intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Tính chính đáng của Đảng Cộng sản cầm quyền ở Việt Nam

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:31

88
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về tính chính đáng chính trị, tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền, luận án đi khảo sát, phân tích, đánh giá tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền qua các thời kỳ lịch sử, chỉ ra các hạn chế trong duy trì tính chính đáng của Đảng hiện nay, từ đó đưa ra một số giải pháp khả thi nhằm nâng cao tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Tính chính đáng của Đảng Cộng sản cầm quyền ở Việt Nam

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN VĂN QUANG TÝNH CHÝNH §¸NG CñA §¶NG CéNG S¶N CÇM QUYÒN ë VIÖT NAM Chuyên ngành : Chính trị học Mã số : 62 31 20 01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
  2. HÀ NỘI ­ 2014 Công trình được hoàn thành tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học:  1. TS. Ngô Huy Đức 2. TS. Trịnh Thị Xuyến    Phản biện 1:.......................................................  ......................................................... Phản biện 2:.......................................................  ......................................................... Phản biện 3:.......................................................  ......................................................... Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học  viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2014
  3. Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia  và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
  4. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Về căn bản, trong mối quan hệ của quyền lực (chủ thể ra lệnh ­ chủ thể  phục tùng), chủ thể ra lệnh bao giờ cũng muốn dùng quyền lực của mình để ép   buộc người bị  cai trị  phải tuân thủ, phục tùng, làm theo các mệnh lệnh của  mình một cách vô điều kiện và tất nhiên là phải đạt được hiệu quả  như  ý   muốn. Ngược lại, người bị  cai trị luôn có cảm giác khó chịu và có xu hướng   phản kháng, bất tuân thủ. Tuy nhiên, do đòi hỏi của sản xuất, của sự trật tự xã  hội, xã hội vẫn luôn phải tồn tại các mối quan hệ quyền lực. Như Ăngghen đã  từng khẳng định: Một quyền uy và một sự phục tùng nhất định đều do những   điều kiện vật chất làm cho trở nên tất yếu đối với chúng ta. Đây chính là mâu  thuẫn lớn nhất của quyền lực. Vấn đề đặt ra là, làm sao để những mệnh lệnh   của chủ thể quyền lực đưa ra mà người bị trị tuân thủ, nghe theo, làm theo một   cách tự nguyện và đạt được hiệu lực và hiệu quả cao? Để có được điều này,   đòi hỏi quyền lực phải có tính chính đáng. Hay nói cách khác, quyền lực, sự  cưỡng bức sẽ  “dễ  chịu” hơn khi nó được mọi người coi là “chính đáng”. Vì  vậy, tính chính đáng là một sự đòi hỏi cần thiết của quyền lực và đã trở thành  một trong những đối tượng trung tâm của nghiên cứu chính trị học. Trước kia, khi tầng lớp thống trị của nhà nước thực hiện một cách rộng  rãi những đàn áp và bất công, nhân dân có thể tuân thủ những mệnh lệnh của   quyền lực chính trị  từ  những động cơ  của lương tâm như  sự  sợ  hãi bị  trừng   phạt, sự  tôn sùng cá nhân, phong tục, tập quán, tôn giáo, do gắn bó trong một  thời gian dài với một người cai trị, hay là tin vào sự   ủy thác quyền lực của  Thượng đế cho người cai trị v.v.. Tuy nhiên, một tầng lớp cai trị nào đó không  thể  vững bền qua thời gian trừ  khi những thần dân của nó nhận ra rằng khi  những người nắm giữ  quyền ra lệnh và đòi hỏi họ  phải phục tùng là nhờ  có   quyền lực chính đáng. Còn nếu không, nó sẽ  dẫn đến những sự  thay đổi về  chủ thể cai trị khi mà những thần dân đã thức tỉnh, nhận rõ được sự bất công từ  quyền lực bất chính đáng và họ  đã đủ  mạnh để  đánh đổ  chủ  thể  cai trị  hiện  thời. Lịch sử  đã chứng minh, sự  biến chuyển của các chế  độ  chính trị, của  quyền lực có thể coi là sự thay đổi trong quan niệm về tính chính đáng chính trị. 
  5. 2 Ngày nay, trong một xã hội dân chủ, tính chính đáng chính trị được coi là  một vấn đề hệ trọng, liên quan trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả của thực thi   quyền lực chính trị, và cụ thể hơn là hiệu lực, hiệu quả thực thi của một mệnh   lệnh, chỉ thị phát ra từ các cơ quan quyền lực của chủ thể cầm quyền. Nếu chủ  thể cầm quyền thiếu tính chính đáng, các mệnh lệnh từ bộ máy cai trị của nó  đưa ra sẽ gặp phải sự chống đối, kháng cự từ những công dân. Và ngược lại,   chủ thể cầm quyền có được tính chính đáng cao, khi đó, nó sẽ đạt được hiệu  lực và hiệu quả cao trong thực thi quyền lực và dĩ nhiên là giữ được sự ổn định  chính trị­ xã hội nhằm duy trì thời gian cầm quyền. Như  vậy, tính chính đáng   chính trị tạo nên sức mạnh, hiệu quả trong thực thi quyền lực của chủ thể cầm   quyền. Trong lịch sử  hình thành và phát triển của mình, tính chính đáng của   Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam đã được lịch sử  chứng minh và nhân dân   thừa nhận. Tính chính đáng này có được vì dưới sự  lãnh đạo và cầm quyền  của mình, Đảng đã đồng hành cùng nhân dân, cùng dân tộc đạt được nhiều  thành tựu trong việc đấu tranh vì mục tiêu chung là giành độc lập dân tộc và  xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vai trò lãnh đạo tuyệt đối của ĐCS Việt Nam đã   được ghi nhận trong Hiến pháp, song điều đó không đồng nghĩa với việc  không cần tăng cường, củng cố  tính chính đáng của Đảng trong vị  trí cầm  quyền. Ngược lại, trong bối cảnh đã có nhiều thay đổi hiện nay, đòi hỏi   Đảng cầm quyền phải không ngừng tăng cường xây dựng, phát huy tính  chính đáng của mình để  đoàn kết các lực lượng trong xã hội đưa đất nước  vượt qua mọi khó khăn, thách thức để  bảo vệ  độc lập dân tộc, thực hiện  thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Trong suốt thời gian cầm quy ền đã qua, có những lúc Đảng mắc một  số  sai lầm trong lãnh đạo và cầm quyền làm  ảnh hưởng đến tính chính  đáng. Đặc biệt, thời gian gần  đây, như  đã được khẳng định trong nhiều   Văn   kiện   Đại   hội   XI   của   Đảng:   "Tình   trạng   suy   thoái   về   chính   trị,   tư  tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ  cán bộ, đảng viên  và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ  nạn xã   hội chưa đượ c ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp,   cùng với sự  phân hóa giàu nghèo và sự  yếu kém trong quản lý, điều hành 
  6. 3 của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của dân đối với Đảng và  Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước". Hậu quả của nó là ở một số nơi xảy ra tình trạng khiếu kiện kéo dài, một  số  cá nhân, tổ chức chống đối lại các cơ  quan nhà nước một cách quyết liệt,  thậm chí ở một số nơi đã xuất hiện một số “cơn sóng ngầm trong lòng dân” và  có nguy cơ gây mất ổn định xã hội v.v.. Mặc dù Đảng đã có nhiều biện pháp   như tự phê bình và phê bình, chỉnh đốn Đảng, giữ quan hệ mật thiết với quần  chúng, đặc biệt nhấn mạnh sự  tuyên truyền, giáo dục và giác ngộ  v.v.. Dấu  hiệu đó cho thấy, tính chính đáng đã có dấu hiệu bị xói mòn. Điều này rất dễ  xảy ra, nhất là khi quyền lực nhà nước được đặt dưới sự  lãnh đạo của một   Đảng duy nhất cầm quyền liên tục trong một thời gian dài. Rất có thể, khi cầm  quyền trong thời gian dài, Đảng tự xây cho mình một “tháp ngà” và tự cách biệt  mình với quần chúng nhân dân. Nghiêm trọng hơn, chính điều đó nảy sinh quan  liêu, xa dân, tham nhũng, thậm chí độc đoán, một bộ phận cán bộ, đảng viên hư  hỏng, dần đánh mất lòng tin của nhân dân, qua đó làm xói mòn tính chính đáng  về  sự  cầm quyền của Đảng. Điều này đã từng xảy ra với một số  đảng, dẫn  đến kết cục đảng không cầm quyền được nữa, gây những hệ  lụy nguy hiểm   cho quốc gia, cho dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá một cách có căn cứ  khoa học và hệ thống về tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi  Đảng cầm quyền đến nay để  từ  đó có những kiến nghị  nhằm nâng cao tính   chính đáng trong cầm quyền của Đảng thời gian tới là một vấn đề hết sức hệ  trọng và cấp bách.  Chính vì những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Tính chính đáng   của Đảng Cộng sản cầm quyền ở Việt Nam” để làm luận án tiến sĩ chính trị  học là hữu dụng cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về tính chính đáng chính trị, tính   chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền, luận án đi khảo sát, phân tích, đánh  giá tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền qua các thời kỳ lịch sử, chỉ  ra các hạn chế trong duy trì tính chính đáng của Đảng hiện nay, từ  đó đưa ra 
