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và 75% số lượng ATM trên toàn quốc là nền tảng quan trọng cho việc thúc đẩy phát triển dịch vụ này.
  8. Tính đến cuối tháng 7/2010, đã có trên 24 triệu thẻ với 48 tổ chức phát hành thẻ và hơn 190 thương hiệu thẻ, gần 11.000 ATM phát hành trên phạm vi cả nước và 37.000 thiết bị chấp nhận thẻ POS viii. Các dịch vụ tiện ích đi kèm ngày càng được đa dạng hóa như thẻ mua xăng dầu, thẻ mua hàng qua mạng, thanh toán tiền điện nước…; việc triển khai thí điểm cung ứng phương tiện thanh toán “ví điện tử” của các tổ chức không phải tổ chức tín dụng cũng có bước phát triển nhanh, trong đó số lượng phát hành đạt gần 84.500 “ví điện tử” của 17 NH tham gia triển khai dịch vụ và được chấp nhận thanh toán tại 119 đơn vị cung ứng hàng hóa dịch vụ. Điều này đã góp phần phát triển mạnh mẽ thanh toán điện tử trong thời gian tới, tạo tói quen thanh toán không dùng tiền mặt cho người dân. Tỷ lệ tiền mặt trong tổng thanh toán có xu hướng giảm, từ 20,3% năm 2006 xuống còn 14,6% năm 2010 và 14,5% năm 2011. Sự phát triển của Hệ thống thanh toán điện tử liên NH có vai trò quan trọng trọng việc nâng cấp cơ sở hạ tầng cho dịch vụ phát triển. Tài khoản cá nhân có mức tăng trưởng hàng năm cao: 150% xét về số tài khoản và 120% xét về số dư. Số lượng các tài khoản cá nhân đã tăng từ 135.000 năm 2002 lên khoảng 5 triệu vào năm 2007, trên 8 triệu vào năm 2009 và 14 triệu vào cuối năm 2011. 3.Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam 3.1.Những vấn đề đặt ra cho hệ thống NHTM Việt Nam Trong bối cảnh kinh tế Châu âu đang từng bước phục hồi sau những khủng hoảng về nợ công tại một số quốc gia, việc phục hồi kinh tế Mỹ gặp nhiều khó khăn ix, CPI tháng 6 năm 2010 giảm 0,1% thể hiện tiêu dùng của người dân giảm xuống. Trước diễn biến này, Fed đã dự báo, GDP của Mỹ năm 2010 chỉ tăng 3,0 đến 3,2% thấp hơn dự báo đầu năm, tỷ lệ thất nghiệp 9,2% đến 9,5% cao hơn mức dự báo trước đó. Kinh tế Trung Quốc đã có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại trong quí II/2010, với mức tăng trưởng 6 tháng đầu năm là 11,1%... Vấn đề này cho thấy diễn biến kinh tế thế giới vẫn khó lường, sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến vấn đề tăng trưởng kinh tế, lạm phát, xuất nhập khẩu của VN. Như vậy, hoạt động của các NHTM VN sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng không chỉ của nền kinh tế VN, mà còn chịu tác động từ các nhân tố từ bên ngoài. Điều này đặt ra một số vấn đề mà các NHTM phải quan tâm. Thứ nhất, về năng lực cạnh tranh Một hệ thống NH không thể phát triển bền vững, năng lực cạnh tranh cao trong bối cảnh năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Hầu hết các chỉ số được xếp hạng cạnh tranh thấp, chỉ có chỉ số ổn định tài chính, chỉ số về quy mô và hiệu quả của lĩnh vực NH được xếp hạng cao. Bảng 4: Chỉ số phát triển tài chính năm 2010 của một số nước (xếp hạng trên 52) Tên nước Xếp hạng Tên nước Xếp hạng Hoa Kỳ 1 Thái Lan 29 Nhật Bản 4 Indonesia 38 Singapore 10 Philippine 48 Malaysia 20 Việt nam 49 Trung Quốc 24 So với các nước khác trong khu vực, qui mô của các NH VN còn nhỏ, tổng tài sản ở mức thấp, các chỉ số ROA, ROE cuối năm 2010 vẫn ở mức khiêm tốn nếu dựa trên tiêu chí đánh giá theo thông lệ quốc tế. Bảng 5: So sánh lĩnh vực NH VN với các nước trong khu vực VN Malaysia Indonesia Philippines Tổng tài sản (tỷ USD) 127,66 386,25 213,98 119,52 Tổng dư nợ tín dụng (tỷ USD) 73,10 208,85 119,42 61,59
  9. ROE (%) 9,7 18,5 21,94* 6,91 ROA (%) 1,0 1,5 2,08* 0,77 NPLs (%) 3,5 2,2 3,8 4,51 Ghi chú: *: lợi nhuận trước thuế Để nâng cao năng lực cạnh tranh, việc tăng vốn là rất cần nhưng chưa đủ mà cần phải tạo năng lực và động lực để cạnh tranh. Thứ hai, về chất lượng dịch vụ NH Các dịch vụ mà các NH VN đang cung cấp hiện nay, dù đã được đa dạng hoá nhưng vẫn đơn điệu, chủ yếu vẫn là các sản phẩm truyền thống. Các dịch vụ NH hiện đại chưa phát triển hoặc phát triển nhưng đồng bộ. Rất nhiều dịch vụ phát triển chưa xứng với tiềm năng, đặc biệt là các dịch vụ bán lẻ, dịch vụ dành cho khách hàng thượng lưu, dịch vụ quản lý tài sản, tư vấn và hỗ trợ tài chính, trung gian tiền tệ, trao đổi công cụ tài chính, cung cấp thông tin tài chính và dịch vụ chuyển đổi. Hoạt động NH đầu tư và kênh phân phối điện tử đã tăng trưởng nhanh chóng nhưng tính tiện tích và hiệu quả kinh tế chưa cao. Các hoạt động tiền tệ, lãi suất, công