intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: Xung đột chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tại Việt Nam

Chia sẻ: Bluesky_12 Bluesky_12 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:29

298
lượt xem
96
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu Chính sách tài khóa là việc chính phủ sử dụng thuế khóa và chi tiêu công cộng để điều tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế. Mục tiêu trong ngắn hạn, các chính sách kinh tế đều có cùng mục tiêu là ổn định nền kinh tế ở mức sản lượng tiềm năng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và tỷ lệ lạm phát vừa phải. 1.1.2 Công cụ Thuế Chi tiêu ngân sách

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: Xung đột chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tại Việt Nam

  1. TIỂU LUẬN Xung đột chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tại Việt Nam
  2. 1 XUNG ĐỘT CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM Sinh viên thực hiện: Đồng Quang Nhật K09401 Nguyễn Thành Phúc K09401 Phạm Văn Được K09401 Phan Thanh Hồi K10401 Nguyễn Mạnh Tháp K08407B 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 Chính sách tài khóa 1.1.1 Mục tiêu Chính sách tài khóa là việc chính phủ sử dụng thuế khóa và chi tiêu công cộng để điều tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế. Mục tiêu trong ngắn hạn, các chính sách kinh tế đều có cùng mục tiêu là ổn định nền kinh tế ở mức sản lượng tiềm năng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và tỷ lệ lạm phát vừa phải. 1.1.2 Công cụ Thuế - - Chi tiêu ngân sách 1.1.3 Nguyên tắc thực hiện
  3. 2 Giả sử nền kinh tế đang lâm vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp. Các hãng tư nhân không muốn đầu tư thêm, còn người tiêu dùng không muốn chi tiêu thêm cho tiêu dùng. Tổng cầu ở mức rất thấp. Lúc này, để mở rộng tổng cầu, chính phủ phải tăng chi tiêu hoặc giảm thuế, nâng cao mức chi tiêu chung của nền kinh tế. Trong một mô hình số nhân đầy đủ, việc chính phủ tăng chi tiêu và giảm thuế sẽ khiến sản lượng tăng lên và mức việc làm đầy đủ có thể khôi phục. Ngược lại, khi nền kinh tế đang trong tình trạng tăng trưởng nóng, lạm phát tăng lên, chính phủ có thể giảm chi tiêu và tăng thuế, nhờ đó mức chi tiêu chung giảm đi, sản lượng giảm theo và lạm phát sẽ chững lại. 1.1.4 Hạn chế Về lý thuyết, chính sách tài khóa rất hiệu quả trong việc ổn định nền kinh tế. Nhưng thực tế khi áp dụng, có những hạn chế làm giảm hiệu quả của chính sách tài khóa như sau: Khó tính toán một cách chính xác liều lượng cần thiết của chính sách. Để tính - được liều lượng tăng, giảm chi tiêu và thuế một cách chính xác, trước hết cần xác định được các số nhân chi tiêu và thuế trong thực tế. Đã có nhiều mô hình kinh tế lượng hóa được đưa ra cho các kết quả rất khác nhau. Lý do ẩn nấp đằng sau những bất đồng này là do: a) Có sự khác nhau về quan điểm, cách đánh giá và nhìn nhận khác nhau trước các sự kiện kinh tế. b) Có sự không chắc chắn cố hữu trong các quan hệ kinh tế. Áp dụng chính sách tài khóa mở rộng thì dễ dàng (tăng chi tiêu ngân sách, giảm - thuế), nhưng áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp thì rất khó khăn, nhiều cản trở (do tăng thuế). Có độ trễ về thời gian trong quá trình thực hiện và phát huy hiệu quả của chính - sách tài khóa.
  4. 3 1.2 Chính sách tiền tệ 1.2.1 Mục tiêu (1) Ổn định giá trị đồng tiền : NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên hai mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước) và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. (2) Tăng công ăn việc làm: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên. Mặt khác, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cuộc cải tiến kỹ thuật thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm. Theo nhà kinh tế học Arthur Okun thì khi GNP thực tế giảm 2% so với GNP tiềm năng thì mức thất nghiệp tăng 1%. Từ những điều trên cho thấy, vai trò của NHTW khi thực hiện mục tiêu này :tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất – kinh doanh, chống suy thoái kinh tế theo chu kỳ, tăng trưởng kinh tế ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. (3) Tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng, nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ. Nhận xét: Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà. Mối quan hệ giữa các mục tiêu: Có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, không tách rời.