  7. 4 một số  giải pháp khả  thi nhằm nâng cao tính chính đáng của ĐCS Việt Nam  cầm quyền thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Để thực hiện mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: ­ Thứ  nhất, làm rõ cơ  sở  lý luận về  tính chính đáng chính trị, tính chính  đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền. ­ Thứ  hai, dựa trên cơ  sở  lý luận đã được xây dựng, luận án khảo sát,   phân tích và đưa ra những nhận xét về tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm   quyền qua các thời kỳ lịch sử. ­ Thứ  ba, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng tính chính đáng trong cầm   quyền của một số đảng chính trị trên thế giới, từ đó rút ra một số bài học có giá  trị tham khảo đối với ĐCS Việt Nam.  ­ Thứ tư, chỉ ra các hạn chế trong duy trì tính chính đáng của Đảng hiện  nay.  ­ Thứ năm, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao tính chính đáng trong  cầm quyền của ĐCS Việt Nam thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn   đối với tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền. Góc độ  tiếp cận và   giải quyết các nội dung nghiên cứu của luận án là dưới góc độ khoa học Chính  trị học.  3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án  Về nội dung: Nghiên cứu về ĐCS Việt Nam với tư cách là đảng duy nhất  cầm quyền ở nước ta có rất nhiều nội dung nghiên cứu khác nhau, chứa đựng  nhiều vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Luận án chỉ tập trong nghiên  cứu nội dung tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền. Về thời gian: Nghiên cứu tính chính đáng trong cầm quyền của ĐCS Việt  Nam với trọng tâm là khoảng thời gian từ khi Đảng chính thức trở thành Đảng  cầm quyền (1945) ở Việt Nam cho đến nay. 4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 
  8. 5 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện  chứng và duy vật lịch sử  của chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh.  Đặc biệt, luận án bám sát đến các quan điểm biện chứng, khách quan, toàn  diện, lịch sử ­ cụ thể để triển khai các ý tưởng nghiên cứu. 4.2. Nguồn tư liệu ­ Tư  liệu thứ  cấp: Các tài liệu, các công trình nghiên cứu, sách chuyên  khảo đã công bố  của các nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan   đến đề tài luận án. ­ Tư liệu cấp ba: Các Văn kiện Đại hội Đảng và các Nghị quyết của Ban  Chấp hành Trung  ương; các văn bản pháp quy của Quốc hội, Chính phủ, các   Bộ, các ngành; các báo cáo tổng kết của Mặt trận tổ quốc Việt Nam; các tác  phẩm kinh điển có liên quan đến luận án. 4.3. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tác   giả lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng nội dung luận án. ­ Chương 1, tác giả  coi trọng phương pháp tổng hợp, phân tích và hệ  thống hóa để  đánh giá các công trình nghiên cứu có liên quan tới vấn đề  tính  chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền. ­ Chương 2, tác giả  sử  dụng nhiều phương pháp để  làm sáng tỏ  những  vấn đề  của luận án. Cụ  thể, tác giả  sử  dụng phương pháp quy nạp để  xây  dựng các khái niệm công cụ. Phương pháp lịch sử, phân tích, và tổng hợp để  khảo sát các quan niệm khác trong lịch sử tư tưởng chính trị về tính chính đáng  chính trị, tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền từ đó đưa ra cấu trúc   của tính chính đáng chính trị, cấu trúc tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm  quyền. ­ Chương 3, tác giả  dùng phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử  và  phương pháp định tính để khảo sát, phân tích, nhận định tính chính đáng trong   cầm của của ĐCS Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Sử dụng phương pháp so  sánh để tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng tính chính đáng trong cầm quyền của  một số đảng chính trị trên thế giới và rút ra một số bài học cho Đảng ta.
  9. 6 ­ Chương 4, về cơ bản, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp  để phân tích các hạn chế trong duy trì tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm  quyền hiện nay và đề ra một số giải pháp có căn cứ khoa học, góp phần nâng   cao tính chính đáng trong cầm quyền của ĐCS Việt Nam thời gian tới.  5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận án ­ Luận án đưa ra được khái niệm, cấu trúc về  tính chính đáng chính trị,  tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền từ cách tiếp cận của Chính trị  học dựa trên hệ  thống hóa các công trình nghiên cứu trước đó, các quan niệm  khác nhau về tính chính đáng chính trị, tính chính đáng của đảng cầm quyền. ­ Trên cơ sở khung lý thuyết về tính chính đáng chính trị, tính chính đáng   của ĐCS Việt Nam cầm quyền, luận án đã khảo sát, phân tích và đưa ra những   nhận xét về tính chính đáng của ĐCS cầm quyền  ở Việt Nam qua các thời kỳ  lịch sử. ­ Trên cơ  sở  nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng tính chính đáng trong  cầm quyền của một số đảng chính trị trên thế giới, luận án rút ra một số bài  học bổ  ích có khả  năng vận dụng để  nâng cao tính chính đáng trong cầm   quyền của ĐCS Việt Nam.  ­ Luận án chỉ  ra những hạn chế  trong duy trì tính chính đáng trong cầm   quyền của Đảng hiện nay và đưa ra được các giải pháp khả thi nhằm nâng cao   tính chính đáng trong cầm quyền của Đảng thời gian tới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Về lý luận, nội dung và kết quả của luận án góp phần hoàn thiện cơ sở lý  luận về  tính chính đáng chính trị, tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm  quyền. Vì vậy, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên   cứu, giảng dạy chuyên ngành Chính trị  học, các bộ  môn khoa học xã hội và   nhân văn có liên quan ở Việt Nam.  Về thực tiễn, những kết luận của luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý  luận khoa học, cách tiếp cận rõ ràng. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền có thể  khai thác, vận dụng vào thực tiễn nhằm nâng cao tính chính đáng trong cầm  quyền của ĐCS Việt Nam hiện nay và thời gian tới. 7. Kết cấu luận án 
  10. 7 Ngoài phần mở  đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án  gồm 4 chương, 10 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN Vấn đề tính chính đáng chính trị, tính chính đáng của nhà nước đã và đang   được khá nhiều nhà khoa học phương Tây quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam,  vấn đề tính chính đáng chính trị, đặc biệt tính chính đáng của đảng cầm quyền,  trong một thời gian dài vẫn được coi là vấn đề “nhạy cảm”, là một điều gì đó tối   kỵ trong các nghiên cứu. Tuy nhiên, thời gian gần đây đã có một số nghiên cứu  trực tiếp đề  cập đến vấn đề  này hoặc là liên quan đến vấn đề  xây dựng tính  chính đáng của nhà nước, của ĐCS Việt Nam cầm quyền  ở nước ta dưới các  góc nhìn khác nhau.  1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI Điểm qua một số  công trình nghiên cứu của các tác giả  nước ngoài, ta  thấy, các tác giả chủ yếu tập trung vào phân tích các điều kiện của tính chính  đáng chính trị, như, nguồn gốc hình thành thông qua bầu cử, các quyết định hợp  pháp, phát triển được kinh tế, xã hội, đồng thời lợi ích của đa số  phải được   đảm bảo... Ngoài ra, các tác giả cũng đề cập đến nguyên nhân dẫn đến khủng  hoảng tính chính đáng của chủ nghĩa tư bản,v.v… Các kết quả nghiên cứu này  sẽ là cơ sở dữ liệu để tham khảo trong quá trình triển khai làm rõ các nội dung   của luận án, đặc biệt là xây dựng khái niệm và cấu trúc của tính chính đáng  chính trị, tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC  1.2.1. Một số công trình nghiên cứu đề cập đến khái niệm, cấu trúc,  điều kiện của tính chính đáng chính trị, tính chính đáng của Đảng cầm   quyền 1.2.2. Một số  công trình nghiên cứu có liên quan tới tính hợp pháp   trong cầm quyền Đảng
  11. 8 1.2.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến năng lực lãnh đạo,  hiệu quả cầm quyền của Đảng. 1.2.4. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bầu cử  các cơ quan quyền lực Nhà nước ở nước ta Tóm lại, qua khảo sát các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài  luận án của các tác giả ở trong và ngoài nước đã cung cấp một số tư liệu, thông  tin, tri thức và cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu. Đây là nguồn tư liệu quý giá  được kế thừa khi triển khai nghiên cứu luận án này. Tuy vậy, cho đến nay vẫn  chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu về tính chính đáng của ĐCS Việt   Nam cầm quyền dưới góc nhìn của khoa học Chính trị học, đặc biệt luận giải  vấn đề tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền từ cách tiếp cận quyền   lực và quyền lực chính trị. Mỗi công trình, do xuất phát từ  mục tiêu, phương  pháp tiếp cận và giới hạn phạm vi của nó nên chỉ giải quyết các nội dung nhất  định. Hầu hết các nghiên cứu mới bước đầu đề cập đến những vấn đề  mang  tính đơn lẻ, mới chỉ dừng lại ở các ý tưởng khoa học, nhận định theo cảm nhận  chủ  quan hơn là khung lý thuyết hoàn chỉnh về  tính chính đáng chính trị, tính  chính đáng của Đảng cầm quyền ở nước ta, chưa luận giải và chứng minh một  cách có căn cứ mang tính bài bản dựa trên khuôn khổ lý thuyết rõ ràng. Tác giả  cầu thị  nhưng cũng luôn bám sát cách tiếp cận khoa học riêng để  nhận định,   tiếp thu các giá trị  có thể  tham khảo được từ  các công trình đã khảo cứu này   trong quá trình triển khai luận án. 1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU Qua nghiên cứu, tìm hiểu các công trình khoa học có liên quan đã được  công bố, có thể thấy, vấn đề tính chính đáng chính trị nói chung, tính chính đáng  của ĐCS Việt Nam cầm quyền nói riêng, trong thời gian gần đây, đã bắt đầu  thu hút được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các công trình được khảo cứu   ở trên, vấn đề tính chính đáng chính trị nói chung, tính chính đáng của ĐCS Việt   Nam cầm quyền nói riêng được đề  cập và nghiên cứu  ở  nhiều góc độ, dưới   dạng sách chuyên khảo, bài viết tạp chí, luận văn, luận án. Đồng thời, qua khảo cứu các công trình đó cho thấy, nghiên cứu tính  chính đáng chính trị, tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền còn một  
  12. 9 số  “khoảng trống” sau đây cần được khỏa lấp trong luận án và các nghiên  cứu tiếp theo: Một là,  vẫn chưa có được một khái niệm đầy đủ, toàn diện về  tính  chính đáng chính trị  từ  cách tiếp cận của khoa học Chính trị  học mác xít.  Đồng thời, chưa có một tổng kết, hệ thống hóa được các cách tiếp cận khác   nhau về tính chính đáng chính trị trong lịch sử tư tưởng chính trị để từ đó xây   dựng được cấu trúc tính chính đáng chính trị. Đặc biệt, chưa có một nghiên  cứu nào tiếp cận từ đặc thù trong cầm quyền của ĐCS Việt Nam để đưa ra   khái niệm tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền được tiếp cận từ  góc độ khoa học về quyền lực và quyền lực chính trị, xây dựng cấu trúc tính   chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền. Hai là, các nghiên cứu liên quan đến tính chính đáng của ĐCS Việt Nam   cầm quyền qua các thời kỳ lịch sử còn rất ít, nếu có cũng chỉ là khẳng định vai   trò cầm quyền một cách chính đáng của Đảng như  một mặc định hiển nhiên,   không đủ cơ sở lý thuyết để phân tích, nhận định tính chính đáng cao hay bị xói  mòn trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau. Vì vậy, việc căn cứ vào cấu trúc tính  chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền để  khảo sát, phân tích, nhận định   tính chính đáng cao hay bị ảnh hưởng, xói mòn của Đảng trong các thời kỳ khác   nhau là “khoảng trống” cần được làm rõ. Ba là, các nghiên cứu tuy đã đề  cập đến điều kiện đảm bảo tính chính  đáng trong cầm quyền của các đảng tư bản trong xây dựng cương lĩnh, đường  lối, chính sách, trong phương thức lãnh đạo của đảng đối với nhà nước... nhưng  lại chưa rút ra được bài học có thể  tham khảo trong quá trình nâng cao tính  chính đáng trong cầm quyền của Đảng ta hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu  kinh nghiệm từ  các đảng chính trị  trên thế  giới nhằm rút ra bài học có giá trị  tham khảo cho Đảng ta cũng là một “khoảng trống” cần tiếp tục nghiên cứu. Bốn là, trong các nghiên cứu, khi đề  cập đến hạn chế trong duy trì tính  chính đáng của Đảng hiện nay, chủ yếu là tiếp cận từ các nhận định trong các  Văn kiện, Nghị  quyết của Đảng về  niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà   nước, xuất pháp từ tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy đồi đạo đức, lối sống  của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Chưa có các nghiên cứu từ nền  tảng của khung lý thuyết được xây dựng bài bản, khoa học. Vì vây, việc thực 
  13. 10 hiện luận án nhằm góp phần khỏa lấp một số “khoảng trống” mà các nghiên  cứu trước đây chưa đề  cập đến các hạn chế  trong xây dựng hệ  giá trị  của   Đảng, xây dựng tính hợp pháp của Đảng, xây dựng tính hiệu lực, hiệu quả  trong lãnh đạo của Đảng để  từ  đó đề  xuất các giải pháp khả  khi nhằm nâng  cao tính chính đáng trong cầm quyền của Đảng thời gian tới. Những “khoảng trống” nêu trên đặt ra các tình huống khoa học mà đối   tượng nghiên cứu của luận án hướng tới góp phần giải quyết, đặc biệt là các  vấn đề thuộc phương diện nhận thức khoa học. Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH CHÍNH ĐÁNG CHÍNH TRỊ, TÍNH CHÍNH ĐÁNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CẦM QUYỀN 2.1. LÝ LUẬN VỀ TÍNH CHÍNH ĐÁNG CHÍNH TRỊ 2.1.1. Khái niệm tính chính đáng chính trị  Tính chính đáng chính trị là niềm tin, sự thừa nhận và phục tùng một cách   tự nguyện của đa số người dân đối với chủ thể cai trị thông qua những yếu tố   mà chủ  thể  cai trị  tạo ra và thiết lập được, nhờ  đó chủ  thể  cai trị  nâng cao   được hiệu lực và hiệu quả trong quá trình cai trị.  Như vậy, khi nói đến tính chính đáng chính trị là nói đến niềm tin, sự thừa  nhận, chấp nhận một cách tự nguyện của khách thể quyền lực đối với chủ thể  chính trị dựa trên các yếu tố mà chủ thể tạo ra để  đạt được hiệu lực và hiệu   quả cao trong cai trị. Vì vậy, tính chính đáng chính trị nổi lên một số  đặc trưng cơ  bản: Tính  chính đáng chính trị là một biểu hiện của mối quan hệ chính trị, giữa các chủ  thể trong mối quan hệ quyền lực ­ chủ thể cai trị và chủ thể bị trị; Tính chính  đáng chính trị liên quan đến địa vị, quyền hạn được xác lập của chủ thể quyền   lực đối với khách thể  quyền lực; Trong quan hệ quyền lực, các mục tiêu của  chủ thể quyền lực, ngoài lợi ích của mình đồng thời phải đáp ứng được lợi ích  của khách thể (cộng đồng, xã hội); Một chủ thể quyền lực chính trị được coi là   chính đáng khi quan hệ quyền lực đó dựa trên sự đồng thuận giữa khách thể và   chủ  thể quyền lực, dựa trên sự  thừa nhận của xã hội đối với chủ  thể  quyền 
