Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động truyền thông VOV
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giao lưu văn hóa, luận án đánh giá thực trạng giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động hoạt động truyền thông của VOV, từ đó dự báo xu hướng và khuyến nghị một số giải pháp góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản vì mục tiêu hòa bình, thịnh vượng của cả hai quốc gia.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động truyền thông VOV
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, giao lưu văn hóa có vai trò quan trọng đặc biệt trong thực hiện chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia. Năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 210/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. Chiến lược này đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, các giải pháp chủ yếu để phát triển văn hóa đối ngoại nhằm khai thông quan hệ với các nước trong khu vực, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đã được thiết lập đi vào chiều sâu, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam với bạn bè thế giới. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011), Đảng ta đã khẳng định: Cùng với phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc, giao lưu văn hóa phải là một trong những hoạt động cơ bản, cốt lõi để quảng bá văn hóa dân tộc và tiếp thu các giá trị văn hóa nhân loại. Đẩy mạnh giao lưu văn hóa là tiền đề để Việt Nam hội nhập sâu rộng, phát triển toàn diện đất nước trong bối cảnh mới. Với nhận thức đó, Việt Nam mong muốn là bạn với tất cả các nước trên thế giới. Đến nay chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với 192 quốc gia và vũng lãnh thổ, trong đó, Nhật Bản là một đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Quan hệ Việt Nam-Nhật Bản là mối quan hệ truyền thống lâu đời, chưa bao giờ tốt đẹp như hiện tại. Ngoài hợp tác kinh tế, thương mại, giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản đã trở hành điển hình trong hoạt động giao văn hóa nói chung của Việt Nam. Đài Tiếng nói Việt Nam (Radio The voice of Viet Nam-VOV)-Cơ quan truyền thông đa phương tiện hiện đại bậc nhất của Việt Nam, có chương trình phát thanh Tiếng Nhật sớm nhất và duy nhất ở Việt Nam (thành lập 29/4/1963), trực tiếp là nơi giao lưu văn hóa giữa nhân dân hai nước trong suốt gần nửa thế kỷ qua. Nhiều người Nhật Bản biết đến Việt Nam, yêu Việt Nam qua "Tiếng nói Việt Nam". Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề giao lưu văn hóa giữa hai nước Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động truyền thông VOV vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu như một hệ thống chuyên biệt nhìn dưới góc độ văn hóa học. Với những lý do trên, nghiên cứu sinh (NCS), nhận thấy việc nghiên cứu đề tài "Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động truyền thông VOV" là việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của giao lưu văn hóa giữa hai nước, khẳng định vai trò ngày càng gia tăng của VOV trong việc đẩy mạnh giao lưu văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giao lưu văn hóa, luận án
- 2 đánh giá thực trạng giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động hoạt động truyền thông của VOV, từ đó dự báo xu hướng và khuyến nghị một số giải pháp góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản vì mục tiêu hòa bình, thịnh vượng của cả hai quốc gia. 2.2. Nhiệm vụ - Làm sáng tỏ khái niệm giao lưu văn hóa, truyền thông và vai trò của truyền thông trong giao lưu văn hóa. - Tổng quan về giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản từ quá khứ đến hiện tại. - Khảo sát, đánh giá thực trạng giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản thông qua hoạt động truyền thông của VOV trong những năm qua. - Dự báo xu hướng giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản và khuyến nghị các giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động truyền thông của VOV. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động truyền thông của VOV (nhấn mạnh tới phát thanh Tiếng Nhật, hoạt động của Cơ quan Thường trú Đài VOV tại Tokyo, Nhật Bản). 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về thời gian: Lịch sử quan hệ giao lưu giữa Việt Nam-Nhật Bản có từ nhiều thế kỷ trước. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài, luận án tập trung vào nghiên cứu một số hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động của VOV 3 năm trở lại đây khi VOV trở thành một cơ quan truyền thông đa phương tiện. - Về phạm vi khảo sát: Luận án tập trung khảo sát thực trạng giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản trong chương trình phát thanh tiếng Nhật, website tiếng Nhật của VOV, hoạt động của Cơ quan thường trú VOV tại Nhật Bản và hoạt động hợp tác giữa VOV và NHK. Đây là những hoạt động chủ yếu phản ánh được toàn diện quá trình giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản trong hoạt động truyền thông VOV. - Về nội dung khảo sát: Trong luận án này, NCS khảo sát, đánh giá thực trạng giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản thông qua các nội dung và hình thức hoạt động cụ thể của VOV. Đó là các chuyên mục trong các chương trình phát thanh, là các hoạt động văn hóa nghệ thuật giới thiệu về văn hóa, con người của hai nước... Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản mang tính hai chiều, một mặt là giới thiệu văn hóa Việt Nam đến với người Nhật Bản, hai là giới thiệu văn hóa Nhật Bản đến với người Việt Nam. Luận án cũng sẽ khảo sát cả hai nội dung này. 4. Lý thuyết nghiên cứu Luận án sử dụng lý thuyết giao lưu văn hóa và giao lưu văn hóa trong hoạt động truyền thông nhằm nhìn nhận sự gặp gỡ, trao đổi giữa hai nền văn hóa Việt Nam-Nhật Bản như là một biểu hiện của quy luật giao lưu văn hóa. Quan hệ giao lưu văn hóa này được đặt trong mối quan hệ với tổng thể xã
- 3 hội, dưới tác động của phương tiện truyền thông (cụ thể ở đây là qua hoạt động của VOV). Lý thuyết giao lưu văn hóa được vận dụng vào để nghiên cứu giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản thông qua hoạt động truyền thông VOV là nghiên cứu sự trao truyền, chia sẻ giá trị văn hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản thông qua bốn hoạt động của Đài VOV là: (1) Chương trình phát thanh tiếng Nhật của VOV; (2) Hoạt động của website tiếng Nhật của VOV; (3) Hoạt động của Cơ quan thường trú tại Nhật Bản; (4) Hoạt động hợp tác giữa VOV và NHK. Từ đó, luận án có thể đưa ra khuyến nghị cần thiết để đẩy mạnh giao lưu văn hóa Việt - Nhật trong thời gian tới. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận về giao lưu văn hóa thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, nhận diện rõ ưu thế và vai trò của các phương tiện truyền thông trong thúc đẩy giao lưu văn hóa thời kỳ toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật số. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, tác động, vai trò của VOV đối với hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản, luận án đề xuất một số định hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các chương trình truyền thông của VOV và của Đài Việt ngữ-NHK Nhật Bản trong quan hệ giao lưu văn hóa Nhật-Việt và Việt-Nhật. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần tăng cường quan hệ hai nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và góp phần mở rộng hội nhập quốc tế của Việt Nam. Luận án có thể làm dùng làm tài liệu tham khảo cho những học viên, sinh viên… chuyên ngành văn hóa học, xã hội học, truyền thông, cán bộ, biên tập viên, phát thanh viên, kỹ thuật viên của ngành phát thanh và truyền hình Việt Nam và Nhật Bản quan tâm, nghiên cứu, tìm hiểu về hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản, lịch sử VOV, vai trò của VOV trong hoạt động tăng cường hữu nghị giữa nhân dân hai nước. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án chia thành 4 chương, 14 tiết.
- 4 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản Ở cấp độ giao lưu văn hóa,có rất nhiều cuốn sách, đề tài luận án Tiến sĩ, công trình nghiên cứu… bằng cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài đề cập. Ở Việt Nam với những tác phẩm của các tác giả Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm, Phạm Duy Đức, Lê Quý Đức, Hoàng Chí Bảo, Phan Ngọc… đã đưa ra nhiều định nghĩa giao lưu văn hóa từ các cách tiếp cận khác nhau. Ở góc độ giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản, có rất nhiều tác phẩm của các tác giả như Phan Ngọc, Phan Hải Linh, Nguyễn Tiến Lực, Vũ Thị Phụng… nghiên cứu, đề cập tới từng góc độ. Trong phạm vi luận án, nghiên cứu sinh đã tổng hợp một số tác phẩm mới nhất của cả nhà nghiên cứu, chính trị gia Việt Nam, các đề tài, công trình nghiên cứu của cả Việt Nam và Nhật Bản nghiên cứu sâu về giao lưu văn hóa giữa hai nước. Dù các công trình, đề tài… của các tác giả khác nhau, với góc độ tiếp cận khác nhau và đưa ra những khái niệm khác nhau về giao lưu văn hóa, song đều có một sự thống nhất về tính tính tích cực trong giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong tiến trình lịch sử đã đóng góp vào tăng cường hiểu biết giữa nhân dân hai nước, sự phát triển chung của mỗi nước. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan tới truyền thông và truyền thông trong lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản Một cách tiếp cận tương đối đầy đủ và hệ thống về lĩnh vực văn hóa truyền thông trước hết được thể hiện trong nhiều công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài, nhất là trong giai đoạn những thập kỷ cuối của thế kỷ 20. Trong số những tác giả đáng chú ý, trước hết nghiên cứu sinh muốn nhắc đến Raymond Williams (1921-1988), là một nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình về chính trị, văn hóa và truyền thông đại chúng người xứ Wales. Các công trình của ông đặt nền móng cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu liên quan đến các vấn đề văn hóa và chính trị. Liên quan đến truyền thông mà cụ thể là truyền thông VOV, nghiên cứu sinh xin thống kê một số cuốn sách mới được xuất bản năm 2016 và một số cuốn sách xuất bản trước đó bằng tiếng Nhật để có những góc nhìn mới về truyền thông trong hoàn cảnh mạng xã hội đang lấn lướt truyền thông truyền thống và chính thống. Từ đó nhận biết sự tác động, ảnh hưởng hai mặt của truyền thông trong đó có VOV đối với hoạt động giao lưu văn hóa nói chung và giao lưu văn hóa giữa Việt Nam-Nhật Bản nói riêng. Tác giả Ikegami Akira trong cuốn sách 心をつなぐニュース (tạm dịch là Thông tin kết nối trái tim) xuất bản tháng 6 năm 2011 tại Tokyo đã đề cập tới sức mạnh của truyền thông là sức mạnh của sự gắn kết, trao truyền giá trị văn hóa của Nhật Bản đến với thế giới. Phạm Thái Việt với cuốn sách Ngoại giao văn hóa cơ sở và lý luận, kinh nghiệm quốc tế và ứng dụng, Nxb Chính trị- Hành chính, Hà Nội, 2012, đã phân tích rõ vai trò của truyền thông và thông tin trong chuyển hóa văn hóa thành sức mạnh. Tác giả đã nhận định rằng, truyền thông sẽ thúc đẩy quá trình di truyền văn hóa (xét trong nội bộ cộng đồng truyền thống) và mô phỏng văn hóa (xét trong quan hệ giữa các cộng đồng với nhau).