  5. 4 Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Mặt khác để biết các mục tiêu cuối cùng trên có thực hiện được không, thì các NHTW phải chờ thời gian dài (một năm –khi kết thúc năm tài chính). 1.2.2 Công cụ a. Nghiệp vụ thị trường mở: Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết lượng tiền cung ứng. Cơ chế tác động: Khi NHTW mua (bán) chứng khoán thì sẽ làm cho cơ số tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi). Nếu thị trường mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các NHTM (R), nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ làm thay đổi ngay lượng tiền mặt trong lưu thông (C). Đặc điểm: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của CSTT vì khối lượng chứng khoán mua (bán) tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn kém về chi phí, dễ đảo ngược tình thế. Tuy vậy, vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phải có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ, thị trường vốn. b) Dự Trữ Bắt Buộc Khái niệm: Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phải giữ lại, do NHTW quy định, gửi tại NHTW, không hưởng lãi, không được dùng để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM.Mặt khác khi tăng
  6. 5 (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãi suất cho vay tăng (giảm), từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng). Đặc điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp NHTW chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm , phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM. c. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM Khái niệm: là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định (một năm) để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trưởng, lạm phát, tiêu thụ…) sau đó NHTW sẽ phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức do NHTW quy định . Cơ chế tác động: Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng tiền cung ứng,việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM. Đặc điểm: Giúp NHTW điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế. Song nhược điểm của nó rất lớn: triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM, làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế, dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoài sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên. d. Quản lý lãi suất của các NHTM: Khái niệm: NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng tới qui mô tín
  7. 6 dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được quản lý mức cung tiền của mình. Cơ chế tác động: Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo. Đặc điểm: Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời kỳ, điều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có điều kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp. Song, nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế. Mặt khác việc thay đổi quy định điều chỉnh lãi suất dễ làm cho các NHTM bị động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình. e. Tỷ Giá Hối Đoái Khái niệm: Tỷ giá hối đoái là đại lượng biểu thị mối tương quan về mặt giá trị giữa hai đồng tiền. Nói cách khác, tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được biểu hiện bằng một đơn vị tiền nước khác. Cơ chế tác động: tác động đến hoạt động kinh tế, từ hoạt động xuất nhập khẩu đến sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước qua biến đổi của giá cả hàng hóa Đặc