  14. 11 lực chính trị  trong quá trình giành quyền lực và suốt quá trình thực thi quyền  lực; Trong tính chính đáng chính trị, chủ thể quyền lực phải tạo nên  niềm tin,  sự  thừa nhận, phục tùng hoàn toàn tự  nguyện của khách thể  quyền lực ­ tức  tính chính đáng không thể có dựa trên sự cưỡng ép và bạo lực.  Vì tính chính đáng chính trị liên quan đến niềm tin, sự thừa nhận và phục  tùng tự nguyện, cho nên, chúng ta khó có thể đo tính chính đáng chính trị bằng  định lượng mà chỉ có thể đo được bằng định tính. Cụ thể hơn, tình trạng, mức   độ của tính chính đáng chính trị cao hay thấp thể hiện ở chỗ: khách thể quyền   lực có còn đặt niềm tin, chấp nhận, nghe theo và  ủng hộ  chủ  thể  nữa hay  không; tình trạng xã hội  ổn định hay bất  ổn; các mâu thuẫn, xung đột giữa   người bị trị và chủ thể cai trị gay gắt hay không gay gắt; sự hưởng lợi từ thành  quả đạt được thuộc về ai; thời gian cầm quyền của chủ thể quyền lực dài hay  ngắn v.v.. 2.1.2. Các cách tiếp cận cơ bản về tính chính đáng chính trị 2.1.2.1. Các nhà khoa học phương Tây Khi nghiên cứu về  tính chính đáng chính trị, các nhà khoa học phương   Tây, như đã nói, có nhiều cách lý giải khác nhau. Hầu hết họ đều đi tìm câu trả  lời cho những câu hỏi mang tính căn bản liên quan đến tính chính đáng của   quyền lực nhà nước như: Nguồn gốc tính chính đáng của quyền lực nhà nước;   Tính chính đáng có vai trò gì trong tính cưỡng chế của quyền lực nhà nước, và,  các yếu tố nào tạo nên tính chính đáng chính trị v.v..  * Nguồn gốc tính chính đáng của quyền lực nhà nước * Tính chính đáng chính trị và nghĩa vụ chính trị * Các yếu tố tạo nên tính chính đáng chính trị 2.1.2.2. Các nhà lý luận mác xít  * Quan niệm của C.Mác ­ Ph.Ăngghen và V.Lênin ­ Quan niệm của C.Mác ­ Ph.Ăngghen ­ Quan niệm của V.Lênin + Đối với tính chính đáng của nhà nước Lênin đi tìm nhà nước thực sự chính đáng, theo Ông, chỉ có nhà nước mà  quyền lực thực sự thuộc về nhân dân thì nhà nước mới có thể quản lý được xã 
  15. 12 hội phù hợp với quy luật, phục vụ lợi ích nhân dân, khi đó nhà nước mới có tính   chính đáng thực sự. + Đối với tính chính đáng của ĐCS cầm quyền ̣ ̣ ̣ ̉ ̀ ̣ ̣ ̣ ́ ̀ ơi cuôc Theo Ông, hoat đông lanh đao cua ĐCS la môt hoat đông găn liên v ̃ ́ ̣   ́ ́ ̉ ươc va sau khi giai câp vô san lanh đao nhân dân gianh đâu tranh giai câp ca tr ́ ̀ ́ ̉ ̃ ̣ ̀   được chinh quyên, nhăm gianh lây s ́ ̀ ̀ ̀ ́ ự ung hô cua đông đao nhân dân lao đông đôi ̉ ̣ ̉ ̉ ̣ ́  vơi Đang ­  ́ ̉ tức là ĐCS phải chứng minh được tính ưu vượt trội của mình so với   các lực lượng khác trong xã hội để  tạo được sự   ủng hộ  của đại đa số  nhân   dân trong xã hội. Ông rất quan tâm đến  tính tiên phong  trong đường lối lãnh đạo của  Đảng. Chỉ khi nào Đảng có được đường lôi đung đăn, khi đó nhân dân m ́ ́ ́ ơi tin ́   tưởng va đi theo Đ ̀ ảng và coi đây là nhiêm vụ đầu tiên, kiên quyết để ĐCS có  tính chính đáng. Trong điều kiện Đảng đã có chính quyền, V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy  cơ làm giảm hoặc mất tính chính đáng trong cầm quyền của Đảng. Theo Lênin,  trong quá trình lãnh đạo đất nước tiến lên CNXH, để tránh tự mình làm suy yếu  mình, để luôn vững mạnh và làm tròn vai trò người lãnh đạo, Đảng cần phải   hết sức tránh hai nguy cơ  sau:  một là, nguy cơ  sai lầm về đường lối;  hai là,  nguy cơ quan liêu, thoái hóa biến chất trong đội ngũ Đảng. * Quan niệm của A.Gramsci Lý thuyết của Gramsci phát triển nhằm vạch ra các quá trình để xây dựng  một vị trí lãnh đạo về tinh thần (moral leadership) thông qua quyền lãnh đạo ý  thức hệ. Theo Gramcsi, một nhóm hay một giai cấp nào muốn trở thành nhóm, giai  cấp thống trị, thậm chí, nó phải tạo ra tính chính đáng của mình ngay cả trước   khi lên nắm quyền, bằng cách nắm được vị trí “tiên phong”. Để  tạo được sự  đồng thuận trong xã hội, theo Gramcsi, chức năng này  thuộc về các thiết chế của xã hội dân sự. Các thiết chế này sẽ thực hiện chức  năng về văn hóa và tư tưởng của mình để để  tạo ra sự đồng thuận, nó không  mâu thuẫn với nhà nước mà nó là các thiết chế để “bảo vệ nhà nước từ trong  chiều sâu, vì nó đảm bảo tính chính đáng của quyền lực qua sự thừa nhận của  
  16. 13 quần chúng (dù là được tạo ra bởi nhà nước) về hệ giá trị và các tư tưởng của   giai cấp cầm quyền”. Theo ông, đảng muốn có được quyền lãnh đạo, kể cả các đảng vô sản,  cần phải coi tầng lớp trí thức là lực lượng tích cực nhất, tiên tiến nhất. Vì vậy,   Gramsci mới gọi “toàn thể đảng viên của chính đảng cần phải xem là các phần   tử tri thức”. Đồng thời, trong lý thuyết của mình, bên cạnh việc đề cao tính tiên phong  của hệ tư tưởng, Gramsci còn cho rằng, sự đồng thuận không thể được duy trì  chỉ  duy nhất bằng các ý kiến hay lý tưởng, mà bắt buộc phải có các yếu tố  mang tính kinh tế. Chỉ có lãnh đạo nhân dân phát triển được kinh tế, nâng cao  đời sống cả  vật chất và văn hóa, khi đó, đảng cầm quyền mới tạo được sự  đồng thuận trong lâu dài và giữ vững được vai trò cầm quyền, duy trì tính chính  đáng chính trị. 2.1.3. Cấu trúc của tính chính đáng chính trị  Từ các cách nhìn khác nhau trong quan niệm về tính chính đáng chính trị  đã phân tích ở phần trên, có thể rút ra cấu trúc của tính chính đáng chính trị, coi   đây là cơ  sở  quan trọng để  lấy đó làm căn cứ  trong quá trình khảo sát, nhận   định, đánh giá tính chính đáng chính trị của một chủ thể cai trị cụ thể nào đó. Có  thể khái quát thành ba điểm chính, mà theo chúng tôi, đây cũng là ba yếu tố quan   trọng nhất để tạo nên cấu trúc tính chính đáng chính trị trong cai trị của chủ thể  chính trị nào đó. 2.1.3.1. Giá trị lý tưởng chính trị Trong lịch sử  phát triển của xã hội loài người, mỗi một thời kỳ  lịch sử  nhất định, mỗi một chế độ chính trị ­ xã hội nhất định, các giá trị lý tưởng chính  trị mà các chủ thể nắm quyền đều có những điểm tựa khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết phải đảm bảo được hai tính chất: tính tiên phong và  tính công ích nhằm dẫn dắt đối với số đông trong xã hội hoặc dung hòa được   các giá trị khác biệt, không dẫn tới đối lập nhau, nhờ đó mà chủ  thể  có được  tính chính đáng về lý luận. 2.1.3.2. Tính hợp lý, hợp pháp của quyền lực Trong lịch sử, khi chưa có quyền lực, người ta rất đề cao tính hợp lý trong  cách thức đạt quyền lực của các chủ thể. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, trong mỗi  
  17. 14 chế  độ  chính trị  ­ xã hội nhất định, cách thức đạt quyền lực một cách chính  đáng của một chủ thể nhất định là khác nhau. Có thể bằng kế  truyền, có thể  bằng bạo lực cách mạng, và cũng có thể bằng bầu cử dân chủ v.v..  Ngày nay,   nghiên cứu tính hợp pháp của chủ  thể  cầm quyền còn phải nghiên cứu đến   công nghệ để đảm bảo quyền lực chính trị được khách quan hóa trong quyền   lực công thông qua những thủ tục, thể lệ, quy trình, cốt lõi vẫn là nhà nước hóa   các cơ cấu chính trị. Tức, khi nghiên cứu tính hợp pháp của chủ thể cầm quyền  cần phải nhìn nhận đến những vấn đề khác nữa, như: Sự  liên quan mật thiết   giữa hình thức hình thành chủ thể quyền lực chính trị với chế độ bầu cử và chế  độ bãi miễn; sự kiểm soát quyền lực; mối quan hệ quyền lực giữa đảng cầm   quyền với nhà nước (trong vai trò là công cụ  của đảng cầm quyền); sự  vận   hành quyền lực chịu sự  ràng buộc và giám sát nghiêm ngặt của hiến pháp và  pháp luật ­ tức liên quan đến các vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền v.v.. 2.1.3.3. Tính hiệu lực và hiệu quả của việc sử dụng quyền lực Xét cho cùng thì người dân có tiếp tục chấp nhận và ủng hộ đối với chủ  thể cai trị hay không là do bộ máy cầm quyền đó có mang lại cho họ những lợi  ích cả về mặt tinh thần lẫn vật chất hay không. Hiệu quả trong quá trình cầm   quyền phải dung hòa được hai lợi ích mà rất hay xảy ra sự mâu thuẫn, đối lập   ­ đó là lợi ích của chủ thể cai trị và lợi ích của chủ thể bị cai trị (đa số  nhân   dân). Hiệu quả ở đây tập trung đến những vấn đề như:  Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, công bằng xã hội Ngoài tăng trưởng và phân phối hợp lý, công bằng xã hội, các chủ  thể  cầm quyền cũng cần phải chú ý đến các vấn đề an sinh xã hội khác như y tế,  xóa đói giảm nghèo, giáo dục, bảo vệ môi trường, v.v… 2.2. KHÁI NIỆM, CẤU TRÚC TÍNH CHÍNH ĐÁNG CỦA ĐẢNG CỘNG  SẢN VIỆT NAM CẦM QUYỀN 2.2.1. Khái niệm tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam c ầm   quyền   Tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền là niềm tin, sự thừa nhận   một cách tự nguyện của nhân dân đối với vị thế của Đảng trong việc nắm giữ  
  18. 15 quyền lực Nhà nước, nhờ  đó Đảng duy trì được vị  thế  cầm quyền, phát huy   được hiệu lực, hiệu quả trong quá trình lãnh đạo Nhà nước và xã hội. 2.2.2. Cấu trúc tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm  quyền 2.2.2.1. Hệ giá trị của Đảng Cộng sản Việt Nam Cần phải khẳng định rằng, hệ giá trị của ĐCS Việt Nam theo đuổi ngay  từ khi thành lập và phát triển cho đến nay được thể hiện thông qua: Chủ nghĩa  Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, chính sách của  Đảng mang tính đặc thù của đất nước, của dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử  cụ thể. Hệ giá trị này sẽ là tiền đề tư tưởng ảnh hưởng đến tính chính đáng về  mặt lý luận của Đảng. Muốn có được tính chính đáng về  mặt lý luận, ĐCS  Việt Nam phải duy trì được tính tiên phong trong hệ giá trị của mình. Nếu một   thời điểm nào đó, ĐCS Việt Nam không duy trì được tính tiên phong về mặt tư  tưởng, đặc biệt là tính tiên phong trong cương lĩnh, đường lối, chính sách trong  quá trình lãnh đạo, tính chính đáng về mặt lý luận sẽ bị xói mòn và thậm chí sẽ  kéo theo làm xói mòn tính chính đáng trong vai trò cầm quyền. 2.2.2.2. Tính hợp lý, hợp pháp trong cầm quyền của Đảng Cộng sản   Việt Nam Đây chính là cơ  sở  của tính chính đáng trong quá trình giành quyền lực,  giữ quyền lực của Đảng. Vì đặc thù của chúng ta là chỉ có một đảng duy nhất  cầm quyền, vì vậy tính hợp pháp trong cầm quyền của Đảng nó không chỉ  là  các quy định trong Hiến pháp và pháp luật về  vai trò lãnh đạo duy nhất của   Đảng. Mà, tính hợp pháp trong cầm quyền của ĐCS Việt Nam nó chính là cách  thức tạo dựng các cơ quan với tư cách là công cụ quyền lực của Đảng, công   nghệ  để  đảm bảo quyền lực chính trị  của Đảng được khách quan hóa trong  quyền lực công ­ tức quyền lực nhà nước thông qua những thủ tục, thể lệ, quy   trình, cốt lõi vẫn là nhà nước hóa các cơ cấu chính trị. Cụ thể, trong quá trình phân tích yếu tố này của ĐCS Việt Nam, cần quan   tâm đến các vấn đề: Thứ nhất, tính hợp lý, hợp pháp trong quá trình giành vị trí  cầm quyền của ĐCS Việt Nam; Thứ hai, Đảng nắm quyền lực Nhà nước bằng  phương thức nào (áp đặt hay thông qua bầu cử tự do, dân chủ) ­ tức liên quan 
  19. 16 đến tính chính đáng của quyền lực Nhà nước với tư cách là công cụ của ĐCS   Việt Nam cầm quyền;  Thứ  ba, mối quan hệ  trong lãnh đạo, cầm quyền của  Đảng với Nhà nước ­ tức là mối quan hệ quyền lực của Đảng trong vai trò lãnh  đạo với quyền lực của Nhà nước với tư  cách là cơ  quan quyền lực công, bộ  máy quản lý; Thứ tư, với tư cách là một đảng duy nhất cầm quyền, nhân dân có   vai trò như thế nào trong việc tạo dựng các cơ cấu quyền quyền lực của Đảng  và vai trò giám sát, kiểm soát của nhân dân đối với các cơ quan quyền lực của  Đảng; v.v… 2.2.2.3. Tính hiệu lực, hiệu quả trong quá trình lãnh đạo Nhà nước và   xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam Như đã đề cập, một điều kiện rất quan trọng làm cơ sở để người dân có  còn tiếp tục ủng hộ sự lãnh đạo chính là hiệu quả  trong quá trình cầm quyền   của Đảng ở từng thời kỳ, từng hoàn cảnh cụ thể. Ở nước ta, hiệu quả của sự  cầm quyền của Đảng được đánh thông qua các tiêu chí:Thứ nhất, mức độ tăng  trưởng kinh tế (GDP, GNP); Thứ hai, chỉ số phát triển con người (HDI) cao hay  thấp; Thứ ba, mức độ phân phối có đảm bảo được mức độ nhất định sự công  bằng hay không; Thứ tư, Đảng và Nhà nước giải quyết các vấn đề an sinh xã   hội như giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo… như thế nào; Thứ năm, các vấn  đề  như  xây dựng nền văn hóa, bảo vệ  môi trường sinh thái ­ tức là đảm bảo  yếu tố phát triển bền vững như thế nào, v.v…  Tiểu kết chương 2 Như  vậy, tính chính đáng chính trị  không chỉ  là niềm tin đơn thuần của  những người bị  cai trị  vào chủ  thể  quyền lực. Tính chính đáng chính trị  là sự  thừa nhận và phục tùng một cách tự nguyện của những người bị cai trị vào chủ  thể quyền lực thông qua các yếu tố mà chủ thể quyền lực tạo ra. Nhờ đó chủ  thể quyền lực đạt được hiệu lực và hiệu quả cao trong cầm quyền. Khi nghiên cứu về tính chính đáng chính trị, có hai trường phái khá khác  nhau về  nguồn gốc, hình thức tồn tại, tác dụng của tính chính đáng chính trị.  Một là của các nhà tư tưởng chính trị phương Tây và một là của các nhà mác xít   ­ trong đó điển hình là Mác­Ăgghen, Lênin và A.Gramsci. Mỗi cách cách tiếp 
  20. 17 cận có những luận giải khác nhau về  các vấn đề  xung quan tính chính đáng  chính trị. Từ việc hệ thống hóa các quan niệm, ta thấy có ba mặt (yếu tố) quan   trọng trong cấu trúc của tính chính đáng chính trị  là: giá trị lý tưởng chính trị;   tính hợp lý, hợp pháp trong cầm quyền; tính hiệu lực và hiệu quả  trong cầm   quyền. Sự tương tác giữa các yếu tố này nằm dưới các quá trình chính trị lớn.  Biến đổi chính trị chính là sự biến đổi của bản thân các yếu tố này và sự tương   tác giữa chúng.  Đối với ĐCS Việt Nam, với tư cách là một đảng chính trị cầm quyền, về  tổng thể, để tạo nên cấu trúc tính chính đáng trong cầm quyền cũng cần có ba  yếu tố chính như  đã chỉ  ra. Tuy nhiên, trong ba yếu tố chính tạo nên cấu trúc  tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền, với tư cách là một đảng duy  nhất cầm quyền ở nước ta vẫn cần có những nét riêng biệt, đặc thù riêng. Cấu  trúc này sẽ  là khuôn khổ  lý thuyết để  khảo sát, phân tích, nhận định về  tính  chính đáng trong cầm quyền của Đảng từ  lịch sử  trong suốt những năm cầm  quyền của Đảng vừa qua. Đồng thời, cũng là cơ sở để chỉ ra các hạn chế trong   duy trì tính chính đáng của Đảng hiện nay và đề xuất một số gải pháp khả thi   trong quá trình củng cố, nâng cao tính chính đáng trong cầm quyền của Đảng. Chương 3 PHÂN TÍCH TÍNH CHÍNH ĐÁNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN Ở VIỆT NAM 3.1. PHÂN TÍCH TÍNH CHÍNH ĐÁNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT  NAM THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 1975 3.1.1. Quá trình trở thành đảng cầm quyền một cách chính đáng của  Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền là một sự lựa chọn của lịch sử, nhờ  vào việc xác định hệ  giá trị  tiên phong, đúng đắn, khoa học, phù hợp với  nguyện vọng của đa số nhân dân và truyền bá một cách có hiệu quả hệ giá trị  đó vào trong đời sống nhân dân để  thuyết phục họ  đi theo Đảng,  ủng hộ  sự  lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, Đảng đã xây dựng, đào tạo ra cho mình 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2