cụ tỷ giá, công cụ phát sinh ngoại hối, đầu tư vẫn trong giai đoạn đầu. Thị trường dịch vụ NH vẫn phát triển dưới mức tiềm năng, các mô hình cạnh tranh còn đơn giản. Mức độ đáp ứng nhu cầu xã hội đối với dịch vụ NH chưa cao do những hạn chế về số lượng, chất lượng và khả năng tiếp cận. Cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ, công nghệ và thương hiệu chưa phổ biến, nên dễ dẫn tới sự bất ổn của thị trường dịch vụ, do đó dễ tạo ra sự cạnh tranh về giá (lãi suất) để lôi kéo khách hàng của nhau. Nếu dịch vụ NH không được cải tiến mạnh mẽ, phát triển dịch vụ chưa theo định hướng nhu cầu của khách hàng, thì hệ thống NH trong nước sẽ khó duy trì thị phần của mình, nhất là khi sự phân biệt giữa NHTM trong nước và nước ngoài căn bản được xóa bỏ vào năm 2011. Lợi thế về truyền thống và mạng lưới sẽ khó giúp các NH trong nước phát triển các dịch vụ mới và các dịch vụ phi tín dụng - những dịch vụ cần công nghệ và kỹ năng khai thác của các cán bộ NH. Báo cáo của HSBC VN cho thấy: doanh thu từ thanh toán quốc tế chiếm 1/3 tổng doanh thu của NH. Cách đây 3 năm khách hàng là các công ty VN chỉ chiếm 3%, thì nay đã lên tới 50% trên tổng số khách hàng của HSBC, dự đoán đến năm 2012, khách hàng là các doanh nghiệp VN tăng lên 70%. Thời điểm tự do hóa hoàn toàn thị trường dịch vụ NH của VN đã đang đến rất gần, nhưng so với các phương thức cung cấp dịch vụ trong GATS, các dịch vụ NH VN chủ yếu được cung cấp ở trong nước. Việc cung cấp dịch vụ qua biên giới, hiện diện thương mại và hiện diện của thể nhân còn hạn chế. Tổng doanh thu từ xuất khẩu dịch vụ tài chính của VN chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng doanh thu xuất khẩu dịch vụ của VN. Thứ ba, về năng lực quản trị và công nghệ. Đến nay công tác quản trị rủi ro đối với mỗi NH tuy đã được chú trọng, nhưng chưa thực sự trở thành công cụ hữu hiệu phục vụ quản trị điều hành. Tình trạng vay mượn với lãi suất lên xuống thất thường trên thị trường tiền tệ liên NH trong thời gian qua suy cho cùng đều bắt nguồn từ việc các NH chưa quản trị tốt tài sản và thanh khoản. Do sự yếu kém từ quản trị tài sản Nợ, tài sản Có và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu hiệu, trong khi một số NHTM lại muốn sử dụng triệt để phần vốn này để cho các hoạt động kinh doanh sinh lời, nên xảy ra thiếu thanh khoản cục bộ tại một số NH. Theo kinh nghiệm của các NH nước ngoài, yếu tố công nghệ có thể giúp giảm 76% chi phí hoạt động của NH, nhưng để có được nền tảng công nghệ hiện đại, đòi hỏi phải đầu tư lớn, đây là việc rất khó đối với các NHTM VN. Do vốn ít, năng lực tài chính còn hạn chế, nên một số NH không dễ thực hiện x. Như vậy, quản trị hoạt động cũng như quản trị công nghệ NH đang là một thách thức lớn trước sức ép hội nhập của hệ thống NH VN.
  10. Với một một thị trường tài chính còn non trẻ, rất chật hẹp, số lượng NH và TCTD phi NH là không nhỏ. Một khi mỗi phân đoạn thị trường có nhiều NH/ chi nhánh trong và ngoài nước khai thác, mức độ canh tranh để giữ thị phần sẽ càng trở nên khốc liệt, nhưng đa số các NH VN chưa nâng cao được chất lượng, tính tiện ích của dịch vụ, lợi thế công nghệ và trình độ quản lý để cạnh tranh, mà chỉ dựa vào lãi suất và chính sách khuyến mại. Điều này đôi khi đã buộc NHNN phải xử lý bằng các mệnh lệnh hành chính, để tránh những cú sốc nảy sinh từ nguy cơ bất ổn này. Một số NH CP qui mô vốn nhỏ, mới ra đời chưa có điều kiện khảng định được uy tín và thương hiệu với khách hàng, chưa có điều kiện để phát triển dịch vụ phi tín dụng, chỉ tập trung vào hoạt động tín dụng, phát triển mạnh cho vay tiêu dùng, cho vay chứng khoán và bất động sản với lãi suất thỏa thuận, nên đã tác động không nhỏ đến sự phát triển của thị trường này. Ttrước những một số diễn biến bất ổn từ nền kinh tế, thì sự chậm trễ hay những can thiệp quá mức của cơ quan quản lý, những bất ổn của hệ thống NH dễ nảy sinh. 3.2.Thách thức Thực tế tình hình huy động vốn cho thấy, m ột số NHTM có l ợi th ế về m ạng l ưới, thương hiệu, nguồn vốn huy động tăng mạnh. Một số NHTM quy mô nh ỏ huy đ ộng v ốn trên thị trường 1 gặp khó khăn, một số khác quản trị rủi ro thanh khoản yếu, vốn huy động phụ thuộc lớn vào thị trường 2, nắm giữ ít giấy tờ có giá, thực hi ện c ạnh tranh lách huy động vốn với lãi suất cao đã ảnh hưởng đến ho ạt động c ủa các TCTD khác và gây m ất ổn định thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, do NHNN có biện pháp xử lý kịp thời thông qua tái c ấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở và các biện pháp khác, nên về cơ bản thanh kho ản VNĐ toàn hệ thống hiện nay vẫn đảm bảo. Các ngân hàng đã điều chỉnh lãi suất cho vay VNĐ theo xu hướng giảm d ần phù h ợp v ới xu hướng giảm của lãi suất huy động. Mặc dù, các ngân hàng đã gi ảm m ạnh m ức lãi su ất cho vay, tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp chưa tiếp c ận được nguồn v ốn ngân hàng. Tăng trưởng tín dụng toàn ngành cuối năm 2011 chỉ đạt 12%, còn trong những tháng đầu năm 2012, dư nợ cho vay nền kinh tế giảm mạnh, đến 23-3 giảm khoảng 2% so với cuối năm 2011. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM có xu hướng giảm, tuy nhiên, c ơ cấu tín dụng của các NHTM chuyển hướng tích cực theo đúng chủ trương c ủa Chính ph ủ và ch ỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, các TCTD áp dụng nhiều bi ện pháp để gi ảm tốc đ ộ và t ỷ tr ọng dư nợ cho vay phi sản xuất thấp hơn 16%, tập trung cho vay nông nghi ệp, nông thôn, doanh nghiệp Tính thanh khoản Theo báo cáo của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, hiện tỷ lệ cho vay trên huy động của Tỷ lệ cho vay/huy động của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam nói chung luôn ở mức trên 90%. Đặc biệt tỷ lệ cho vay/huy động ngoại tệ luôn ở mức trên 100%, có khi đạt xấp xỉ 130%. Năm 2011, tỷ lệ sử dụng vốn trong hệ thống ngân hàng cao hơn 100%. Đến nay, tỷ lệ này dao động từ 93 - 96%. Trên thị trường quốc tế, tỷ lệ sử dụng vốn chỉ khoảng 60 - 70%, còn 30 - 40% còn lại sẽ dùng để đầu tư vào công cụ có thanh khoản cao, trong khi các ngân hàng Việt Nam hoàn toàn đầu tư vào tín dụng. “Thanh khoản hệ thống luôn bấp bênh, căng thẳng; chưa kể đến sự mất cân đối kỳ hạn giữa huy động và cho vay và việc tiền gửi rút trước kỳ hạn gia tăng” Thanh khoản hệ thống luôn căng thẳng, thị trường liên ngân hàng ách tắc, một số TCTD rơi vào tình trạng mất thanh khoản liên tục (luôn rơi vào tình trạng mất cân đối kỳ hạn, về huy động và cho vay…).
  11. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) của các TCTD đang có chiều hướng sụt giảm nhanh chóng, nghiêm trọng. Nguyên nhân được xác định là do mô hình tăng trưởng cũ và tham vọng tăng trưởng nhanh dựa vào tăng vốn đầu tư mà ngân hàng là kênh cung ứng vốn chủ yếu (cung ứng khoảng trên dưới 80% vốn cho nền kinh tế, kể cả vốn trung và dài hạn). Đây là yếu tố luôn tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Điều này một lần nữa được khẳng định trong một đánh giá mới đây c ủa người đ ứng đ ầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN VN): Hiện có khoảng 50 tổ chức tín d ụng th ường xuyên có tỷ lệ sử dụng vốn cao hơn huy động. Điều này đang ảnh h ưởng đáng kể đ ến tính ổn định hệ và nhiệm vụ cơ cấu hệ thống ngân hàng Thực trạng nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam Mặc dù đã có nhiều ý kiến trao đổi về nợ xấu tại các ngân hàng th ương m ại (NHTM), nhưng cho đến nay, vẫn chưa có tiếng nói thống nhất n ợ xấu v ề t ỷ l ệ n ợ x ấu c ủa h ệ thống NHTM Việt Nam. Thống đốc Ngân hàng Nhà n ước (NHNN) cho rằng t ỷ l ệ n ợ xấu trên tổng dư nợ tại các NHTM khoảng 10%. Trong khi cơ quan Thanh tra NHNN lại đưa ra con số tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng khoảng 8,6%, tương đương v ới trên 200.000 t ỷ đồng. Bên cạnh những con số được NHNN công bố nói trên, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cũng đưa ra tỷ lệ nợ xấu là 11,8%, tương đương với khoảng 270.000 tỷ đồng. Rộng hơn, khi nợ xấu lên đến 8,6% thì đã là m ức đáng báo đ ộng chung cho c ả h ệ th ống. Đặc biệt, tốc độ gia tăng nợ xấu thể hiện rất nhanh từ năm 2008 tr ở l ại đây và có th ể chưa dừng lại: năm 2008 tăng 74%, 2009 tăng khoảng 27%, 2010 tăng 41%, 2011 tăng 64%, 6 tháng đầu năm 2012 tăng 47%. Một trong số những rủi ro đe dọa sự ổn định của hệ thống ngân hàng là nợ xấu. Trong những năm qua, tỉ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam, tỉ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng thương mại tính đến tháng 6/2011 khoảng 3%, tuy nhiên, theo Fitch Ratings, tỉ lệ này theo chuẩn mực kế toán quốc tế về phân loại các loại nợ xấu, con số này lên tới 13%. Hơn nữa, việc thực thi chính sách tiền tệ và tài khóa thắt chặt khiến nhiều doanh nghiệp hạn chế sản xuất và thậm chí phá sản cũng gây tác động tiêu cực lên nợ xấu của hệ thống.
  12. Tại sao có sự khác nhau về tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng? Có thể lý giải về sự khác nhau này như sau: Thứ nhất, do cách phân loại nợ. Theo quy định hiện hành về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng c ủa t ổ ch ức tín d ụng (TCTD), “nợ xấu” là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 (Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN). Trong đó nợ nhóm 3 (nợ dưới chuẩn) là các khoản nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi; Nợ nhóm 4 (n ợ nghi ngờ) là các kho ản n ợ có kh ả năng t ổn thất rất cao và nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) là các kho ản n ợ đ ược coi là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Thông thường ở các nước đang phát triển, nếu n ợ xấu c ủa các ngân hàng được phân loại theo các chỉ tiêu định lượng và định tính phù h ợp v ới thông lệ quốc tế, thì tỷ lệ này dưới 5% cũng là bình thường. Tuy nhiên, ở Vi ệt Nam còn có s ự khác nhau về năng lực quản trị rủi ro và việc xếp hạng tín dụng n ội bộ. Hệ th ống x ếp hạng tín dụng nội bộ tại các NHTM Việt Nam hi ện nay đều được xây d ựng theo ph ương pháp chuyên gia, nghĩa là việc lựa chọn, quyết định toàn bộ các yếu t ố c ơ bản c ủa h ệ thống xếp hạng (bộ chỉ tiêu, trọng số của từng chỉ tiêu) hoàn toàn ph ụ thu ộc vào quan điểm chủ quan của các chuyên gia thay vì dựa trên dữ liệu thống kê lịch s ử và phân tích mô hình kinh tế lượng. Kết quả xếp hạng tín dụng n ội b ộ chưa là c ơ s ở xây d ựng các thước đo lượng hóa rủi ro, hỗ trợ tính toán chuẩn xác tổn thất dự tính và yêu c ầu v ốn t ối thiểu bù đắp rủi ro. Điều này dẫn đến hạn chế trong quản tr ị rủi ro danh mục, đ ịnh giá tín dụng và xác định khẩu vị rủi ro… của từng ngân hàng. Hiện nay, quản trị rủi ro tín dụng tại m ỗi ngân hàng th ường theo nh ững kh ẩu v ị r ủi ro riêng. Vấn đề này đã dẫn đến một số bất cập trong vi ệc so sánh, đánh giá cùng m ột đ ối tượng khách hàng nhưng lại có kết quả khác nhau, nhiều khi xung đột (cùng 1 khách hàng, có ngân hàng phân loại vào nhóm nợ cao, có ngân hàng lại phân lo ại vào nhóm n ợ th ấp). Mặt khác, việc triển khai xếp hạng khách hàng đòi hỏi đội ngũ chuyên gia nhi ều kinh nghiệm thực tiễn cũng như am hiểu sau sắc mô hình xếp hạng tín d ụng (modelling), trong khi thị trường nhân lực hiện tại của Việt Nam còn rất thiếu. Thứ hai, thông tin về khách hàng vừa thiếu, vừa không chuẩn xác. Điều này gây không ít khó khăn cho ngân hàng trong việc thiết lập quan hệ tín dụng. Ở Việt Nam, trên 90% là DN nhỏ và vừa, không ít DN có báo cáo tài chính không chu ẩn xác, lại không qua kiểm toán. Ngay cả đối với các DN lớn được kiểm toán thì s ự chậm tr ễ trong công bố báo cáo tài chính cũng như chất lượng kiểm toán ch ưa cao cũng gây nhi ều khó khăn cho các ngân hàng. Vì thế, việc dựa vào m ột s ố thông tin đ ầu vào đ ể c ấp tín dụng, đã dẫn đến một số khoản vay vừa ra khỏi ngân hàng đã khó có khả năng thu hồi. Đặc biệt, khi ngân hàng và DN lại có mối quan hệ “mật thi ết”, phụ thu ộc lẫn nhau (sở hữu chéo) thì nguồn lực dễ bị phân bổ sai lệch, bất hợp lý, cho vay bất chấp các quy đ ịnh về an toàn vốn, nợ xấu tất yếu sẽ tăng lên. Thứ ba, hoạt động thâu tóm, mua bán, sáp nhập, các công ty sân sau, sở hữu chéo trong ngân hàng... đã tạo ra những vòng luẩn quẩn của dòng tiền. Đây cũng là những hoạt động tiềm ẩn nhiều nợ xấu nhưng rất khó chỉ ra để xử lý, khi tính minh bạch và gi ải trình còn hạn chế. Tổng phương tiện thanh toán (M2) của 9 tháng đầu năm tăng 12,21%, nh ưng tín dụng chỉ tăng 2,5%, trong khi chứng khoán cũng không phải là kênh đ ược các ngân hàng quan tâm kể từ khi có văn bản hạn chế cho vay chứng khoán c ủa NHNN; b ất đ ộng sản cũng đóng băng; vay tiêu dùng không được xem là kênh ưu tiên trong th ời gian qua. Nh ư vậy, phải chăng nợ xấu đang chạy òng vòng giữa ngân hàng và các Doanh nghi ệp có quan hệ mật thiết. Nếu thế, nợ xấu sẽ ngày một phình to và càng khó xác đ ịnh, lãi su ất s ẽ ti ếp tục bị đẩy lên cao, DN sản xuất kinh doanh càng khó tiếp cận được vốn. Thứ tư, nợ xấu còn có nguyên nhân sâu xa từ đạo đức nghề nghiệp của một s ố cán b ộ ngân hàng và khách hàng. Kinh doanh ngân hàng dựa trên sự tin cậy và mức độ tín nhi ệm thì đạo làm nghề ngân hàng không chỉ cần thiết mà còn mang tính b ắt bu ộc. Tuy nhiên, do
  13. nhiều nguyên nhân mà một số cán bộ ngân hàng đã c ấu kết v ới khách hàng đ ể che gi ấu s ự thật, gian lận, cố ý làm trái quy định của NHNN, của NHTM. Mặc dù chưa có số liệu công bố nhưng trong tổng số nợ xấu đó, một tỷ lệ không nhỏ nảy sinh t ừ vi ph ạm đ ạo đ ức nghề nghiệp. Tóm lại, những bất cập trong phân loại nợ, vấn đề sở hữu chéo, vấn đ ề đ ạo đ ức ngh ệ nghiệp... đã làm nảy sinh nợ xấu tại các ngân hàng và có chiều hướng ngày càng tăng. Cho dù nợ xấu ở mức nào thì hiện tại đã và đang tác đ ộng tiêu c ực đ ến đi ều hành chính sách tiền tệ của NHNN, đến việc lưu thông dòng vốn vào nền kinh t ế và tính an toàn, hi ệu qu ả kinh doanh của chính các ngân hàng. Chừng nào chưa x ử lý đ ược v ấn đ ề này thì vi ệc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ không đạt hiệu quả. Nhiều thách thức cần có giải pháp tích cực Thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nằm ở nội lực của chính các ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn ch ế, trình đ ộ công ngh ệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực. Mặc dù vốn điều lệ c ủa các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn nhỏ bé so với thế gi ới và khu v ực. M ức v ốn t ự có trung bình của một ngân hàng thương mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại Nhà nước chỉ tương đương với một ngân hàng c ỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh chi ếm đến trên 75% th ị tr ường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng. Trong khi đó, h ệ s ố an toàn v ốn bình quân của các ngân hàng thương mại Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt t ỷ l ệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng và hi ệu qu ả sử d ụng tài sản Có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá. Điểm hạn chế thứ hai của các ngân hàng trong nước là hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là ho ạt đ ộng ch ủ y ếu c ủa ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghi ệp ph ụ thu ộc n ặng n ề vào nguồn vay từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn ti ếp tục cho vay đ ể nuôi n ợ, d ẫn đ ến tình trạng mất vốn ngày càng lớn. Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ c ấu hệ thống tài chính còn m ất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp v ốn trung và dài h ạn cho n ền kinh t ế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy đ ộng ngắn h ạn chuy ển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn h ạn. “Việc sử dụng vốn cho vay trung và dài hạn ở n ước ta hi ện nay t ới 50% là quá cao, n ếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống" Trong bối cảnh lãi suất vẫn còn cao, môi trường kinh tế trong và ngoài n ước ti ềm ẩn r ủi ro, các doanh nghiệp tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động sản xu ất kinh doanh, làm dư nợ quá hạn và nợ xấu có xu hướng gia tăng, các ngân hàng đang ra s ức thu hồi những món nợ quá hạn cũ và cố gắng hạn chế nh ững món n ợ quá h ạn phát sinh m ới để kiểm soát nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống TCTD đến 29-2-2012 là 3,42%.
  14. Thu nhập của ngân hàng đến chủ yếu từ hoạt động cho vay, nhưng năm qua v ới đi ều ki ện kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng, nguồn thu từ hoạt động tín d ụng c ủa hầu hết các ngân hàng bị ảnh hưởng, dẫn đến hiệu quả ho ạt động c ủa hầu h ết ngân hàng bị giảm sút đáng kể, biên độ lợi nhuận bị thu hẹp so với năm 2010. Trong điều kiện hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn, các ngân hàng đã chú tr ọng phát triển các hoạt động dịch vụ như mở rộng thanh toán quốc tế, sản phẩm thẻ, d ịch v ụ ki ều hối... để tăng nguồn thu cho hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra, theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam các NHTM trong n ước còn đang ph ải đ ối mặt với nhiều thách thức. Đó là việc trên 90% tỷ tr ọng v ốn c ủa ngân hàng hi ện nay là nguồn vốn ngắn hạn, gây khó khăn cho các NHTM trong việc quản trị nguồn vốn, khó bảo đảm cân đối kỳ hạn. Kỳ hạn huy động vốn bình quân có xu h ướng rút ng ắn trong khi kỳ hạn cho vay bình quân dài, tạo nguy cơ rủi ro kỳ hạn và lãi su ất. H ơn n ữa, s ự m ất cân đ ối kỳ hạn vốn của ngân hàng hiện nay cũng là m ột trong những nguyên nhân khi ến nhi ều ngân hàng không thể đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, do các doanh nghiệp này chủ yếu vay vốn trung và dài hạn đ ể đầu t ư mở rộng sản xuất kinh doanh. Về tăng trưởng tín dụng, do hàng tồn kho lớn, sản xuất của các khách hàng đang suy gi ảm nghiêm trọng, các ngân hàng khó khăn trong thu n ợ (g ốc, lãi), n ợ x ấu có xu h ướng tăng cao. Một số lĩnh vực cho vay cần ưu tiên như cho vay nông nghi ệp, nông thôn g ặp nhi ều khó khăn do khách hàng vay không đủ điều kiện để ngân hàng xem xét cho vay (không có phương án sản xuất - kinh doanh có hiệu quả; không có hoặc không đủ tài sản bảo đảm; tình hình tài chính không minh bạch; nợ xấu phát sinh do không tiêu th ụ đ ược s ản phẩm...). Trước những khó khăn đó, Hiệp hội Ngân hàng Vi ệt Nam đã có công văn