điểm: NHTW có thể ấn định tỷ giá cố định hay thả nổi theo quan hệ cung cầu ngoai tệ trên thị trường ngoại hối bện canh đó còn có tỷ gái cố định nhưng di động khi cần thiết và tỷ giá thả nổi có quản lý. Khi vận dụng công cụ này không phải NHTW đẩy tỷ giá lên cao hay kéo tỷ giá xuống thấp mà ổn định tỷ gái ở một mức độ hợp lí phù hợp vói đặc điểm điều kiện thực tế của đất nước trong từng giai đoạn để tác động chung cuộc của nó là tốt nhất. 1.3 Xung đột giữa 2 chính sách Từ đầu thế kỷ 20, chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa là hai công cụ quan trọng để xây dựng sự ổn định kinh tế của một quốc gia. Với những ưu điểm riêng và tầm ảnh hưởng sâu sắc của mỗi chính sách mà tác động và hiệu quả của nó luôn là vấn đề tranh luận gay gắt không chỉ ở Việt Nam trong giai đoạn gần đây mà đã xuất hiện từ rất
  8. 7 lâu trên thế giới. Từ hai chính sách này đã hình thành nên hai trường phái nổi tiếng. Trường phái trọng tiền, khởi xướng là Milton Friedman và trường phái trọng cầu khởi xướng là Keynes. Để phối hợp chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa hài hòa và thành công thì mỗi chính sách cần phải xác định rõ ràng, cụ thể mục tiêu cần đạt được nhằm tạo cơ sở để Ngân Hàng Trung Ương (NHTW) xác thực các công cụ và thực thi điều hành nghiêm ngặt, Bộ Tài Chính quản lí thu chi ngân sách hợp lí. Việc xác đinh rõ ràng mục tiêu của mỗi chính sách là quan trọng, cần thiết. Thực tế trên thế giới như Mỹ, Tây Âu cho thấy hai chính sách luôn có những mâu thuẫn và xung đột nhất định, tuy nhiên không phải lúc nào cũng đối lập. Qua thời gian, nhìn lại hai chính sách này có những lúc đã hỗ trợ, phối hợp nhau để vực dậy nền kinh tế, đó là thời điểm nền kinh tế rơi vào suy thoái, khủng hoảng hoặc chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ cùng mở rộng hoặc cùng thu hẹp. Khi đó cần phải có sự điều hòa, cân bằng, giới hạn trong thực hiện mục tiêu lẫn tác động của hai chính sách. Khi nền kinh tế trong giai đoạn tăng trưởng, hai chính sách này khó mà hài hòa nhau. Vì sao vậy? Đó là vì mục tiêu tối ưu nhất của hai chính sách theo đuổi trong giai đoạn này là luôn khác nhau, thậm chí hai mục tiêu của cùng một chính sách cũng có mâu thuẫn. Bài nghiên cứu của chúng tôi chỉ đề cập đến những xung đột chính giữa hai chính sách. Chính sách tiền tệ và tài khóa ít khi song hành mà trái lại thường xuyên xung đôt và nối tiếp kìm hãm nhau. Khi chính sách tiền tệ phát huy hiệu quả thì nó lại làm ảnh hưởng đến mục tiêu của chính sách tài khóa và ngược lại khi chính sách tài khóa phát huy hiệu quả thì chính tiền tệ không đạt được một trong các mục tiêu đã đề ra. Sau đây là một số xung đột, mâu thuẫn tương đối của hai chính sách: Khi chính sách tài khóa thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế (tăng sản lượng hàng hóa, dịch vụ, thu nhập, nhiều việc làm, tăng tiết kiệm, đầu tư…) gây áp lực lên lạm
  9. 8 phát, giá cả gia tăng… Lúc này, chính sách tiền tệ ưu tiên thực hiện chính sách ổn định giá trị đồng tiền trong ngắn hạn cụ thể là kìm chế lạm phát bằng cách giảm lượng cung tiền, tăng lãi suất… để giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Khi chính sách tiền tệ nới lỏng cung tiền, giảm lãi suất làm cho đầu tư tăng, kinh tế phát triển nóng áp lực lên khủng hoảng. Khi đó Chính phủ thực hiện chính sách tài khóa thu hẹp, giảm chi tiêu, tăng thuế. Điều này làm ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế của chính sách tài khóa, gây ra thất nghiệp, sản lượng thấp, thu nhập thấp. Tình huống xấu hơn có thể xảy ra, trong cùng một lúc thì chính sách tiền tệ nới lỏng còn chính sách tài khóa lại thu hẹp. Hai chính sách này trực tiếp xung đột nhau, hậu quả là lạm phát và lãi suất đều tăng cao, nguy cơ của khủng hoảng kinh tế. 1.4 Các quan điểm, trường phái Giữa những năm 50 của thế kỷ 19 chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa xung đột gay gắt với những lập luận dẫn chứng thực tế của Keynes và Friedman. Với Friedman in đậm lòng tin vào những chân lý kinh điển của các học thuyết kinh tế thị trường tự do. Còn Keynes, lý thuyết của ông nói rằng không thể trông đợi vào thị trường tự do để cung cấp đầy đủ việc làm, từ đó tạo ra cơ sở mới cho sự can thiệp sâu rộng hơn của chính phủ vào nền kinh tế. Keynes lập luận rằng trong điều kiện suy thoái, khi lãi suất rất thấp, thay đổi trong lượng cung tiền có tác động rất nhỏ đến nền kinh tế. Logic của vấn đề như sau: Khi lãi suất là 4 đến 5%, không ai muốn ngồi trên đống tiền mặt nhàn rỗi. Nhưng trong tình trạng giống như năm 1935, khi lãi suất kỳ hạn 3 tháng của các loại trái phiếu của Bộ Tài chính chỉ có 0.14%, có quá ít lợi ích để chấp nhận việc sử dụng đồng tiền rủi ro như thế. Ngân hàng Trung ương có thể kích thích nền kinh tế bằng cách in thêm lượng lớn tiền, nhưng nếu lãi suất đã rất thấp rồi thì tiền mặt có thêm vào có lẽ cũng sẽ héo úa trong nhà băng hay trong chỗ cất giấu của người dân. Do vậy Keynes lập luận rằng chính sách tiền tệ - dựa vào việc thay đổi lượng cung tiền để điều khiển nền kinh tế - sẽ không hiệu quả. Và
  10. 9 đó là lý do Keynes và những người tiếp bước ông tin rằng chính sách tài khóa - đặc biệt, một sự gia tăng trong chi tiêu chính phủ - là công cụ thiết yếu để kéo đất nước ra khỏi cuộc Đại Suy thoái. Với Friedman, chính sách tiền tệ là sự can thiệp có tính kỹ trị ở mức độ cao, gần như phi chính trị của chính phủ vào nền kinh tế. Nếu Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) quyết định gia tăng lượng cung tiền, nó chỉ cần mua lại một số loại trái phiếu chính phủ từ ngân hàng tư nhân, trả tiền mua trái phiếu bằng cách ghi thêm vào cột "có" trong các tài khoản dự trữ của ngân hàng - thực tế, điều duy nhất FED phải làm là in thêm cơ số tiền mặt. Ngược lại, chính sách tài khóa đòi hỏi chính phủ phải can thiệp sâu hơn vào nền kinh tế, thường theo các phương cách nặng tính toán đánh giá "chủ quan" (value-laden way): nếu các nhà chính trị quyết định phát triển những công trình công cộng để tạo ra việc làm, họ cần quyết định sẽ xây gì và ở đâu. Các nhà kinh tế ủng hộ khuynh hướng thị trường tự do thì thiên về tin tưởng rằng chính sách tiền tệ là tất cả những gì cần đến; còn những người mong muốn vai trò tích cực hơn của chính phủ thì có khuynh hướng tin rằng chính sách tài khóa là thiết yếu. Nhìn chung, qua việc trình bày lí thuyết cũng như dẫn chứng cụ thể, ta thấy rằng mỗi chính sách có những ưu nhược điểm riêng. Mỗi chính sách sẽ phù hợp trong những thời kì khác nhau, chính sách nào cũng có hiệu quả và tác động riêng. Trong xu thế ngày nay, chính sách tiền tệ được áp dụng rông rãi, phổ biến và linh hoạt hơn. Tuy nhiên chính sách tài khóa vẫn giữ vai trò quan trọng, thiết yếu để ổn định kinh tế đất nước. Vì thế hai chính sách trên đều rất cần thiết trong quản lí kinh tế, vấn đề đặt ra là sẽ kết hợp hai chính sách này như thế nào, điều khiển mức độ tác động của mỗi chính sách sao cho hợp lí để đạt mục tiêu chung là cân bằng, ổn đinh nền kinh tế.
  11. 10 2. THỰC TIỄN 2.1 Mỹ Fed luôn va chạm với quốc hội theo cách mà có lẽ sẽ tránh được. Có thể va chạm sẽ tiếp tục xảy ra, mặc dù chính quốc hội đã lập ra Fed. Luôn có một cuộc xung đột mang tính cố hữu giữa mục tiêu dài hạn của Fed và nhu cầu ngắn hạn của hầu hết các nhà chính trị muốn làm hài lòng cử tri. Fed luôn bị “tấn công” bởi các nhà chính trị muốn thúc đẩy tăng trưởng và không lo ngại gì đến lạm phát. Dưới chính quyền của Bush, chủ tịch ủy ban Ngân hàng Thượng viện Alffonse D’Amato của New York hiếm khi bỏ lỡ cơ hội tấn công Fed: “Ngoài kia dân chúng đang đói, vậy mà các ông còn lo lắng về lạm phát”. (Trích cuốn “Kỷ Nguyên Hỗn Loạn” -Alan Greenspan) Trong lịch sử kinh tế Mỹ, FED và chính phủ đã nhiều lần phối hợp cùng nhau để giải quyết các vấn đề kinh tế nhưng cũng nhiều lần xung đột vì các mục tiêu của riêng mình. Với tính độc lập cao của mình, FED tỏ ra rất quyết liệt và mạnh tay với các chính sách của mình, hạ lãi suất, tăng lãi suất, dù là gì thì các chính sách của FED tác động rất lớn đến nền kinh tế, ảnh hưởng rất nhiều đến Phố Wall. Lấy ví dụ một số sự kiện sau (trích từ cuốn “Kỷ Nguyên Hỗn Loạn”: + Sự kiện: Suy thoái và cú sốc dầu lửa OPEC 1973 Diễn biến: Suy thoái 1970: Tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 6%, lạm phát tăng lên mức 5,7% (lập luận theo mô hình Keynes đã thất bại). CPI tăng nhanh: 1974, lạm phát 2 con số, 11%. Thất nghiệp 5.6%. 8/8/1974, Nixon từ chức. Nguyên nhân: Lệnh cấm vận dầu lửa của các nước Ả Rập vào 10/1973 đã làm tình trạng lạm phát và thất nghiệp tồi tệ hơn, tổn hại niềm tin và lòng tự trọng của Mỹ. 1974, tiêu dùng thực tế đã đóng băng, khiến cho lạm phát trở nên nghiêm trọng hơn → khủng hoảng tồn kho.
  12. 11 Biện pháp, chính sách: Để chống lại suy thoái và giảm ý định đánh thêm thuế thu nhập. Fed đã cắt giảm lãi suất và bơm tiền vào nền kinh tế. Chính quyền Nixon thúc đẩy phong trào kiểm soát lương và giá. Chính sách phân phối xăng của chính của tổng thống Nixon. 1/1975, Ford chỉ thị xây dựng kế hoạch ôn hòa: giải quyết khủng hoảng năng lượng, hạn chế tăng ngân sách liên bang, hoàn thuế thu nhập một lần để thúc đẩy chi tiêu gia đình → Quốc hội đã tăng mức giảm thuế gần 50%, khoảng 125 đô la trung bình cho mỗi hộ gia đình. Kết quả, đánh giá: Chính sách cắt giảm lãi suất và bơm tiền vào nền kinh tế của Fed đã giúp GNP tăng trở lại nhưng tiếp tục thúc đẩy lạm phát. Việc kiểm soát lương và giá khiến giá các mặt hàng công nghiệp tăng cao. Chính sách phân phối xăng của chính của tổng thống Nixon gây ra tình trạng xếp hàng dài mua xăng tại một số khu vực tại Mỹ (chính sách này kém hiệu quả). 10/1975, các chính sách của Ford phát huy tác dụng, GNP tăng vụt, nền kinh tế tăng trưởng với tỷ lệ cao nhất trong 25 năm qua, lạm phát và thất nghiệp bắt đầu giảm. + Sự kiện: Khủng hoảng thị trường chứng khoán 1987 Diễn biến: Ngày thứ hai đen tối, tháng 9/1987, đà sụt giảm chưa từng có 22,5% trên chỉ số Dow Jones là phát súng báo hiệu thời kỳ suy thoái tồi tệ nước Mỹ. Chỉ trong ba năm, sự sụp đổ của thị trường tín dụng, và cho vay đã đe dọa tiền tiết kiệm của hàng triệu người dân. Một loạt cường quốc chịu nhiều ảnh hưởng của Mỹ như Canada, Australia, Nhật, hay Anh cũng bị cuốn theo vòng xoáy suy thoái. Dù thị trường chứng khoán hồi phục khá nhanh nhưng thị trường bất động sản, lao động, giá năng lượng, cán cân thương mại và GDP của Mỹ và một số quốc gia khác vẫn đi xuống cho tới 2 năm sau khủng hoảng. Không chỉ gây ảnh hưởng về kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp cao khiến các vẫn đề xã hội trong những năm suy thoái, dưới thời Tổng thống George Bush "cha", như nghiện rượu, ma túy cũng tăng theo. → tâm lý lo lắng của nhà đầu tư tràn lan.
  13. 12 Nguyên nhân: Siêu lạm phát thời Reagan làm cho khoản nợ chính phủ tăng gấp 3 lần. Khi Reagan nhậm chức là 700 tỷ đô la. Cuối năm tài chính 1988 đã là 2000 tỷ đô la. Đồng thời đô la Mỹ rớt giá, người dân lo ngại Mỹ sẽ mất lợi thế cạnh tranh, đe dọa từ sức mạnh kinh tế của Nhật. 1986: CPI tăng có 1,9%. 1987: CPI tăng gần gấp đôi. Tỷ lệ lạm phát 3.6% nhưng lo lắng sẽ tăng nhanh. Biện pháp, chính sách: Fed tăng lãi suất từ 5.5% lên 6%. Để giảm mức lạm phát, buộc phải giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế bằng cách tăng cho phí vay tiền → các NH lần lượt tăng lãi suất. Fed đã tấn công khủng hoảng trên 2 mặt: thuyết phục những công ty kinh doanh khổng lồ và các NH đầu tư ko rút khỏi cuộc chơi. Fed gợi ý hỗ trợ các NH với mong đợi, tới lượt mình, các NH cũng sẽ hỗ trợ các công ty tài chính. FOMC yêu cầu những nhà kinh doanh tại Fed NewYork mua hàng tỷ đô la trái phiếu chính phủ tại thị trường mở → khiến cho nhiều tiền được đưa vào lưu thông hơn, làm giảm tỷ lệ lãi suất ngắn hạn. Fed nới lỏng lãi suất để giúp nền kinh tế tiếp tục vận hành. Kết quả, đánh giá: Việc tăng lãi suất làm giá cả cổ phiếu tụt dốc. Trái với lo sợ của mọi người, nền kinh tế giữ vững và thực tế đã tăng trưởng 2% qúy đầu năm 1988 và lên tới 5% quý hai. Đó là minh chứng sớm cho khả năng phục hồi của nền kinh tế. Áp lực lạm phát đang tăng và bùng nổ thời kỳ Reagan đạt đỉnh điểm: nhả máy hoạt động hết công suất, thất nghiệp đạt mức thấp nhất trong vòng 8 năm → FOMC tăng lãi suất cơ bản. 2.2 Việt Nam Chúng ta có thể thấy được tình trạng nền kinh tế Việt Nam trong thời gian từ khi cuộc khủng hoảng kinh tế -tài chính toàn cầu bừng nổ, đó là tình lạm phát tăng cao và không ổn định, bên cạnh đó là sự suy thoái của nền kinh tế. Lạm phát tăng cao đã trở thành nổi ám ảnh thường trực của Chính Phủ và người dân, điều đáng nói là lạm phát lại tăng cao nhất vào những giai đoạn nền kinh tế khó khăn nhất, đó là giai đoạn 2008-2009 và giai đoạn hiện nay. Tạo nên khó khăn gấp bội cho các
  14. 13 nhà làm chính sách, ưu tiên giải quyết lạm phát, tăng trưởng, hay giải quyết thâm hụt ngân sách đang ở mức cao? Đó là một câu hỏi lớn và bất thiết đặt ra cho Chính Phủ. Chính Phủ đã ưu tiên kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô là mục tiêu hàng đầu. Khi đó chính sách tiền tệ đóng vai trò quan trọng trong kìm chế lạm phát, chính sách tiền tệ thường tập trung ưu tiên vào mục tiêu kìm chế lạm phát và khi ổn định được lạm phát, mục tiêu của chính sách này lại thường kết hợp với mục tiêu tăng trưởng. Các công cụ của chính sách tiền tệ như chính sách lãi suất tái chiết khấu, chính sách dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và hạn mức tín dụng... có tác động nhanh chóng trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng, từ đó tác động đến lạm phát, và vì vậy, chính phủ đã cố gằn sử dụng tối đa các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát về ngắn hạn thông qua Ngân Hàng Nhà Nước; nhưng nếu chỉ có chính sách tiền tệ, lạm phát khó có thể được kiểm soát về dài hạn, đặc biệt đối với các nước lạm phát cơ cấu như của Việt Nam. Vì vậy các nhà làm chính sách đã tìm cách phối hợp chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa để thực hiện mục tiêu của mình.
  15. 14 3. GIẢI PHÁP 3.1 Đánh giá giải pháp của Việt Nam hiện nay Biể ởng kinh tế thế giới, Mỹ, khu vực đồng Euro, Nhật Bản, các nước châu Á đang phát triển và Việt Nam 14.00% 12.00% 10.00% 8.00% 6.00% 4.00% 2.00% 0.00% 1992- 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 -2.00% 2001 -4.00% -6.00% -8.00% Thế giới Mỹ Khu vực EURO Nhật Bản Việt Nam Developing Asia Nguồn: World Economic Outlook, IMF, 10/2010 Mặc dù bối cảnh kinh tế quốc tế không mấy sáng sủa, năm 2008- 2009 nền kinh tế thế giới chìm sâu trong khủng hoảng. Nền kinh tế kinh tế Việt Nam cũng không trách khỏi những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế tại châu Á năm 1997. Năm 2009 tăng trưởng đạt 5,32% và lạm phát bùng phát vượt ngưỡng 20% trong năm 2008 và tiếp tục tái diễn trong năm nay (năm 2011). Trong bức tranh ảm đạm đó, nền kinh tế Việt Nam cũng đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Trong năm 2010, Việt Nam vẫn đạt được mục tiêu tăng trưởng (6,78%) và là một trong số quốc gia có tốc độ tăng trưởng tốt nhất trong khu vực. Hệ thống ngân hàng - tài chính giữ được ổn định, các công cụ điều hành mang tính hành chính trong giai đoạn chống suy giảm kinh tế dần dần được dỡ bỏ, các công cụ thị
  16. 15 trường đang dần tái sử dụng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hồi phục và phát triển sau tác động của khủng hoảng kinh tế và tài chính trên thế giới. Có được kết quả trên, nhờ vào việc chỉ đạo quyết liệt, cùng với phương pháp điều hành chính sách vĩ mô nhanh nhạy, linh hoạt và thận trọng của Chính phủ, trong đó chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa - tài chính đóng vai trò quan trọng có quyết định tới ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng. Thế nhưng, trong năm 2010, mặc dù đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP, song lạm phát đã vượt mục tiêu gần 2 điểm phần trăm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả không mong muốn này, trong đó sự phối hợp chưa thực sự nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ cũng đã ảnh hưởng tới kết quả kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. Sự phối hợp chưa nhịp nhàng giữa hai chính sách vĩ mô quan trọng và có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến kiểm soát lạm phát trong ngắn hạn là do: Thứ nhất: Chủ trương duy trì tăng trưởng cao trong thời gian dài, đặc biệt ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới đã đè nặng lên chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Với mô hình tăng trưởng chủ yếu nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước hiện tại hoạt động kém hiệu quả làm chủ đạo và nhờ vào việc bán tài nguyên, gia công trình độ thấp... dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Điều này được minh chứng qua số đơn vị cần thiết để tạo ra một điểm phần trăm tăng trưởng GDP (hệ số ICOR) vào khoảng 6 trong những năm gần đây, dẫn đến quyết định về chính sách là để tăng trưởng cao, để thoát khỏi khủng hoảng thì phải cần gia tăng đầu tư, gia tăng đầu tư nhưng đầu tư không hiệu quả làm tăng áp lực đối với lạm phát. Kết quả là bội chi ngân sách tăng cao vượt quá 5%GDP mà Chính phủ đã nổ lực kìm chế trong những năm trước đó. Biểu đồ 2: Lạm phát tại các nước phát triển, các nước mới nổi và đang phát triển, các nước châu Á đang phát triển và Việt Nam ( )
  17. 16 45.00% 40.00% 35.00% 30.00% 25.00% 20.00% 15.00% 10.00% 5.00% 0.00% 1992- 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 -5.00% 2001 Các nước phát triển Các nước mới nổi và đang phát triển Các nước đang phát triển châu Á Việt Nam Nguồn: World Economic Outlook, IMF, 10/2010 Thứ hai: Kết cục của mô hình tăng trưởng này dẫn đến Chính phủ có điều chỉnh tổng mức đầu tư so với phê duyệt ban đầu. Có dự án điều chỉnh tổng mức đầu tư lên 3 - 4 lần, riêng phần vốn trái phiếu Chính phủ một số dự án điều chỉnh tới trên chục lần, qua tổng
  18. 17 hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng mức đầu tư điều chỉnh từ các bộ, ngành, địa phương đã lên tới 558.654 tỷ đồng (tăng 226%). Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, tổng mức đầu tư các công trình, dự án sử dụng nguồn vốn này đã “tăng quá cao so với khả năng cân đối của ngân sách, ảnh hưởng đến khả năng vay và trả nợ”i. Trong khi cơ chế điều hành, quản lý nguồn vốn chưa hợp lý số lượng dự án hoàn thành còn quá ít, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn. Thứ ba: Chinh sách tài khóa với chi tiêu công quá mạnh trong khu vực đầu tư, làm tăng tỷ lệ đầu tư/GDP ở mức 44,2% năm 2010 - cao nhì châu Á, sau Trung Quốc. Do nền kinh tế kém hiệu quả nên các khoản đầu tư công cũng không mấy hiệu quả đã tạo ra sự mất cân đối giữa lượng hàng hóa với số lượng tiền trong nền kinh tế và kết quả tất yếu phải xảy ra là lạm phát. Chi tiêu công và nợ công tăng cao trong những năm gần đây đã tạo ra sức ép nặng nề lên giá cả hàng hóa. Điều này cũng giải thích tại sao chính sách tiền tệ đã kiểm soát tăng trưởng tín dụng (28%) và gia tăng tổng phương tiện thanh toán (25%) khá tốt năm 2010 nhưng lạm phát vẫn ở mức 2 chữ số. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam trong nhiều năm qua.
  19. 18 Biể : Tăng 60.00% 15.00% 14.00% 50.00% 13.00% 12.00% 40.00% 11.00% 30.00% 10.00% 9.00% 20.00% 8.00% 7.00% 10.00% 6.00% 0.00% 5.00% 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 M2 (trái) Tăng trưởng tín dụ ng (trá i) Tăng trưởng GDP (phả i) Nguồn: NHNN; Key Indicators for Asia and the Pacific 2010, ADB Thứ tư: Một minh chứng khác cho việc thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là trong nhiều thời điểm, trong khi chính sách tiền tệ đang vận hành theo hướng thắt chặt tiền tệ để ổn định giá cả, Chính phủ lại điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng như xăng dầu, giá điện. Sự không nhất quán này đã phần nào làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. Ngay trong tháng 12 năm 2010, chính sách tiền tệ đã bắt đầu có dấu hiệu thắt chặt thông qua việc tăng lãi suất cơ bản nhưng chính sách tài khóa dù có dấu hiệu thắt chặt hơn nhưng nhìn chung, vẫn theo hướng nới lỏng.
  20. 19 Bảng 1. Hệ số ICOR của Việt Nam (2006 - 2010) Năm 20 20 20 20 2010 ước tính 06 07 08 09 ICOR 5 4, 6, 8, 6,18 75 95 23 Nợ công (%, so với GDP) 42 45 43 52 56,7 ,9 ,6 ,9 ,6 Nợ nước ngoài (tỉ USD, tính đến 19 23 29 36 41,7 cuối năm) ,1 ,2 ,4 ,6 Đầu tư (%, so với GDP) 40 40 43 42 44,2 ,96 ,4 ,1 ,s8 Tính toán dựa trên nguồn từ Tổng cục Thống kê Biểu đồ 4: Hệ số ICOR của Việt Nam và một số quốc gia châu Á
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0