Tiểu luận: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
lượt xem 52
download
Bài viết sẽ triển khai một số hiểu biết về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó, vận dụng trong công tác giảng dạy tại đơn vị. Để nắm chi tiết nội dung nghiên cứu mời các bạn cùng tham khảo tiểu luận.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn chủ đề: Qua quá trình tập huấn được học tập và nghiên cứu cũng như sự hướng dẫn, truyền đạt của các thầy, cô giáo phụ trách giảng dạy chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên tiêu hoc ̉ ̣ ở hạng II, tôi nắm bắt được các nội dung như sau: Nắm bắt xu hướng phát triển của giáo dục, tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, các mô hình trường học mới. Những mặt được và mặt hạn chế của các mô hình trường học đó. Vận dụng sáng tạo và đánh giá được việc vận dụng những kiến thức về giáo dục học và tâm sinh lý lứa tuổi vào thực tiễn giáo dục học sinh tiểu học của bản thân và đồng nghiệp. Chủ động, tích cực phối hợp với đồng nghiệp, cha mẹ học sinh và cộng đồng để nâng cao chất lượng giáo dục học sinh tiểu học. Nắm vững và vận dụng tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, quy định và yêu cầu của ngành, địa phương về giáo dục tiểu học; chủ động tuyên truyền và vận động đồng nghiệp cùng thực hiện tốt chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng. Hiểu rõ chương trình và kế hoạch giáo dục tiểu học; hướng dẫn được đồng nghiệp cùng thực hiện chương trình và kế hoạch giáo dục tiểu học. Để đi đúng định hướng, đúng mục tiêu mà mà ngành và Nhà Nước vạch ra và hướng tới. Cùng góp sức mình vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Vì giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nên tôi chọn đề tài: “Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”. Cơ quan nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước. Được thành lập theo trình tự nhất định do pháp luật quy định, tùy thuộc tổ chức, chức năng, nhiệm vụ do nó đảm nhiệm. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền do pháp luật quy định. Hoạt động nhà nước mang tính chất quyền lực và được đảm bảo bằng quyền lực nhà nước, hoạt động đó được tuân theo thủ tục do pháp luật quy định. Những người đảm nhiệm chức trách trong cơ quan nhà nước phải là công dân Việt Nam. Hiểu được như thế tôi thấy mình cần tiếp thu, cập nhật thường xuyên những định hướng mới, chấp hành nghiêm túc các quy định của ngành, đường lối chính sách của Đảng và Nhà
- Nước. Tạo chất lượng và uy tín giáo dục Việt nam nói chung và nơi mình công tác nói riêng là rất cần thiết. Hy vọng qua bài viết của mình tôi sẽ có thêm nhiều kinh nghiệm trong công tác tại đơn vị. Trong bài viết này tôi sẽ triển khai một số hiểu biết về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó, vận dụng trong công tác giảng dạy tại đơn vị mình. 2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập các chuyên đề của khóa bồi dưỡng: Qua thời gian được bồi dưỡng lần này tôi nhận thấy 10 chuyên đề đều rất cần thiết cho hoạt động giáo dục trong nhà trường nói chung và đối với bản thân tôi là giáo viên nói riêng. Bản thân tôi luôn phấn đấu học tập những kiến thức mới, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để nâng cao trình độ năng lực, chuyên môn phục vụ cho việc giảng dạy. Tôi nhận thấy khóa bồi dưỡng này các thầy cô đã mang đến kiến thức hay và bổ ích giúp cán bộ quản lý và giáo viên có những thay đổi tích cực để xây dựng nhà trường đúng định hướng xã hội chủ nghĩa và theo xu thế hội nhập quốc tế. Mặt khác, tôi có thêm lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, nâng cao lý tưởng nghề nghiệp, nâng cao năng lực dạy học, năng lực tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương, tìm hiểu những định hướng mới của Nhà Nước…Từ đó giáo viên sẽ hiểu rõ hơn về công việc của mình để đưa sự nghiệp giáo dục nước nhà phát triển hơn nữa. Ý nghĩa và tầm quan trọng của chuyên đề: “Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” giúp người học hiểu thêm quyền lực của nhà nước, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhiệm vụ quyền hạng của chính quyền địa phương và quan trọng hơn là nắm được, cập nhật được những điểm mới của luật tổ chức chính quyền địa phương luật giáo dục. Bên cạnh đó, lãnh đạo
- các nhà trường và đội ngũ giáo viên sẽ không ngừng học tập để nâng cao trình độ đáp ứng hoạt động giáo dục theo hướng đổi mới để theo kịp các trường trên thế giới. 3. Những mục tiêu cần đạt sau khóa bồi dưỡng cho cá nhân, cho tổ chức các hoạt động giáo dục trong nhà trường: Nắm vững và vận dụng tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, quy định và yêu cầu của ngành, địa phương. Người học sẽ có cái nhìn tổng quan hơn về thực trạng nền giáo dục nước nhà, so sánh với các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Từ đó, có cách đổi mới cho phù hợp. 4. Các nhiệm vụ được đặt ra cho bài viết thu hoạch: Nghiên cứu đề tài đã chọn: lý luận, thực trạng, đề xuất những giải pháp cho thực trạng đã nêu. Nắm rõ và áp dụng đúng những gì đã học được sau khóa bồi dưỡng. Bài viết thu hoạch sẽ được áp dụng trong quá trình dạy học thực tế.
- B. PHẦN NỘI DUNG I. KẾT QUẢ THU HOẠCH KHI THAM GIA KHÓA BỒI DƯỠNG 1. Giới thiệu tổng quan về các chuyên đề học tập: Qua quá trình được học tập và nghiên cứu cũng như sự hướng dẫn, truyền đạt của các thầy phụ trách giảng dạy Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II, tôi nắm bắt được các nội dung như sau: Chuyên đề 1. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Khái quát về cơ quan nhà nước; Các cơ quan nhà nước; Hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chuyên đề 2. Xu hướng quốc tế và đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam Tổng quan kinh nghiệm quốc tế về phát triển giáo dục phổ thông (qua giáo dục phổ thông một số quốc gia); Đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam. Chuyên đề 3. Xu hướng đổi mới quản lí giáo dục phổ thông và quản trị nhà trường tiêu hoc ̉ ̣ Những cơ sở pháp lí và thực tiễn của đổi mới quản lí giáo dục; Những yếu tố cơ bản trong đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục; Đổi mới hoạt dộng giáo dục; Một số đổi mới khác trong quản trị trường học; Điều kiện thực hiện chương trình. Chuyên đề 4. Động lực và tạo động lực cho giáo viên tiểu học
- Động lực và tạo động lực làm việc cho giáo viên; Một số lí thuyết cơ bản về tạo động lực; Phương pháp và công cụ tạo động lực cho giáo viên; Một số trở ngại đối với việc có động lực và tạo động lực đối với giáo viên. Chuyên đề 5. Quản lý hoạt động dạy học và phát triển chương trình giáo dục nhà trường tiểu học Một số mô hình nhà trường phổ thông đầu thế kỉ XXI; Mô hình trường học mới với hoạt động giáo dục theo hướng tiếp cận phát triển phẩm chất và năng lực; Đổi mới đánh giá học sinh theo hướng tiếp cận phát triển phẩm chất và năng lực; Hoạt động dạy học và giáo dục các trường tiểu học ở địa phương. Chuyên đề 6. Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II Khái quát về thực trạng năng lực giáo viên tiểu học; Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên tiểu học; Hợp tác phát triển và sử dụng đội ngũ giữa các nhà trường và các cơ sở giáo dục trong triển khai đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Chuyên đề 7. Dạy học và bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng khiếu trong trường tiểu học Quan niệm về người giáo viên hiệu quả; Khung năng lực nghề nghiệp của giáo viên ở một số quốc gia; Bài học kinh nghiệm trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam; Phát hiện học sinh có năng khiếu và bồi dưỡng học sinh giỏi trong dạy học ở trường tiểu học. Chuyên đề 8. Đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục trường tiểu học Các thành tố tạo nên chất lượng giáo dục; Đánh giá chất lượng giáo dục; Kiểm định chất lượng giáo dục trường tiểu học. Chuyên đề 9. Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở trường tiểu học Vai trò, vị trí của hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở trường tiểu học; Tạo lập môi trường nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng
- ở trường tiểu học; Quản lí hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở trường tiểu học. Chuyên đề 10. Xây dựng môi trường văn hóa, phát triển thương hiệu nhà trường và liên kết, hợp tác quốc tế. Xây dựng văn hóa nhà trường và phát triển thương hiệu; Văn hóa nhà trường và đạo đức nghề nghiệp; Văn hóa nhà trường và phát triển đội ngũ. 2. Khái quát về cơ quan nhà nước 2.1. Khái niệm và đặc điểm Bộ máy nhà nước được thiết lập nhằm thực hiện quyền lực nhà nước. Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có cơ cấu tổ chức phức tạp, bao gồm nhiều loại cơ quan, được hình thành bằng cách thức khác nhau, và được trao những nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau để thực hiện chức năng riêng phù hợp với chức năng chung của Nhà nước. Cơ quan nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước. Thông thường, kết quả hoạt động của cơ quan nhà nước là các quyết định có tính bắt buộc thi hành đối với những người có liên quan. Trường hợp quyết định không được thi hành, hoặc thi hành không đầy đủ, người có trách nhiệm thi hành phải chịu trách nhiệm trước nhà nước, xã hội. Quyền lực của mỗi cơ quan Nhà nước tùy thuộc vào vị trí, chức năng của cơ quan đó trong hệ thống cơ quan nhà nước và được thể chế hóa thành nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong pháp luật. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước tùy thuộc vào tính chất, nhiệm vụ, chức năng của nó, nhưng đều theo những nguyên tắc chung, thống nhất. Đặc điểm của cơ quan nhà nước: Các cơ quan nhà nước được thành lập theo trình tự nhất định do pháp luật quy định, tùy thuộc tổ chức, chức năng, nhiệm vụ do nó đảm nhiệm; Cơ quan nhà nước có thẩm quyền do pháp luật quy định; Hoạt động của cơ quan nhà nước mang tính quyền lực và được đảm bảo bằng quyền lực nhà nước, hoạt động đó được tuân theo thủ tục do pháp luật quy định; Những người đảm nhiệm chức trách trong các cơ quan nhà nước phải là công dân Việt Nam. 2.2. Hệ thống các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước
- Theo Hiến pháp năm 2013, ở nước ta có các loại cơ quan nhà nước sau: Các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương); Các cơ quan hành chính nhà nước (bao gồm: Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan có chức năng Quản lí Nhà nước thuộc Chính phủ; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân); Các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự, các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án đặc biệt và các Tòa án khác do Luật định); Các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự, Viện kiểm sát nhân dân địa phương); Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước được trao quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh. Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013 còn lần đầu tiên hiến định hai cơ quan là Hội đồng bầu cử Quốc gia và Kiểm toán nhà nước do Quốc hội thành lập. 2.3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước tùy thuộc vào tính chất các nhiệm vụ được giao, nhưng đều theo nguyên tắc chung thống nhất như sau: Nguyên tắc nhân dân tham gia tổ chức nhà nước, quản lí nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Đây là nguyên tắc thể hiện bản chất nhân dân của Nhà nước ta. Tất cả nhân dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giới tính, đều có quyền thông qua bầu cử để lựa chọn các đại biểu thay mặt mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, thực thi quyền lực nhà nước. Nguyên tắc Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Theo điều 4 hành pháp năm 2013, Đảng cộng sản Việt Nam: Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
- nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Nguyên tắc tập trung dân chủ Nguyên tắc này đã được khẳng định tại Hiến pháp năm 2013. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng trong bộ máy nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được quy định trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Ở Việt Nam, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, do Nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước Nhna6 dân. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp; Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Song, việc thực hiện quyền lập pháp của Quốc hội sẽ nhận được sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan khác như Chính phủ, Tòa án...Đối với các quyền lực khác cũng được thực hiện tương tự như vậy. Nguyên tắc quản lí xã hội bằng Hiến pháp, pháp luật Việc tổ chức các cơ quan nhà nước phải dựa trên và tuân thủ những quy định của pháp luật về cơ cấu tổ chức, biên chế, quy trình thành lập,...Chức năng của bộ máy nhà nước thể hiện trên ba lĩnh vực hoạt động: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong lĩnh vực lập pháp, bộ máy nhà nước, thông qua hoạt động khác nhau của các cơ quan, thể chế hóa đường lối, chủ trương, phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế xã hội của đất nước và các thông lệ quốc tế, tạo lập cơ sở pháp lí cho mọi hoạt động của xã hội và của Nhà nước.
- Trong lĩnh vực hành pháp, bộ máy nhà nước, bằng hoạt động cụ thể, đưa pháp luật vào đới sống xã hội, bảo đảm thực hiện thống nhất pháp luật ở mọi cấp, mọi ngành trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia. Trong mọi lĩnh vực tư pháp, bộ máy nhà nước, bằng hoạt động cụ thể của từng cơ quan, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm nhằm duy trì trật tự, kỉ cương, ồn định xã hội. 3. Các cơ quan nhà nước 3.1. Quốc hội Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.” Là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, Quốc hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 2013, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân (Điều 2). Nhân dân có thể thực hiện quyền lực của mình bằng các biện pháp dân chủ trực tiếp, bán trực tiếp và gián tiếp. Bằng biện pháp dân chủ gián tiếp, Nhân dân bầu ra các cơ quan đại diện (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) để thực hiện quyền lực của mình, trong đó, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lập pháp là một trong những lĩnh vực hoạt động cơ bản nhất của Quốc hội để điều chỉnh các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Trên cơ sở đó, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện, góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị, giữ vững an ninh, trật tự, phát triển kinh tế và mọi mặt cuộc sống. 3.2. Chủ tịch nước Điều 86 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.”
- Chủ tịch nước được Quốc hội bấu trong số đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kì của Chủ tịch nước làm việc đến khi Quốc hội khóa mới bầu Chủ tịch nước mới. 3.3. Chính phủ Theo Hiến pháp năm 2013, vị trí tính chất của Chính phủ được quy định theo tinh thần đổi mới nhằm xây dựng Chính phủ mạnh, hiện đại, dân chủ, thống nhất quản lí vĩ mô các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước. Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Chính phủ được Hiến pháp nhấn mạnh và đề cao vị trí, tính chất của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ do Quốc hội thành lập ra, nhiệm kì của Chính phủ theo nhiệm lì của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kì, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới thành lập Chính phủ. Thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Thành viên của Chính phủ có thể bị Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm hoặc cách chức theo quy định của pháp luật, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội có trách nhiệm cụ thể hóa Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội thành những văn bản dưới luật, đưa ra những biện pháp thiết thực, phân công, chỉ đạo, điều hành và kiểm tra việc thực hiện các văn bản trong thực tế. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được quyết định trong kì họp thứ nhất của mỗi khóa Quốc hội trên cơ sở căn cứ vào quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Chính phủ hiện hành. Thủ tướng Chính phủ là đại biểu Quốc hội, do Quốc hội bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. 3.4. Chính quyền địa phương Điếu 110, Hiến pháp năm 2013 quy định các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
- “Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tĩnh; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định.” Hội đồng nhân dân Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên; đồng thời quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Ủy ban nhân dân Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Ủy ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao. 3.5. Tòa án nhân dân Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong tổ chức bộ máy nhà nước, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Tòa án thực hiện quyền tư pháp. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ
- quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm,các vi phạm pháp luật khác. Tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân Hệ thống Tòa án nhân dân bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao Tòa án nhân dân cấp cao Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương Tòa án quân sự 3.6. Viện kiểm sát nhân dân 3.6.1. Vị trí pháp lí của Viện kiểm sát nhân dân Kế thừa nguyên tắc cơ bản về tổ chức quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 1992 và thể hiện tinh thần tăng cường yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 2013 đã hoàn thiện nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013). 3.6.2. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân a) Viện kiểm sát nhân dân tối cao Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; Cơ quan điều tra; Các cục, vụ, viện và tương đương; Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, các cơ quan báo chí và các đơn vị sự nghiệp công lập khác; Viện kiểm sát quân sự trung ương. b) Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
- Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; Các viện và tương đương; c) Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; Các phòng và tương đương; d) Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện gồm có văn phòng và các phòng; những nơi chưa đủ điều kiện thành lập phòng thì có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc. Hệ thống Viện kiểm sát quân sự bao gồm: Viện kiểm sát quân sự trung ương; Viện kiểm sát quan sự quan khu và tương đương; Viện kiểm sát quan sự khu vực. 3.7. Kiểm toán nhà nước 3.7.1. Vị trí, chức năng của Kiểm toán nhà nước Vị trí: Điều 118 Hiến pháp năm 2013 quy định: Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lí, sử dụng tài chính, tài sản công. Chức năng: Chức năng của Kiểm toán nhà nước là thực hiện kiểm toán việc quản lí, sử dụng tài chính, tài sản công. Chức năng này được quy định cụ thể trong Luật Kiểm toán nhà nước, bao gồm ba chức năng cụ thể: kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lí, sử dụng ngân sách, tiến và tài sản nhà nước. 3.7.2. Tổ chức bộ máy của Kiểm toán nhà nước
- Luật Kiểm toán nhà nước quy định về hệ thống tổ chức của Kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nhà nước được tổ chức và quản lí tập trung thống nhất gồm bộ máy điều hành. Kiểm toán nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán nhà nước khu vực và các đơn vị sự nghiệp. II. HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 1. Tình hình xây dựng Nhà nước trong thời gian qua và những nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới Những thành tựu và hạn chế trong xây dựng nhà nước pháp quyền Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội 2011 2020. Sự xác định mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong Báo cáo chính trị của Đại hội X không chỉ là khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, còn là sự đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới, một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Quá trình xây dựng, tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta trong suốt mấy chục năm qua (đặc biệt trong những năm đổi mới) đã đưa lại nhiều kết quả tích cực. Nghị quyết Hội nghị lần thứ III khoá VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các Văn kiện Đại hội Đảng khoá IX, X đã khẳng định công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những tiến bộ quan trọng . Đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Hiến pháp 1992 và nhiều Bộ luật, Luật, Pháp lệnh đã được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý để nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng... Đã có nhiều quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây dựng nhà nước và pháp luật, làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực. Dân chủ về kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích
- cực đến việc giải phóng sức sản xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Dân chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện ở việc bầu các cơ quan dân cử, ở chất lượng sinh hoạt của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, tại các cuộc thảo luận của nhân dân tham gia ý kiến xây dựng các dự án luật, trong hoạt động của báo chí. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trước hết là của cơ quan hành chính nhà nước, đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước đã có bước đổi mới, vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức và hoạt động của nhà nước ta cũng đang bộc lộ nhiều yếu kém: Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lý, điều hành chưa cao; kỷ cương xã hội còn bị buông lỏng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước ta. Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới; chưa phát huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí và thất thoát nghiêm trọng. Tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ, phân cấp trung ương, địa phương còn một số mặt chưa cụ thể (như về quản lý đầu tư, tài chính, tổ chức bộ máy, kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ...), làm cho tình trạng tập trung quan liêu cũng như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước vẫn còn tình trạng buông lỏng và bao biện, chống chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước. Có nhiều nguyên nhân gây nên những yếu kém của hệ thống chính trị, của bộ máy nhà nước, trong đó chủ yếu là: Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm. Đảng chưa làm tốt việc lãnh đạo cụ thể hoá nghị quyết của Đảng về xây dựng nhà nước để có chủ trương kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong thực tiễn đổi mới, đặc biệt là những vấn đề nổi lên ngày càng bức xúc như tình trạng quan liêu, lãng phí, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong
- bộ máy nhà nước; thiếu những biện pháp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương kiên quyết, hợp lý và đủ mạnh để tạo chuyển biến tích cực nhằm khắc phục những khuyết điểm, yếu kém. Chưa kịp thời tổng kết thực tiễn và còn thiếu cơ sở khoa học khi quyết định một số chủ trương về sắp xếp điều chỉnh tổ chức bộ máy ở trung ương và địa phương nên khi thực hiện có vướng mắc, hiệu quả và tác dụng còn hạn chế. Các cơ quan nhà nước chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm trong việc quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng; trong việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn, bảo đảm sự trong sạch và nâng cao hiệu quả hoạt động ở từng cơ quan, đơn vị. Các đoàn thể quần chúng chưa chú trọng xây dựng các nội dung cụ thể, thiết thực và đổi mới phương thức hoạt động để tổ chức vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ trong việc tham gia xây dựng chính quyền, giám sát hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, sống, làm việc theo hiến pháp, pháp luật. 2. Những hạn chế yếu kém Chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và của các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước trên một số lĩnh vực chưa rõ; phân định chức năng, thẩm quyền quản lý, điều hành giữa Chính phủ (tập thể Chính phủ) và Thủ tướng chưa thật rõ ràng, rành mạch. Tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, hoạt động thiếu nhịp nhàng, thông suốt. Bộ máy Chính phủ tuy đã giảm số bộ, nhưng số lượng đơn vị đầu mối trong từng bộ lại có xu hướng tăng; cơ cấu bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương (các tổng cục, cục, vụ, viện, sở, phòng) còn chưa được sắp xếp hợp lý; chức năng quản lý nhà nước chưa được xác định chính xác; thay vì quản lý thông qua chính sách, pháp luật thì trong nhiều trường hợp các cơ quan quản lý nhà nước vẫn thực hiện các hoạt động điều hành, quản lý sản xuất, kinh doanh, can thiệp trực tiếp vào đời sống xã hội. Việc tổ chức hệ thống Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân đã được đổi mới một bước theo Hiến pháp 2013 nhưng vẫn còn nhiều bất cập về cấu trúc bên trong. Toà án cấp huyện dàn đều ở tất cả các huyện, kể cả những huyện có quy mô nhỏ hoặc mới được chia tách; đội ngũ Thẩm phán bị dàn mỏng, phân tán, trong khi số lượng còn rất thiếu, có nơi xét xử không hết án nhưng có nơi lại rất ít án. Quy định của các văn bản pháp luật hiện hành cụ thể hóa Hiến pháp chưa thể hiện rõ cơ chế vận hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự, phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ đâu và kết thúc khi nào. Công tác thực hành quyền
- công tố có chịu sự kiểm sát hay không cũng đang được đặt ra và dư luận rất quan tâm, đặc biệt là trong những trường hợp truy tố oan, sai. Phạm vi, đối tượng, nội dung và các quyền năng cụ thể trong thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp chưa được quy định thật rõ ràng dẫn đến những lúng túng trong quá trình thực hiện, chưa có cơ chế bảo đảm hiệu lực kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát dẫn đến tình trạng nhiều cơ quan hữu quan không thực hiện kiến nghị và kháng nghị của kiểm sát nhưng không có chế tài xử lý. Tổ chức chính quyền địa phương còn nặng về tính bảo đảm tính thống nhất trong chỉ đạo, điều hành của trung ương, chưa phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Mô hình tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được thiết kế một cách tương đối đồng loạt, chưa thể hiện đặc điểm và yêu cầu quản lý nhà nước trên các địa bàn, lãnh thổ khác nhau và gần như không có sự thay đổi từ khi đổi mới đến nay. Tổ chức bộ máy của chính quyền tỉnh, thành phố tuy có sự phân biệt giữa các địa phương có quy mô, tính chất khác nhau; trong quản lý hành chính ở đô thị và ở nông thôn, miền núi, hải đảo, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt nhưng sự khác biệt này vẫn chưa rõ nét cả về tổ chức và thẩm quyền. Chưa xác định rõ cơ chế để cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp tác động trở lại đối với hoạt động của Quốc hội là thiết chế thực hiện quyền lập pháp. Chủ tịch nước được xác định là người thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại nhưng chưa có cơ chế để xác định vai trò của Chủ tịch nước đối với các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngoài thẩm quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trước khi công bố. Đồng thời, chúng ta cũng chưa có cơ chế về mặt nhà nước đế cơ quan thực hiện quyền lực tư pháp kiểm soát hoạt động của cơ quan hành pháp. Về hệ thống pháp luật, mặc dù quá trình đổi mới đạt được nhiều thành tựu trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhưng có thể thấy rằng, hệ thống pháp luật của nước ta vẫn chưa đáp ứng kịp với yêu cầu của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước cũng như việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật mới, sửa đổi, bổ sung nhiều đạo luật hiện hành, song hệ thống pháp luật của ta vẫn chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ, vẫn còn có nhiều văn bản chồng chéo, mâu thuẫn. Một số luật được ban hành nhưng chất lượng chưa cao, chưa sát với cuộc sống, tính khả thi thấp, phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Một số luật còn nhiều quy định mang tính nguyên tắc, thiếu cụ thể nên khi có hiệu lực chưa được thi hành ngay mà phải chờ văn bản quy định chi tiết,
- hướng dẫn, trong khi đó các văn bản loại này nhiều khi lại không được ban hành kịp thời nên pháp luật chậm đi vào cuộc sống và không tránh khỏi có những cách hiểu, cách làm khác nhau, dẫn đến sơ hở, lợi dụng trong việc thi hành pháp luật. Bên cạnh đó, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong một số vấn đề còn chậm được khẳng định hoặc thiếu nhất quán nên cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của công tác thể chế hóa thành pháp luật. Cơ chế bảo đảm cho việc thi hành các quy định của Hiến pháp, xử lý các vi phạm Hiến pháp trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp (bảo vệ Hiến pháp) được giao cho nhiều chủ thể cùng tiến hành, chưa có cơ chế hoạt động chuyên trách. Hoạt động bảo vệ Hiến pháp quan trọng và phổ biến nhất ở Việt Nam là xem xét và bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật nhưng trên thực tế, công tác xem xét, xử lý những văn bản này không được tiến hành triệt để và thường xuyên. Thẩm quyền hủy bỏ, đình chỉ văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp trong thực tiễn hầu như chưa được áp dụng. Hình thức kiến nghị thông qua hoạt động giám sát, kiểm tra của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa được thực thi đầy đủ nên chưa mang lại hiệu quả cao. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quy định về trách nhiệm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp và giao cho Quốc hội quy định cụ thể về cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân còn chậm. Phương thức lãnh đạo của một số cấp uỷ đảng còn chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, vừa có tình trạng buông lỏng và vừa có tình trạng bao biện, chồng chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước. Một số cấp uỷ và tổ chức Đảng vừa lúng túng, vừa thiếu quan tâm lãnh đạo việc quản lý nhà nước trên các lĩnh vực trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Chất lượng cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa đáp ứng được yêu cầu thực thi chức năng, nhiệm vụ theo vị trí việc làm; năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa ngang tầm với đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Mức độ chuyên nghiệp, tính chuyên sâu, kỹ năng hành chính của cán bộ, công
- chức thấp. Công tác quản lý, tuyển dụng, sử dụng, thi tuyển, thi nâng ngạch, đánh giá, luân chuyển, đề bạt cán bộ, công chức chậm thay đổi. Cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức nhìn chung chưa được xây dựng hoặc có xây dựng cơ cấu nhưng chưa hợp lý; đặc biệt đặt trong mối quan hệ giữa cơ cấu cán bộ, công chức với biên chế và xác định chức danh, tiêu chuẩn của từng vị trí việc làm đang đặt ra nhiều vấn đề phải cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức trong cả nước và của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị. Văn hóa công sở, giao tiếp hành chính trong công sở và thái độ, ứng xử của một bộ phận công chức chưa đạt yêu cầu trong thực thi công vụ, phục vụ nhân dân. Một bộ phận công chức bị sa sút về phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm kém, còn quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu nhân dân, coi việc thực thi công vụ, phục vụ nhân dân như là việc ban phát ân huệ của mình; tác phong làm việc quan liêu, cửa quyền, “vô cảm” trước những nhu cầu bức xúc, chính đáng của người dân. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém Nhiều vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa chưa được nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống, chưa xác định rõ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chưa được thể chế đầy đủ, rõ ràng về phương diện pháp luật; chưa tạo sự gắn kết, đồng bộ giữa cải cách hành chính với cải cách lập pháp, tư pháp. Quốc hội nước ta là một thiết chế hoạt động không thường xuyên, đại biểu Quốc hội phần lớn kiêm nhiệm, không chuyên nghiệp, lại thiếu phương pháp, công cụ mang tính chuyên môn nên tác động của giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn hạn chế. Việc thực hiện các hình thức giám sát như xem xét báo cáo, chất vấn tuy có tiến bộ nhưng về cơ bản vẫn đặt Quốc hội vào tình huống bị động trước những sự việc đã rồi. Các hình thức giám sát mạnh như bỏ phiếu tín nhiệm, thành lập uỷ ban điều tra lâm thời tuy có quy định trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội nhưng chưa được thực hiện trên thực tế. Vai trò của Toà án với tư cách là trung tâm của hệ thống tư pháp thực hiện việc giám sát hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các xung đột trong xã hội chưa được đề cao, nhất là trong việc phán quyết đối với cơ quan hành chính chưa đủ mạnh đế góp phần hạn chế vi phạm pháp luật của cơ quan này. Tuy đã sớm thấy yêu cầu đổi mới và kiện toàn tổ chức, bộ máy, song chủ trương và tổ chức thực hiện không đồng bộ; thiếu những giải pháp đồng bộ,
- kiên quyết, kịp thời, hiệu quả nhằm đổi mới tổ chức, nâng cao năng lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, sắp xếp tổ chức, bộ máy không đi đôi với đổi mới thể chế, chính sách, phương thức hoạt động nên kết quả thực hiện bị hạn chế. Đó là nguyên nhân khiến cho cơ cấu tổ chức, bộ máy lúc giảm, lúc tăng đầu mối, khi tách, khi nhập tổ chức bộ máy; biên chế ngày càng tăng. Công tác quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chưa ổn định nên việc bố trí, sử dụng công chức vẫn theo tình huống, bị động. Việc quản lý cán bộ, công chức chưa chuyển sang thực hiện quản lý nguồn nhân lực công vụ. Tình trạng chưa phù hợp giữa vị trí công tác với ngạch chức danh công chức còn phổ biến: công chức giữ ngạch thấp nhưng lại làm công việc của ngạch cao và ngược lại, công chức ở ngạch cao nhưng lại không đảm đương được chức trách, nhiệm vụ của ngạch đó. 3. Phương hướng chung Xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp, cần được tiến hành trên cơ sở phương hướng sau: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lê chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo trên nền tảng chủ nghĩa Mác – lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kiên định con đường lê chủ nghĩa xã hội, đảm bảo tính giai cấp công nhân gắn bó với chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân dân của Nhà nước ta, phát huy đấy đủ tính dân chủ trong mọi sinh hoạt của Nhàn nước, xã hội. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của đất nước, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị và truyền thống dân chủ trong đất nước. Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; phát huy tính dân chủ và vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Nhàn nước.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận quản lý nhà nước ngạch chuyên viên: Xử lý vi phạm về lấn chiếm hành lang an toàn, lập bến bãi kinh doanh vật liệu xây dựng và vận chuyển vật liệu trên đê bao
23 p | 1008 | 242
-
TIỂU LUẬN: Nhà nước và vấn đề xây dựng nhà nước ở nước ta hiện nay
14 p | 279 | 82
-
TIỂU LUẬN: XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ HÓA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
96 p | 271 | 67
-
Tiểu luận Chuyên đề lý luận về NNPQ và vấn đề xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam: Nhận thức về quyền tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
15 p | 306 | 65
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân và vận dụng vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
14 p | 201 | 62
-
Bài tiểu luận: Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
46 p | 315 | 61
-
Tổng quan khoa học đề tài cấp bộ tuyển thầu 2005 - 2007: Đảng lãnh đạo nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
219 p | 178 | 41
-
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Những vấn đề xây dựng nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh
20 p | 181 | 31
-
Tiểu luận Truyền thông và Văn hóa đối ngoại: Ảnh hưởng của truyền thông tới việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
20 p | 1585 | 21
-
Luận án Tiến sĩ: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
166 p | 73 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
25 p | 50 | 13
-
Những đóng góp mới của luận án: Quản lý của nhà nước đối với vốn nhà nước tại các Tổng công ty xây dựng nhà nước
1 p | 119 | 10
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Quản lý của Nhà nước đối với vốn Nhà nước tại các Tổng công ty xây dựng Nhà nước
12 p | 108 | 10
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Luật học: Hệ thống cơ quan của quốc hội trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
28 p | 51 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay
95 p | 40 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng nhà nước pháp quyền trong bối cảnh văn hoá truyền thống Việt Nam
155 p | 27 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học Xã hội và Nhân văn: Tư tưởng chính trị của Jean Jacques Rousseau trong tác phẩm ‘Bàn về khế ước xã hội’ với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
26 p | 8 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn