intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Luật học: Hệ thống cơ quan của quốc hội trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Chia sẻ: Nu Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

55
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận án này là phân tích, vai trò của Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, từ đó đưa ra định hướng và đề xuất giải pháp hoàn thiện cho quá trình đổi mới về mặt tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan của Quốc hội với một tầm nhìn dài hạn và mang tính lý luận để phục vụ việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam một cách hiệu quả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Luật học: Hệ thống cơ quan của quốc hội trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI MAI THỊ MAI H TH NG C QU N C QU C HỘI TRONG ĐIỀU KI N NG NHÀ NƯ C PHÁP QU ỀN HỘI CH NGH VI T NAM Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số đề tài: 9380102 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN S LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2021
  2. Công trình được hoàn thành tại: TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Tô Văn Hoà 2. TS. Trần Thái Dương Phản biện 1: ……………………………. Phản biện 2: ……………………………. Phản biện 3: ……………………………. Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường, họp tại Trường Đại học Luật Hà Nội vào hồi … giờ ngày … tháng … năm …..
  3. DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong một Quốc hội hoạt động chuyên nghiệp – Tạp chí Luật học, số 10/2018. 2. Một số vấn đề về thẩm quyền giải thích hiến pháp, luật và pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội – Tạp chí Công thương, số tháng 3/2019. 3. Luật Tiếp cận thông tin – Góc nhìn so sánh với Luật Tự do Thông tin của Hoà kỳ - Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2018. 4. Lý luận về án lệ trong hệ thống pháp luật các nước Common Law, Civi law và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số tháng 5/2017. 5. Phương pháp xác định kết quả bầu cử theo đa số - Nhận thức lại qua cuộc bầu cử Hạ nghị viện Vương Quốc Anh, Tạp chí Luật học, số tháng 12/2016. 6. Tính tự quản của địa phương – sự ảnh hưởng đến mô hình tổ chức chính quyền địa phương của Hoa kỳ và Trung Quốc, Tạp chí Luật học, số tháng 7/2016. 7. Góc nhìn khác về quy trình hiệp thương giới thiệu ứng cư viên Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân - Tạp chí nghiên cứu lập pháp số tháng 5/2016. 8. Nguyên tắc chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Luật học, số tháng 5/2015. 9. Dự thảo Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi) với các quy định về uỷ ban lâm thời, đồng tác giả với TS. Tô Văn Hoà – Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số tháng 6/2014. 10. Vị trí, vai trò của Uỷ ban lâm thời hạ nghị viện một số quốc gia phát triển, đồng tác giả với TS. Tô Văn Hoà – Tạp chí Luật học số tháng 1/2014.
  4. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Ngày 28 tháng 11 năm 2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Hiến pháp của thời kỳ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với nhiều nội dung tiến bộ, trong đó đặc biệt ghi nhận nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nguyên tắc này nhấn mạnh việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước ở cấp trung ương, trong đó quyền lập pháp giao cho Quốc hội, quyền hành pháp giao cho Chính phủ, và quyền tư pháp được giao cho Tòa án. Với sự minh bạch và phân công cụ thể về chức năng và nhiệm vụ quyền hạn cho từng cơ quan như vậy, đồng nghĩa với việc vị trí của Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất được tăng cường và khẳng định. Hiến pháp 2013, khẳng định một cách mạnh mẽ một lần nữa chức năng lập pháp – chức năng quyết định lựa chọn điều chỉnh một quan hệ xã hội và điều chỉnh quan hệ xã hội đó như thế nào? Giao cho Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của người dân nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Hơn thế nữa, Hiến pháp 2013 đã bổ sung thêm hoạt động “kiểm soát” quyền lực nhà nước trên cơ sở thể chế hóa đường lối của Đảng, điều này được hiểu rằng chức năng giám sát tối cao của Quốc hội tiếp tục được tăng cường hơn nữa nhằm đảm bảo mục đích “kiểm soát” quyền lực nhà nước, đảm bảo vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội. Với vị trí đó, các cơ quan của Quốc hội cần được tổ chức như thế nào để có thể phát huy được hiệu quả hoạt động của Quốc hội nhất là trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Trước tình hình đó, việc đi sâu vào phân tích, luận giải và đưa ra được hệ thống các tiêu chí về mặt lý luận cho cách thức tổ chức và hoạt động của Quốc hội hay nói cách khác là một mô hình tổ chức cho các cơ quan của Quốc hội là một đòi hỏi bức thiết. Với những lý do trên nghiên cứu sinh (NCS) lựa chọn nghiên cứu về “Hệ thống cơ quan của Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” làm đề tài cho luận án. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
  5. 2 Mục đích của luận án : Phân tích, vai trò của Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, từ đó đưa ra định hướng và đề xuất giải pháp hoàn thiện cho quá trình đổi mới về mặt tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan của Quốc hội với một tầm nhìn dài hạn và mang tính lý luận để phục vụ việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam một cách hiệu quả. Nhiệm vụ của luận án: Phân tích những vấn đề lý luận về hệ thống các cơ quan của Quốc hội Việt Nam cũng như tìm hiểu vê tổ chức và hoạt động của một số nước trên thế giới để có thể rút ra được một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; Thực trạng hoạt động của các cơ quan của Quốc hội theo quy định của pháp luật hiện hành; Đề xuất quan điểm và giải pháp đề hoàn thiện hệ thống các cơ quan của Quốc hội Việt Nam trong điều kiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của luận án là góc nhìn lý luận về vị trí, vai trò của các cơ quan của Quốc hội (gồm: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội đối với việc xây dựng một Quốc hội chuyên nghiệp trong điều kiện Việt Nam xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Phạm vi nghiên cứu của luận án là: Về mặt không gian: Luận án tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận của các Cơ quan của Quốc hội trong điều kiện Việt Nam xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Cùng với đó, luận án cũng đi nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của cơ quan lập pháp ở một số quốc gia điển hình được lựa chọn trên thế giới dựa trên hệ thống pháp luật và các hình thức chính thể cơ bản gồm: Trung Quốc, CHLB Đức, Cộng hoà Pháp và Hoa kỳ. Về mặt thời gian: Luận án nghiên cứu sự hình thành và phát triển cũng như vị trí, vai trò của các cơ quan của Quốc hội Việt Nam bám theo các bản Hiến pháp Việt Nam. 4. Đóng góp khoa học của Luận án Luận án góp phần bổ sung, làm rõ và phát triển một bước lý luận về vị trí, vai trò của Quốc hội trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Cùng với đó, làm rõ yêu cầu về một cơ quan lập pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN thì cần hướng đến xây dựng một
  6. 3 cơ quan lập pháp chuyên nghiệp, hoạt động hiệu quả. Từ bối cảnh đó, Luận án tập trung nhận diện về khía cạnh lý luận các cơ quan chuyên môn của Quốc hội cần được thay đổi lại về vị trí, vai trò cũng như nhiệm vụ, quyền hạn để Quốc hội có thể đảm trách được vị trí của một cơ quan lập pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 5. Ý nghĩa thực tiễn của Luận án Các nội dung được đưa ra phân tích và trình bày trong luận án là những tư tiệu được nghiên cứu và tìm hiểu công phu, có hệ thống dưới góc độ lý luận và góc độ lịch sử để lý giải về các nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống các cơ quan của Quốc hội. Bên cạnh đó, các đề xuất, kiến nghị đã theo hướng trực tiếp giải quyết những hạn chế, những bất cập và các vấn đề vướng mắc hiện nay trong quá trình tổ chức và hoạt động của các cơ quan của Quốc hội trên thực tiễn. Do đó, kết quả nghiên cứu của Luận án không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà có thể trực tiếp xem xét để tham khảo và đề xuất trong việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến Quốc hội. 6. Kết cấu của Luận án Luận án được kết cấu thành 4 chương, cụ thể: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Lý luận về hệ thống cơ quan của Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chương 3: Thực trạng và thực tiễn thi hành quy định của pháp luật Việt Nam về hệ thống các cơ quan của Quốc hội Việt Nam Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện hệ thống cơ quan của Quốc hội Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
  7. 4 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1 Tình hình nghiên cứu trong nƣớc 1.1.1. Nhóm các nghiên cứu về Quốc hội và Nhà nước pháp quyền Quốc hội – thiết chế đại diện cho dân chủ đã là đối tượng nghiên cứu hàng trăm năm nay của các học giả, các triết gia, các nhà chính trị học cũng như các luật gia. Các nhà tư tưởng vĩ đại của cách mạng tư sản, cách mạng XHCN với các khía cạnh quan tâm khác nhau đều đi tìm hiểu, lý giải về nguồn gốc, bản chất, quy luật vận động của Nhà nước, trong đó có Quốc hội. Vì vậy, các nghiên cứu về Quốc hội và thiết chế đại diện có khối lượng công trình đồ sộ. Trong đó, có thể kể đến các tác phẩm kinh điển đề cập một cách sâu sắc, lý giải một cách thấu đáo về sự tồn tại, tính chất, chức năng cũng như các phương thức hoạt động của Quốc hội, là tiền đề để đánh giá tính hiệu quả của các mô hình tổ chức của Quốc hội trong các chính thể khác nhau. Đó là cuốn sách Chính thể đại diện (Representative government, 1861) của John Stuart Mill, do hai dịch giả nổi tiếng là Nguyễn Văn Trọng và Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú thích, được xuất bản bởi nhà xuất bản (Nxb) Tri thức, 2012; Cuốn Khảo luận thứ hai về chính quyền, của John Locke,(2007) do Lê Huy Tuấn dịch, chú thích và giới thiệu, do Nxb Tri thức xuất bản; cuốn Bàn về khế ước xã hội của Jean – Jacques Rousseau, do Nxb Lý luận chính trị (2004); cuốn Tinh thần pháp luật của Montesquieu(1996) Nxb giáo dục… ở Việt Nam cũng có một số tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng chính trị pháp lý của các học giả tư sản thời kỳ khai sáng và của các nhà lập hiến của Hoa kỳ như: Luật Hiến pháp và chính trị học (1967) của Nguyễn Văn Bông do Nxb Sài Gòn xuất bản; Cuốn Luật hiến pháp và các định chế chính trị và Luật hiến pháp – Khuôn mẫu dân chủ của Lê Đình Chân, do tủ sách Đại học Sài Gòn phát hành năm 1975. Những cuốn sách trên đề cao chủ nghĩa hiến pháp, bàn đến sự hạn chế quyền lực và phân chia quyền lực trong việc vận hành quyền lực nhà nước. Một số tác phẩm được viết trong thời kỳ hiện đại, nghiên cứu về nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam bao gồm: Cuốn Tổ chức và hoạt động của Nghị viện một số nước trên thế giới, văn phòng Quốc hội, Nguyễn Sĩ Dũng (2014) do Văn phòng Quốc hội xuất bản. Nhà nước pháp quyền, tác phẩm là một tập hợp những bài
  8. 5 viết học thuật của nhiều tác giả, được biên tập bởi Josef Thesing, sách tham khảo được dịch và xuất bản bởi Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2002; Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền”(2007) của nhóm tác giả: Nguyễn Đăng Dung, Bùi Ngọc Sơn, Nguyễn Mạnh Tường, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; “Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, (2017) của tác giả Vũ Trọng Lâm, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật; Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng”,(2016) chủ biên: Nguyễn Bá Dương, Nguyễn Văn Dũng, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, (2005), sách chuyên khảo, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội. 1.1. Nhóm các nghiên cứu về Quốc hội Việt Nam và các cơ quan của Quốc hội trong điều kiện Nhà nước pháp quyền XHCN Quốc hội Việt Nam trong Nhà nước pháp quyền”, PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; “Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội và chính phủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”,GS.TS Trần Ngọc Đường và TS. Ngô Đức Mạnh (chủ biên), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2008; Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay, PGS.TS. Bùi Xuân Đức, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007; Quốc hội và các thiết chế trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”; “Quốc hội Việt Nam - Tổ chức, hoạt động và đổi mới” (2010) PGS.TS. Phan Trung Lý; Hoạt động của Quốc hội trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO”(2009) TS Đỗ Ngọc Hải; Một số vấn đề về Đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, (2007) TS. Lê Thanh Vân; Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,(2001) TS. Lê Minh Thông; Quốc hội Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (Nxb Tư pháp, 2005) là cuốn sách được xuất bản bởi Văn phòng Quốc hội, nhân dịp nhìn lại chặng đường 60 năm của Quốc hội Việt Nam. Bên cạnh các sách chuyên khano nêu trên, cũng có rất nhiều các công trình nghiên cứu về Quốc hội với các mức độ khác nhau, cụ thể: Luận án tiến sĩ luật học bao gồm: “Cơ sở lý luận của việc đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội ở Việt Nam hiện nay” (2003), NCS Lê Thanh Vân; “Hoàn thiện quy trình lập pháp ở Việt Nam
  9. 6 hiện nay” (2004) của NCS Hoàng Văn Tú; “Quyền giám sát của Quốc hội đối với Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân” (2004) NCS Phạm Văn Hùng; “Nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, (2007) NCS Trần Hồng Nguyên; “Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam” (2007) NCS Trương Thị Hồng Hà; “Cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam” (2009) NCS Trần Thị Tuyết Mai; “Quốc hội Mỹ và Quốc hội Việt Nam – Những vấn đề tham chiếu” (2013), NCS Nguyễn Quốc Văn; “Hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2016), NCS Trần Văn Thuân. Cùng rất nhiều các luận văn thạc sĩ luật học có thể kể đến như:: “Các ủy ban của Quốc hội theo quy định của pháp luật Việt Nam và Cộng hòa Pháp” của thạc sĩ Nguyễn Thị Phương Thảo,(2004), người hướng dẫn khoa học, TS. Phan Trung Lý và GS.Serge SUR; “Hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.” Của Thạc sĩ Đoàn Thu Huyền, (2010), người hướng dẫn, TS. Tô Văn Hòa; “Hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội - Thực trạng và hướng hoàn thiện” Đỗ Thị Như Hảo, người hướng dẫn GS.TS. Nguyễn Đăng Dung. Cùng với đó là rất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học ở các mức độ khác nhau: Đề tài cấp Nhà nước: “Xây dựng mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta” (2004), GS.TS. Trần Ngọc Đường làm chủ nhiệm; Đề tài cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động báo cáo, giải trình tại HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta hiện nay” (2014), do PGS.TS. Đinh Xuân Thảo làm chủ nhiệm; Báo cáo nghiên cứu “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Văn phòng Quốc hội” Cơ quan tài trợ: Dự án “Tăng cường năng lực cho các cơ quan đại diện ở Việt Nam” (UNDP, 00049114) của Văn phòng Quốc hội. 1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước (1), “Quốc hội và các thành viên” (Congress and its member), (2002), các tác giả: Roger H. Davidson, Walter J. Oleszek, người dịch: Trần Xuân Danh, Trần Hương Gian, Minh Long; Quốc hội Mĩ hoạt động
  10. 7 như thế nào” (How congress works) (2003), sách dịch, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia; Cuốn “The National Assembly in the French institutions”( Những cơ quan của Hạ nghị viện Pháp) (2007) do Service des affaires internationals et de defense xuất bản; Cuốn “Reforming parliamentary committees” (Cải cách các ủy ban của nghị viện) của Reuven Hazan xuất bản năm 2001; Cuốn sách chuyên khảo “The Committees of the House of Representatives in Comparative Perspective” của Phil Larkin, Parliamentary Studies Centre, Australian National University; Cuốn “The new role of parliamantery committees” (Những vai trò mới của các ủy ban của nghị viện) của Lawrence Longley và Roger Davidson xuất bản năm 1998; Cuốn “Select committees and their role in keeping parliament relevant” (Các ủy ban chuyên trách và vai trò của nó trong việc duy trì hoạt động hiệu quả của nghị viện) của Marcus Ganley xuất bản năm 2001; Báo cáo Parliament and democracy in the 21st Century (Nghị viện và dân chủ trong Thế kỷ 21) do Ngân hàng thế giới tài trợ, Orientation handbook for members of parliaments (Sổ tay dành cho các nghị sĩ), Tools for parliamentary oversight (Các công cụ giám sát của nghị viện) do Tổ chức nghị viện dân chủ thế giới. Bên cạnh đó cũng có một số ít các bài nghiên cứu trên tạp chí của các học giả về chủ đề UBLT của nghị viện. Tuy nhiên số lượng các bài nghiên cứu này rất ít, có thể kể đến công trình “Report of the national committee of inquiry into compensation and rehabilitation in Australia” (Báo cáo của ủy ban điều tra về tiền công và tiền lương ở Úc) của J.F. Keeler đăng trên tạp chí luật Adelaide, “The report of the Committee of Inquiry on Industrial Democracy – “the Bullock Committee” (Báo cáo của ủy ban điều tra về dân chủ công nghiệp - Ủy ban Bullock) của Brian Youngman đăng trên Tạp chí Luật kinh doanh quốc tế.v.v. 1.3.1. Những kết quả đạt được Các công trình nêu trên đều đã đi sâu vào phân tích quan điểm, nguyên tắc của việc cải cách bộ máy nhà nước; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của những đổi mới căn bản của bộ máy nhà nước qua Hiến pháp mới; đồng thời luận giải những phương hướng, giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo đảm việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu quản lý đất nước trong giai đoạn mới. Trên cơ sở luận giải những nguyên tắc và giải pháp để hoàn thiện bộ máy
  11. 8 nhà nước nói chung thì các cuốn sách trên đề cập đến vấn đề xác định vị trí, vai trò của Quốc hội trong sự nghiệp đổi mới, phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền. Giới thiệu về cơ cấu tổ chức của Quốc hội/ Nghị viện, trong đó đề cập đến chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội, về Hội đồng dân tộc và hệ thống Ủy ban của Quốc hội. Cùng với đó, các công trình nghiên cứu khoa học nói trên đã phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận chung, về xây dựng Quốc hội, và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN với việc phát huy vai trò của nhân dân. Phân tích những đòi hỏi của Quốc hội Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. 1.3.2 Một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu Mặc dù đã có rất nhiều các công trình khoa học nghiên cứu về Quốc hội nói chung và các khía cạnh của Quốc hội nói riêng, trong đó có khía cạnh về tổ chức và hoạt động của Quốc hội cũng như về các cơ quan của Quốc hội, nhưng các nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc đi sâu vào nghiên cứu về Ủy ban thường Vụ Quốc hội, các ủy ban thường trực và Hội đồng dân tộc của Quốc hội Việt Nam mà ít có nghiên cứu nào tương xứng đề cập đến hệ thống ủy ban lâm thời. Quan trọng hơn cả là chưa có công trình nào nghiên cứu về các cơ quan của Quốc hội dưới góc độ tổng thể, có mối liên hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình tổ chức, hoạt động và tác động đến hiệu quả hoạt động chung của Quốc hội Việt Nam.
  12. 9 CHƢƠNG 2 LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 2.1. Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2.1.1. Vị trí của Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Quốc hội đã trở thành yếu tố cơ bản trong việc đảm bảo các đặc điểm của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, yếu tố quy định về mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước với pháp luật, là yếu tố bảo đảm biến ý chí của nhân dân thành ý chí của nhà nước. Tóm lại, sự hiện diện của Quốc hội, vị trí vai trò của Quốc hội được ghi nhận trong Hiến pháp là một bảo đảm quan trọng cho các yêu cầu của NNPQ về chủ quyền nhân dân và tính hợp pháp của chính quyền. Không cơ quan nào khác mà chỉ có Quốc hội mới là thiết chế xứng đáng nhất đóng vị trí trung tâm trong việc đảm bảo thuộc tính đại diện cho tiếng nói của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Sự hiện diện của Quốc hội, vị trí vai trò của Quốc hội được ghi nhận trong Hiến pháp là một bảo đảm quan trọng cho các yêu cầu của NNPQ về chủ quyền nhân dân và tính hợp pháp của chính quyền. Không cơ quan nào khác mà chỉ có Quốc hội mới là thiết chế xứng đáng nhất đóng vị trí trung tâm trong việc đảm bảo thuộc tính đại diện cho tiếng nói của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 2.1.2. Chức năng của Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2.1.2.1. Chức năng lập pháp của Quốc hội Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì cần nhấn mạnh, đề cao và đòi hỏi Quốc hội phải tăng cường và đẩy mạnh hoạt động lập hiến, lập pháp – chức năng được nhắc đến đầu tiên của Quốc hội. Để đẩy mạnh được hoạt động này, Quốc hội phải đổi mới quy trình hoạt động, phải cải cách để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan của Quốc hội để biến ý chí của nhân dân thành các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung trên
  13. 10 quy mô toàn xã hội dưới dạng là các đạo luật có chất lượng tốt, xứng đáng là luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì nhân dân. 2.1.2.2. Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước Trong nhà nước pháp quyền XHCN, sự hiện diện của Quốc hội không chỉ là sự khẳng định cho quan điểm quyền lực nhà nước từ nhân dân. Nhân dân thành lập ra Quốc hội, đến lượt mình, Quốc hội lại có vai trò quan trọng trong việc hình thành các cơ quan nhà nước khác, quyết định các vấn đề quan trọng trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, hướng đến phục vụ nhân dân. Mặc dù vậy, năng lực quyết định của Quốc hội phụ thuộc vào các yếu tố như: thời gian hoạt động của Quốc hội, thời gian thực hiện nhiệm vụ đại biểu của các ĐBQH, tính chuyên nghiệp của các ĐBQH, khả năng tổ chức và hoạt động của các cơ quan chuyên môn của Quốc hội… 2.1.2.3. Chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước Quốc hội thực hiện giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vai trò to lớn trong việc góp phần phòng chống lạm quyền, lộng quyền từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và phục vụ nhân dân. 2.1.3. Vai trò của Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Một là, Quốc hội cũng là chủ thể thay mặt nhân dân giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước, nhất là hoạt động thực hiện quyền hành pháp. Hai là, Quốc hội đảm bảo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN tổ chức và hoạt động trên cơ sở của Hiến pháp và pháp luật Ba là, Quốc hội trong NNPQ hướng đến việc bảo vệ quyền con người bằng cách đặt ra các quy định pháp luật ràng buộc, ngăn chặn những nguy cơ xâm hại quyền con người, quyền công dân của người dân từ các chủ thể khác trong xã hội. Bốn là, Trong nền dân chủ hiện đại, chính thể của nhiều quốc gia trao cho Quốc hội – đại diện chính đáng của toàn thể nhân dân có thẩm quyền soạn thảo và thông qua Hiến pháp, để làm khuôn mẫu cho việc tổ chức và
  14. 11 hoạt động của chính quyền. Năm là, Quốc hội là cơ quan đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phân công và kiểm soát QLNN của BMNN nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. 2.1.4. Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Một Quốc hội chuyên nghiệp Quốc hội chuyên nghiệp hay tính chuyện nghiệp của Quốc hội là những thuật ngữ đã được đưa ra bàn luận trong vài năm gần đây, nhất là trong xu hướng xây dựng Quốc hộ để đáp của Nhà nước pháp quyền XHCN ứng kịp thời với các đòi hỏi và yêu cầu khách quan tuy nhiên, vẫn chưa có một nghiên cứu nào dày dặn để đưa ra một khái niệm đầy đủ về Quốc hội chuyên nghiệp. Mặc dù vậy, tựu trung lại các nghiên cứu về Quốc hội chuyên nghiệp thì đều đưa ra hai đặc điểm cơ bản của một Quốc hội chuyên nghiệp, cụ thể: Thứ nhất, Một Quốc hội chuyên nghiệp là một Quốc hội có các đại biểu chuyên nghiệp. Hiện nay, dưới khía cạnh pháp lý, ở Việt Nam mới chỉ có các ĐBQH chuyên trách mà chưa có các ĐBQH chuyên nghiệp. Do những điều kiện lịch sử trong quá khứ, trước đây lý thuyết đại biểu kiêm nhiệm tỏ ra thích hợp với thực tiễn, nhưng cũng do những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống và hoạt động của Quốc hội, kiêm nhiệm hôm nay lại khó có thể đáp ứng được hết những yêu cầu khó khăn của công tác lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước trong điều kiện hiện nay. Bởi vậy, yêu cầu chuyên nghiệp hoá đại biểu trở nên cấp thiết. Trên con đường nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, chuyên nghiệp hoá hoạt động lập pháp, những nhiệm kỳ gần đây Quốc hội luôn tăng số lượng ĐBQH chuyên trách. ĐBQH chuyên nghiệp cần đầy đủ phẩm chất và kỹ năng của một nhà lập pháp, cùng với hỗ trợ của một bộ máy giúp việc lành nghề. Các tác giả của cuốn “Quốc hội Mỹ ngày nay” cũng nhấn mạnh đến thực tế là “vấn đề càng phức tạp, càng nhiều đại biểu cần đến sự trợ giúp của bộ máy giúp việc, của chuyên gia” . Có thể thấy, “chuyên trách” làm đại biểu mới là một trong những nội hàm của tính chuyên nghiệp . Để chuẩn bị bước sang chuyên nghiệp, Quốc hội nói chung và ĐBQH nói riêng cần được có những điều kiện hỗ trợ đầy đủ để ĐBQH của chúng ta dần trở thành chuyên nghiệp. Thứ hai, tính chuyên nghiệp của Quốc hội thể hiện trong từng hoạt động của Quốc hội, nói cách khác, cần xây dựng quy trình, thủ tục bảo đảm cho Quốc hội hoạt động chuyên nghiệp
  15. 12 Quy trình thủ tục làm việc của Quốc hội có những vai trò nhất định đối với hoạt động của toàn thể Quốc hội nói chung cũng như đối với cá nhân của mỗi ĐBQH. Xây dựng một quy trình thủ tục làm việc hợp lý, thông suốt có thể làm cho mọi công việc của Quốc hội được tiến triển một cách thuận lợi và nhanh chóng. Quy trình thủ tục làm việc của Quốc hội cũng là một phần cơ sở để Quốc hội xem xét phân công các công việc cho các uỷ ban của Quốc hội. Do đó, có thể khẳng định, tính chuyên nghiệp của đại biểu đi song song với tính chuyên nghiệp trong từng hoạt động của toàn thể Quốc hội và việc xây dựng quy trình, thủ tục hoàn chỉnh nhằm bảo đảm cho tính chuyên nghiệp của Quốc hội. 2.2. Yêu cầu đối với hệ thống cơ quan của Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2.2.1. Khái niệm về hệ thống cơ quan của Quốc hội Hệ thống các cơ quan của Quốc hội là tập hợp của các cơ quan của Quốc hội, có tên gọi, tính chất và vai trò khác nhau, nhưng giữa chúng có mối liên hệ và tác động lẫn nhau trong quá trình hoạt động hướng đến việc thực hiện các chức năng của Quốc hội. Xuất phát từ những đặc điểm về tổ chức, về hoạt động của Quốc hội Việt Nam, có thể thấy cơ cấu tổ chức của Quốc hội Việt Nam gồm ba nhóm cơ quan, cụ thể: (1) Nhóm các cơ quan hỗ trợ về quy trình, thủ tục, điều hành, điều phối hoạt động của Quốc hội; (2) Nhóm các cơ quan chuyên môn để có thể tư vấn, hỗ trợ cho các quyết sách của Quốc hội – Đây chính là các Uỷ ban của Quốc hội (gồm UBTT và UBLT); (3) Nhóm các cơ quan hỗ trợ hành chính, hậu cần, phục vụ cho Quốc hội. Ngoài ra còn có thể có một số loại cơ quan điển hình: Tuỳ quy định của pháp luật mỗi quốc gia mà trong tổ chức của Quốc hội ở quốc gia đó có thêm các cơ quan đặc thù hoặc bổ nhiệm các chức danh trực thuộc phù hợp trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, ví dụ: Thanh tra quốc hội (Ombudsman) – Thụy Điển hay Ủy ban về quyền con người – Philippines; Cao Ủy dịch vụ công, Cao Ủy phụ trách các ngôn ngữ chính thức, Cao Ủy phụ trách sự iêm chính công vụ...- Canada; Cơ quan kiểm toán – Áo, Đức, Tây Ban Nha... ; Tuy nhiên, việc phân loại các bộ phận giúp việc của Quốc hội cũng chỉ mang tính chất nghiên cứu lý thuyết. Do đó, nó không phản ánh hết sự đa dạng và phong phú của thực tiễn cũng như tính chất phức tạp của các bộ
  16. 13 phận hỗ trợ nhau trong Quốc hội. Hiện nay, dưới góc độ lý luận thì bộ máy giúp việc của Quốc hội vẫn chỉ được coi là bộ phận giúp việc và hỗ trợ cho Quốc hội hoạt động của nó chỉ chi phối gián tiếp đến hoạt động của Quốc hội nên sẽ không nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận án. 2.2.2. Các yêu cầu chung đối với hệ thống cơ quan của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam Trong cơ cấu tổ chức của Quốc hội tồn tại nhiều các nhóm cơ quan với những đặc điểm và nhiệm vụ quyền hạn riêng. Tuy nhiên, các nhóm cơ quan này đều đóng góp những vai trò vô cũng quan trọng đối với việc Quốc hội thực hiện hiệu quả các chức năng của mình. Đặc biệt là về khía cạnh chuyên môn của Quốc hội. Để hỗ trợ chuyên môn thì không thể thiếu vắng sự tồn tại, vận hành của các cấu trúc bên trong, nòng cốt đó là các ủy ban của Quốc hội. Vì vậy, nếu như khía cạnh chính sách được xem xét tại các phiên họp toàn thể thì khía cạnh kỹ thuật của chính sách chỉ có thể được xem xét hiệu quả tại các ủy ban chuyên môn của Quốc hội. Sự phát triển trong giai đoạn mới đòi hỏi Quốc hội cần có sự phân định rõ ràng về mặt nhiệm vụ cho các cơ quan của mình. Điều này sẽ đưa đến một bộ máy gọn nhẹ về tổ chức, rõ ràng về chức năng, minh bạch về hoạt động. Từ đó, giúp bổ sung hiệu quả cho hoạt động của Quốc hội về cả khía cạnh kỹ thuật và khía cạnh chuyên môn. Giúp Quốc hội nâng cao vị thế và vai trò của mình trong Nhà nước pháp quyền XHCN. 2.2.3. Các yêu cầu cụ thể đối với hệ thống cơ quan của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam 2.2.3.1. Yêu cầu đối với cơ quan thường trực, điều phối hoạt động của Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là một thiết chế dân chủ, thảo luận và quyết định các vấn đề theo đa số. Theo nguyên tắc này thì không có khái niệm về vai trò người lãnh đạo cá nhân như nhánh hành pháp. Quốc hội với tư cách là một tổ chức, một tập hợp của số đông các nghị sĩ, về nguyên tắc, các đại biểu ngang quyền trong hoạt động và đưa ra các quyết sách của Quốc hội. Do đó cần có những cá nhân hoặc một nhóm giữ vai trò điều hành nghị sự, giải quyết các vấn đề thủ tục, điều phối, điều hành công việc và bảo đảm các điều kiện hoạt động của Quốc hội. Xuất phát từ đặc thù Quốc hội hoạt động không thường xuyên. Cùng với nguyên tắc hoạt động theo chế độ hội nghị và quyết định
  17. 14 theo đa số nên trong thiết chế của Quốc hội cần tồn tại một thiết chế thường trực, mang tính điều phối hoạt động, điều hành các phiên họp đáp ứng các yêu cầu cụ thể: Một là, Thiết chế này được thành lập nhằm bảo đảm tính khách quan trong quy trình làm việc của Quốc hội và thực hiện việc giám sát các quy trình thảo luận tại Quốc hội. Tuy nhiên, không được làm thay Quốc hội, làm suy giảm vai trò của Quốc hội. Hai là, Thiết chế này được thiết kế phù hợp với đặc điểm của Quốc hội trong từng thời kỳ, chú trọng cao về tính chất điều phối hoạt động của các uỷ ban và điều hành của kỳ họp của Quốc hội. Ba là, Thiết chế này hoạt động mang tính thường trực nhưng cần được tổ chức khéo léo, với quy định nhiệm vụ quyền hạn rõ ràng, tránh việc tạo thêm tầng nấc mới trong cơ cấu của Quốc hội, biến thành một Quốc hội thu nhỏ trong một Quốc hội to. Trong bối cảnh hướng đến xây dựng một Quốc hội hoạt động thường xuyên và chuyên nghiệp của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cần thiết cho sự thiết kế và tồn tại một cơ quan thường trực với đáp ứng được các yêu cầu như vậy. 2.2.3.2. Yêu cầu đối với các cơ quan chuyên môn (các Uỷ ban thường trực và các uỷ ban lâm thời) của Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam * Các uỷ ban thƣờng trực có thể nói xét về vai trò thì HĐDT và các Ủy ban thường trực chính là những công cụ để Quốc hội có thể thực hiện hiệu quả được các chức năng và nhiệm vụ của mình. HĐDT và các Ủy ban sẽ cung cấp những thông tin và những đánh giá mang tính chuyên môn sâu, các kiến nghị, đề xuất… để Quốc hội mà trực tiếp là các ĐBQH sẽ cân nhắc, xem xét và đưa ra quyết định. Như vậy, để có thể có một Quốc hội mạnh, chuyên nghiệp khi Việt Nam đang trên con đường xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thì việc xác định vai trò của HĐDT và các Ủy ban thường trực theo xu thế tất yếu sẽ là các cơ quan tham mưu, tư vấn chuyên môn sâu, nơi tập hợp các chuyên gia trong các lĩnh vực với các yêu cầu cụ thể: Một là, HĐDT và các UBTT phải là các cơ quan hoạt động thường xuyên, liên tục của Quốc hội. Đảm bảo việc cung cấp thông tin thường xuyên cho ĐBQH thì thành viên của HĐDT và các UBTT phải hoàn toàn là các ĐBQH chuyên trách.
  18. 15 Hai là, Để tránh tình trạng chồng chéo về thời gian và lợi ích khi họp bàn, cho ý kiến về các vấn đề có liên quan, mỗi ĐBQH chỉ được là thành viên duy nhất của HĐDT hoặc của một UBTT. Ba là, Thẩm quyền của HĐDT và các UBTT phải được tăng cường, mở rộng trên tất cả các hoạt động trong việc thực hiện các chức năng của Quốc hội. Phải được quy định một cách đầy đủ, cụ thể và nhất quán trong các văn bản quy phạm pháp luật. Bốn là, Nên xây dựng hoạt động của HĐDT và UBTT là kênh trung gian kết nối với các ý kiến của chuyên gia, các nhà khoa học và của nhân dân để có thể chuyển hoá các ý kiến xác đáng vào trong các dự thảo Luật, Nghị Quyết của Quốc hội, giúp cho các Dự thảo Luật, Nghị quyết của Quốc hội có tính thực tiễn cao và thể hiện đầy đủ những nguyện vọng của nhân dân. * Các Uỷ ban lâm thời Nói cách khác, UBLT của Quốc hội cần đáp ứng các yêu cầu về mặt lý luận như sau: Một là, Nên quy định UBLT là một hình thức tiến hành hoạt động giám sát của Quốc hội. Ngoài quy định như hiện nay, nên có thêm những quy định cụ thể về việc thành lập Uỷ ban điều tra – một hình thức của UBLT chuyên hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội như: số lượng thành viên, các tiêu chuẩn để có thể trở thành thành viên của Uỷ ban điều tra, thẩm quyền của Uỷ ban điều tra, Uỷ ban điều tra có thể triệu tập các nhân chứng… Hai là, Để tăng cường việc sử dụng UBLT như là một công cụ hỗ trợ cho Quốc hội thực hiện các chức năng của Quốc hội, đặc biệt là chức năng giám sát. Nên bổ sung các quy định pháp luật về các đặc quyền của UBLT với các cơ quan tố tụng như: Những kết quả của UBLT có thể sử dụng làm bằng chứng trước toà, hoặc nếu những người mà UBLT tiệu tập đến mà không đến thì có thể áp dụng các biện pháp phạt hành chính hoặc các chế tài khác… Ba là, Với tư cách là cơ quan nằm trong cơ cấu của Quốc hội, việc hình thành UBLT nên được quy định về mặt thủ tục một cách đầy đủ trong Luật Tổ chức Quốc hội theo hướng: những chủ thể nào được phép đề xuất thành lập UBLT; Bắt buộc thành lập UBLT trong những trường hợp nào? Sau khi đề xuất hình thành UBLT thì trong thời gian bao lâu Quốc hội sẽ quyết định hình thành hay không? hình thức quyết định như thế nào? 2.3. Hệ thống cơ quan của Quốc hội trong điều kiện xây dựng nhà
  19. 16 nƣớc pháp quyền - Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới 2.3.1. Hệ thống các cơ quan của Quốc hội cộng hoà nhân dân Trung hoa (Trung Quốc) 2.3.2. Hệ thống các cơ quan của Nghị viện Cộng hoà Pháp 2.3.3. Hệ thống cơ quan của Quốc hội Cộng hoà Liên bang Đức 2.3.4. Hệ thống cơ quan của Quốc hội Hợp chúng quốc Hoa Kỳ 2.3.5. Một số kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo để hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Quốc hội Việt Nam Việc tìm hiểu về cơ cấu tổ chức của Đại hội đại biểu nhân dân Trung Hoa, cho phép chúng ta hình dung về những biến thể của mô hình của Liên Xô. Tuy nhiên, việc học tập mô hình cần xét đến điều kiện hoàn cảnh, đặc thù của quốc gia và tính hợp lý trong từng thời kỳ lịch sử. Nói cách khác, Việt Nam không bắt buộc là hoàn toàn phải theo mô hình tổ chức Xô Viết tối cao của Liên bang Xô Viết, mà hoàn toàn có thể dựa vào điều kiện hoàn cảnh riêng có ở Việt Nam, cũng như bối cảnh tình hình mới để có thể thiết kế cơ cấu của Quốc hội Việt Nam hiện đại vẫn mang màu sắc xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Với hệ thống cơ quan của Nghị viện Cộng hoà Pháp, có thể thấy được sự tồn tại của thiết chế mang tính chất điều phối hoạt động của các cấu trúc còn lại bên trong Nghị viện Pháp mang tính chất thường vụ giúp đảm bảo sự thông suốt trong hoạt động của Nghị viện. Đây là một mô hình mà Quốc hội Việt Nam có thể học tập trong quá trình chuyển đổi thành một Quốc hội chuyên nghiệp, nhất là trong cơ cấu của Quốc hội Việt Nam đã có sẵn một cơ quan có tính chất thường trực. Đối với mô hình tổ chức Quốc hội của CHLB Đức và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, đặc điểm nổi bật là có một hệ thống Uỷ ban với tính chuyên môn hoá cao độ. “ Các Uỷ ban là cơ sở hạ tầng của Quốc hội. Chúng là nơi khối lượng lớn công việc lập pháp – nơi tập trung tài năng, nơi các chính sách được ấp ủ, nơi hầu hết cá kiến nghị luật pháp được viét lại hoặc sửa đổi, nơi rất nhiều các thoả hiệp cần thiết được tiến hành, nơi quần chúng có thể làm cho ý kiến của mình được biết đến, nơi các thành viên của Quốc hội xây dựng ảnh hưởng và danh tiếng”1. Thực tiễn hoạt động của Quốc hội các quốc gia này cho thấy, sự 1 Xem “Quốc hội Mĩ hoạt động như thế nào” (How congress works) (2003), sách dịch, Trung tâm khoa học xã hôi và nhân văn Quốc gia, tr. 664.
  20. 17 thành công hay thất bại trong hoạt động của các Uỷ ban thường đưa đến cho Quốc hội sự thành công hay thất bại tương ứng, đặc biệt là về việc thực hiện hoạt động lập pháp. Quốc hội Mỹ và Quốc hội CHLB Đức ngày nay có nhiều loại Uỷ ban khác nhau, trong mỗi loại lại có nhiều biến thể, chia thành các nhóm, các tiểu ban…Nghiên cứu về hệ thống các cơ quan bên trong của Quốc hội Mỹ và Quốc hội CHLB Đức nói chung và đặc biệt về vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của hệ thống Uỷ ban của Quốc hội các nước này nói riêng sẽ giúp cho quá trình hoàn thiện cơ cấu tổ chức Quốc hội của Việt Nam được toàn diện và đầy đủ. KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 Một là, nghiên cứu về Quốc hội nói chung và các cơ quan của Quốc hội Việt Nam nói riêng là một trong những đề tài được đề cập đến nhiều. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thì đưa đến những đòi hỏi nhất định đối với Quốc hội. Nói cách khác, mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đặt ra những yêu cầu đối với Quốc hội trên các khía cạnh khác nhau về vị trí, vai trò, chức năng, quyền hạn và cơ cấu tổ chức. Hai là, để Quốc hội có thể đảm bảo được vai trò của mình trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì Quốc hội cần có những nhìn nhận toàn diện và đầy đủ về đòi hỏi một Quốc hội trong nhà nước pháp quyền XHCN phải đáp ứng được những điều kiện và tiêu chí gì. Thông qua đó, để làm căn cứ cho việc sắp xếp tổ chức và hoạt động của các cấu trúc bên trong của Quốc hội để có thể đáp ứng được những đòi hỏi đó. Ba là, Việt Nam là một quốc gia đang trong quá trình phát triển, cải cách và thay đổi về mô hình tổ chức bộ máy nhà nước để có thể đáp ứng với các đòi hỏi của kinh tế, chính trị do đó nên cần có những nghiên cứu và tham khảo về cơ cấu tổ chức các cơ quan của Quốc hội các nước trên thế giới, từ những quốc gia có xu hướng chính trị và lịch sử gần gũi với Việt Nam như Trung Quốc đến các quốc gia mang những đặc điểm của các chính thể phổ biến trên thế giới như Cộng hoà Pháp (Cộng hoà lưỡng tính); Cộng hoà liên bang Đức (Cộng hoà Đại nghị), Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (cộng hoà tổng thống). Để từ đó rút ra được những kinh nghiệm có giá trị mà Việt Nam có thể tham khảo trong quá trình hoàn thiện hệ thống cơ quan của Quốc hội Việt Nam.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2