g ửi C ục Phát triển Doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) kiến nghị một số đề xuất tháo gỡ khó khăn. Hiệp hội đã kiến nghị: Cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghi ệp tháo g ỡ khó khăn trong vấn đề xử lý khối lượng hàng tồn kho lớn, đặc biệt có các gi ải pháp tháo gỡ th ị tr ường bất động sản, giải tỏa vốn vay ngân hàng; tạo đi ều kiện cho doanh nghi ệp ti ếp c ận v ốn vay từ các ngân hàng thông qua chính sách hoãn, giãn thu ế cho m ột s ố đ ối t ượng doanh nghiệp được ưu tiên hoặc bảo lãnh của nhà nước khi vay vốn. Chính ph ủ c ần có chính sách khuyến khích các ngân hàng cho vay đối v ới các lĩnh v ực ưu tiên, t ạo đi ều ki ện cho các khách hàng lĩnh vực này tiếp cận được nguồn vốn lãi suất thấp, với thời gian phù h ợp. Hoàn thiện khung pháp lý đối với các hoạt động mua bán nợ, mua bán tài sản đảm b ảo, giải thể, sáp nhập, mua bán các công ty, doanh nghi ệp, đẩy m ạnh tái c ơ c ấu doanh nghi ệp theo chủ trương, định hướng của Chính phủ, lành mạnh hóa tình hình tài chính doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM cho vay…
  15. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 3.1.Đề xuất cơ chế xử lý nợ xấu ngân hàng Về phía các ngân hàng thương mại Đối với khối nợ xấu cũ, các NHTM cần: Xử lý từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro theo quy định. Tìm m ọi bi ện pháp đ ể thanh lý/phát mại tài sản bảo đảm cho các khoản nợ xấu để thu hồi nợ. Chủ động phối hợp khách hàng thực hiện cơ cấu lại n ợ, giãn thời gian tr ả n ợ đ ối v ới những khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời nhưng có tri ển vọng kinh doanh khi gi ải quyết được nợ xấu; Tiếp tục giảm lãi suất xuống để thực hiện các kho ản cho vay m ới, giúp DN giảm chi phí đầu vào, bán được hàng, có điều kiện trả nợ ngân hàng. Bán nợ qua công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các NHTM, Công ty mua bán n ợ trực thuộc NHNN, Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) của Bộ Tài chính. Cần phải thấy rằng, để xảy ra nợ xấu, trách nhiệm đầu tiên thu ộc v ề ngân hàng (do nguyên nhân khách quan và chủ quan mang lại) nhưng các ngân hàng không th ể t ự t ạo ra nợ xấu. Nợ xấu là do các con nợ - DN/cá nhân vay vốn đ ến h ạn không tr ả đ ược n ợ, mà việc không trả được nợ cho các ngân hàng có nguyên nhân c ơ bản do y ếu kém ch ủ quan của bản thân DN nhưng không thể bỏ qua nguyên nhân từ cơ chế chính sách, từ quản lý vĩ mô. Vì vậy, xử lý nợ xấu lúc này không chỉ là trách nhi ệm đ ơn l ẻ c ủa các ngân hàng, DN mà cần có sự tham gia của Nhà nước với m ục tiêu phải đ ạt đ ược trong vi ệc x ử lý n ợ x ấu là tạo điều kiện để các ngân hàng thiết lập quan hệ tín dụng mới, giúp DN còn kh ả năng hoạt động vay vốn, đồng thời thanh lọc những DN, ngân hàng y ếu kém trong s ản xu ất kinh doanh; Thông qua xử lý nợ xấu, các ngân hàng m ới có đi ều ki ện ti ếp t ục h ạ lãi su ất tiền vay. Việc xử lý nợ qua công ty quản lý nợ và khai thác tài sản c ủa ngân hàng cũng có đi ểm thuận lợi là công ty con của ngân hàng nên có điều ki ện hiểu rõ t ừng kho ản vay đ ối v ới khách hàng. Khi chuyển nợ xấu cho công ty quản lý n ợ và khai thác tài s ản c ủa ngân hàng, công ty có thể chủ động, nhanh chóng tìm khách hàng để bán tài sản thu h ồi v ốn cho ngân hàng. Tuy nhiên, để công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng x ử lý n ợ xấu hiệu quả, cần xây dựng cơ chế mua bán nợ rõ ràng, minh bạch, có sự tham gia giám sát chặt chẽ của NHNN, để tránh tình trạng n ợ xấu trên bảng cân đ ối c ủa ngân hàng có th ể giảm nhưng chất lượng nợ không thay đổi, do không giải quyết tận gốc vấn đề. Nếu bán nợ xấu cho DATC thuộc Bộ Tài chính thực hiện, rất cần một c ơ chế mua bán rõ ràng thì hoạt động mua bán các khoản nợ xấu của ngân hàng mới có hiệu quả. Do tính phức tạp của các khoản nợ xấu trong ngân hàng, trong bối cảnh áp l ực xã h ội r ất lớn về vấn đề giải trình thì vấn đề đặt ra là thành lập công ty mua bán n ợ tr ực thu ộc NHNN hay công ty mua bán nợ quốc gia (AMC) phải đ ủ quyền l ực, đ ược h ỗ tr ợ b ởi các chuyên gia giỏi về lĩnh vực này, với những bước đi hợp lý, với sự phát triển của thị trường mua bán nợ Việt Nam. Cùng với với việc xử lý nợ xấu cũ, các NHTM cần coi trọng đúng m ức đến vi ệc h ạn ch ế nợ xấu mới nảy sinh bằng cách: Rà soát lại phân loại nợ, tiến tới việc phân loại nợ theo thông lệ qu ốc tế. Đ ể làm đ ược việc này các ngân hàng cần phải (i) Hoàn thiện hệ th ống xếp hạng tín d ụng n ội b ộ theo chuẩn Basel II. Việc xếp hạng tín dụng phải căn cứ trên các s ố li ệu th ống kê l ịch s ử c ủa chính ngân hàng cho các đối tượng khách hàng để tính toán các th ước đo r ủi ro xác suất/khả năng xảy ra vỡ nợ (PD); tổn thất có thể xảy ra do vỡ n ợ (LGD) và r ủi ro v ỡ n ợ (EAD) cho các đối tượng này; đồng thời áp dụng các đi ều ch ỉnh c ần thi ết trên c ơ s ở ý
  16. kiến của chuyên gia. Có như vậy, việc xếp hạng tín d ụng m ới th ực s ự là công c ụ h ạn ch ế rủi ro trong hoạt động tín dụng và là căn c ứ để định giá theo r ủi ro c ủa ngân hàng. (ii) M ặt khác chất lượng của xếp hạng khách hàng phụ thuộc lớn vào mô hình tổ ch ức và đ ội ngũ nhân sự của chính ngân hàng. Vì thế, việc hoàn thiện mô hình tổ chức theo hướng tuân th ủ các nguyên tắc về quản trị DN, đảm bảo phân tách rõ trách nhi ệm gi ữa các b ộ ph ận liên quan trong việc quản lý rủi ro; tránh xung đột l ợi ích là vấn đ ề c ốt lõi đ ể gi ảm thi ểu n ợ xấu n ảy sinh trong hoạt động tín dụng. Giám sát việc triển khai và ứng dụng xếp hạng tín dụng trong ho ạt đ ộng đ ể gi ảm thi ểu rủi ro nhằm đảm bảo hệ thống xếp hạng tín dụng không ngừng đ ược hoàn thi ện và nâng cao chất lượng, đòi hỏi nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin đ ể đ ảm b ảo h ệ th ống v ận hành có hiệu quả. Định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra việc tuân thủ các quy đ ịnh x ếp h ạng tín dụng, đảm bảo chất lượng thông tin đầu vào nhằm ngăn ngừa những sai sót do vô tình hay cố ý đánh giá khách hàng theo ý kiến chủ quan c ủa m ột, hay nhóm ng ười, làm sai l ệch k ết quả xếp hạng, dẫn đến các quyết định cho vay không chuẩn. Về phía doanh nghiệp vay vốn Giải quyết hàng tồn kho là vấn đề cấp bách hiện nay. Để xử lý hàng t ồn kho, ngoài vi ệc hạ giá bán (chấp nhận lỗ) để thu hồi vốn về quay vòng thì một hình th ức liên k ết gi ữa các DN, sử dụng các sản phẩm của nhau cũng là cách làm hi ện nay. Bên c ạnh đó, vi ệc minh bạch thông tin tài chính, nâng cao khả năng quản trị DN, để tạo ni ền tin trong quan h ệ tín dụng với ngân hàng. Về phía Ngân hàng Nhà nước Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý để các ngân hàng có căn cứ th ực hi ện x ếp hạng tín dụng nội bộ, hướng theo thông lệ quốc tế. Song song với vi ệc xây d ựng, hoàn thi ện x ếp hạng tín dụng nội bộ, cần có chính sách phát triển các đ ơn v ị xếp h ạng tín d ụng đ ộc l ập làm cơ sở tham chiếu chung trong công tác xếp hạng tín d ụng. Kinh nghi ệm c ủa nhi ều nước trong khu vực cho thấy, việc phát triển các tổ chức xếp hạng tín d ụng không do Nhà nước quản lý để hạn chế việc chi phối của tổ chức hay cá nhân làm sai lệch k ết qu ả xếp hạng là rất quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nhanh chóng xử lý những bất ổn trong nội tại c ủa m ột s ố ngân hàng, giám sát dòng ti ền luân chuyển trong nội bộ ngân hàng. Đây là một trong những nguyên nhân c ơ b ản làm h ệ thống ngân hàng luôn bất ổn, và tích tụ rủi ro hệ thống lớn. Khi giám sát được dòng vốn ra khỏi vòng luẩn quẩn bởi một số ngân hàng, nợ xấu của các ngân hàng thương mại có điều kiện được xử lý, điểm nghẽn về vốn sẽ được khắc phục, vi ệc ti ếp c ận v ốn c ủa DN s ẽ dễ dàng hơn. 3.2. Một số giải pháp Với mục tiêu đảm bảo sự an toàn và hiệu quả trong hoạt động của mỗi NHTM nói riêng và toàn bộ hệ thống nói chung, cần chú ý đến các giải pháp sau: Một là, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự tăng trưởng của hoạt động NH Hoàn thiện các quy định về hình thức pháp lý, phạm vi hoạt động và loại hình dịch vụ được phép cung cấp của các NH nước ngoài tại VN cũng như các quy định liên quan tới quản lý ngoại hối, cải cách hệ thống kế toán NH phù hợp chuẩn mực kế toán quốc tế và các quy định về thanh toán không dùng tiền mặt. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định về các dịch vụ NH mới như các dịch vụ uỷ thác, các sản phẩm phái sinh, các hoạt động NH điện tử, quy định về hướng dẫn và quản lý các dịch vụ phái sinh và các quy định liên quan đến các phương thức cung cấp dịch vụ NH qua biên giới, tiêu dùng ở nước ngoài và hiện diện thể nhân... Cơ chế chính sách của các cơ quan quản lý Nhà nước cần được ban hành kịp thời, phù hợp với với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tệ và NH. Không những thế, một vấn đề rất quan trọng là cần xác định rõ lộ trình mở cửa thị trường với các mốc thời gian cụ thể để đảm bảo
  17. tính tiên liệu của chính sách cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động theo nguyên tác thương mại – thị trường. Đây sẽ là một trong những cơ sở đảm bảo hệ thống NH VN hội nhập hiệu quả. Hai là, Nâng cao năng lực quản trị rủi ro và năng lực giám sát NH Việc NH có một cơ cấu quản trị doanh nghiệp vững mạnh là rất quan trọng, vì NH có vai trò cốt yếu trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, NH được coi là ngành chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ và có thể sử dụng mạng lưới an toàn của Chính phủ xiii. Vì vậy, quản trị hoạt động của NH nói chung và quản trị rủi ro nói riêng, cần dựa trên một số nguyên tắc của kinh tế thị trường, nhưng khi vận hành phải theo thực tế của nền kinh tế VN. Xây dựng văn hoá quản trị rủi ro, tạo môi trường thuận lợi cho việc áp dụng các nguyên tắc và thông lệ quản trị rủi ro. Nâng cao chất lượng công tác kiểm soát nội bộ, để phát hiện những tiềm ẩn rủi ro, có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Nhưng cũng không nên quá nhấn mạnh đến kiểm tra, kiểm soát nội bộ dễ làm mất tính sáng tạo trong công việc. Xây dựng hệ thống khuyến khích hữu hiệu, bằng việc xây dựng mối quan hệ giữa người lao động với người sử dụng lao động, trên cơ sở cơ chế thu nhập khen thưởng và xử phạt nội bộ để khuyến khích người lao động năng động, sáng tạo, làm việc với năng suất và chất lượng cao. Ba là, xây dựng hệ thống thu thập dữ liệu đảm bảo các thông tin cung cấp là tin cậy. Trong hoạt động NH, không phải mọi thông tin đều có thể công khai công bố, nhưng càng minh bạch thông tin, đảm bảo tính cập nhật, độ chuẩn xác, sẽ càng củng cố được niềm tin của đông đảo dân chúng. Thực tế do thiếu thông tin, hoặc thông tin không đầy đủ, đã có chỗ để tin đồn tồn tại, làm đảo lộn thị trường. Vì vậy, cần qui định cơ chế cung cấp thông tin đầy đủ, minh bạch, chính xác, kịp thời với hệ thống dữ liệu đầy đủ, cập nhật, điều này không chỉ phục vụ cho công tác phân tích và dự báo, mà còn phục vụ cho việc điều chỉnh cơ chế chính sách sát với yêu cầu thực tiễn. Chỉ khi có được hệ thống thông tin tốt, minh bạch, niềm tin sẽ tăng lên. Bốn là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với công nghệ hợp lý. Đây là yếu tố then chốt để nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngành NH. Thực tế ở VN hiện nay, sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao để quản lý và sử dụng công nghệ NH đang diễn ra ở hầu hết các NH. Do đó đi đôi với đầu tư công nghệ phải bằng mọi biện pháp (tạo môi trường cho nguời lao động tự học tập, tổ chức đào tạo chuyên sâu và nâng cao, có cơ chế thưởng, phạt thỏa đáng trong công việc… ) để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Đây là việc làm cấp thiết, nếu NH muốn hướng đến việc phát triển ổn định và bền vững. Năm là, huy động vốn Các Ngân hàng thương mại có kinh nghiệm có thể hạn chế sự chuyển d ịch ti ền g ửi c ảu khách hàng vì mục tiêu tìm kiếm lãi suất cao bằng các giải pháp khác thay vì tăng lãi su ất. Người gửi tiền thực chất đang thực hiện hành vi đầu tư, đi ều này ch ỉ ra r ằng l ợi nhu ận cao cũng đi liền với rủi ro. Để bảo vệ quyền lợi của người gửi ti ền, Nhà n ước đã có chính sách bảo hiểm tiền gửi. Phần tiền gửi vượt hạn mức chi trả sẽ được thanh toán tiếp cho người gửi tiền vượt hạn mức chi trả sẽ được thanh toán tiếp cho người gửi tiền theo quy định và giải quyết các nghĩa vụ n ợ của luật phá sản.V ới quy đ ịnh này, b ản thân người gửi tiền cũng phải có trách nhiệm trong việc lựa ch ọn ngân hàng đ ể g ửi ti ền và việc tuyên truyền nhằm nâng cao hiểu biết về chính sách bảo vệ quyền lợi người gửi tiền cũng cần được các Ngân hàng thương mại thực hiện m ột cách đầy đ ủ, tích c ực. Bên c ạnh đó, để nâng cao niềm tin của công chúng, các Ngân hàng th ương m ại có th ể minh b ạch hóa tối đa hoạt động của mình, nhằm chỉ ra độ an toàn trong hoạt động đối với khách hàng gửi tiền. Mặt khác, cũng nên đưa ra các khuyến cáo về mức lãi suất m ất an toàn trong huy đ ộng vốn đối với hoạt động ngân hàng, khi mà đầu ra đã được chốt chặt b ỡi lãi su ất c ơ b ản đã
  18. được Ngân hàng Nhà nước công bố. Trước diễn biến căng thẳng của thị trường lãi su ất cũng như giả quyết một số mâu thuẫn nói trên đói hỏi việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô cần linh hoạt và sát thực tiễn hơn, phù hợp với những di ễn biến của th ị tr ường, đảm bảo lợi ích chung của nền kinh tế. KẾT LUẬN Có thể thấy, trong suốt quá trình đổi mới và hiẹn đại hóa đất n ước , hệ thống NHTM luôn đóng vai trò quan trọng và là một trong những trung tâm c ủa n ền kinh t ế . M ọi s ự tác đ ộng từ kinh tế thế giới, mọi dấu hiệu của khủng ho ảng , lạm phát, suy thoái….H ầu h ết đ ều có thể nhìn thấy qua NHTM .Đồng thời cũng có thể qua chính hệ thóng ngân hàng này mà có những tác động tích cực ngược trở lại nhằm đi ều ch ỉnh n ền kinh t ế vĩ mô. Vì v ậy đ ẻ có thể tiếp tục duy trì sự lành mạnh của nền kinh tế trong nước trong th ời gian t ới , h ệ thống ngân hàng cần nhận được sự quan tâm sắc đáng hơn nữa , vai trò ch ỉ đạo và đi ều tieets của NHNN phải tiến hành sát sao hơn đồng thời cũng phải hợp lý hơn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1