- 5 Ngoài ra, nghiên cứu sinh cũng đã dẫn chứng một số tác phẩm của các tác giả Nhật Bản từng sống và làm việc tại Việt Nam, gắn bó với Việt Nam như nguyên Đại sứ Mitsuo Sakaba, đương kim Chủ tịch Đảng Cộng sản Nhật Bản Kazuo Shii… về vai trò của truyền thông Việt Nam nói chung bao gồm VOV đối với việc thúc đẩy giao lưu nhân dân, giao lưu văn hóa giữa hai nước. Các tác giả cũng đánh giá rằng quan hệ hai nước là quan hệ kiểu mẫu mà cộng đồng quốc tế cần tham khảo. 1.1.3. Nhận xét chung và những vấn đề luận án tiếp tục cần nghiên cứu Xuất phát từ những nghiên cứu trước đó liên quan tới đề tài, NCS tiếp tục đặt ra một số vấn đề để đi sâu nghiên cứu. Đó là: - Làm rõ những vấn đề giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong bối cảnh hai quốc gia đang tăng cường đẩy mạnh quan hệ hữu nghị và vai trò của VOV với hoạt động đẩy mạnh giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản. - Làm rõ thực trạng giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động truyền thông VOV hiện nay. - Dự báo và khuyến nghị các giải pháp thúc đẩy giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong thời gian tới. Những công trình nghiên cứu đã công bố của các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế trên đây là những nguồn tài liệu tham khảo bổ ích và rất cần thiết để NCS thực hiện luận án này. 1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.2.1. Cơ sở lý luận 1.2.1.1. Khái niệm giao lưu văn hóa Có hàng trăm khái nhiệm về giao lưu văn hóa. Trong luận án, NCS đã đưa ra một số khái niệm, và đưa ra khái niệm Giao lưu văn hoá là qúa trình gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi lẫn nhau giữa nền văn hoá này với một nền văn hoá khác, tạo nên sự biến đổi của một hoặc của tất cả các nền văn hóa tham gia vào quá trình gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi đó. NCS cũng dẫn chứng một số khái niệm, thuật ngữ liên quan tới giao lưu văn hóa như; tiếp biến, tiếp xúc, giao tiếp liên văn hoá, giao thoa văn hoá, đối thoại văn hoá... với mục đích làm nổi bật khái niệm giao lưu văn hóa. NCS cũng nhậ ra bản chất của những khái niệm đó, thuật nhữ đó là giống nhau, tuy nội dung và hình thức biểu hiện của chúng lại khác nhau. 1.2.1.2. Khái niệm truyền thông Truyền thông là một quá trình trao đổi thông tin giữa bên truyền thông tin và tiếp nhận thông tin thông qua ngôn ngữ, chữ viết, hay sự biểu hiện trạng thái tâm lý, biểu tượng...nhằm mục đích lý giải lẫn nhau, tác động lẫn nhau trong qua trình biến đổi của xã hội. Ngoài việc đưa ra khái niệm trên về truyền thông, NCS cũng lý giải vai trò của phát thanh VOV trong tiến trình lịch sử. Hiện nay, phát thanh dần dần đang trở lại với vai trò ưu thế. Cuốn Truyền thông giao lưu văn hóa với vấn đề bảo vệ lợi ích và an ninh văn hóa quốc gia do Lê Thanh Bình và Vũ Trọng Lâm đồng chủ biên, NXB Thông tin và Truyền thông xuất bản năm 2015 đã đưa ra khái niệm truyền thông giao lưu văn hóa như sau: "Truyền thông giao lưu văn hóa chính là quá trình tương tác, trao đổi các hoạt động văn hóa, thúc đẩy quá trình giao lưu, tiếp biến các giá trị văn hóa, quảng bá giá trị văn hóa và tiếp thu các giá trị văn hóa mới. Truyền thông giao lưu văn hóa là cầu nối giữa các nền văn hóa, tạo điều kiện cho các nền văn hóa tiếp xúc, trao đổi, hiểu biết nhau và tiếp biến,
- 6 học hỏi các giá trị văn hóa của nhau". 1.2.1.3. Vai trò của giao lưu văn hóa đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội Vai trò của giao lưu văn hoá thể hiện ở những nội dung sau đây: Thứ nhất, tiếp thu chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ của các dân tộc khác Tiếp xúc là học tập người ta để nắm được chính cái tinh thần đã tạo nên được một văn hoá cao hơn mình. Giao lưu văn hoá vừa là để phát huy truyền thống dân tộc, vừa là để làm mạnh dân tộc. Bản sắc văn hoá chính là nền tảng của giao lưu văn hoá. Tuy nhiên bản sắc này trong quá trình giao lưu sẽ trở nên phong phú hơn, đẹp đẽ hơn và toàn diện hơn. Thứ hai, thấu hiểu các nền văn hóa. Mỗi một dân tộc, quốc gia tự thấu hiểu văn hóa tự thân, sau đó lại thấu hiểu giá trị của các nền văn hoá khác. Từ đó loại trừ những cái không phù hợp để giao lưu, loại bỏ những cái xấu. Tuy nhiên, có những trường hợp văn hóa độc hại lại được lan nhanh trong xã hội hơn cả những cái tốt đẹp. Ở Nhật Bản coi thấu hiểu văn hóa khác mình là một yếu tố cần thiết để phát triển chính mình. Thứ ba, giới thiệu, quảng bá lịch sử, đất nước, con người, văn hoá của dân tộc, quốc gia ra thế giới. Đẩy mạnh hoạt động ngoại giao văn hóa là "thời cơ vàng" để chúng ta học hỏi được nhiều điều hay, tiếp thu được nhiều điều tốt, chọn lọc được những tinh hoa văn hóa của các quốc gia, dân tộc trên thế giới để làm giàu và phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam, thực hiện đúng phương châm "Đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới và đưa văn hóa thế giới đến Việt Nam". Thứ tư, giao lưu văn hoá thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển, thúc đẩy sự sáng tạo của văn hoá. Nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới, trong chính sách phát triển của mình đều gắn tăng cường giao lưu văn hóa với phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy sự sáng tạo văn hóa. Chính sự cọ sát của chúng ta với một môi trường văn hóa khác nào đó sẽ giúp chúng ta có sự so sánh, từ đó rút ra những ý tưởng mới cho sự phát triển văn hóa. Ở Việt Nam, phương châm "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội", đã được thực hiện trong nhiều năm nay và đạt được những kết quả quan trọng. Thứ năm, giao lưu văn hoá cũng có thể dẫn tới sự áp đặt, kìm hãm sự phát triển văn hoá. Trong lịch sử phát triển văn hoá của Việt Nam, chúng ta đã trải qua những cuộc tiếp xúc văn hoá với bên ngoài. Có ba cuộc tiếp xúc văn hoá: Lần thứ nhất là thời kỳ tiếp xúc văn hoá Đông Nam Á mà chủ yếu là từ Ấn Độ sang, lần thứ hai là tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc, và lần thứ ba là tiếp xúc với nền văn hoá phương Tây. Ở cả ba thời kỳ này, thật tuyệt vời khi nền văn hoá của chúng ta đã tiếp thu được những tinh hoa từ bên ngoài, làm giàu thêm, phong phú thêm nền văn hoá dân tộc, và hoàn toàn không bị "lai căng". 1.2.1.4. Tác động của truyền thông đối với giao lưu văn hóa - Hiểu mình là ai và muốn gì ? Trong thế giới hiện nay, hình ảnh quốc gia của một đất nước luôn luôn tỷ lệ thuận với sức ảnh hưởng và hấp dẫn văn hóa của quốc gia đó trên thế giới. Sức ảnh hưởng, sức hấp dẫn lại tương đồng với khả năng cung cấp sản phẩm văn hóa cho thế giới của quốc gia đó.
- 7 - Tác động tinh tế, nhẹ nhàng, thân thiện. Phương pháp truyền thông giao lưu văn hóa nhằm mục đích chiến lược của quốc gia hay chỉ tuyên truyền đối ngoại đều cần sự tinh tế, nhẹ nhàng, khôn khéo. Đó cũng chính là biến tuyên truyền thô thiển, lộ liễu, hành chính, phong trào thành truyền thông giao lưu văn hóa bài bản, đậm tính văn hóa, nhân văn, thân thiện, hữu nghị mà vẫn kín đáo. - Tác động tới xây dựng chiến lược, triển khai hoạt động giao lưu văn hóa. Truyền thông phải nắm vững những hình thái đó để có thể hiểu rõ nhu cầu văn hóa nước đó như thế nào, yêu cầu ra sao để có thể tư vấn cho việc xây dựng, triển khai văn hóa của quốc gia mình cho phù hợp. 1.2.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp liên/đa ngành Đối tượng nghiên cứu của luận án là giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động truyền thông VOV mang tính liên ngành rõ, vì thế, trong luận án, NCS sử dụng phương pháp liên ngành văn hóa học, truyền thông học, quốc tế học, xã hội học… để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu. - Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu Vận dụng những tư liệu đã có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, làm rõ hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản, tác động của VOV trong tăng cường hoạt động giao lưu văn hóa đó. Đồng thời vận dụng những tư liệu thực tiễn của nghiên cứu sinh trong việc tuyên truyền, tổ chức, kết nối…giao lưu văn hóa hai nước. - Phương pháp điều tra xã hội học Nghiên cứu sinh thực hiện điều tra thính giả Nhật Bản về các chương trình của VOV liên quan tới văn hóa, giao lưu văn hóa, giao lưu con người giữa hai nước để có thông tin chính xác và khách quan. - Phương pháp điền dã thực tế, quan sát, tham dự Nghiên cứu sinh trực tiếp tham gia vào các chương trình giới thiệu văn hóa, đời sống xã hội Việt Nam bằng Tiếng Nhật đến với thính giả Nhật Bản và những người biết tiếng Nhật trên toàn thế giới. Thực tế tại một số nơi mang đậm dấu ấn bang giao giữa hai nước tại Việt Nam và Nhật Bản. - Phương pháp thống kê so sánh Thống kê, so sánh những dữ liệu, tài liệu về giao lưu văn hóa Việt Nam- Nhật Bản, thống kê những hoạt động truyền thông của VOV trong quá trình lịch sử hình thành và phát triển có liên quan tới giao lưu văn hóa hai nước. Đồng thời so sánh với hoạt động truyền thông của chương trình phát thanh Tiếng Việt của NHK trong việc thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa hai nước. - Phương pháp phỏng vấn sâu Nghiên cứu sinh đã trực tiếp phỏng vấn các nhà Lãnh đạo, nhà quản văn hóa, chuyên gia văn hóa…của hai nước về vấn đề mà đề tài nghiên cứu. Đây cũng là nguồn tư liệu mới, sát thực tế có tính định hướng thúc đẩy phát triển giao lưu văn hóa thường xuyên như một nhu cầu không thể thiếu. Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM-NHẬT BẢN QUA PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG VOV 2.1. KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM- NHẬT BẢN Quan hệ Việt Nam và Nhật Bản là mối quan hệ lâu đời, được dựa trên nền tảng giao lưu thương mại và giao lưu văn hóa hàng nghìn năm trước.
- 8 Hai nước lại cùng nằm chung trong vùng văn hóa Châu Á, có nhiều nét tương đồng về văn hóa, dễ gần, dễ thông cảm và dễ thân thiện với nhau. Do vậy, mối quan hệ này là mối quan hệ qua lại phục vụ lợi ích chung cho dân tộc và nhân dân hai nước. Quan hệ hai nước manh nha từ thế kỷ thứ 8, phát triển cực thịnh vào cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI. Dấu ấn đó còn tồn tại đến ngày nay đó là Hội An, nơi có Phố Nhật Bản, ghi dấu thời kỳ giao thương phát triển và giao lưu văn hóa. Đặc biệt lần đầu tiên trong lịch sử, có một Công chúa Việt Nam được gả cho một thương gia người Nhật Bản. Vào đầu thế kỷ 20, Nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đã cùng nhiều thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản học tập kinh nghiệm với mục đích giải phóng dân tộc đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Sự kiện này cho tới ngày nay vẫn được nhân dân hai nước nhắc tới như một minh chứng cho quan hệ hai nước. Quan hệ hai nước có những lúc thăng trầm. Tuy nhiên việc thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước vào năm 1973, nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam…giúp quan hệ hai nước ngày càng trở nên nồng ấm. Từ năm 2005 đến nay, lãnh đạo hai nước thường xuyên có chuyến thăm lẫn nhau, ký kết hàng loạt hiệp định hợp tác, văn bản thỏa thuận trong đó có nhiều thỏa thuận liên quan tới giao lưu văn hóa giữa hai nước. Năm 2010, kim ngạch thương mại giữa hai nước đã vượt con số 10 tỷ USD. Tính đến tháng 12 năm 2012, Nhật đã đầu tư 1700 dự án với tổng kim ngạch đầu tư lên tới 29 tỷ USD trở thành một trong những nước đầu tư lớn nhất tại Việt Nam. Kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước đến hết năm 2016 đạt 42 tỷ USD, phấn đấu đến năm 2020 đạt 60 tỷ USD. Bên cạnh đó, quan hệ văn hoá, giáo dục phát triển hơn bao giờ hết. Tháng 1/2017, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã chọn Việt Nam là 1 trong 3 nước trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên của năm mới. Trong chuyến thăm này, Thủ tướng Abe và các lãnh đạo Việt Nam đã cam kết tiếp tục tăng cường quan hệ hai nước trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt cuối tháng 2, đầu tháng 3/2017, Nhà Vua và Hoàng hậu Nhật Bản đã chính thức thăm Việt Nam. Đây là sự kiện đặc biệt bởi Nhà Vua và Hoàng hậu hiếm khi công du nước ngoài. Chuyến thăm đã thành công rực rỡ bởi tình cảm của nhân dân Việt Nam đối với Nhà Vua và Hoàng hậu được thể hiện một cách kính trọng nhưng vô cùng ấm áp. Điều này khiến tình cảm nhân dân hai nước ngày càng thêm gần gũi. Tháng 6 năm 2017, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc thăm chính thức Nhật Bản và tham dự Hội nghị tương lai châu Á, hứa hẹn những dự án mới và hiệu quả trong quan hệ hai nước. Mối quan hệ giữa Việt Nam-Nhật Bản, trong đó có hoạt động giao lưu văn hóa giữa hai nước đã có từ rất sớm và ngày càng phát triển trong giai đoạn hiện nay. Hai nước lại cùng nằm chung trong vùng văn hóa Châu Á, có nhiều nét tương đồng về văn hóa, dễ gần, dễ thông cảm và dễ thân thiện với nhau. Do vậy, mối quan hệ này là mối quan hệ qua lại phục vụ lợi ích chung cho dân tộc và nhân dân hai nước. 2.2. CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO VĂN HÓA CỦA VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN 2.2.1. Chính sách ngoại giao văn hóa Việt Nam Trong xu thế hội nhập với thế giới ngày càng sâu rộng và thời đại toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam xác định cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa là một trong ba trụ cột của ngoại giao hiện đại.
- 9 Ngoại giao văn hóa được ví như "quyền lực mềm" vừa có khả năng lan tỏa bền bỉ, vừa có tác dụng thẩm thấu lâu dài. Ngoại giao văn hoá Việt Nam là một hoạt động ngoại giao đặc thù, sử dụng công cụ văn hoá để đạt được các mục tiêu ngoại giao và sử dụng ngoại giao để tôn vinh vẻ đẹp văn hoá. Các hoạt động ngoại giao văn hoá được thực hiện qua các hình thức văn hoá, nghệ thuật bao gồm: Nghệ thuật, lịch sử, tư tưởng, truyền thống văn hoá, thông tin, ẩm thực, các ấn phẩm văn học VOV giống như sợi dây kết nối quá khứ với hiện tại, soi lại quá khứ, tìm thấy sự thăng hoa của giao lưu văn hóa hai nước, so sánh với hiện tại làm phong phú thêm sinh động thêm hoạt động giao lưu văn hóa trong tương lai. Trong xu thế văn hóa đang hội nhập thế giới sâu rộng, VOV là người phát ngôn chính thức của Việt Nam trong việc tuyên truyền những chiến lược ngoại giao văn hóa, đồng thời chủ trì, tham gia trực tiếp vào những cuộc hội thảo, hoạt động giao lưu văn hóa… thúc đẩy quảng bá văn hóa Việt Nam đến với công chúng Nhật Bản, góp phần nâng cao hiểu biết về lịch sử văn hóa lẫn nhau, tiến tới mở rộng các hoạt động giao lưu văn hóa giữa hai nước. 2.2.2. Chính sách ngoại giao văn hóa Nhật Bản Trong xu thế chung hiện nay chính sách ngoại giao văn hoá Nhật Bản hướng tới tìm kiếm sự thịnh vượng riêng của mình trong sự thịnh vượng của thế giới. Nói cách khác, người dân Nhật Bản cần phải nhận thức sâu sắc về ngoại giao văn hóa và sự tham gia của Nhật Bản trong các hoạt động quốc tế. Ba mục tiêu Một là, thúc đẩy thế giới hiểu biết Nhật Bản và nâng cao hình tượng Nhật Bản cũng như giành được tín nhiệm. Hai là, tránh khỏi xung đột, tăng tiến sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nền văn hóa và văn minh khác nhau. Ba là, bồi dưỡng giá trị và quan niệm văn hóa chung của toàn nhân loại. Ba trụ cột tinh thần Dạng thức văn hóa mang văn hóa tự thân "truyền bá" ra ngoài, "hấp thu" văn hóa ngoại quốc ưu tú trong giao lưu "cộng sinh" ra cái mới. Truyền bá, hấp thu và cộng sinh là ba quan niệm lớn của ngoại giao văn hóa Nhật Bản và là ba trụ cột tinh thần lớn. Sự tự tin văn hoá Nhật Bản coi văn hóa là một loại nối dài của kinh tế, một loại xúc giác. Do văn hóa có tác dụng mà kinh tế và chính trị đều không có, nên những chỗ thông qua chính trị, kinh tế mà không đạt được thì tất nhiên phải thông qua văn hóa để hoàn thành. Điều quan trọng hơn, phương thức của văn hóa là một loại phương thức hòa bình, một loại phương thức làm cho người ta trong quá trình vui vẻ, trầm lắng lại giành được thành công. Điều đáng chú ý là, Nhật Bản đã không quá chú trọng bảo hộ truyền thống văn hóa mà quan tâm đến văn hóa hiện thời. Hơn nữa, truyền bá văn hóa đã trở thành nghĩa vụ của toàn xã hội. Điểm nổi bật là chiến lược ngoại giao văn hóa không nhấn mạnh những cái gọi là an ninh văn hóa, xâm lược văn hóa. Điều này có thể gọi là sự tự tin văn hóa. 2.3. KHÁI QUÁT VỀ VOV VOV được thành lập ngày 7/9/1945 là cơ quan duy báo chí duy nhất của Việt Nam có đủ các loại hình báo chí với báo nói, báo viết, kênh truyền hình VOVTV và báo điện tử. Đặc biệt trong giai đoạn bùng nổ thông tin, trong sự cạnh tranh khốc liệt của các thể loại truyền thông, Đài Tiếng nói Việt Nam vẫn là công cụ của tuyên truyền quan trọng bậc nhất của Việt Nam, là một trong
- 10 những Đài có qui mô lớn và hiện đại ở khu vực Châu Á. Trong VOV có chương trình phát thanh Tiếng Nhật ra đời từ năm 1963 đóng góp tích cực vào việc tăng cường giao lưu giữa nhân dân Việt Nam và Nhật Bản. Ngoài ra VOV cũng đã cho ra đời trang báo điện tử bằng tiếng Nhật, truyền tải những thông tin được người Nhật Bản quan tâm, giúp tăng cường hiểu biết giữa nhân dân hai nước. Đài Tiếng nói Việt Nam đã ký thỏa thuận hợp tác tuyên truyền với một số cơ quan truyền thông của Nhật Bản như NHK, Jiji Press…, thường xuyên có những trao đổi nghiệp vụ, tổ chức giao lưu không chỉ với những cơ quan trong lĩnh vực báo chí mà còn mở rộng ra trong lĩnh vực khác. Điển hình năm 2015, Cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam đã phối hợp với Hội Trà đạo, Hoa đạo Nhật Bản tổ chức thành công giao lưu văn hóa Việt-Nhật tại trụ sở của Đài, với sự tham gia của 67 nghệ nhân Nhật Bản và hàng ngàn người yêu thích văn hóa Việt Nam, văn hóa Nhật Bản. Hiện nay, Đài Tiếng nói Việt Nam trở thành công cụ tuyên truyền chính sách, đường lối của Đảng và nhà nước, thành tựu Việt Nam đã đạt được trong sự nghiệp đổi mới, quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là giới thiệu hình ảnh, đất nước, con người, nét đẹp văn hoá của Việt Nam ra bạn bè thế giới. 2.4. HOẠT ĐỘNG GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM-NHẬT BẢN VỚI SỰ THAM GIA CỦA VOV VÀ ĐÀI NHK Trong những năm gần đây hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản thực sự phát triển cả bề sâu lẫn bề rộng. Hàng năm, có hàng trăm sự kiện giao lưu văn hóa như: hội thảo văn hóa Việt - Nhật, tuần lễ phim Nhật tại Việt Nam, triển lãm ảnh, thi hùng biện tiếng Nhật, thi "Bạn biết gì về Việt Nam" trên VOV. Đó thực sự là nguồn thông tin dồi dào cho việc tuyên truyền hoạt động giao lưu văn hóa Việt - Nhật của VOV và Đài NHK Nhật Bản. 2.4.1. Giao lưu văn hoá và văn nghệ Từ năm 2000 trở đi, có bước tiến lớn trong quan hệ văn hóa giữa hai nước, khi các hoạt động giao lưu văn hóa, nghệ thuật song phương nở rộ. Hàng năm, luân phiên, Festival Văn hóa - Du lịch Việt Nam được tổ chức tại nhiều thành phố của Nhật Bản, và ngược lại Lễ hội văn hóa Nhật Bản cũng được tổ chức ở Việt Nam, thu hút sự chú ý của nhân dân hai nước. Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản đã được mở rộng ra các địa phương, không còn bó hẹp trong Tokyo và đã trở thành sự kiện không thể thiếu trong quan hệ hai nước. Ngoài ra các hoạt động dịch sách, thi người đẹp hai nước… cũng diễn ra sôi nổi làm phong phú thêm tinh thần của nhân dân hai nước. 2.4.2. Hoạt động giáo dục tiếng Nhật và tiếng Việt Theo kết quả của cuộc khảo sát gần đây nhất về việc đào tạo tiếng Nhật ở nước ngoài của Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản, nếu không tính nước Nhật thì hiện có gần 2,98 triệu người ở 133 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đang theo học tiếng Nhật. Tuy nhiên, nếu tính cả số người đang tự học tiếng Nhật, con số thống kê trên có thể được cao hơn gấp nhiều lần. Theo số liệu đến năm 2016, số người học tiếng Nhật ở Việt Nam là hơn 65.000 người. Chương trình phát thanh tiếng Nhật - Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát sóng nhiều chương trình "Vui học tiếng Việt", thu hút nhiều thính giả Nhật Bản đã học tiếng Việt qua chương trình này. Đồng thời, chương trình của Đài NHK Nhật cũng đã mở chuyên mục "Vui học tiếng Nhật" nhằm đáp ứng nhu cầu học tiếng Nhật của thính giả người Việt Nam. 2.4.3. Nghiên cứu Nhật Bản học, Việt Nam học
- 11 Hoạt động nghiên cứu Nhật Bản học, Việt Nam học có từ sớm. Tuy nhiên, phải tới sau này, đặc biệt từ những năm 2000, hoạt động nghiên cứu này mới phát triển. Năm 2009, lần đầu tiên tất cả các nhà nghiên cứu Nhật Bản học ở Việt Nam đã quy tụ trong một cuộc Hội thảo quốc tế lớn mang tên "Nghiên cứu Nhật Bản ở Đông Nam Á: quá khứ, hiện tại, tương lai" do Viện Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức với cơ quan tài trợ chính là Quỹ Giao lưu quốc tế Nhật Bản. Có thể nói, đây là cơ hội quý báu để các nhà nghiên cứu trẻ Việt Nam được giao lưu, trao đổi với các nhà nghiên cứu Nhật Bản học tại Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia…Việc nghiên cứu này ở VOV chưa có, mới chỉ dừng lại ở những tham luận, bài báo liên quan tới tuyên truyền. 2.4.5. Xúc tiến giao lưu văn hóa giữa nhân dân hai nước Nhận thấy việc tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước là nền tảng cho mọi quan hệ song phương chặt chẽ hơn, Chính phủ Việt Nam và Nhật Bản đã nỗ lực thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau thông qua giao lưu trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, du lịch, thể thao. Cụ thể là, hai nước đang triển khai các chương trình đào tạo con người, chương trình thanh niên ASEAN (100 người/năm), trao đổi các đoàn văn hóa, tình nguyện viên, chuyên gia… Riêng đối với VOV đã bắt đầu tổ chức những cuộc giao lưu thính giả, giao lưu lưu học sinh với mục đích tăng cường hiểu biết và kết nối. Chương 3 THỰC TRẠNG GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM-NHẬT BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG VOV 3.1. GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM - NHẬT BẢN QUA CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH TIẾNG NHẬT CỦA VOV Chương trình phát thanh tiếng Nhật là một trong thứ ngữ quan trọng của VOV đang góp phần tích cực tuyên truyền về đất nước, con người, vẻ đẹp văn hoá của Việt Nam đến với bạn bè Nhật Bản và quốc tế. Trong các hoạt động của VOV, trang Website ra đời, hoạt động tập trung chủ yếu vào chuyên đề văn hóa, phân tích, định hướng xu thế giao lưu văn hóa hai nước trong từng giai đoạn. Tất cả các hoạt động này đều gắn với những chuyên mục, chuyên đề chung của chương trình phát thanh tiếng Nhật. Chương trình tiếng Nhật có thể nói là "linh hồn" trong các hoạt động truyền thông của VOV trong giao lưu văn hóa Việt - Nhật. Chương trình tiếng Nhật của VOV là một trong những chương trình được thành lập sớm. Ngày 29 tháng 4 năm 1963 chương trình Tiếng Nhật đầu tiên được phát sóng với sự giúp đỡ của một số chuyên gia do Đảng Cộng sản Nhật Bản và hãng Denpa News cử sang vừa làm biên tập viên kiêm phát thanh viên. Trong những năm chiến tranh, trung bình mỗi tháng có từ 4000-5000 lá thư của thính giả Nhật gửi về ban biên tập chương trình tiếng Nhật. Tất cả các lá thư đó vừa bày tỏ sự ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, khích lệ, động viên anh chị em biên tập công tác, tiếp tục làm nhiệm vụ chính trị quan trọng, thông tin về đời sống, tinh thần lạc quan của con người Việt Nam trong thời chiến. Đặc biệt, hơn chương trình tiếng Nhật có nhiệm vụ kêu gọi sự ủng hộ của bạn bè Nhật Bản và quốc tế ủng hộ cho cuộc giải phóng con người ở Việt Nam. Cũng chính lúc này bà Nakamura Nobuko, vợ của nhà nông học nổi tiếng Lương Định Của, đã đến làm việc tại chương trình Tiếng Nhật, giúp
- 12 biên tập phần tiếng Nhật, đọc chương trình trên sóng. Và cũng chính Bà là người vào thời khắc lịch sử ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã truyền đi trên bản tin tiếng Nhật về chiến thắng 30/4. Nakamura Nobuko trở thành nhân chứng cho chiến thắng của một dân tộc nhỏ bé trước một cường quốc. Bà trở thành người con của Việt Nam. Chính những người như bà Nakamura và một số người bạn Nhật Bản sau này gắn bó với chương trình phát thanh Tiếng Nhật là biểu hiện sinh động của giao lưu văn hóa, giao lưu con người giữa hai nước. Chính từ họ đã lan tỏa niềm tin yêu từ Việt Nam đến với nhiều người Nhật Bản khác. Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với xu thế chung, chương trình tiếng Nhật tập trung vào tuyên truyền chủ trương, chính sách đổi mới, những thành quả ban đầu của Việt Nam. Bạn bè quốc tế bao gồm Nhật Bản ủng hộ đường lối đổi mới. Năm 1993, Nhật nối lại viện trợ cho Việt Nam. Tuy nhiên, viện trợ này không chỉ tập trung vào công việc xây dựng hạ tầng giao thông, mà tập trung nhiều cho việc xây dựng trường học. Một loạt bài báo viết về viện trợ này và hiệu quả của nó mang lại. Nhiều thính giả gửi thư về bày tỏ mong muốn chính phủ Nhật tiếp tục viện trợ cho việc xây dựng trường học cho Việt Nam. Từ 2010 đến nay, nền kinh tế Việt Nam phát triển, giao lưu văn hoá với Nhật Bản cực kỳ phát triển. Có thể nói Nhật Bản với quan điểm "truyền bá", "hấp thụ", "cộng sinh" đã tạo ra một trào lưu văn hoá tích cực tại Việt Nam. Và đây cũng là những nguồn thông tin quí giá và rộng lớn để cho chương trình tiếng Nhật và các loại hình truyền thông khác ở Việt Nam hoạt động. Với hơn 2 giờ phát sóng hàng ngày, chương trình phát thanh Tiếng Nhật cùng với các Hệ phát thanh khác, kênh truyền hình của VOV đã truyền tải những thông tin phong phú từ Việt Nam đến với Nhật Bản. Những chương trình văn hóa, âm nhạc, giới thiệu Việt Nam…là nguồn cảm hứng cho các bạn Nhật thêm yêu Việt Nam. Hiện nay, hàng tháng chương trình phát thanh Tiếng Nhật vẫn nhận được hàng trăm lá thư từ các bạn Nhật Bản, động viên, khích lệ những người làm chương trình. 3.2. GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM - NHẬT BẢN QUA HOẠT ĐỘNG CỦA WEBSITE TIẾNG NHẬT VOV Hiện tại, ở Nhật Bản có khoảng gần 200.000 người Việt Nam đang sinh sống, trong đó có tới 45% là thực tập sinh và tu nghiệp sinh, 30% là du học sinh. Hàng năm, lượng kiều hối từ Nhật Bản gửi về cũng đã đóng góp và sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Là một trong những ngôn ngữ chính của VOV, Website tiếng Nhật mở ra một thời kỳ truyền thông mới trong việc tuyên truyền, tăng cường giao lưu văn hoá giữa hai nước Việt - Nhật. Nằm cùng hệ thống Website của VOV website tiếng Nhật là một trong những thứ ngữ được nhiều người truy cập nhất và tăng khá đều đặn. Nhật Bản là một nước có nền công nghệ thông tin phát triển, vì vậy đây thực sự đã đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin của các bạn Nhật muốn tìm hiểu về Việt Nam một cách nhanh nhất. Dựa trên các chuyên mục đã phát sóng hàng ngày Website tiếng Nhật vẫn giữ nguyên nội dung để đăng tải lên trang Web. Độc giả có thể xem và cũng có thể thành thính giả nếu muốn nghe chương trình thông qua giọng đọc của các phát thanh viên Việt Nam. Ngoài nội dung đó, để phù hợp với hình thức và nội dung của trang điện tử, có thêm nhiều chuyên đề mới, phóng sự ảnh, đi đâu xem gì... Website tiếng Nhật mở ra một thời kỳ truyền thông mới trong việc tuyên truyền, tăng cường giao lưu văn hoá giữa hai nước Việt - Nhật. Nằm cùng hệ thống Website của VOV website tiếng Nhật là một trong những thứ ngữ được nhiều người truy cập nhất và tăng khá đều đặn. Nhật Bản là một nước có nền
- 13 công nghệ thông tin phát triển, vì vậy đây thực sự đã đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin của các bạn Nhật muốn tìm hiểu về Việt Nam một cách nhanh nhất. Dựa trên các chuyên mục đã phát sóng hàng ngày Website tiếng Nhật vẫn giữ nguyên nội dung để đăng tải lên trang Web. Độc giả có thể xem và cũng có thể thành thính giả nếu muốn nghe chương trình thông qua giọng đọc của các phát thanh viên Việt Nam. Ngoài nội dung đó, để phù hợp với hình thức và nội dung của trang điện tử, có thêm nhiều chuyên đề mới, phóng sự ảnh, đi đâu xem gì... Việc mở trang web tiếng Nhật cũng là hợp với xu thế phát triển của truyền thông hiện đại. Bởi lẽ đây cũng là phương tiện hiện đại nhất của truyền thông ngày nay. Nó cũng thể hiện Nhật Bản thực sự đã trở thành đối tác chiến lược quan trọng của Việt Nam, việc Việt Nam coi trọng củng cố mối quan hệ đó, tăng cường sự giao lưu giao giữa nhân dân hai nước trên lĩnh vực văn hóa bằng nhiều hình thức của truyền thông. Điều này cũng thể hiện sự giao lưu văn hóa hai nước đã ở mức độ cao hơn, đòi hỏi công việc quảng bá cho hoạt động này cũng cao hơn. 3.3. GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM - NHẬT BẢN QUA HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THƯỜNG TRÚ ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM TẠI NHẬT BẢN Cơ quan thường trú VOV tại Tokyo, Nhật Bản được thành lập năm 2003. Là một trong những Cơ quan quan trọng trong hệ thống tuyên truyền của VOV, VOV tại Tokyo có vai trò trong việc tuyên truyền, tổ chức tuyên truyền hoạt động lãnh đạo, tổ chức, Hiệp hội… của Việt Nam và ngược lại lãnh đạo, tổ chức, Hiệp hội… của Nhật Bản sang thăm, tìm hiểu, kết nối giao lưu với Nhật Bản. Đồng thời, làm cầu nối cho cộng đồng Việt Nam tại Nhật Bản, tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa. Thể hiện ở những vai trò sau: Tuyên truyền giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản, Nhật Bản-Việt Nam Cơ quan VOV tại Nhật Bản đã tập trung thực hiện các phóng sự, bài phỏng vấn về các chủ đề cụ thể như; nghệ thuật truyền thống, bảo tồn và phát huy di sản, văn học Nhật Bản…phát sóng, đăng tải trên các phương tiện truyền thông của VOV, được công chúng Việt Nam đón nhận,có ảnh hưởng tốt tới đời sống văn hóa trong nước. Hàng năm Cơ quan thường trú đã sản xuất được hàng nghìn tin, bài, phóng sự, phỏng vấn…liên quan tới Nhật Bản, đời sống người Việt tại Nhật Bản, trong đó có một số lượng không nhỏ đề cập tới giao lưu văn hóa hai nước, văn hóa Nhật Bản truyền tải tới công chúng Việt Nam và thế giới. Để làm nổi bật vai trò của cơ quan thường trú tại Nhật Bản, NCS đã tiến hành khảo sát về tin, bài liên quan đến giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản. Khảo sát cho thấy lượng tin bài về giao lưu văn hóa hai nước, về văn hóa Nhật Bản chiếm tỷ trọng khá lớn. Ví dụ như tháng 1/2016, thông tin liên quan tới giao lưu văn hóa chiếm 17,64%, tin bài liên quan tới văn hóa Nhật Bản chiếm 13,72%. Tuy nhiên có tháng, số lượng tin bài có là đối tượng nghiên cứu của luận án chiếm ít như tháng 10 chỉ chiếm 10,17% đối với số lượng tin bài liên quan tới văn hóa Nhật Bản. Với số lượng 134 tin bài, phóng sự liên quan tới văn hóa Nhật Bản, tuy chưa có thể nói là nhiều nhưng cũng cho thấy sự phản ánh theo chiều ngược lại về văn hóa Nhật Bản tới công chúng khá phong phú và liên tục. Tổ chức, kết nối các sự kiện giao lưu văn hóa Nhật Bản-Việt Nam Ngoài nhiệm vụ tuyên truyền, giới thiệu hình ảnh, đất nước con người Nhật Bản, hoạt động, đời sống… của cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản đến với công chúng Việt Nam, công chúng Nhật Bản, việc tổ chức, kết nối các sự kiện giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
- 14 nhằm tăng cường hiểu biết giữa nhân dân hai nước. Năm 2015, lần đầu tiên VOV tại Tokyo, Nhật Bản kết hợp với các đơn vị VOV trong nước đã tổ chức thành công giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản tại Hà Nội với chủ đề "Nhịp cầu hữu nghị Nhật-Việt kết nối từ Hoa và Tre" với sự tham gia của 67 nghệ nhân Hoa đạo, Trà đạo Nhật Bản. Sự kiện đã thu hút gần 1000 người đến thưởng hoa, thưởng trà, đánh dấu bước đầu cho việc tổ chức những sự kiện lớn có ý nghĩa đối với giao lưu văn hóa hai nước. Trong bối cảnh hiện tại, quan hệ hai nước đang ở giai đoạn phát triển tốt đẹp nhất, đòi hòi Cơ quan thường trú tại Nhật Bản ngoài việc tăng cường hoạt động tuyên truyền trên các loại hình truyền thông mà Đài đang sở hữu, mà quan trọng hơn phải thúc đẩy hoạt động giao lưu, kết nối giao lưu văn hóa. Từ đó người dân Nhật Bản biết đến Đài nhiều hơn, đến đất nước Việt Nam nhiều hơn, tạo được sự tin tưởng thân thiết góp phần phát triển thực chất hơn trong những lĩnh vực khác giữa hai nước. 3.4. GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM - NHẬT BẢN QUA HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC GIỮA VOV VÀ NHK Chương trình phát thanh tiếng Việt là một trong 18 ngôn ngữ được phát trên NHK WORLD. Các chương trình tiếng Việt được phát lần đầu tiên vào tháng 4 năm 1961. Hiện nay, chương trình được phát 3 buổi trong ngày, trên làn sóng ngắn và trên Internet. Hiện tại, hàng năm đều có biên tập viên của Đài Tiếng nói Việt Nam được cử sang giúp bạn hiệu đính các chuyên mục tiếng Việt, tham gia dạy tiếng Nhật trên sóng... Chương trình Việt ngữ Đài NHK có mối liên hệ mật thiết với VOV, trước hết do đặc thù hai nước coi đây là kênh thông tin chính thống đặc biệt trong mọi hoạt động liên quan tới hai nước. Cũng như chương trình phát thanh tiếng Nhật, chương trình Việt ngữ đài NHK tập trung vào những hoạt động giao lưu văn hóa là chủ yếu, bởi lẽ đây là mảng thông tin được quan tâm nhiều hơn cả. Do NHK là Cơ quan hợp tác với VOV trong lĩnh vực sản xuất, hỗ trợ các chương trình phát thanh, nên chương trình "Vui học tiếng Nhật" phát trên kênh VOV2 được NHK hỗ trợ, duy trì hàng chục năm nay đã góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác lẫn nhau trong việc học tiếng Nhật, từ đó tăng cường hiểu biết lẫn nhau, tình yêu văn hóa đối với người dân mỗi nước. VOV và NHK còn hợp tác trong lĩnh vực trao đổi nhân lực. Nhiều cán bộ, biên tập viên của VOV trực tiếp sản xuất những chương trình tiếng Việt trên NHK, giúp bạn hoàn thiện hơn về văn bản tiếng Việt trước khi lên sóng. Và ngược lại, nhiều cán bộ thuộc chương trình Tiếng Việt của NHK trực tiếp thực tập và làm việc tại VOV. Sự giao lưu con người này đã mang lại hiệu quả lớn trong việc thúc đẩy giao lưu văn hóa chính trong lòng VOV. Liên quan tới nội dung của NHK liên quan tới giao lưu văn hóa hai nước, ngoại trừ phần tin và bình luận (thời sự) thì các chuyên mục đều lấy trọng tâm là giới thiệu văn hoá Nhật Bản, âm nhạc và đặc biệt chú trọng tới việc dạy tiếng Nhật. Với phương châm ngôn ngữ là chìa khoá để lý giải mọi điều trong cuộc sống, NHK đã thực hiện chương trình dạy tiếng Nhật trong suốt nhiều năm nay. Đây cũng nằm trong mục đích của Đài NHK khi muốn quảng bá hình ảnh đất nước, con người Nhật Bản với bạn bè quốc tế, đặc biệt là truyền bá hình ảnh Nhật Bản đối với người Việt Nam, nhằm tăng cường giao lưu văn hoá giữa hai nước. Đài NHK với việc thành lập câu lạc bộ sóng ngắn (AM) đã thu hút tham gia của nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới trong đó có chương trình tiếng Nhật. Tại Nhật Bản cùng với sự chủ trì của cơ quan thường trú Đài Tiếng nói
- 15 Việt Nam tại Nhật hàng năm cũng tổ chức cuộc gặp gỡ những người yêu sóng ngắn Việt Nam. Đây là sự kiện thực sự có ý nghĩa đối với VOV khi có một số lượng nhất định người Nhật hàng ngày vẫn theo dõi tiếng nói Việt Nam với hy vọng Việt Nam phát triển và cùng với nhân dân Nhật Bản đóng góp vào sự thịnh vượng chung của thế giới. 3.5. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐANG ĐẶT RA 3.5.1. Đánh giá chung Các hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong những năm gần đây thực sự phong phú và sôi nổi. Hai nước đã đưa ra những thỏa thuận hợp tác cụ thể trong vấn đề giao lưu văn hóa. Bên cạnh đó, giao lưu văn hóa giữa các địa phương hai nước, giao lưu được tổ chức thông qua kết nối của các tổ chức, cá nhân, hiệp hội (bao gồm cả VOV) ngày càng phát triển. Trong nội tại Nhật Bản và Việt Nam giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản, Nhật Bản-Việt Nam không chỉ dừng lại ở mức độ phong trào mà nó phát triển rất tự nhiên nhưng có mục đích rõ ràng hướng tới thúc đẩy giao lưu nhân dân, từ đó tạo dựng mối quan hệ tin tưởng và thân thiết. Đây có thể coi là yếu tố thuận lợi cho giao lưu văn hóa hai nước ngày càng phát triển. VOV với tư cách là Cơ quan truyền thông đa phương tiện, có hợp tác chặt chẽ với nhiều cơ quan truyền thông, tổ chức văn hóa… của Nhật Bản, đồng thời có chương trình phát thanh, website bằng tiếng Nhật, Cơ quan thường trú tại Tokyo, Nhật Bản…có tác động rất lớn tới duy trì, phát triển hoạt động giao lưu văn hóa hai nước. Đồng thời chương trình Việt ngữ của Đài NHK có yếu tố tác động ngược trở lại từ Nhật Bản sang Việt Nam, giúp cho hoạt động giao lưu là hai chiều và trở nên phong phú. 3.5.1.1. Thành tựu và nguyên nhân Ở mặt thành tựu được thể hiện ở mặt nội dung và hình thức giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản trong các hoạt động truyền thông VOV: Nội dung giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản trong các hoạt động truyền thông VOV Nội dung các chương trình liên quan đến giao lưu văn hóa Việt Nam- Nhật Bản được phát sóng đăng tải trên các loại hình báo chí chủ yếu (phát thanh, truyền hình, báo điện tử và báo giấy) của VOV đã đi sâu vào việc quảng bá văn hóa và con người Việt Nam đến với công chúng Nhật Bản, đồng thời tiếp nhận và giới thiệu những thông tin liên quan tới nét đẹp văn hóa, con người Nhật Bản tới công chúng Việt Nam. Thông qua các chương trình, các hoạt động của VOV mà người Việt Nam biết nhiều hơn đến trào đạo Nhật Bản, đến nghệ thuật cắm hoa Ikebana, đến kịch Nô, đến nghệ thuật gấp giấy Origami,… VOV đóng vai trò là kênh chuyển tải thông tin thúc đẩy quá trình giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản, tăng cường sự biểu biết lẫn nhau giữa hai quốc gia. Có thể nói, VOV đã tập trung khai thác vào những khía cạnh đó để phản ánh trung thực, đa chiều giúp cho công chúng nhận biết những giá trị văn hóa của từng nước. Bên cạnh đó, việc phân tích đưa ra những đánh giá mặt hạn chế còn tồn tại trong chính cái gọi là văn hóa, để công chúng tự nhận thức và tiếp nhận nó. Hình thức giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản trong hoạt động truyền thông VOV Các hình thức của VOV trong việc quảng bá, giới thiệu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản, Nhật Bản-Việt Nam được thể hiện khá linh hoạt như: giới thiệu sự kiện văn hóa, phỏng vấn chuyên gia văn hóa 2 nước, đánh giá phân
- 16 tích nội dung giao lưu hai nước, tổ chức sự kiện giao lưu văn hóa… Tất cả những hình thức trên được các kênh của VOV biên tập theo từng thể loại truyền thông (đối với phát thanh thì sử dụng âm thanh thế nào? Đối với truyền hình thì sử dụng hình ảnh truyền hình ra sao?) để có một sản phẩm tốt nhất giới thiệu đến công chúng. Đặc biệt làm sao phải thể hiện được tinh thần của văn hóa Việt Nam cho công chúng Nhật Bản, và ngược lại tinh thần văn hóa Nhật Bản cho công chúng Việt Nam. Với những nội dung và hình thức như vừa nêu, công chúng Nhật Bản cũng như công chúng Việt Nam đã hiểu rõ hơn về vẻ đẹp văn hóa mỗi nước, suy nghĩ cũng như mong muốn gì ở nhau. Nghĩa là công chúng đã có những phản hồi tích cực (có cả ý kiến đóng góp) đối với vai trò của VOV trong việc thúc đẩy hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản. 3.5.1.2. Hạn chế và nguyên nhân Những hạn chế của VOV trong hoạt động truyền thông liên quan tới giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản đó là: nội dung, hình thức thể hiện còn chưa bao hàm hết ý nghĩa, giá trị của sự kiện liên quan; chưa bao quát được thông tin; chưa thường xuyên tổ chức kết nối được những sự kiện mang tầm qui mô… Nguyên nhân do nhân lực am hiểu về Việt Nam và Nhật Bản còn thiếu, thời lượng phát sóng hạn chế… 3.5.2. Những vấn đề đặt ra VOV còn thụ động trong giao lưu văn hóa với Nhật Bản Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản nói chung và đối với VOV nói riêng nói chung đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, thông qua các hoạt động cụ thể cho thấy phía Nhật Bản (Cơ quan quản lý, tổ chức, hiệp hội, cá nhân…) đã tích cực, chủ động hơn phía Việt Nam trong các hoạt động đó. Phía Việt Nam còn thụ động, khiến đối tác chưa thật sự nhiệt tình trong việc đề xuất tổ chức, thực hiện giao lưu văn hóa. Có thể hiểu rằng một trong những nguyên nhân là Việt Nam còn thiếu kinh phí trong việc quảng bá, giới thiệu hình ảnh Việt Nam ra thế giới, kinh nghiệm cũng như nguồn nhân lực còn hạn chế khi tiến hành tổ chức các sự kiện giao lưu văn hóa. Hiểu chưa sâu nền văn hóa Nhật Bản Trên thực tế, văn hóa Nhật Bản được người dân Việt Nam yêu thích, nhưng mới chỉ được biểu hiện qua việc thích tính cách người Nhật Bản khi gặp khó khăn, chống trọi với thiên tai, thích món ăn Nhật Bản hay hoa Anh đào…nghĩa là chỉ thích qua những biểu hiện bề nổi. Trong khi đó, văn hóa Nhật Bản có những mặt tiêu cực khó nhận biết, đó là sự bảo thủ và tính áp đặt. VOV mới chỉ tiếp cận văn hóa Nhật Bản bề mặt, chứ chưa thực sự thẩm thấu nền văn hóa Nhật Bản trong hoạt động của mình. Điều này khiến cho VOV lúng túng khi tiếp cận văn hóa Nhật Bản ở các góc độ có chiều sâu. Bị chi phối bởi những phương tiện truyền thông khác Ngày nay, nhìn trên tổng thể và toàn cục, loài người đang bước vào thế kỷ XXI với một bước ngoặt vĩ đại của lịch sử nhân loại. Sự chuyển hướng đó diễn ra dưới tác động sâu sắc, toàn diện của sự chuyển hướng chiến lược toàn cầu, hai cuộc cách mạng đồng thời cuộc cách mạng khoa học công nghệ thần kỳ chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh tin học hóa (hay hậu công nghiệp); cuộc cách mạng xã hội chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội (hay hậu tư bản), hai quá trình đồng thời diễn ra trên phạm vi toàn thế giới là quá trình khu vực hóa và toàn cầu hóa. VOV chưa theo kịp xu hướng này.
- 17 Mặt khác, trước sự bùng nổ thông tin, sự phát triển của các trang mạng xã hội, và yêu cầu càng cao của nhu cầu giao lưu văn hóa, VOV chưa thực sự bám sát mảng nội dung liên quan tới giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản, bị các trang mạng xã hội chi phối thông tin. Từ đó dẫn đến gặp khó khăn khi chia sẻ thông tin giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản. Hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản chưa tương xứng với vai trò của VOV Vai trò của VOV chưa được phát huy tối đa, khiến giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản chưa thực sự đáp ứng nhu cầu của công chúng. Nói đến giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản, công chúng chưa nhắc tới VOV, mà chỉ nhắc tới VOV trong những sự kiện chưa thực sự qui mô. Nhưng, gần đây, do có sự thay đổi về tư duy, VOV đã chủ động kết nối tổ chức những sự kiện giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản, tìm hiểu, đề xuất những chương trình giao lưu có thể thực hiện trong tương lai. Dự kiến trong năm 2017, một chương trình giao lưu về kịch Nô, múa truyền thống Nhật Bản sẽ được tổ chức tại VOV, tiếp nối sự kiện "Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản kết nối từ Hoa và Tre" đã rất thành công năm 2015. Đề cao quá mức văn hóa Nhật Bản Các chương trình của mình VOV thường khen nhiều hơn là đề cập tới những khía cạnh hạn chế trong văn hóa Nhật Bản. Do đó, công chúng có cái nhìn phiến diện khi tiếp nhận văn hóa, trong cách giao lưu, tiếp cận người Nhật Bản. Đây là hạn chế khi các chương trình tương tác đòi hỏi tính phản biện cao. Điều này giúp giao lưu văn hóa thực sự bổ ích, đi sâu vào lòng công chúng, xã hội từng nước. Chương 4 DỰ BÁO XU HƯỚNG VÀ KHUYẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM-NHẬT BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG VOV 4.1. DỰ BÁO XU HƯỚNG GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM - NHẬT BẢN 4.1.1. Sự gia tăng các hình thức giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong các hoạt động truyền thông VOV Trong truyền thông, phát thanh có những thế mạnh riêng. Trong xu hướng toàn cầu, phát thanh vẫn là loại hình lựa chọn của mọi người. Ở Việt Nam, việc đầu tư cho việc phát triển VOV với tư cách là cơ quan truyền thông đa phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin đối ngoại của Việt Nam và các nước, khu vực thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Hiện nay, VTV4 - Đài truyền hình Việt Nam (chỉ có một số phóng sự, thông tin về Nhật Bản bằng tiếng Việt), Tạp chí Quê hương của Ủy ban Người Việt Nam ở nước ngoài, Báo ảnh Việt Nam trang điện tử có trang Web bằng tiếng Nhật, song mới chỉ là những thông tin mang tính định kỳ. Cùng với sự đầu tư trang thiết bị hoàn toàn bằng kỹ thuật số, phát sóng qua vệ tinh, VOV trở thành kênh thông tin đối ngoại hiện đại ở khu vực Châu Á. Đồng thời với đó, các chuyên mục văn hóa mang tính tương tác cao, VOV vẫn là phương tiện chủ yếu, phong phú nhất của thính giả, độc giả Nhật trong việc tiếp nhận thông tin về Việt Nam, góp ý những tồn tại trong chương trình VOV tăng sự hấp dẫn, chính xác của thông tin, tạo ra sự kết nối thường xuyên
- 18 giữa nhân dân hai nước. VOV vẫn là người bạn truyền thống và tin cậy của độc giả, thính giả Nhật Bản. Qua đây, chúng ta cũng hiểu rõ hơn về vai trò của VOV trong việc tăng cường giao lưu giữa nhân dân hai nước. Tuy nhiên, VOV cũng phải đổi mới cách thức tuyên truyền, sản xuất các chương trình phát thanh mở, dung hòa nội dung và hình thức giữa thông tin thời sự và giải trí liên quan tới hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản 4.1.2. Sự phát triển của các chương trình dạy tiếng Nhật trên sóng phát thanh VOV Từ năm 2005 đến nay, VOV đã thực hiện phát sóng chương trình "Cùng nhau học tiếng Nhật", nhận được sự phản hồi tích cực từ thính giả. "Cùng nhau học tiếng Nhật" là chương trình dạy tiếng Nhật do Đài phát thanh Nhật Bản NHK WORLD, là đài công cộng của Nhật Bản sản xuất. Thông qua các bài học dưới hình thức kịch phát thanh, người học có thể học ngữ pháp cơ bản và những cách diễn đạt hữu ích. Đồng thời, người học có thể tải âm thanh và văn bản của các bài học miễn phí. "Cùng nhau học tiếng Nhật" là dự án được ký kết với VOV và phát sóng hàng tuần trên Hệ VOV2. Hàng năm, NHK đều cung cấp sách giáo khoa, đĩa DVD cho những ai muốn học Tiếng Nhật trên VOV. Điều này giúp cho những người yêu thích tiếng Nhật tiếp cận dễ dàng hơn trong việc học. Tất cả những Thầy, Cô dạy trong chương trình đều là người Nhật Bản và có sự tham gia của người Việt trong phần thể hiện tiếng Việt. Có thể học tiếng Nhật với VOV bằng hình thức trực tuyến vào bất kỳ lúc nào trong ngày, hoàn toàn miễn phí. Tất cả những gì cần làm là hãy nhấp chuột vào bài học mà bạn muốn học và nghe bài học đó. 4.2. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN CỦA HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG VOV TRONG GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM - NHẬT BẢN THỜI GIAN TỚI 4.2.1. Định hướng nhận thức Đài tiếng nói Việt Nam quán triệt, thực hiện đầy đủ yêu cầu, nhiệm vụ, quan điểm của Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII về Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết 33 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Chiến lược ngoại giao Văn hoá đến 2020, Chiến lược phát triển văn hoá đến 2020 và Chiến lược văn hóa đối ngoại Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030… có kế hoạch cụ thể triển khai quyết định của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng VOV thành Đài Quốc gia đa phương tiện hiện đại . Theo đó, Đài VOV sẽ tăng cường ký kết thỏa thuận hợp tác với các cơ quan truyền thông của Nhật Bản, các Hiệp hội văn hóa, doanh nghiệp, tổ chức của Nhật Bản với mục đích vừa hợp tác tuyên truyền vừa chủ trì giao lưu văn hóa tại Việt Nam và Nhật Bản. 4.2.2. Định hướng cụ thể VOV xác định thời gian tới tập trung vào những định hướng sau: 1.Để có thể xây dựng VOV thành Đài Quốc gia đa phương tiện hiện đại cần lập qui hoạch cụ thể, mở rộng vai trò của các chương trình, đặc biệt là chương trình tiếng Nhật để thu hút sự quan tâm của xã hội Nhật Bản đối với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. 2. Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) thực hiện định hướng phát triển hạ tầng
- 19 thông tin, hạ tầng văn hóa trong Nghị quyết 16/NQ-CP ngày 08/6/2012 của Chính phủ, nhằm xây dựng một công nghiệp phần mềm, xây dựng một nền văn hóa dân tộc đủ mạnh để có thể gây ảnh hưởng ra thế giới bên ngoài, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Qua đó tăng đầu tư cho trang thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực liên quan đến hoạt động truyền thông Việt - Nhật. 3.Tích cực thực hiện thỏa thuận giữa Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài NHK, Bộ Văn hóa Nhật Bản… liên quan tới hoạt động truyền thông giữa hai nước, trước mắt là phục vụ cho các hoạt động ngoại giao về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội giữa hai nước. Đây là những nhiệm vụ cụ thể và trọng tâm nhằm nâng cao vai trò của truyền thông VOV trong hoạt động giao lưu văn hóa Việt - Nhật. 4. Tăng cường xây dựng qui chế tuyên truyền giữa VOV với một số Đài, Báo có ký kết hợp tác như Đài NHK, Hãng tin Jiji Press..., kết nối mới với những cơ quan truyền thông khác trong việc tuyên truyền những hoạt động văn hóa giữa hai nước, tích cực vận động ngoại giao nhân dân, vừa tranh thủ sự ủng hộ của chính phủ Nhật, nhân dân Nhật Bản, tạo ra biểu tượng chung cho văn hóa hai nước. 5. VOV trong đó cơ bản là chương trình tiếng Nhật, trang web tiếng Nhật tăng cường hoạt động quảng bả hình ảnh, nét đẹp văn hóa hai dân tộc, hai đất nước, tạo ra sự thấu hiểu sâu giữa nhân dân hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, hòa bình, ổn định, phồn vinh của khu vực và thế giới. Đồng thời, tích cực tham gia vào các hoạt động giao lưu văn hóa, chủ động tổ chức, chủ trì các hội thảo văn hóa Việt - Nhật, các cuộc thi hiểu biết về nền văn hóa giữa hai nước. 6. Cùng với một số ít tờ báo có chương trình giành cho Việt kiều, VOV tiếp tục thu hút sự quan tâm của Việt kiều tại Nhật Bản, bởi đây là lực lượng người Việt Kiều có tri thức cao, có nguồn vốn tiềm năng có thể đầu tư về nước, là cầu nối cho những hoạt động ngoại giao nhân dân giữa hai nước. 4.3. GIẢI PHÁP 4.3.1. Tầm nhìn và tái cấu trúc VOV 4.3.1.1. Tầm nhìn Trong 10 năm tới, cần xây dựng VOV thành 1 trong 2 tổ hợp truyền thông mạnh nhất của quốc gia; Có uy tín ở khu vực Đông Nam Á. Trong đó xác định Nhật Bản là một trong khu vực quan trọng đặc biệt. 4.3.1.2. Tái cấu trúc Đài Tiếng nói Việt Nam muốn trở thành một tổ hợp truyền thông đa phương tiện phải tích hợp các loại hình truyền thông truyền thống, khai thác triệt để thế mạnh, tiềm năng của Internet cũng như các ứng dụng của công nghệ thông tin, nhằm tạo dựng một cơ quan thông tin mạnh có phạm vi ảnh hưởng lớn đối với công chúng. Thứ nhất, chấn chỉnh và nâng cao chất lượng nội dung của VOV, nâng cao uy tín, sự lôi cuốn hấp dẫn với công chúng của VOV, đề cao tính báo chí của VOV. Thứ hai, sắp xếp lại toàn bộ VOV theo đúng nghĩa của một Cơ quan truyền thông đa phương tiện. Thứ ba, xây dựng một cơ cấu tổ chức và cơ chế quản trị mới phù hợp với pháp luật, phù hợp với mô hình vận hành mới, thúc đẩy VOV phát triển 4.3.2. Sắp xếp lại các chuyên mục của VOV Mở thêm chuyên mục dạy tiếng Việt với tên gọi "Cùng nhau học tiếng Việt", " Kể chuyện tiếu lâm Việt Nam" trên chương trình phát thanh Tiếng Nhật… sẽ giúp thính giả, khán giả Nhật Bản tương tác gần gũi hơn. Trong thời gian chiến tranh, chương trình phát thanh tiếng Nhật có mở chuyên mục " Kể chuyện tiếu lâm Việt Nam". Đây là một chuyên mục hay,
- 20 chương trình tiếng Nhật nên mở lại chuyên mục này lấy tên là "Tác phẩm văn học" vừa giới thiệu những tác phẩm văn học Việt Nam ra với công chúng Nhật, vừa giới thiệu tình hình cũng như thị hiếu, cảm xúc của người Việt Nam đối với những tác phẩm văn học của Nhật Bản, đặc biệt những nhà văn đã từng đạt giải Nobel văn học của Nhật, hay tác giả đã trở thành hiện tưọng của văn học Nhật và là ứng cử viên giải Nobel văn học 2012 (Kawabata Yasunari, Haruki Murakami). 4.3.3. Tăng tính đối tượng, mục tiêu của các chuyên mục của VOV Đối với thính giả Nhật, mảng quan tâm lớn nhất chính là những thông tin về đời sống xã hội, về nét đẹp văn hoá (phong tục, tập quán, lễ hội...) của Việt Nam, các hoạt động giao lưu văn hoá giữa hai nước. Chính vì lẽ đó, các chưong trình VOV đặc biệt là tiếng Nhật, trang web tiếng Nhật từ nhu cầu này mà hướng tới nội dung vừa phong phú vừa trúng nhu cầu của thính giả Nhật. Hiện nay, ở các chương trình của VOV, vẫn có những người chuyên biên dịch và chuyên thể hiện trên sóng các chuyên mục giới thiệu văn hoá. Đây là những biên dịch viên, phát thanh viên kỳ cựu bởi mảng đề tài này khó, không phải ai cũng có khả năng chuyển tải hết nội dung và sắc thái của các chuyên mục này sang tiếng nước ngoài. Do vậy, tính đối tượng còn phụ thuộc vào sở trường của biên dịch viên, phát thanh viên. 4.3.4. Tăng thời lượng và số lượng các chuyên mục Tăng thời lượng của các chương trình. Hiện nay, chủ yếu các chương trình đều dừng lại ở 30 phút, không đủ thời gian để chuyên sâu vào các nội dung. Thời gian phải trải đều cho các phần tin, chuyên mục...Do vậy, thông tin liên quan đến hoạt động giao lưu văn hoá Việt - Nhật, giới thiệu âm nhạc Nhật bị hạn chế ở các thứ ngữ khác, chỉ có tiếng Nhật do tính đối tượng cao nên thông tin đầy đủ hơn. Các chương trình nên kéo dài lên đến 60 phút (hiện chỉ có Việt kiều, Pháp, Anh làm chương trình 60 phút). Hiện nay, các Đài phát thanh quốc tế như NHK World (Nhật Bản), KBS World (Hàn Quốc), CRI (Trung Quốc)... lớn đều có thời lượng phát sóng 60 phút/1 chương trình. Với lợi thế phát cả sóng FM, nên khi thời lượng lên 60 phút thì thời lượng dành cho âm nhạc, giao lưu với người Nhật trên sóng sẽ đáp ứng cả với nhu cầu của thính giả Nhật Bản đang sống tại Việt Nam. 4.3.5. Đổi mới hình thức thể hiện các chuyên mục Cải tiến nội dung và cách thức thể hiện các chuyên mục giới thiệu văn hoá Việt Nam có quan hệ chặt chẽ, bổ trợ cho nhau. Nội dung hay nhưng cách thể hiện kém sinh động, khô khan sẽ làm cho các chuyên mục không hấp dẫn. Để các chuyên mục giới thiệu văn hoá sinh động, hấp dẫn phải thay đổi hình thức thể hiện các chuyên mục này một cách toàn diện. Về logo nhạc chuyên mục Các chương trình VOV cần có nhạc chuyên mục cho tất cả các chuyên mục, thay vì một số chuyên mục có nhạc, số khác lại không có. Chương trình tiếng Nhật đã có logo nhạc chuyên mục, nhưng đã mờ nên cần làm lại. Nhạc chuyên mục nên dựa trên nét nhạc dân tộc, đồng thời có pha tính hiện đại để vừa thể hiện bản sắc văn hoá Việt Nam, vừa thể hiện đất nước đang trên con đường hội nhập. Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể có thể dùng âm nhạc Nhật Bản cho một số chuyên mục, tạo tính tương tác mạnh. Trong trường hợp này thính giả Nhật cảm thấy Nhật trong Việt trong Nhật. Về hệ thống nhạc cắt, nhạc nền, nhạc quảng bá cho chuyên mục Cần thống nhất âm nhạc cho các chương trình. Đối với nhạc nền, nhạc quảng bá ví dụ cho thông tin, sự kiện nào đó liên quan đến Nhật Bản thì cần có thế dùng nhạc Nhật Bản, cũng có thể dùng nhạc Việt Nam. Mảng đề tài hiện đại nên dùng nhạc hiện đại, mảng đề tài truyền thống nên dùng nhạc truyền
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 305 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 267 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 177 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn